Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Tính tích cực học tập của học viên trung tâm giáo dục thường xuyên thanh sơn – phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (648.17 KB, 122 trang )

DANH MỤC SƠ HÌNH BẢNG BIỂU


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và
quá trình toàn cầu hóa, khối lượng tri thức và nhu cầu học tập của xã hội
ngày càng tăng lên. Muốn tiếp thu và lĩnh hội nguồn thông tin, tri thức một
cách có hiệu quả thì phải đổi mới phương pháp học tập theo hướng phát
huy tính tích cực của người học. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “
Muốn học tập có kết quả phải có thái độ đúng và phương pháp đúng” tức là
trong học tập phải tự nguyện, tự giác, tích cực đào sâu suy nghĩ, học bằng
mọi cách: “ học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau, học ở nhân dân” ;
Người còn nói: “ siêng học thì mau biết, siêng nghĩ ngợi thì có sáng kiến…
Kế hoạch một phần thì biện pháp phải hai phần và quyết tâm phải ba
phần… Học mãi để tiến bộ mãi, càng tiến bộ càng thấy mình phải học
thêm” ( HCM: toàn tập, NXB CTQG 2011)
Học tập là quá trình nhận thức đặc biệt, trong đó người học đóng vai trò
là chủ thể của hoạt động học, tính tích cực học tập đóng vai trò là yếu tố quyết
định kết quả học tập. Người học chỉ có thể hiểu sâu sắc tài liệu học tập và
biến nó thành giá trị riêng nếu họ kiên trì, nỗ lực hoạt động trí tuệ trong học
tập để tự khám phá, phát hiện ra tri thức. Lòng khao khát hiểu biết, tính tích
cực cao trong hoạt động nhận thức, khả năng tự rèn luyện bản thân là những
đức tính cần được phát triển ở người học. Mặt khác, tính tích cực học tập
không chỉ tồn tại như một trạng thái, một điều kiện của hoạt động học tập,… ,
tính tích cực học tập còn là một phẩm chất nhân cách, một thuộc tính tâm lí
giúp cho quá trình học tập đạt kết quả cao, giúp con người có khả năng học
tập không ngừng.


Trung tâm giáo dục thường xuyên ( TTGDTX) là nơi diễn ra hoạt động
học tập mang tính đa dạng, phức tạp ở nhiều lứa tuổi và trình độ khác nhau:

1


bổ túc văn hóa cho những người chưa học hết trình độ phổ thông, hoặc không
có khả năng để học tập
hạn chế nên hầu hết các học viên tại TTGDTX chưa xây dựng được động cơ
học tập chính quy; đào tạo nghề ở nhiều lĩnh vực cho học sinh trung học
chuyên nghiệp; đào tạo liên kết với các trường Đại học trong khu vực,…nhằm
phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Đa số học viên TTGDTX ở các huyện miền núi, vùng sâu là người dân
tộc ít người, có nhiều khó khăn về mặt kinh tế - văn hóa. Mặt khác, do chất
lượng đầu vào thấp, hiểu biết còn chính đáng, hạn chế về tính tích cực học
tập, gây ảnh hưởng không tốt đến kết quả học tập. Đây cũng là một trong
những nguyên nhân khiến cho chất lượng giáo dục ở các TTGDTX vùng
miền núi còn thấp.
Muốn nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục nói chung, và chất
lượng giáo dục tại các TTGDTX ở nước ta nói riêng, điều quan trọng là phải
xây dựng động cơ và thái độ học tập đúng đắn, khơi gợi tính tích cực, tự giác
trong học tập của học viên tại TTGDTX.
Trong nhiều năm qua, vấn đề tính tích cực học tập của học sinh, sinh
viên đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu và có những đóng góp quan
trọng cả về lí luận và thực tiễn. Song phần lớn các công trình nghiên cứu chủ
yếu đi sâu vào khía cạnh giáo dục học của vấn đề, ít chú tới cấu trúc tâm lí và
các yếu tố ảnh hưởng đến tính tích cực học tập, hoặc chủ yếu nghiên cứu về
tính tích cực học tập của sinh viên ở các trường Đại học chính quy, mà chưa
quan tâm đến tính tích cực học tập của học viên được học tập qua những loại
hình đào tạo khác, trong đó có TTGDTX.

Từ những lí do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài: “ Tính tích cực
học tập của học viên Trung tâm giáo dục thường xuyên Thanh Sơn – Phú
Thọ”.

2


2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lí luận và thực tiễn về tính tích cực học tập của học viên; đề
xuất một số biện pháp tâm lí sư phạm nhằm phát huy tính tích cực học tập của
học viên TTGDTX thuộc vùng miền núi.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Các thành tố tâm lí tạo nên tính tích cực học tập, các biểu hiện và mức
độ tính tích cực học tập, các yếu tố ảnh hưởng đến tính tích cực học tập của
học viên tại vùng miền núi.
3.2. Khách thể nghiên cứu
- Học viên học tập tại TTGDTX Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.
- Giáo viên giảng dạy tại TTGDTX Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.
- Cán bộ quản lí TTGDTX Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ
4. Giả thuyết khoa học
Tính tích cực học tập có cấu trúc gồm: các yếu tố bên trong với tư cách
là động lực của tính tích cực học tập( nhu cầu, hứng thú, động cơ học tập,
định hướng giá trị, ý chí quyết tâm) và các biểu hiện tâm lí cụ thể về mặt nhận
thức, thái độ, hành vi nói lên tính tích cực học tập.
Đa số TTGDTX Thanh Sơn là người dân tộc ít người, có những khó
khăn riêng trong học tập; có những biểu hiện, mức độ tích cực trong học tập
nhưng có thể còn hạn chế hơn học viên người dân tộc Kinh.
Có nhiều yếu tố khách quan, chủ quan ảnh hưởng đến tính tích cực học
tập của học viên.Nếu có các biện pháp tâm lí sư phạm phù hợp thì có thể góp

phần rèn luyện, nâng cao tính tích cực học tập của học viên TTGDTX.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu một số vấn đề lí luận TLH về tính tích cực học tập

3


- Khảo sát, đánh giá thực trạng về tính tích cực học tập của học viên; lí giải
nguyên nhân của thực trạng.
- Đề xuất một số biện pháp sư phạm, tổ chức thực nghiệm tác động nhằm góp
phần nâng cao tính tích cực trong học tập của học viên.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
6.1. Giới hạn về đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các thành tố tâm lí trong tính tích cực học
tập, các biểu hiện và mức độ của tính tích cực học tập, cũng như các yếu tố
ảnh hưởng đến tính tích cực học tập của học viên tại TTGDTX.
6.2. Giới hạn về khách thể nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu 160 học viên BTVH, trong đó có 80 học
viên người dân tộc ít người và 80 học viên người dân tộc Kinh tại TTGDTX
Thanh Sơn – Phú Thọ (năm học 2014 – 2015). Cụ thể gồm:
- 05 lớp bổ túc văn hóa
- 17giáo viên giảng dạy các lớp BTVH tại TTGDTX
- 03 cán bộ quản lí TTGDTX
7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
7.1. Các nguyên tắc phương pháp luận
7.1.1. Tiếp cận hoạt động
7.1.2.Tiếp cận hệ thống – cấu trúc
7.1.3. Tiếp cận phát triển
7.2. Các nhóm phương pháp nghiên cứu
7.2.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận

- Phương pháp phân tích và tổng hợp lí thuyết
- Phương pháp phân loại và hệ thống hóa
7.2.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.2.1. Các phương pháp nghiên cứu thực trạng

4


- Phương pháp chuyên gia
- Phương pháp điều tra bằng Anket
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp phỏng vấn sâu
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động học tập
- Phương pháp giải quyết các bài tập tình huống
- Phương pháp phân tích chân dung tâm lí điển hình
7.2.2.2. Phương pháp thực nghiệm
7.2.3. Nhóm phương pháp xử lí kết quả nghiên cứu
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham
khảo, phụ lục, thì luận văn còn có 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận về tính tích cực học tập của học sinh, sinh
viên.
Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
Chương 3. Kết quả nghiên cứu thực trạng và đề xuất biện pháp nâng cao tính
tích cực học tập.

5


CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN TÂM LÍ HỌC
VỀ TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP
1.1.

Tổng quan vài nét lịch sử nghiên cứu về tính tích cực học tập

1.1.1. Nghiên cứu ở nước ngoài
Có rất nhiều nhà tâm lý học, nhà giáo dục học nước ngoài đã đưa ra
những quan điểm, tư tưởng của mình về tính tích cực học tập:
Ngay từ trước công nguyên, nhà triết học, nhà văn hóa, nhà giáo dục
Trung Hoa cổ đại– Khổng Tử (551 – 479) đã quan tâm đến dạy học, làm sao
phải phát huy được tính tích cực suy nghĩ cho trò. Ông nói: “ Vật có bốn góc,
bảo cho biết một góc mà không suy ra ba góc kia thì không dạy nữa”
Ở Châu Âu, thế kỉ XVII (1592 – 1670), J.A.Cômenxki trong tác phẩm
“Lý luận dạy học vĩ đại” đã đề cập đến tính tự giác, tích cực với tư cách là
một trong những nguyên tắc dạy học quan trọng và cơ bản nhất.
K.D.Usinxki nhà giáo dục Nga đã đề cập tới tính tích cực độc lập trong
quá trình dạy học như là “Cơ sở vững chắc cho mọi sự học tập có hiệu quả”.
Các nhà tâm lí học và giáo dục học Liên Xô đã đưa ra những quan điểm
về tính tích cực học tập, chẳng hạn:
X.L.Rubinxtein khẳng định rằng “Bất kì hoạt động nào của con người
cũng xuất phát từ chỗ nó là một cá nhân, như một chủ thể của hoạt động đó”.
Chỉ có trong hoạt động và bằng hoạt động thì tính tích cực cũng như tâm lí, ý
thức của con người mới nảy sinh, hình thành, bộc lộ và phát triển[23]
A.N.Lêonchiev cho rằng: “Sự khác biệt cơ bản giữa các quá trình thích
nghi theo đúng nghĩa của nó và các quá trình tiếp thu, lĩnh hội là ở chỗ trong
quá trình thích nghi lĩnh hội sinh vật là quá trình thay đổi các thuộc tính của
loài, năng lực của cơ thể và hành vi loài. Quá trình tiếp thu hay lĩnh hội thì
khác, đó là quá trình cá thể tái tạo lại được những năng lực và chức năng


6


người đã hình thành trong quá trình lịch sử”[23]. Như vậy chỉ bằng cách
người thầy tổ chức cho học sinh tích cực tham gia vào hoạt động học tập, khi
đó học sinh mới chuyển tri thức của nhân loại thành tri thức của bản thân.
Dựa trên những tư tưởng của các tác giả trên, hàng loạt các công trình
nghiên cứu khác về tính tích cực học tập đã ra đời, tiêu biểu có một số công
trình sau:
I.Ph.Kharlamôv trong tác phẩm: “Phát huy tính tích cực học tập của
học sinh như thế nào” đã nêu lên một loạt những vấn đề, những phương pháp,
những thủ thuật như phép tương tự, phân tích tổng hợp, quy nạp, tìm ra
nguyên nhân gây ra những hiện tượng, nhấn mạnh mâu thuẫn chứa đựng
trong tài liệu, nhằm kích thích và phát huy tính tích cực nhận thức của học
sinh[20].
Một số nhà tâm lý học, giáo dục học phương Tây như: I.Caroll,
H.Hipso, M.Forvec đã nghiên cứu về cách thức học tập, về thái độ học tập và
các biểu hiện của nó, đều cho rằng để lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo thì
học sinh, sinh viên cần tính tích cực học tập.
Carl Rogers trong cuốn “ On becoming a person” ( Tiến trình thành
nhân) cho rằng, “ Sự học hỏi thực sự đòi hỏi phải khám phá và chiếm lĩnh tri
thức đưa đến thay đổi hành vi và hướng tới tương lai”.[28]
F.E. Neiney trong công trình “ Các lí thuyết học tập và mô hình dạy
học”, cho rằng “ việc học chỉ có kết quả thực sự nếu người học có động cơ và
tính tích cực tối thiểu” [25]
Như vậy, vấn đề tính tích cực nói chung và tính tích cực học tập nói riêng
đã được nhiều tác giả nước ngoài đi sâu nghiên cứu, có sự kế thừa, phát triển và
được hoàn thiện dần. Đa số các tác giả cho rằng, tính tích cực học tập ở học sinh
là sự huy động các chức năng tâm lí ở mức độ cao nhằm lĩnh hội tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo, biến tri thức của nhân loại thành tri thức mới của bản thân.


7


1.1.2. Nghiên cứu ở trong nước
Trên nền tảng những kiến thức và những công trình nghiên cứu của các
tác giả nước ngoài thì trong nước đã có rất nhiều những tác giả đã có những
công trình nghiên cứu.
•Nghiên cứu về tính tích cực, tính tích cực học tập về phương diện Tâm lí học
có các tác giả như: Phạm Minh Hạc, Nguyễn Quang Uẩn, Trần Trọng Thủy,
Nguyễn Kế Hào,…coi tính tích cực của nhân cách bao gồm các yếu tố tâm lý
như nhu cầu,hứng thú, động cơ, niềm tin, lý tưởng…Các thành tố tâm lý này
tác động qua lại lẫn nhau, được thể hiện ở những hoạt động muôn màu, muôn
vẻ và đa dạng nhằm biến đổi và cải tạo thế giới, cải tạo xung quanh và cải tiến
chính bản thân mình [15], [16],[17],[33],[34]
Tác giả Nguyễn Ánh Tuyết cho rằng: “ Hoạt động bao giờ cũng do chủ
thể tiến hành. Đó chính là con người đang hoạt động. Tính chủ thể bao hàm
trước hết là tính tích cực. Con người là chủ thể hoạt động, con người càng tích
cực hoạt động tính chủ thể càng phát triển cao và do đó con người sẽ dần
hoàn thiện”.
•Nghiên cứu tính tích cực học tập của tác giả Phan Trọng Ngọ trong công
trình nghiên cứu của mình đã coi hoạt động học tập của học sinh, sinh viên là
một quá trình nhận thức đặc biệt, dạy học cần tổ chức và điều khiển hoạt động
này một cách tích cực để huy động được các chức năng tâm lý của học sinh ở
mức độ cao nhất [26].
Có một số luận án nghiên cứu về vấn đề tính tích cực học tập, chẳng hạn:
Luận án Phó Tiến sĩ TLH của Nguyễn Xuân Thức với đề tài “ Nghiên
cứu tính tích cực giao tiếp của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động vui
chơi” đã chỉ ra cơ sở lý luận của tính tích cực nói chung và tính tích cực của
học sinh nói riêng [31].


8


Luận án Tiến sĩ TLH của tác giả Đỗ Thị Coỏng với đề tài “ Nghiên cứu
tính tích cực học tập môn tâm lý học của sinh viên Đại học Sư phạm Hải
Phòng” tác giả đã đứng trên quan điểm duy vật biện chứng nghiên cứu tính
tích cực học tập Tâm lý học trên các mặt: Nhận thức, thái độ, hành động và
kết quả học tập [7]
•Nghiên cứu tính tích cực học tập về phương diện Giáo dục học: Tác giả
Nguyễn Ngọc Bảo trong nghiên cứu về “ Phát huy tính tích cực, tự lực của
học sinh trong quá trình dạy học”, [2] đã đề cập đến tính tích cực nhận thức
ở góc độ Triết học và Tâm lý học, theo nghiên cứu của tác giả thì tính tích cực
nhận thức là thái độ cải tạo của chủ thể đối với khách thể thông qua sự huy
động ở mức độ cao các chức năng tâm lý nhằm giải quyết những vấn đề nhận
thức. Nó vừa là mục đích vừa là phương tiện để cá nhân đạt được mục đích.
Tác giả Nguyễn Như An với công trình nghiên cứu “Phát huy tính
tích cực học tập và nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học ở những
khoa không chuyên Tâm lý – Giáo dục” đã đề cập đến các khía cạnh của
tính tích cực là thái độ, nhận thức, hành vi và từ đó đề cao phát huy chúng
vào thực tiễn.
Các tác giả Trần Bá Hoành, Lê Tràng Định, Phó Đức Hòa trong công
trình “Áp dụng tính tích cực trong môn Tâm lý – Giáo dục học” các tác giả đã
đưa ra kết luận: Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tạo thành nên tính tích cực
và các tác giả cũng cho rằng tính tích cực là phẩm chất cơ bản của con người
và được biểu hiện trong hoạt động. Tính tích cực học tập là sự gắng sức cao
trong hoạt động học tập mà chủ yếu là hoạt động nhận thức [18]
Tóm lại, ở trong nước, một số tác giả tâm lí học – giáo dục học đã tiến
hành những nghiên cứu có kết quả bước đầu về tính tích cực học tập và phát
huy tính tích cực học tập ở học sinh, sinh viên.


9


1.2.

Một số vấn đề lí luận về tính tích cực học tập

1.2.1. Lí luận về tính tích cực
1.2.1.1. Khái niệm tính tích cực
•Theo Từ điển Tiếng Việt, tính tích cực được hiểu theo hai nghĩa:
-Một là, chủ động hướng hoạt động nhằm tạo ra những thay đổi, phát triển (tư
tưởng tích cực, phương pháp tích cực).
-Hai là, hăng hái, năng nổ với công việc (tích cực làm việc, tích cực học tập)
[35]
•Theo quan điểm triết học: sự phát triển là một quá trình biến đổi từ thấp đến
cao, từ đơn gian đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện.
Đó là một quá trình tích lũy dần về số lượng dẫn đến sự thay đổi về chất
lượng, là một quá trình nảy sinh cái mới trên cơ sở cái cũ do sự đấu tranh giữa
các mặt đối lập nằm ngay trong bản thân của các sự vật hiện tượng” [22].
V.L.Lênin khẳng định: Tính tích cực là thái độ cải tạo của chủ thể đối với
khách thể, đối với đối tượng, sự vật xung quanh, là khả năng của mỗi người
đối với việc tổ chức cuộc sống, điều chỉnh những nhu cầu, năng lực của họ
thông qua các mối quan hệ xã hội.
•Theo quan điểm TLH
Các nhà Tâm lí học duy vật biện chứng nghiên cứu vấn đề tích cực
hoạt động trên lập trường quyết định luận xã hội cho rằng các thái độ được
hình thành trong quá trình phản ánh, trực tiếp biểu hiện ra ở mức độ hoạt
động và ở đặc điểm số lượng, chất lượng của hiệu suất hoạt động [8], [22],
[23], [24], [25].

Dựa trên quan điểm duy vật biện chứng, các nhà tâm lý học khoa học
đã nghiên cứu vấn đề tính tích cực hoạt động của cá nhân theo các xu
hướng sau:

10


+Xu hướng 1:Tính tích cực được xem từ góc độ chức năng, vai trò của chủ
thể đối với thế giới bên ngoài. Các tác giả cho rằng sự phát triển tính tích cực
là sự phức tạp hóa dần các chức năng tính tích cực của chủ thể .
+Xu hướng 2: Xem tính tích cực gắn liền với hành động và được thể hiện
trong các mức độ lĩnh hội khác nhau đó là chỉ số đo tính tích cực của chủ thể.
+Xu hướng 3: Ở góc độ phát triển của tính tích cực nhận thức thì
P.Ia.Galperin một nhà tâm lý học hoạt động đã sử dụng phạm trù hành động
và nhận xét rằng các mức độ tiến hóa của hành động đánh dấu sự thể hiện
mức độ phát triển của tính tích cực.
+Xu hướng 4: Tính tích cực thể hiện trong hoạt động và tính tích cực được
đánh giá qua mức độ lĩnh hội hoạt động của trẻ từ nhỏ đến lớn.
+ Xu hướng 5: Theo A.N.Lêonchiev thì tính tích cực pha thể hiện trong trạng
thái hoạt đông và được biểu hiện trong hành động và hành vi cụ thể. Tính tích
cực chỉ tính sắn sàng hoạt động của chủ thể, là nhu cầu đối với hoạt động của
chủ thể. [23]
Nhiều quan điểm đề cập đến tính tích cực hoạt động ở nhiều góc độ,
song đều có chung một quan điểm cho rằng tính tích cực gắn liền với hoạt
động, được thể hiện trong hoạt động và biểu hiện ra thành hành động, hành vi
cụ thể của con người, nhu cầu là nguồn gốc của tính tích cực.
Tóm lại, tính tích cực có thể xem như là phẩm chất xã hội của con
người, là một thuộc tính nhân cách của cá nhân. Tính tích cực biểu hiện sự nỗ
lực của chủ thể hoạt động với đối tượng. Trong hoạt động học tập, thể hiện sự
nỗ lực của trí tuệ, sự huy động ở mức độ cao các chức năng tâm lý (như hứng

thú, chú ý, ý chí...) tạo nên sản phẩm của hoạt động.
Từ sự phân tích trên, có thể đưa ra một định nghĩa chung nhất về tính
tích cực như sau:

11


Tính tích cực ở con người là một phẩm chất nhân cách điển hình của
cá nhân, được đặc trưng bởi tính có ý thức, tự giác, chủ động, sáng tạo, sự nô
lực ý chí của chủ thể nhằm mang lại kết quả cao trong quá trình hoạt động.
1.2.1.2. Nguồn gốc của tính tích cực
Tính tích cực của con người không phải tự nhiên sinh ra đã có. C.Mác
và Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh hoàn cảnh sống xã hội là yếu tố quyết định tính
tích cực của cá nhân, nhưng đồng thời con người cũng cải tạo hoàn cảnh đó "
Hoàn cảnh tạo ra con người trong chừng mực mà con người tạo ra hoàn
cảnh"[22].
Con người tồn tại và phát triển trong xã hội do hoạt động. Lao động là
một dạng hoạt động cơ bản, nảy sinh từ nhu cầu, từ đó tạo ra sản phẩm nhằm
thỏa mãn nhu cầu. C.Mác đã khẳng định “ Con người sẽ chẳng làm gì cả nếu
không có những nhu cầu của kích thích hoạt động. Trong hoạt động thể hiện
tính tích cực của con người”[22].
Như vậy, tính tích cực của con người được bộc lộ trong quá trình hoạt
động để thỏa mãn nhu cầu. Tính tích cực được tạo nên từ cái gốc của nhu cầu
và nó sẽ biểu hiện trong hoạt động, thúc đẩy hoạt động đạt tới mục tiêu và
như vậy là đã hiện thực hóa nhu cầu.
Sau nhu cầu là động cơ, được hình thành trên cơ sở nhu cầu . Động cơ
là thái độ chủ quan đối với hoạt động, là mục đích được tự giác. Theo tâm lý
học "động cơ thúc đẩy con người nhằm thỏa mãn nhu cầu, là cái làm nảy sinh
tính tích cực và quy định xu hướng của tính tích cực đó".[15], [17], [34]. Có
thể nói rằng động cơ là sức mạnh kích thích tính tích cực của cá nhân.

Hứng thú phát triển trên cơ sở nhu cầu và và là yếu tố tạo nên động cơ
hoạt động. Theo I.F.Kharlamop: "Hứng thú đó là nhu cầu nhuộm màu sắc
cảm xúc đi trước giai đoạn gây động cơ và làm cho hoạt động của con người
mang tính chất hấp dẫn"[20].

12


Tóm lại, nguồn gốc của tính tích cực chính là nhu cầu, tạo nên hứng thú
và động cơ hoạt động. Các thành tố này làm xuất hiện và thúc đẩy tính tích
cực hoạt động của cá nhân.
1.2.1.3. Quá trình nảy sinh, diễn biến, phát triển của tính tích cực
Hoạt động giúp cho cơ thể sống thích nghi với hoàn cảnh bên ngoài.
Thích nghi giúp cho sự phát triển và biến đổi của cơ thể cả về phương diện
hình thái lẫn phương diện chức năng cho phù hợp với hoàn cảnh.
Ở động vật nguyên sinh, tính tích cực hoạt động biểu hiện ở tính chịu
kích thích. Càng ngày, tính tích cực hoạt động càng được phân hóa hơn, do
đó, thích hợp hơn với các nhu cầu và các tác động bên ngoài.
Sự xuất hiện của hệ thần kinh là một bước nhảy vọt trong sự phát triển
của cơ thể. Hoạt động của hệ thần kinh là cơ sở sinh lí của tính tích cực, giúp
cơ thể thích nghi một cách tốt nhất với hoàn cảnh bên ngoài.
Nếu như hoạt động của con vật nhằm thích nghi với môi trường bên
ngoài, thì hoạt động của con người nhằm làm cho môi trường thích nghi với
nhu cầu, không chỉ nhận thức thế giới mà còn cải tạo thế giới mà con người
đang sống.
Sự thích ứng của động vật với môi trường mang tính chất phản xạ bản
năng diễn ra trên cơ sở hệ thống tín hiệu thứ nhất, còn hoạt động của con
người thì mang tính ý thức, có chủ định. Về vấn đề này, Ph.Ăngghen viết: “
Trong lịch sử xã hội, con người vốn có ý thức, đã hành động hoặc là một cách
có suy nghĩ, hoặc là ảnh hưởng của lòng say mê hướng tới những mục tiêu

nhất định, ở đây không có gì được thực hiện bên ngoài ý định tự giác, bên
ngoài mục đích mà người ta mong muốn” [22].
Một cá nhân tích cực là một cá nhân hoạt động đến mức cao nhất, tham
gia vào cuộc sống văn hóa – chính trị – tư tưởng của xã hội. Cái được cá nhân
phản ánh sẽ được cải biến, khái quát hóa và trở thành một thuộc tính của

13


người đó. Về vấn đề này, các nhà tâm lí học như: A.G.Côvaliôv khẳng định: “
Tính tích cực được phát triển một cách hoàn thiện nhất trong lao động, lao
động tác động đến việc hình thành các phẩm chất của tính cách như tính bền
vững của ý chí, khả năng duy trì chú ý lâu dài vào một đối tượng hay một
hoạt động nào đó”[8].
Trong giáo dục, muốn phát triển tính tích cực của học sinh trong mọi
hoạt động, khi tổ chức hoạt động dạy học – giáo dục, nhà sư phạm phải tuân
thủ một số yêu cầu như:
-Trong tổ chức hoạt động, phải thường xuyên chú ý đến kết quả và mục đích
là tạo ra con người phát triển toàn diện, năng động, sáng tạo.
-Hoạt động phải có nội dung và khối lượng tương ứng với các đặc điểm của
từng lứa tuổi.
-Cần phải định mức chặt chẽ quá trình hoạt động về thời gian, nhịp độ, công
sức.
1.2.2. Tính tích cực học tập
1.2.2.1.Khái niệm học tập
Theo tâm lý học dạy học, để lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo về những
kinh nghiệm xã hội, người ta có hai cách học khác nhau: học không chủ định
và học có chủ định.
•Học không chủ định: Việc nắm bắt tri thức, kinh nghiệm, hình thành những
kỹ năng, kỹ xảo diễn ra một cách ngẫu nhiên, không có mục đích tự giác đặt

ra từ trước. Người học chỉ lĩnh hội những gì liên quan trực tiếp tới các nhu
cầu, sở thích, ý muốn. Cách học này mang lại cho con người những kiến thức
tiền khoa học, có tính ngẫu nhiên, rời rạc và không hệ thống, chưa phải là
những tri thức khoa học. Tuy nhiên, trong thực tiễn, để tồn tại và phát triển,
con người phải dùng cách học hiệu quả hơn, đó là học có chủ định.

14


 Học có chủ định: là một hoạt động học đặc thù của con người, được điều
khiển bởi mục đích là: lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mới, những hình thức
hành vi và những dạng hoạt động nhất định, những giá trị,…Thông qua những
hoạt động học tập có chủ định, cá nhân hính thành những tri thức khoa học để
phát triển toàn diện.
Có thể nêu lên một số quan điểm về học tập ở con người như sau:
- A.N.Lêonchiev cho rằng “Học tập là một trong những hoạt động cơ bản,
giúp người học tiếp thu nền văn hóa xã hội, những kinh nghiệm xã hội – lịch
sử để biến đổi thành vốn riêng của mỗi cá nhân”[23].
- Theo Đ.B.Enconhin: “Học tập là việc lĩnh hội những tri thức, là việc xác
định bởi cấu trúc và mức độ phát triển của hoạt động”.[16 ]
- I.B.Intenxon lại cho rằng “Học tập là hoạt động đặc biệt của con người có
mục đích là nắm những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và các hình thức nhất định
của hành vi. Nó bao gồm cả ý nghĩa nhận thức và thực tiễn”. [16]
- Tác giả Lê Văn Hồng cho rằng “ Hoạt động học tập là hoạt động đặc thù của
con người được điều khiển bởi mục đích tự giác là lĩnh hội những tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo mới, những hình thức hành vi và những dạng hoạt động nhất
định, những giá trị”[19].
Đến đây, chúng tôi có thể nêu lên một khái niệm học tập như sau:
Học tập là một hoạt động có mục đích của người học nhằm lĩnh hội
những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mới, những kinh nghiệm của xã hội loài

người được kết tinh trong nền văn hóa xã hội.
1.2.2.2 .Tính tích cực học tập
•Tính tích cực nhận thức: I.Ph. Kharlamôv quan niệm rằng, "Tính tích cực
nhận thức là một trạng thái hoạt động học tập, đặc trưng bởi khát vọng học
tập, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình nắm vững kiến thức". [20]

15


Tác giả Nguyễn Ngọc Bảo xem tính tích cực nhận thức là thái độ cải
tạo của chủ thể đối với khách thể thông qua việc huy động ở mức độ cao các
chức năng tâm lí nhằm giải quyết các vấn đề học tập, nhận thức. Nó vừa là
mục đích hoạt động vừa là phương tiện, điều kiện đạt mục đích, vừa là kết
quả của hoạt động [1].
•Tính tích cực học tập :Theo R.A.Nizamov, tính tích cực học tập là một hành
động ý chí, một trạng thái hoạt động đặc trưng bởi sự tăng cường nhận thức
của cá nhân. Biểu hiện của nó là hứng thú toàn diện, sâu sắc đối với kiên
thức, với nhiệm vụ học tập; sự cố gắng bền bỉ, tập trung chú ý,huy động thể
lực,trí lực để đạt mục đích [16].
Tính tích cực học tập thể hiện ở hai hình thái: bên trong và bên ngoài.
Hình thái bên trong của tính tích cực học tập chủ yếu bao hàm các chức năng
sinh lý, tâm lý, thể hiện rõ ở đặc điểm khí chất, ý chí, tình cảm, các chức năng
và đặc điểm nhận thức như mức độ hoạt động trí tuệ, tư duy, tưởng tượng, ở
các yếu tố về mặt thái độ. Hình thái bên ngoài của tính tích cực học tập bao
hàm các chức năng, khả năng, sức mạnh thể chất của xã hội, thể hiện ở những
đặc điểm hành vi, hành động di chuyển, vận động sinh vật và vật lý, nhất là
hành động ý chí. Nó được hình thức hóa bằng các yếu tố cụ thể như cử chỉ,
hành vi, nhịp độ, cường độ hoạt động, sự biến đổi sinh lý mà chúng ta có thể
quan sát, đánh giá được.
Tính tích cực học tập được coi là một dạng của tính tích cực nhận thức.

Quan điểm này cho rằng, sự học tập là một trường hợp riêng của sự nhận
thức, được thực hiện dưới sự chỉ đạo và hướng dẫn của giáo viên, hay có thể
nói "tính tích cực là một hiện tượng sư phạm biểu hiện ở sự gắng sức cao về
nhiều mặt trong hoạt động học tập", cho nên khi nói đến tích cực học tập thực
sự là nói tới một dạng của tính tích cực nhận thức. [2]

16


Như vậy, Tính tích cực học tập là một phẩm chất nhân cách điển hình
của người học, được thúc đẩy bởi hệ thống động lực, thông qua đó, người
học huy động ở mức độ cao các chức năng tâm lí(nhận thức, thái độ, hành vi)
vào việc giải quyết các nhiệm vụ học tập có hiệu quả.
1.2.2.3.Mối quan hệ giữa tính tích cực học tập, tính độc lập nhận thức
và tính sáng tạo trong học tập
- Tính độc lập nhận thức là một phẩm chất nhân cách của người học,
trong đó, người học sử dụng vốn hiểu biết, kinh nghiệm và những năng lực cá
nhân của mình để lĩnh hội tri thức có hiệu quả.
- Tính sáng tạo là thái độ tích cực của chủ thể khi cải tạo khách thể, là
sự thống nhất của quá trình hoạt động trí tuệ, tình cảm, xúc cảm và ý chí con
người nhằm hoàn thiện hay sáng tác một hoạt động mới, một sản phẩm mới.
Nét đặc trưng trong hoạt động sáng tạo của người học là:
+ Nhìn thấy được những vấn đề mới trong các đối tượng quen biết
+ Nhìn thấy được những chức năng mới của đối tượng quen biết
+ Phát hiện được cấu trúc của đối tượng đang nghiên cứu
+ Biết tự lực chuyển các tri thức và kĩ năng vào giải quyết tình huống mới
+ Có kĩ năng sáng tạo một phương thức giải quyết tình huống mớ một cách
độc đáo trên cơ sở đã biết một phương thức giải quyết.
Quan hệ giữa tính tính tích cực, tính độc lập và tính sáng tạo trong nhận
thức, tâm lí của người học có thể biểu thị dưới dạng những vòng tròn đồng

tâm. Đó là những mức độ tư duy khác nhau mà mỗi mức độ tiếp sau biểu thị
là “loài” đối với mức độ trước biểu thị là “giống”. Tính sáng tạo bao hàm cả
tính tích cực và tính độc lập. Không phải mọi tư duy tích cực đều là tư duy
độc lập, và không phải mọi tư duy độc lập đều là tư duy sáng tạo:
- Các nhà Tâm lí học và Giáo dục học đều khẳng định, tính độc lập
nhận thức không thể nghiên cứu tách rời với tính tích cực học tập.Theo ý kiến

17


của Aristova.L, tính tích cực đòi hỏi phải thể hiện tính độc lập của người học
trong sự hình thành vấn đề và giải quyết vấn đề. Quan điểm của Exipôv.B.P
cho rằng, tính độc lập nhận thức là điều kiện, là biểu hiện của tính tích cực
học tập. Song trên thực tế dạy học, tính tích cực của người học không phải
bao giờ cũng được thể hiện ra ở tính độc lập. Ở những giai đoạn đầu của sự
phát triển tính tích cực học tập có thể không có tính độc lập [14].
- Tính tích cực là điều kiện của tính độc lập và không thể nào có tính
độc lập mà không có tính tích cực, nhưng tính tích cực có thể không kết hợp
với tính độc lập. Tính tích cực nhận thức không những là điều kiện cần thiết
của sự nảy sinh và phát triển tính độc lập nhận thức.
- Tính tích cực học tập và tính độc lập nhận thức là tiền đề của tính
sáng tạo: Hoạt động sáng tạo nào cũng cần phải có tính tích cực và độc lập
nhận thức, tuy nhiên, tính sáng tạo còn phụ thuộc nhiều vào năng lực trí tuệ,
vì vậy không phải mọi hoạt động tích cực và độc lập nhận thức đều dẫn đến
sáng tạo.
- Tính sáng tạo thúc đẩy tính tích cực và tính độc lập nhận thức của
người học: sáng tạo là giai đoạn phát triển cao của tính tích cực và độc lập
nhận thức. Khi tính sáng tạo được hình thành nó sẽ tác động trở lại, làm cho
người học có nhu cầu và hứng thú nhiều hơn với hoạt động học tập, từ đó thúc
đẩy mạnh mẽ tính tích cực và độc lập nhận thức của người học.

1.2.2.4.Vai trò cuả tính tích cực học tập đối với chất lượng học tập nói riêng
và đối với sự phát triển nhân cách nói chung
Chất lượng học tập của người học chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố
như: mục đích, nội dung, phương pháp, cách thức tổ chức dạy học của giáo
viên cũng như quá trình người học tự đề ra mục đích, lựa chọn nội dung, cách
thức chiếm lĩnh tri thức và tự tổ chức hoạt động của mình như thế nào. Trong
đó, nếu người học tham gia tích cực vào quá trình lĩnh hội tri thức thì họ sẽ

18


biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo, đồng thời tạo ra sự thống
nhất cao giữa nội lực và ngoại lực, như thế họ sẽ thu được hiệu quả học tập
cao nhất. Bản chất hoạt động học tập là một quá trình nhận thức tích cực nên
người học muốn chiếm lĩnh được tinh hoa văn hóa của nhân loại, muốn tồn tại
và phát triển trong nền kinh tế tri thức thì bản thân họ phải thật sự cầu thị,
khát khao chiếm lĩnh tri thức, có nghị lực cao vượt qua mọi khó khăn để tự đề
ra kế hoạch và thực hiện đến cùng mục đích đã đề ra.
Tính tích cực học tập là một thuộc tính nhân cách cần được hình thành
và phát triển ở người học, nó có quan hệ chặt chẽ với sự hình thành và phát
triển nhân cách của người học. Tính tích cực học tập có cấu trúc tâm lí phức
tạp bao gồm hệ thống động lực, các yếu tố về nhận thức, thái độ và những
hành động chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo. Khi người học xác định đúng
đắn vị trí, vai trò của việc học tập thì họ sẽ có thái độ học tập đúng đắn, có
cách thức chiếm lĩnh tri thức phù hợp và hoàn thiện theo yêu cầu của xã hội.
Tác giả Nguyễn Kế Hào cho rằng “ phương thức của hoạt động hay
hành vi do học tập mang lại có tính chất vững chắc trở thành một thuộc tính
của hoạt động hay hành vi” [10], [11]. Tính tích cực học tập là phẩm chất
nhân cách của người học tạo nên điều kiện cần thiết của học tập, của sự hình
thành và phát triển nhân cách của người chuyên gia tương lai.

1.2.2.5.Cấu trúc tâm lí của tính tích cực học tập
Tính tích cực học tập có cấu tạo tâm lí phức tạp gồm nhiều thành tố cấu
thành, các thành tố này có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau.
Chỉ ra các thành tố này có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình tổ chức hoạt
động học tập cho người học.
Tính tích cực học tập của người học được tạo nên ở hai mặt cơ bản:
mặt động lực bên trong của tính tích cực học tập và biểu hiện của tính
tính cực học tập.

19


‫٭‬Mặt động lực bên trong của tính tích cực học tập
Mặt động lực bên trong của tính tích cực học tập là tổng hợp các yếu tố
tâm lí tạo thành hệ thống động lực thúc đẩy người học tích cực tiến hành các
hành động học tập quy định phương hướng, mục đích, cường độ hoạt động
học tập cảu người học. Động lực học tập của người học được hình thành từ
nhiều yếu tố, trong đó, nhu cầu, hứng thú, động cơ học tập, định hướng giá trị
học tập, ý chí học tập là những yếu tố cơ bản nhất.
a.Nhu cầu học tập
Nhu cầu học tập là những đòi hỏi của người học đối với sự lĩnh hội tri
thức, kĩ năng, kĩ xảo nhằm hình thành và phát triển nhân cách của bản thân.
Nhu cầu học tập có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động học tập của
người học, nó quy định chiều hướng, tính chất của hoạt động học tập, là động
lực thúc đẩy người học tích cực, tự giác, hình thành thái độ học tập đúng đắn.
Nhu cầu học tập của người học càng cao thì sự thúc đẩy học tập càng mạnh
mẽ và có ảnh hưởng tích cực đến kết quả học tập. Tuy nhiên, nhu cầu học tập
mới chỉ tạo nên tính tích cực tìm kiếm tri thức, kĩ năng, kĩ xảo nghề nghiệp
chung. Khi nhu cầu học tập gặp đối tượng thỏa mãn (tri thức, kĩ năng, kĩ xảo
nghề nghiệp,…) sẽ tạo nên động lực thúc đẩy người học tích cực, tự giác

vươn lên để chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo. Mặt khác, nhu cầu học tập chỉ
trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy người học hoạt động khi mà những yếu
tố tác động bên ngoài như: nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy,
môi trường sư phạm, điều kiện cơ sở vật chất đảm bảo cho quá trình học tập
của người học giúp cho việc đáp ứng nhu cầu học tập của họ. Do vậy, để thỏa
mãn nhu cầu học tập cho người học thì phải quan tâm xây dựng các điều kiện
bên ngoài phù hợp với nhận thức, xúc cảm, tình cảm của người học.
b.Hứng thú học tập

20


Hứng thú học tập là thái độ đặc biệt của người học đối với nội dung
các môn học mà họ thấy có ý nghĩa trong cuộc sống, nghề nghiệp tương lai
và có khả năng đem lại khoái cảm trong quá trình học tập đó.
Hứng thú có ý nghĩa quan trọng trong đời sống, trong hoạt động của
con người. Trong học tập, hứng thú có ý nghĩa đặc biệt, nó là một dạng tình
cảm đặc biệt có tác dụng nâng cao tính tích cực học tập, làm tăng hiệu quả
hoạt động học tập của người học. Khi có hứng thú với một đối tượng nào đó,
người học sẽ tăng sức dẻo dai trong quá trình học tập, xua tan sự mệt mỏi của
trí óc và cơ thê. Ngược lại, khi không có hứng thú học tập, người học sẽ sớm
cảm thấy mệt mỏi, căng thẳng, gây trở ngại cho việc tiếp thu kiến thức. Do
đó, nếu được củng cố và phát triển có hệ thống, hứng thú sẽ trở thành động
lực mạnh mẽ thúc đẩy người học tích cực tiến hành các hành động học tập,
làm cho việc học tập trở nên nhẹ nhàng, thoải mái, có chất lượng hơn.
c.Động cơ học tập
Động cơ học tập là ý thức của người học trở thành động lực bên trong
thúc đẩy quá trình học tập, rèn luyện nhằm thỏa mãn nhu cầu học tập để phát
triển và hoàn thiện nhân cách.
Động cơ học tập là thành tố chủ yếu nhất của hoạt động học tập, tạo

nên động lực thúc đẩy mạnh mẽ, lôi cuốn và kích thích người học hoạt động
tích cực trong quá trình học tập. Động cơ học tập liên quan chặt chẽ đến việc
thỏa mãn nhu cầu và hình thành thái độ, hành động học tập tích cực, góp phần
quyết định đến chất lượng học tập ở mỗi người học.
Có nhiều loại động cơ học tập, song tựu chung lại có hai loại cơ bản:
những động cơ chiếm lĩnh tri thức và những động cơ quan hệ xã hội.
- Những động cơ chiếm lĩnh tri thức: đó là lòng khát khao mở rộng tri thức,
mong muốn có nhiều hiểu biết, say mê với bản thân quá trình giải quyết các
nhiệm vụ học tập. Hoạt động học tập được thúc đẩy bởi động cơ này thường

21


không chứa đựng xung đột và căng thẳng. Do đó, hoạt động học tập được
thúc đẩy bởi loại động cơ này là tối ưu để kích thích người học tích cực hoạt
động học tập, nâng cao chất lượng học tập.
- Những động cơ quan hệ xã hội: người học say mê học tập nhưng đó là vì
sức hấp dẫn, lôi cuốn của một cái khác ngoài mục đích trực tiếp của việc học
tập như: thưởng và phạt, đe dọa và yêu cầu, thi đua và áp lực, mong đợi hạnh
phúc và lợi ích tương lai, cũng như đạt được điểm tốt, sự hài lòng và động
viên của cha mẹ, thầy cô, sự khâm phục của bạn bè,… Hoạt động học tập
được thúc đẩy bởi động cơ này trong chừng mực nào đấy có tác dụng kích
thích người học tích cực, nỗ lực học tập.
Thông thường, cả hai loại động cơ này cũng được hình thành ở học
sinh, chúng có quan hệ chặt chẽ và bổ sung cho nhau, cũng thúc đẩy người
học tích cực học tập.
d. Định hướng giá trị học tập
Định hướng giá trị học tập là sự nhận thức, đánh giá và lựa chọn các
giá trị của con người trong quá trình học tập. Nó có ý nghĩa hướng dẫn, thúc
đẩy, điều chỉnh thái độ và hành vi của họ nhằm đạt tới những giá trị đó.

Định hướng giá trị học tập là một nhân tố trung tâm, có ý nghĩa quan
trọng, giúp cho người học chủ động, tự giác trong việc lập ra kế hoạch học
tập. Nếu có định hướng giá trị học tập đúng đắn thì người học sẽ có động cơ,
thái độ và hành động học tập tích cực. Ngược lại, nếu định hướng giá trị lệch
lạc hoặc không có định hướng giá trị rõ ràng trong học tập thì người học sẽ
trở nên thụ động, thái độ và hành động học tập trở nên thiếu tích cực.
e. Ý chí, nghị lực quyết tâm trong học tập
Ý chí trong học tập là khả năng tự xác định mục đích cho hành động và
quyết định hướng hoạt động học của mình, khắc phục mọi khó khăn để đạt
được mục đích học tập đã đề ra.

22


Nghị lực trong học tập là sức mạnh tinh thần tạo cho người học sự kiên
quyết trong hành động, không lùi bước trước những khó khăn trong quá trình
học tập.
Người có ý chí và nghị lực học tập là người hội tụ đủ ba yếu tố: có sáng
kiến, cương quyết, và hành động tích cực để đạt được mục đích học tập. Quan
trọng nhất là việc thực hành và muốn thực hành phải bền chí hành động, gặp
trở ngại gì cũng vượt qua cho được, phải tự chủ được mình, thắng các cám dỗ
ở bên ngoài. Ý chí và nghị lực ở mỗi con người được hình thành và phát triển
khác nhau và chịu sự tác động bởi những điều kiện sống cụ thể cũng như quá
trình nhận thức của mỗi người.
Ý chí, nghị lực quyết tâm là những phẩm chất nhân cách quan trọng
cần được hình thành và phát triển ở người học, đặc biệt là học sinh, học viên
đang sống và học tập ở những địa bàn vùng núi, vùng cao còn nhiều khó khăn
về mặt kinh tế, văn hóa – xã hội.
Tóm lại, các thành tố nêu trên tạo nên hệ thống động lực bên trong thôi
thúc tính tích cực học tập.

‫٭‬Mặt biểu hiện của tính tích cực học tập
Mặt động lực bên trong của tính tích cực học tập được biểu hiện rõ
trong quá trình người học tiến hành hoạt động học tập, trong đó, rõ nhất là
trên các khía cạnh: nhận thức, thái độ, hành động và kết quả học tập.
a.Nhận thức học tập
Tính tích cực về mặt nhận thức của người học được biểu hiện ở những
khía cạnh sau:
- Nhận thức rõ mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ học tập.
- Nhận thức rõ về tầm quan trọng, ý nghĩa của môn học trong cuộc sống cũng
như trong chương trình đào tạo.
- Nhận thức các điều kiện, phương tiện ảnh hưởng đến hoạt động học tập

23


×