Tải bản đầy đủ (.doc) (142 trang)

THIẾT kế và sử DỤNG TRÒ CHƠI học tập NHẰM PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG QUAN sát CHO TRẺ 5 6 TUỔI THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG làm QUEN với TOÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 142 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----˜&™-----

NGUYỄN THỊ TRIỀU TIÊN

THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG TRÒ CHƠI HỌC TẬP NHẰM PHÁT TRIỂN
KHẢ NĂNG QUAN SÁT CHO TRẺ 5-6 TUỔI THÔNG QUA
HOẠT ĐỘNG LÀM QUEN VỚI TOÁN
Chuyên ngành: Giáo dục học (Giáo dục mầm non)
Mã số: 60.14.01.01

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Giảng viên hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đỗ Thị Minh Liên

HÀ NỘI - 2014


Lời cảm ơn
Bằng tấm lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn
PGS.TS. Đỗ Thị Minh Liên, Giảng Viên khoa Giáo dục Mầm non, Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội - Người đã tận tâm hướng dẫn tôi trong quá trình
học tập và thực hiện đề tài.
Tôi xin trân trọng cảm ơn tập thể các Thầy, Cô trong Khoa Giáo dục
Mầm non, Phòng sau Đại Học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội – là cơ sở
đào tạo đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt 2 năm học tập,
nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin cảm ơn chân thành đến Ban Giám hiệu và tập thể Giáo viên
trường Mầm non 20/10, trường Mầm non 19/5 thuộc quận Hải Châu – TP Đà
Nẵng đã giúp đỡ tôi trong suốt thời gian tiến hành thực nghiệm đề tài.


Xin biết ơn Gia đình đã luôn luôn là điểm tựa vững chắc để tôi có được
công trình này.
Hà Nội, tháng 10 năm 2014
Tác giả

NGUYỄN THỊ TRIỀU TIÊN


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

ĐC

:

Đối chứng

GD

:

Giáo dục

GDMN

:

Giáo dục mầm non

GV


:

Giáo viên

GVMN

:

Giáo viên mầm non

KNQS

:

Khả năng quan sát

MG

:

Mẫu giáo

MN

:

Mầm non

TC


:

Trò chơi

TCHT

:

Trò chơi học tập

TN

:

Thực nghiệm

KN

:

Khả năng

QS

:

Quan sát


MỤC LỤC

THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG TRÒ CHƠI HỌC TẬP NHẰM PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG QUAN SÁT CHO TRẺ 56 TUỔI THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG LÀM QUEN VỚI TOÁN..............................................................1
 Bảng 2.4. Thống kê ý kiến của giáo viên về vấn đề QS

48

2.7.2.2. Kết quả điều tra mức độ phát triển KNQS của trẻ MG 5-6 tuổi

56


DANH MỤC BẢNG BIỂU
THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG TRÒ CHƠI HỌC TẬP NHẰM PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG QUAN SÁT CHO TRẺ 56 TUỔI THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG LÀM QUEN VỚI TOÁN..............................................................1
 Bảng 2.4. Thống kê ý kiến của giáo viên về vấn đề QS

48

 Bảng 2.5. Thống kê ý kiến của giáo viên về hình thức tổ chức TCHT nhằm phát triển KNQS cho
trẻ MG 5-6 tuổi thông qua hoạt động LQVT.................................................................48
2.7.2.2. Kết quả điều tra mức độ phát triển KNQS của trẻ MG 5-6 tuổi

56


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG TRÒ CHƠI HỌC TẬP NHẰM PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG QUAN SÁT CHO TRẺ 56 TUỔI THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG LÀM QUEN VỚI TOÁN..............................................................1
 Bảng 2.4. Thống kê ý kiến của giáo viên về vấn đề QS

48

 Bảng 2.5. Thống kê ý kiến của giáo viên về hình thức tổ chức TCHT nhằm phát triển KNQS cho

trẻ MG 5-6 tuổi thông qua hoạt động LQVT.................................................................48
2.7.2.2. Kết quả điều tra mức độ phát triển KNQS của trẻ MG 5-6 tuổi

56


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khả năng quan sát (KNQS) là một trong những thuộc tính tâm lý quan
trọng của nhân cách và là con đường chủ yếu để con người học tập, lao động và
nhận thức thế giới. Quan sát (QS) là quá trình tri giác các sự vật hiện tượng
của hiện thực khách quan một cách có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch, phản
ánh nhanh chóng và chính xác những điểm quan trọng, chủ yếu của sự vật hiện
tượng. Phần lớn thông tin con người có được là nhờ QS. QS là một trong
những nhiệm vụ quan trọng nhất của giáo dục nhận thức, do đó việc phát hiện,
bồi dưỡng năng lực QS có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển toàn diện
của con người, nhất là đối với trẻ em.
Đối với trẻ em lứa tuổi mầm non, trẻ “học mà chơi, chơi mà học”, chơi
chính là cuộc sống của trẻ. Nhà tâm lý học G. Piagie coi trò chơi là một trong
những hoạt động trí tuệ, là một nhân tố quan trọng đối với sự phát triển trí tuệ
của trẻ. Nhà giáo dục học K.D Usinxki cũng đã nhận định “Nếu việc dạy học
hướng tới sự phát triển trí tuệ của trẻ thì trước hết nó cần phải rèn luyện cho
trẻ năng lực QS”. Trò chơi học tập (TCHT) trong hoạt động làm quen với
toán (LQVT) không chỉ giúp trẻ phát triển khả năng tư duy, khả năng chú ý;
ghi nhớ và so sánh… mà đặc biệt còn giúp trẻ phát triển KNQS. Khả năng
này không chỉ giúp trẻ tiến bộ trong khi hình thành và củng cố các biểu tượng
toán học sơ đẳng mà còn biết ứng biến linh hoạt, nhanh nhạy trong sinh hoạt
và trong cuộc sống. TCHT trong hoạt động LQVT vừa là phương tiện vừa là
đối tượng tạo ra nhiều cơ hội kích thích trẻ suy nghĩ, tìm tòi và QS... Như vậy,
TCHT trong hoạt động LQVT có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc giúp trẻ

phát triển KNQS. Đặc biệt là đối với trẻ mẫu giáo (MG) 5 – 6 tuổi, KNQS lại
càng cần thiết và cần được phát triển để làm tiền đề cho cấp học tiếp theo.

1


Trên thực tế tại các trường mầm non hiện nay, nhận thức của giáo viên
(GV) về tầm quan trọng của giác quan đối với sự phát triển cả thể chất và tinh
thần của trẻ được nâng lên đáng kể. Việc tổ chức cho trẻ chơi các TCHT
được tổ chức thường xuyên trong hoạt động LQVT nhưng hầu hết các trò
chơi này chỉ nặng về cung cấp và cũng cố kiến thức nên chưa thực sự quan
tâm đến việc phát triển KNQS cho trẻ.
Có nhiều lý do dẫn đến thực trạng này, một phần là do GV chưa nhận
thức đầy đủ quá trình thiết kế và sử dụng TCHT nhằm phát triển KNQS cho
trẻ, phần khác là do GV chưa biết cách tận dụng ưu thế của TCHT trong việc
phát triển KNQS cho trẻ MG 5 – 6 tuổi, hơn nữa nhiều GV còn gặp khó khăn
trong việc thiết kế và sử dụng TCHT để hình thành KNQS cho trẻ MG 5-6
tuổi. Mặt khác do khi áp dụng các trò chơi này GV không chú ý đến quy trình
sử dụng, cách thức tiến hành trò chơi nhằm phát triển KNQS cho trẻ MG 5 –
6 tuổi… Chính vì những lí do trên nên chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu:
“Thiết kế và sử dụng trò chơi học tập nhằm phát triển khả năng quan sát
cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với toán”
2. Mục đích nghiên cứu
Thiết kế và sử dụng một số TCHT nhằm phát triển KNQS cho trẻ
MG 5 – 6 tuổi thông qua hoạt động LQVT.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình phát triển KNQS cho trẻ MG 5 – 6 tuổi ở trường mầm non.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Cách thức thiết kế và sử dụng TCHT nhằm phát triển KNQS cho trẻ

MG 5 – 6 tuổi thông qua hoạt động LQVT.

2


4. Giả thuyết khoa học
Hiện nay ở trường mầm non, KNQS của trẻ MG 5 – 6 tuổi còn thấp
và hạn chế. Nếu như chúng ta nghiên cứu cách thức thiết kế và sử dụng
TCHT phù hợp với mục tiêu – nội dung chương trình phát triển nhận thức cho
trẻ MG 5 – 6 tuổi, phù hợp với đặc điểm QS và với đặc điểm nhu cầu vui chơi
của trẻ MG 5 – 6 tuổi… thì sẽ nâng cao được KNQS của trẻ.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận của việc thiết kế và sử dụng TCHT nhằm
phát triển KNQS cho trẻ MG 5 – 6 tuổi thông qua hoạt động LQVT
5.2. Nghiên cứu thực trạng việc thiết kế và sử dụng TCHT nhằm phát
triển KNQS cho trẻ MG 5 – 6 tuổi thông qua hoạt động LQVT
5.3. Nghiên cứu cách thức thiết kế và sử dụng trò chơi học tập nhằm
phát triển KNQS cho trẻ MG 5 – 6 tuổi thông qua hoạt động LQVT
5.4. Tiến hành thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm chứng tính hiệu quả,
tính khả thi của việc sử dụng các trò chơi học tập đã được thiết kế nhằm phát
triển KNQS cho trẻ MG 5-6 tuổi.
6. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong đề tài này, chúng tôi tập trung nghiên cứu cách thức thiết kế
và sử dụng một số trò chơi học tập nhằm phát triển KNQS cho trẻ MG 5 – 6
tuổi thông qua hoạt động LQVT tại trường mầm non 19/5 và trường mầm non
20/10 thuộc Quận Hải Châu – TP Đà Nẵng.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
Đọc những tài liệu có liên quan tới đề tài nghiên cứu để xây dựng cơ sở
lí luận cho đề tài nghiên cứu.

7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát sư phạm
3


Dự hoạt động dạy trẻ LQVT của GV, quan sát, ghi chép các TCHT
được GV sử dụng trong các hoạt động dạy trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
Quan sát biểu hiện, kết quả QS của trẻ trong các hoạt động học LQVT
có sử dụng TCHT do GV tự thiết kế.
7.2.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu Anket
Dùng phiếu điều tra nhằm đánh giá nhận thức, thái độ, thực trạng về
việc thiết kế và sử dụng trò chơi học tập trong hoạt động LQVT của giáo viên
nhằm giúp trẻ MG 5-6 tuổi phát triển KNQS tại một số trường mầm non
thuộc Quận Hải Châu và Quận Liên Chiểu – TP Đà Nẵng.
7.2.3. Phương pháp đàm thoại
Trao đổi, trò chuyện trực tiếp với GV và trẻ về việc tổ chức TCHT
nhằm phát triển KNQS cho trẻ MG 5-6 tuổi trong hoạt động LQVT, từ đó thu
thập thông tin có liên quan tới đề tài, phát hiện ra thực trạng cần điều tra.
7.2.4. Phương pháp thực nghiệm
Thực nghiệm cách thức sử dụng những TCHT đã được thiết kế, nhằm
kiểm nghiệm tính khả thi và hiệu quả của việc sử dụng các TCHT đã thiết kế,
đối với việc phát triển KNQS cho trẻ MG 5 – 6 tuổi.
7.3. Phương pháp thống kê giáo dục
Sử dụng một số phép tính thống kê trong toán học để xử lí số liệu thu
được trong nghiên cứu đề tài.
8. Những đóng góp của đề tài
8.1. Về lí luận
Xây dựng cơ sở lý luận của việc thiết kế và sử dụng TCHT nhằm phát
triển KNQS cho trẻ MG 5 – 6 tuổi thông qua hoạt động LQVT:


4


- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về việc thiết kế và sử dụng TCHT
nhằm phát triển KNQS cho trẻ MG 5 – 6 tuổi thông qua hoạt động
LQVT.
- Tìm hiểu thực trạng của việc thiết kế và sử dụng TCHT nhằm phát
triển KNQS cho trẻ MG 5 – 6 tuổi thông qua hoạt động LQVT.
- Đề xuất quy trình thiết kế TCHT nhằm phát triển KNQS cho trẻ MG 5
– 6 tuổi.
- Xây dựng tiêu chí và thang đánh giá KNQS cho trẻ MG 5 – 6 tuổi qua
TCHT trong hoạt động LQVT.
8.2. Về thực tiễn
Đóng góp và làm phong phú thêm hệ thống TCHT, cách thức thiết kế
và sử dụng chúng góp phần phát triển KNQS cho trẻ MG 5 – 6 tuổi.
9. Cấu trúc của luận văn
- Phần mở đầu
- Phần nội dung
Chương 1. Cơ sở lý luận của việc thiết kế và sử dụng TCHT nhằm phát
triển KNQS cho trẻ MG 5 – 6 tuổi thông qua hoạt động LQVT
Chương 2. Thực trạng của việc thiết kế và sử dụng TCHT nhằm phát
triển KNQS cho trẻ MG 5 – 6 tuổi thông qua hoạt động LQVT
Chương 3. Thiết kế và sử dụng TCHT nhằm phát triển KNQS cho trẻ
MG 5 – 6 tuổi thông qua hoạt động LQVT
Chương 4. Thực nghiệm hệ thống TCHT đã thiết kế nhằm phát triển
KNQS cho trẻ MG 5 - 6 thông quan hoạt động LQVT
- Phần kết luận chung và kiến nghị sư phạm

5



NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG TRÒ CHƠI
HỌC TẬP NHẰM PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG QUAN SÁT CHO TRẺ
MG 5-6 TUỔI THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG LÀM QUEN VỚI TOÁN
1.1. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về khả năng quan sát của trẻ mẫu giáo 56 tuổi của các nhà tâm lý- giáo dục
* Các công trình nghiên cứu về khả năng quan sát của trẻ mẫu giáo 56 tuổi của các nhà tâm lý- giáo dục trên thế giới
Theo một số tác giả: Ngô Công Hoàn, Nguyễn Ánh Tuyết, Hoàng Thị
Phương, Đinh Văn Vang…chuyên nghiên cứu tâm lý học trẻ em, giáo dục
học trẻ em thì QS là một khả năng không thể thiếu được. Khi bắt đầu tham gia
hoạt động đứa trẻ cần phải QS để tái tạo lại một cách tích cực và phong phú
nhất nhưng đồng thời QS đã được phát triển trong quá trình tham gia trò chơi.
Chính môi trường của trò chơi là nơi có thể phát triển mãnh liệt khả năng và
các phẩm chất của QS. Có thể đề cập A.Z. Xorokiana hay V. X . Mukhina là
những tác giả rất sâu sắc khi đề cập đến vấn đề này [42].
Nhà giáo dục lỗi lạc của Tiệp Khắc - Komenxki cho rằng: Việc học
tập không nên bắt đầu bằng việc giải thích bằng lời nói về các sự vật hiện
tượng mà bằng những QS, tiếp xúc trực tiếp với các sự vật hiện tượng đó.
Muốn cho biểu tượng của trẻ được chính xác, cần phải QS vật thật tất cả
những gì có thể, chỉ trong trường hợp không thể mới sử dụng tranh ảnh, mô
hình và bản vẽ [35]. Đây là quan điểm giáo dục tiến bộ mang tính duy vật,
những đề xuất của ông đối với việc tổ chức hướng dẫn trẻ QS tiếp xúc với các

6


sự vật hiện tượng xung quanh đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.
Nhà tâm lý học A.A Liu Blinxkaia đã khẳng định vai trò của QS tri giác

trong hoạt động của trẻ MG và đặc biệt trẻ MG 5 - 6 tuổi. Tác giả đặc biệt nhấn
mạnh vai trò của QS khi nó góp phần làm cho các hành động trí tuệ của trẻ diễn
ra một cách nhanh chóng và hiệu quả. Sự phối hợp hoạt động của tay với hoạt
động của mắt làm cho sự tri giác hình dạng của trẻ MG 5 – 6 tuổi tốt hơn [42].
Những nghiên cứu được tiến hành ở Viện giáo dục MG thuộc Viện hàn
lâm sư phạm Liên Xô trước đây cho thấy một cuộc khảo sát về hình thức của
đối tượng, nếu được GV tổ chức đúng sẽ tạo cơ sở để trẻ em nhận thức được
mối liên hệ chung giữa hình thức bên ngoài của các đối tượng với công dụng
của chúng. Mối liên hệ này không thể tách ra được trong quá trình tri giác
trực tiếp các hiện tượng.[53]
Theo quan điểm của X.L.Rubinstein và B.M.Cheplov thì “QS là tri
giác có suy nghĩ”. Không phủ định thành phần nhận cảm của QS, các nhà tâm
lí học theo quan điểm này đã dịch chuyển trọng tâm QS vào các quá trình trí
tuệ. Ở đây thành phần chính của QS là các quá trình nhận thức lý tính. Theo
X.L. Rubinstein thì các giai đoạn phát triển của QS phản ánh những mức độ
phát triển trí tuệ của trẻ [35].
* Các công trình nghiên cứu về khả năng quan sát của trẻ mẫu giáo 56 tuổi của các nhà tâm lý- giáo dục ở Việt Nam
Ở Việt Nam nghiên cứu vấn đề về phát triển KNQS đã được khá nhiều
các nhà tâm lý học và giáo dục học quan tâm:
Nghiên cứu KNQS là một trong lĩnh vực được nhiều tác giả trong
nước quan tâm. Đề tài nghiên cứu cấp Bộ "Nghiên cứu đặc điểm sự phát triển
trí tuệ của trẻ MG" của tác giả Nguyễn Thạc và các cộng sự đã sử dụng trắc
nghiệm tâm lý "Xem tranh đo KNQS" để nghiên cứu 426 trẻ em. Các tác giả
7


đã đi đến kết luận về đặc điểm QS của trẻ 5 - 6 tuổi: " QS đại thể trước, chi
tiết sau, QS gắn chặt với xúc cảm, tư duy và ngôn ngữ, QS không bền vững
và khi QS sự vật hoặc mô hình, tranh vẽ thường chỉ tay, sờ mó, hành động vật
chất thực với đối tượng QS".

Theo tác giả Nguyễn Công Khanh (chuyên gia tâm lý trẻ em) thì khi bé
thường xuyên đặt những câu hỏi liên quan đến màu sắc, đó là biểu hiện cho
thấy bé đang muốn học thông qua KNQS. [49]
Vấn đề QS của trẻ trong các dạng hoạt động giáo dục cũng được khá
nhiều tác giả quan tâm. Có thể đề cập đến các tác giả như Nguyễn Ánh Tuyết,
Ngô Công Hoàn, Hoàng Thị Phương...đều khẳng định rằng QS trước khi tổ
chức hoạt động và QS diễn ra trong quá trình diễn ra hoạt động là một yếu tố
hết sức quan trọng.
Trong những năm gần đây, vấn đề nghiên cứu và sử dụng các biện
pháp nâng cao KNQS của trẻ cũng được đề cập đến trong một số luận văn
thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Tác giả Nguyễn Thị Xuân với đề tài " Một số biện
pháp hướng dẫn trẻ MG 5 - 6 tuổi làm quen với thiên nhiên nhằm phát triển
năng lực QS" [58]; Đề tài " Một số biện pháp nâng cao KNQS của trẻ 4 - 5
tuổi thông qua hoạt động làm quen với một số loại quả" của tác giả Phạm
Quỳnh Hương; Võ Thị Ánh Tuyết với đề tài " Một số biện pháp nâng cao
KNQS của trẻ qua trò chơi xây dựng" [41], Đề tài "Một số biện pháp hình
thành kĩ năng QS cho trẻ 5 - 6 tuổi trong giờ học làm quen với môi trường
xung quanh" của tác giả Nguyễn Thị Thu Phương [36], Đề tài “Một số biện
pháp hướng dẫn trẻ MG 5 – 6 tuổi khám phá thiên nhiên vô sinh nhằm phát
triển khả năng QS”của tác giả Nguyễn Thị Hà Lương [27]…
Như vậy có thể nói rằng, vấn đề phát triển KNQS cho trẻ mầm non nói
chung và trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi nói riêng đã nhận được sự quan tâm nhất định

8


của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Các công trình nghiên cứu đã
tập trung vào các vấn đề phát triển KNQS cho trẻ hầu hết đều thông qua hoạt
động khám phá môi trường xung quanh. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có
tác giả nào nghiên cứu về vấn đề phát triển KNQS cho trẻ thông qua TCHT

trong hoạt động LQVT. Chính vì vậy nên chúng tôi nhận thấy việc nghiên
cứu về vấn đề KNQS của trẻ thông qua TCHT trong hoạt động LQVT là việc
làm hết sức quan trọng và cần thiết.
1.1.2. Nghiên cứu về vấn đề thiết kế và sử dụng trò chơi học tập
nhằm phát triển khả năng quan sát cho trẻ
Ở lứa tuổi MG, vui chơi là hoạt động chủ đạo, vì vậy việc sử dụng TC
nói chung và TCHT nói riêng là đặc biệt cần thiết, không chỉ trong hoạt động
nhận thức mà trong việc hình thành và phát triển nhân cách của trẻ lứa tuổi
mầm non hiện nay.
Việc sử dụng TCHT trong hoạt động LQVT, đặc biệt trong quá trình
hình thành và phát triển trí tuệ cho trẻ, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát
triển nhân cách trẻ, cũng như nhu cầu nhận thức của trẻ. Chính vì thế, việc
nghiên cứu thiết kế TCHT, cách thức thiết kế, sử dụng TC này được nhiều
nhà sư phạm trong nước và ngoài nước đặc biệt quan tâm nghiên cứu.
* Nghiên cứu về vấn đề thiết kế và sử dụng trò chơi học tập nhằm phát
triển khả năng quan sát cho trẻ ở thế giới
Xuất phát từ quan điểm duy vật biện chứng, các nhà giáo dục:
K.Đ.Usinki, E.I.Chikhiêva…đặc biệt chú ý đến nhận thức cảm tính của trẻ trong
khi chơi, coi đây là cơ sở đầu tiên để trẻ lĩnh hội tri thức, xem TC chính là
phương tiện để làm giàu biểu tượng về thế giới xung quanh cho trẻ, giúp trẻ chủ
động tiếp nhận tri thức và sự sáng tạo của chính đứa trẻ. Nguyên tắc sử dụng TC
phải tự do, phù hợp theo lứa tuổi và không được áp đặt với trẻ trong khi chơi….

9


Từ đó, các nhà giáo dục phát triển các TC nhằm phát triển một số năng lực như
QS, ghi nhớ, tư duy…Cũng theo K.Đ.Usinki, trẻ rất hướng thú với TC, sự tác
động mạnh mẽ của TC với trẻ gắn liền với tính độc lập của trẻ. đối với trẻ TC là
hiện thực, và hiện thực đó còn hấp dẫn hơn nhiều so với cuộc sống xung quanh

trẻ, nó thu hút trẻ bởi trẻ hiểu nó và có thể tự tạo ra nó. Sẽ không còn là TC nữa
nếu khi chơi đứa trẻ quá lệ thuộc vào thế giới hiện tại [12,tr.42].
Trong tác phẩm “TCHT” E.I.Chikhiêva đã xem TC là một quá trình sư
phạm trong trường MG, TC là một trong những phương tiện tác động toàn
diện lên nhân cách của trẻ. Bà cũng đánh giá rất cao ý nghĩa của TCHT về vai
trò của nó đối với sự phát triển mọi mặt của trẻ đặc biệt là những năng lực
trong đó có năng lực QS.
Riêng lí thuyết phát triển nhận thức của J.Piaget(1896-1980), đã ảnh
hưởng lớn tới việc xây dựng chương trình giáo dục cho trẻ em, đặc biệt là lứa
tuổi MG và đầu tiểu học. Ông đánh giá “khi chơi ở trẻ phát triển tri giác, trí
thông minh, những khuynh hướng thử nghiệm, những bản năng xã hội…”.
TC là đòn bẩy để thúc đẩy sự phát triển ở trẻ (học đọc, học làm tính, quá trình
sáng tạo…), do đó cần khuyến khích khả năng sáng tạo khi chơi [30].
Theo quan điểm của L.X.Vưgôtski, TC là phương tiện hiệu quả nhằm
hình thành và phát triển các biểu tượng về thế giới xung quanh ở trẻ, khi có sự
hướng dẫn sư phạm đúng đắn của người lớn. Bản chất của phương thức dạy
học này là dựa trên khả năng hiện tại của trẻ, đồng thời cần tính đến những
điều mà trẻ có thể thực hiện được dưới sự giúp đỡ, hướng dẫn, tổ chức của
người lớn, theo quy luật tác động “vùng phát triển gần nhất” của trẻ [59]. Như
vậy, với quan điểm này, khi sử dụng TCHT trong hoạt động LQVT nhằm
phát triển KNQS cho trẻ, các nhà sư phạm cần phải dựa vào đặc điểm tâm
sinh lí, khả năng nhận thức của của trẻ để đưa ra những yêu cầu, nhiệm vụ khi
sử dụng TC. Chính vì thế, để đạt được hiệu quả cao trong việc phát triển

10


KNQS cho trẻ, cần sử dụng TCHT một cách linh hoạt, các hình thức chơi
phong phú và đa dạng nhằm nâng cao hiệu quả khi dạy trẻ.
Như vậy từ những kết quả nghiên cứu trên đây, cho chúng ta cái nhìn

khái quát từng thời kì, các quan điểm giáo dục, về vai trò và mục đích sử dụng
TCHT nhằm phát triển nhận thức nói chung cũng như phát triển khả năng QS
cho trẻ nói riêng. Trên cơ sở đó, chúng ta có thể hướng vào được việc thiết kế
và sử dụng TCHT nhằm mục đích dạy học, đặc biệt trong việc phát triển
KNQS cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
* Nghiên cứu về vấn đề thiết kế và sử dụng trò chơi học tập nhằm phát
triển khả năng quan sát cho trẻ ở Việt Nam
Ở Việt Nam, TCHT được sử dụng tại các trường mầm non như là một
phương tiện hiệu quả nhất nhằm giáo dục trẻ. Các công trình nghiên cứu cùng
với hệ thống cơ sở lí luận về việc thiết kế và sử dụng TCHT chịu ảnh hưởng
sâu sắc của các nhà TLH-GDH Xô Viết. Việc thiết kế và sử dụng TCHT được
các tác giả nhìn nhận như một phương tiện để giáo dục toàn diện cho trẻ mầm
non, đặc biệt là trong việc phát triển nhận thức cho trẻ MG.
Vấn đề sử dụng TCHT vào việc phát triển nhận thức cho trẻ, đầu tiên
phải kể đến tác giả Nguyễn Ánh Tuyết trong tác phẩm “Tổ chức, hướng dẫn
trẻ mẫu giáo chơi” Bà đã đề cập đến thế mạnh của TCHT về phương diện
giáo dục trí tuệ, cũng như việc dạy trẻ định hướng trong không gian. Bà cho
rằng, trí khôn của đứa trẻ được biểu hiện ở chổ trẻ biết định hướng vào không
gian, thời gian và các mối quan hệ xã hội.
Tác giả Nguyễn Thị Hòa, trong cuốn “Phát huy tính tích cực nhận
thức của trẻ MG 5-6 tuổi trong TCHT”, cũng đã khẳng định về vai trò và
tầm quan trọng của việc thiết kế và sử dụng TCHT, cũng như tiến trình tổ
chức, cách thức tổ chức và một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực
nhận thức của trẻ thông qua TCHT ở trường mầm non. Từ đó, GV có thể
ứng dụng việc thiết kế và sử dụng TCHT trong các hoạt động giáo dục, sao

11


cho phù hợp với đặc điểm tâm- sinh lí của trẻ tại trường mầm non qua từng

hoạt động cụ thể của trẻ.
Trong cuốn “Sử dụng TCHT nhằm hình thành những biểu tượng toán
học sơ đẳng cho trẻ MG”, tác giả Đỗ Thị Minh Liên đã nêu lên những vấn đề
như: cơ sở lí luận về TCHT, cách thức thiết kế, sử dụng TCHT thông qua các
nội dung chương trình hình thành những biểu tượng toán ban đầu cho trẻ. Bên
cạnh đó, tác giả cũng đã nêu lên những điều kiện, cách thức, phương tiện, bồi
dưỡng giáo viên cách thức việc sử dụng TCHT, cũng như xây dựng một số
TCHT trong việc dạy trẻ hình thành những biểu tượng toán học sơ đẳng cho trẻ
mầm non.
Bên cạnh đó có rất nhiều luận văn đã nghiên cứu về vấn đề thiết kế sử
dụng TCHT nhằm hình thành biểu tượng toán học sơ đẳng cho trẻ, như tác giả
Lưu Ngọc Sơn qua đề tài “Kĩ năng thiết kế TCHT nhằm phát triển biểu tượng
không gian cho trẻ MG lớn (5-6 tuổi)”. Tác giả Phạm Thị Thu Thủy qua đề
tài “thiết kế và sử dụng TCHT nhằm hình thành biểu tượng hình dạng cho trẻ
5-6 tuổi”. Tác giả Lê Đình Hoàng qua đề tài “Thiết kế và sử dụng trò chơi
học tập nhằm nâng cao hiệu quả dạy trẻ 5-6 tuổi định hướng không gian” …
tất cả những đề tài trên đã đưa ra được những lí luận về cách thức thiết kế và
sử dụng TCHT nhằm hình thành và phát triển biểu tượng toán học cho trẻ.
Tuy nhiên, để hình thành và phát triển biểu tượng toán học thông qua TCHT
thì nhất thiết không thể thiếu tới sự QS của trẻ. Thế nhưng hiện nay, việc
nghiên cứu cách thức sử dụng TCHT theo một quy trình nhằm phát triển
KNQS thì chưa có cũng như chưa có công trình nào đi sâu vào việc nghiên cứu
riêng quá trình phát triển KNQS cho trẻ 5-6 tuổi thông qua TCHT trong hoạt
động LQVT một cách cụ thể. Do đó, bên cạnh việc tìm hiểu các công trình lý
luận nghiên cứu về KNQS nói chung của trẻ độ tuổi này, đề tài “Thiết kế và sử
dụng TCHT nhằm phát triển KNQS cho trẻ MG 5-6 tuổi thông qua hoạt động
LQVT” sẽ còn góp phần bổ sung, hệ thống hóa lại các công trình lí luận nghiên
12



cứu về sự phát triển KNQS của trẻ 5-6 tuổi nói riêng, trẻ MG nói chung và
hướng đến nhiệm vụ cụ thể là thiết kế một TCHT trong hoạt động LQVT nhằm
phát triển KNQS cho trẻ 5 – 6 tuổi trong hoạt động đó.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Khái niệm quan sát
Có nhiều tác giả đã đề cập đến khái niệm QS như:
“QS là mức độ phát triển cao của tri giác ” - [18] (Ngô Công Hoàn)
“QS là tri giác có chủ định” [42] - (Nguyễn Ánh Tuyết)
“QS là một hình thức tri giác cao nhất, tích cực nhất, chủ động và có
mục đích” .[52] - (Nguyễn Quang Uẩn)
Theo tác giả Hoàng Thị Phương: "QS là sự tri giác sự vật, hiện tượng
có kế hoạch, có mục đích. Đó là hoạt động nhận thức phức tạp, có sự tham gia
của tri giác, tư duy, lời nói, sự chú ý bền vững. Trong đó kinh nghiệm, tri
thức, kĩ năng của trẻ có ý nghĩa lớn đối với việc hiểu đối tượng QS". [35]
Tác giả Trần Thị Ngọc Trâm : "QS là hướng sự chú ý có tính mục đích
rõ rệt vào đối tượng được QS. QS là một kỹ năng cho phép trẻ học được nhiều
hơn những gì chúng đang nhìn thấy" [51]
Còn tác giả Hoàng Thị Oanh cho rằng: “QS là quá trình nhận thức cảm
tính tích cực, là sự tri giác một cách có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức.
Trong quá trình QS, trẻ phải huy động sự tập trung chú ý, tri giác, tư duy,
ngôn ngữ để nhận biết đối tượng ”
Như vậy từ các khái niệm về QS của các nhà nghiên cứu cho thấy: “QS
là hình thức tri giác cao nhất, mang tính tích cực, chủ động và có mục đích, có
kế hoạch rõ rệt. Hình thức này diễn ra tương đối độc lập, lâu dài nhằm phản
ánh đầy đủ, rõ nét các sự vật, hiện tượng và những biến đổi của chúng”.

13


1.2.2. Khái niệm khả năng

Theo Từ điển tiếng Việt, 1992, Viện ngôn ngữ thì “Khả năng là cái có
thể xuất hiện, có thể xảy ra trong điều kiện nhất định” Ở đây khả năng dựa
trên sự xuất hiện, tồn tại của hiện tượng nào đó. Ngoài ra, trong cuốn Từ điển
Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên thì “khả năng là cái có thể xuất hiện, có
thể xảy ra trong điều kiện nhất định”, vừa là “cái vốn có về vật chất và tinh
thần để có thể làm được việc gì.” [34, Tr528] khả năng được xem xét trên
phương diện như là một năng lực, phẩm chất của cá nhân. Từ điển ngôn ngữ
của Đại học Glasgow định nghĩa: Khả năng là năng lực thực hiện một nhiệm
vụ nào đó, được xem xét cả về mặt thể chất cũng như tinh thần, thậm chí cả
khả năng về mặt đáp ứng các yêu cầu mang tính vật chất” và chỉ ra nó có các
đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, khả năng là đa chiều và chỉ có một số khía cạnh của nó có
thể đo được.
Thứ hai, khả năng là sự kết hợp của những thiên hướng di truyền cộng
hưởng với môi trường, cá tính và các yếu tố theo ngữ cảnh.
Thứ ba, khả năng là phát triển. Điều này có nghĩa rằng những gì được
xem là khả năng cao với trẻ nhỏ có thể sẽ là có sự khác biệt nếu đặt trong địa
vị của người lớn.
Thứ tư, khả năng chỉ phát triển nếu như nó được nuôi dưỡng thông qua
các cơ hội hành động và sự hỗ trợ.
1.2.3. Khái niệm khả năng quan sát
Khả năng là năng lực thực hiện một nhiệm vụ nào đó cả về thể chất, tinh
thần, vật chất. QS là hình thức tri giác cao nhất, mang tính tích cực, chủ động
và có mục đích, có kế hoạch rõ rệt. Hình thức này diễn ra tương đối độc lập,

14


lâu dài nhằm phản ánh đầy đủ, rõ nét các sự vật, hiện tượng và những biến đổi
của chúng. Có một số nhà tâm lý học định nghĩa về KNQS, nhưng nhìn chung

nội dung đều bao hàm một trong những vấn đề mà định nghĩa về KNQS của
nhóm nhiên cứu do tác giả Nguyễn Quang Uẩn chủ biên đã nêu. Đó là "Khả
năng tri giác một cách nhanh nhạy, chính xác những điều quan trọng, chủ
yếu và đặc sắc của sự vật, hiện tượng cho dù những điểm đó khó nhìn thấy
hoặc có vẻ thứ yếu" [54]
KNQS ở mỗi người là khác nhau, không hoàn toàn bẩm sinh mà nó
được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động của con người. Sự
khác biệt này được thể hiện ở mức độ tri giác nhanh chóng, chính xác những
điểm quan trọng, chủ yếu và đặc sắc của sự vật, hiện tượng đến mức nào. Nó
phụ thuộc vào năng lực cảm giác và năng lực tri giác ở mỗi người, phụ thuộc
vào quá trình hoạt động, sự rèn luyện và giáo dục.
Như vậy: KNQS là khả năng tri giác có chủ định, diễn ra tương đối độc
lập và lâu dài nhằm phản ánh đầy đủ, rõ rệt các sự vật, hiện tượng và những
biến đổi của chúng.
* Biểu hiện của khả năng quan sát
KNQS được biểu hiện bởi các yếu tố sau:
- Tính mục đích của QS: Thể hiện có mục đích trong khi QS (QS để tìm
ra cái gì?) cả quá trình QS đều nhằm giải quyết nhiệm vụ đề ra lúc đầu (Ví dụ:
QS để tìm ra những điểm khác nhau và giống nhau của hai đối tượng...)
không chênh lệch khỏi nội dung yêu cầu QS.
- Tính nhanh nhạy và chính xác của QS: Trong một thời gian cho phép
có thể tìm ra nhiều đặc điểm hoặc những chi tiết đặc trưng của sự vật. Những
phát hiện đó đảm bảo tính chính xác.

15


- Tính tổ chức của QS: Lúc QS tuân thủ theo một thứ tự nhất định. (Ví
dụ: Từ tổng thể đến chi tiết rồi tổng thể hay từ bộ phận đến chi tiết, từ gần
đến xa, từ những nét đặc trưng nổi bật đến những chi tiết thứ yếu).

- Tính tỉ mỉ, chu đáo của sự QS: Có KNQS đến cái chi tiết, chú ý đến
những mặt cá biệt của sự vật, cái tinh tế thậm chí những nét đặc trưng tương
đối kín đáo, thấy được sự khác biệt nhỏ nhặt nhất, chi tiết vụn vặt nhất.
- Tính liên tục của sự QS: Có khả năng kiên trì QS sự vật trong một
thời gian tương đối dài, không chuyển dịch đối tượng QS.
- Tính khái quát của sự QS: Khi QS một số đối tượng cùng loại, phát
hiện được những đặc điểm chung của các đối tượng đó để khái quát hóa và
phân loại chúng, thấy được mối liên hệ của một số sự vật, hiện tượng với nhau.
1.2.4. Khái niệm về trò chơi học tập
Tùy thuộc vào việc nhìn nhận TC theo chức năng, nguồn gốc, cấu
trúc… khác nhau mà TCHT được các tác giả gọi bằng các tên khác nhau như:
“TC dạy học”, “TC trí tuệ”, “TC phát triển”, “TC khó”…
Theo E.I.Chikhieva, TC được gọi là TCHT vì gắn liền với mục đích
dạy học nhất định và đòi hỏi phải có tài liệu dạy học phối hợp kèm theo,
P.G.Xamarucova cho rằng loại TC có nhiệm vụ chủ yếu là Giáo dục và phát
triển trí tuệ cho trẻ em. Như vậy, TCHT chủ yếu hướng vào việc giáo dục và
phát triển hoạt động nhận thức, tuy nhiên trong TCHT thì nhiệm vụ nhận thức
được đặt một cách gián tiếp thông qua nhiệm vụ chơi, TCHT được xem như
là phương pháp thực hành, trải nghiệm… một mặt củng cố kiến thức mặt khác
nhằm tiếp thu tri thức mới.
Theo nhà giáo dục nổi tiếng Macarenco (người Nga): “Trò chơi có một
ý nghĩa rất quan trọng trong cuộc sống của đứa trẻ chẳng khác gì sự làm việc,

16


sự phục vụ của người lớn…”. Không chơi đứa trẻ không phát triển được,
không chơi đứa trẻ chỉ tồn tại chứ không phải đang sống.
Xét về nguồn gốc, TCHT có nội dung và luật chơi do người lớn nghĩ ra
cho trẻ chơi. theo A.P.Uxôva, TCHT sẽ nhanh chóng trở thành bài tập nếu

trong quá trình điểu khiển nó người lớn can thiệp quá nhiều, do đó với tư cách
là “điểm tựa” , một mặt người lớn hướng dẫn trẻ chiếm lĩnh kinh nghiệm lịch
sử xã hội mặt khác đáp ứng nhu cầu chơi của trẻ nhằm thỏa mãn nhu cầu
nhận thức cũng như mục đích dạy học.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi chỉ đi sâu vào nghiên
cứu TCHT hướng vào việc giáo dục và phát triển hoạt động nhận thức cho trẻ.
có tác dụng phát triển năng lực trí tuệ của con người, buộc người chơi phải
vận dụng sự hiểu biết cùng các thao tác trí tuệ để hoàn thành nhiệm vụ học
tập. TCHT được sử dụng trong việc giáo dục cho trẻ mầm non là hình thức
chơi của việc dạy học. TCHT có nội dung và luật chơi cho trước, do người
lớn sáng tác và đưa vào cuộc sống của trẻ. TCHT được người lớn hướng dẫn
và kiểm soát quá trình chơi tuy nhiên vẫn đảm bảo tính tự do, độc lập của trẻ.
Như vậy, TCHT là loại trò chơi có luật, nội dung chơi do người lớn
nghĩ ra, hướng dẫn và tổ chức cho trẻ nhằm cung cấp và củng cố hệ thống
kiến thức, kĩ năng và phát triển các thao tác tư duy cho trẻ.
* Trò chơi học tập đối với trẻ MG 5-6 tuổi: Ở lứa này trẻ thường đặc
biệt quan tâm và chú trọng đến việc thắng hay thua trong khi chơi nên trẻ
thường hay bị vi phạm luật chơi. Nhiệm vụ của các TCHT ở trẻ MG lớn
phức tạp hơn. Cơ sở để giải quyết nhiệm vụ trong trò chơi phải dựa vào mối
tương quan, dựa vào những dấu hiệu chung nhất của các hiện tượng và sự vật.
Các hành động chơi của trẻ MG lớn cũng phức tạp hơn, đòi hỏi phải có sự
liên hệ lẫn nhau giữa hành động chơi của một số trẻ này với một số trẻ khác,
17


đòi hỏi phải có tính liên tục và tuần tự. Nhiều trò chơi của chúng đòi hỏi phải
suy nghĩ kĩ trước khi làm động tác chơi. Chính điều này thúc đẩy trẻ tích cực
suy nghĩ rồi mới hành động.
1.2.5. Khái niệm thiết kế trò chơi học tập
*Khái niệm thiết kế

Theo từ điển Tiếng Việt, thiết kế được hiểu theo hai nghĩa:
- Thiết kế (động từ) là làm đồ án, xây dựng một bản vẽ với tất cả những
tính toán cần thiết để theo đó mà xây dựng công trình sản xuất sản phẩm.
- Thiết kế (danh từ) là tập tài liệu kỹ thuật toàn bộ, gồm có bản tính
toán, bản vẽ để có thể theo đó mà xây dựng công trình, sản xuất thiết bị.
*Khái niệm thiết kế trò chơi học tập
Thiết kế TCHT là xây dựng mô hình TCHT trong đó có tên gọi của trò
chơi, nhiệm vụ chơi, cách chơi, luật chơi và cách thức tổ chức trò chơi.
1.2.6. Khái niệm thiết kế trò chơi học tập trong hoạt động làm quen
với toán nhằm phát triển khả năng quan sát cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
Thiết kế TCHT nhằm phát triển KNQS cho trẻ MG 5 – 6 tuổi là xây
dựng mô hình TCHT, trong đó có tên gọi của trò chơi, nhiệm vụ chơi, cách
chơi, luật chơi và cách thức tổ chức trò chơi nhằm phát triển KNQS và đạt
được những kiến thức, kỹ năng, thái độ về biểu tượng toán học học sơ đẳng
một cách phù hợp.
1.3.

Sự phát triển khả năng quan sát của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
1.3.1. Đặc điểm khả năng quan sát của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
QS là mức độ phát triển cao nhất của tri giác. Đó là loại tri giác có chủ

định, tương đối độc lập và lâu dài, cho phép trẻ phát hiện nhanh chóng,

18


chính xác những đặc điểm quan trọng, chủ yếu và đặc biệt của sự vật hiện
tượng. Ở lứa tuổi 5 – 6 tuổi, hoạt động QS của trẻ đã phức tạp hơn so với trẻ
lứa tuổi 3 – 5 tuổi về nhiệm vụ nhận thức, đối tượng QS và tính chất của
chúng cũng đa dạng và phong phú hơn, thời gian QS của trẻ đã có thể kéo

dài hơn từ một vài phút đối với QS đặc điểm của sự vật hiện tượng đến hàng
tuần, tháng, màu đối với sự thay đổi và phát triển. Nhà tâm lý học Ngô Công
Hoàn cho rằng: “Tri giác của trẻ 5-6 tuổi khác biệt rõ rệt về mặt chất lượng
so với tri giác của trẻ ở độ tuổi nhỏ hơn. Sự khác biệt đó thể hiện ở mức độ
phong phú của các kiểu, loại tri giác, ở mức độ chủ định của quá trình tri
giác , ở độ nhạy cảm của các giác quan và tính mục đích của hoạt động”
[17,tr178]. Như vậy, thành phần cơ bản của QS là tri giác. Trong hoạt động
QS tính chủ định của trẻ cũng tăng lênh song nó vẫn chưa phải là hoạt động
hoàn toàn độc lập của trẻ. Các nhiệm vụ nhận thức chủ yếu vẫn do GV xác
định và đưa ra dưới hình thức câu hỏi hoặc giao nhiệm vụ. Trẻ chỉ có thế tự
đề ra những nhiệm vụ nhỏ trong những tình huống QS cụ thể chứ chưa tự
xác định mục đích và nhiệm vụ QS.
Hoạt động QS đòi hỏi ở trẻ sự tập trung chú ý, ý chí nỗ lực thực hiện
nhiệm vụ đến cùng và đặc biệt là sự tham gia tích cực của các quá trình nhận
thức tri giác, tư duy ngôn ngữ và trí nhớ. Quan sát của trẻ mang tính khoa học
bởi đó vừa là cái nhìn bao quát vừa là sự nắm bắt được cái đặc trưng của đối
tượng trong mối quan hệ giữa các chi tiết bộ phận của chúng. Khi QS trẻ phải
biết lựa chọn lựa sắp xếp các dấu hiệu đặc trưng, có ý nghĩa đối ở đối tượng QS
theo các nhiệm vụ và yêu cầu mà GV đặt ra. Thái độ, động cơ QS của trẻ được
xuất phát từ nhu cầu, hứng thú nhận thức được xuất hiện ở tuổi MG 5-6 tuổi.
Vui chơi được coi là hoạt động chủ đạo của trẻ MG còn hoạt động học
tập và lao động chỉ mới ở dạng sơ khai [45, Tr250]. Hoạt động QS của trẻ
MG 5 - 6 tuổi đã phức tạp hơn về nhiệm vụ nhận thức, đối tượng QS và tính
chất của chúng cũng đa dạng và phong phú hơn, thời gian QS của trẻ đã có
thể kéo dài hơn. Trong hoạt động QS, tính chủ định của trẻ cũng tăng lên, trẻ
19


×