Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (530.22 KB, 116 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài: “Quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh” là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được sự hướng dẫn khoa
học của PGS.TS.Vũ Trọng Hách. Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong
Luận văn là trung thực và chưa từng công bố dưới bất kỳ hình thức nào trước
đây. Những số liệu trong Luận văn phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh
giá được chính tác giả thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, có ghi rõ trong
phần tài liệu tham khảo.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận văn này
đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong Luận văn đã được chỉ rõ
nguồn gốc. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm về nội dung Luận văn của mình.
Học viên thực hiện Luận văn

Đinh Thị Thùy Liên


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình làm luận văn tốt nghiệp cao học, được sự giúp đỡ của các
cá nhân, tổ chức, sự tham gia góp ý của các nhà khoa học, các nhà quản lý,
bạn bè, gia đình và cùng sự nỗ lực của bản thân. Đến nay, tôi đã hoàn thành
luận văn thạc sỹ với đề tài: “Quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh”.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới PGS.TS.Vũ Trọng
Hách – người thầy đã trực tiếp hướng dẫn, dìu dắt và chỉ bảo những kiến thức
về chuyên môn thiết thực trong suốt quá trình thực hiện đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, giảng dạy của tập thể các thầy,
cô giáo trong Học viện; sự giúp đỡ, tạo điều kiện của tập thể Ban Giám đốc
Học viện; tập thể Khoa Sau Đại học và các phòng, ban khác trong Học viện.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo, tập thể cán bộ, công chức tại Sở
Du lịch Quảng Ninh đã tận tình giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi


thực hiện nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn vô hạn tới gia đình thân yêu của
tôi, cảm ơn những người bạn, những đồng nghiệp thân thiết đã chăm sóc,
khích lệ, động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn
này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh
nhất, song còn nhiều hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm thực tế nên không
tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp,
phê bình của quý thầy cô, các nhà khoa học, độc giả và các bạn đồng nghiệp
để luận văn được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Học viên thực hiện Luận văn


DANH MỤC TÀI LIỆU VIẾT TẮT
XHCN

Xã hội chủ nghĩa

UBND

Ủy ban nhân dân

QLNN

Quản lý nhà nước

TP

Thành phố


ASEAN

Hiệp hội các nước Đông Nam Á

WTO

Tổ chức Thương mại Thế giới

UNESCO

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1

Số lượng khách du lịch và tổng doanh thu du lịch ở Quảng
Ninh

Bảng 2.2

Số lượng khách du lịch đến các điểm du lịch nổi tiếng

Bảng 2.3


Trình độ học vấn của nhân viên khách sạn tại Hạ Long


MỤC LỤC
1. Tính cấp thiết của đề tài..........................................................................1


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa (XHCN), du lịch Việt Nam đang ngày càng khẳng định vị trí và
vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Du lịch được coi là một ngành
kinh tế tổng hợp, góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước; thúc
đẩy, bảo tồn và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc. Du lịch xác lập và nâng cao vị thế, hình ảnh của đất nước, con người Việt
Nam năng động, thân thiện, hòa bình trên trường quốc tế; góp quần quan
trọng vào tiến trình hội nhập kinh tế và thực hiện đường lối đối ngoại rộng
mở, đa phương hóa, đa dạng hóa của Đảng và Nhà nước. Có thể thấy, du lịch
đã và đang trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia và vùng lãnh
thổ trên thế giới. Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã có sự quan tâm
đặc biệt đến sự phát triển của ngành du lịch. Quản lý nhà nước đối với hoạt
động du lịch luôn được chú trọng, không ngừng đổi mới và hoàn thiện để phù
hợp với điều kiện phát triển của đất nước trong công cuộc công nghiệp hóa –
hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế.
Việt Nam đang nhanh chóng trở thành một trong những điểm thu hút du
lịch ở khu vực Đông Nam Á. Và Quảng Ninh là tỉnh có rất nhiều điểm du lịch
hấp dẫn. Quảng Ninh có vị trí đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế - xã
hội của vùng Trung du miền núi Bắc bộ nói riêng và của cả nước nói chung,
trong đó bao gồm cả phát triển ngành du lịch. Trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh

có rất nhiều những điểm đến du lịch với các tài nguyên vật thể và phi vật thể
thuộc ba thể loại chính: tự nhiên, văn hóa/lịch sử và các thành phố. Điểm đến
tự nhiên bao gồm những danh thắng đẹp và đa dạng ở các đảo, bãi biển đến
vùng núi mà có thể kể đến như Vịnh Hạ Long, Vịnh Bái Tử Long, Bãi Dài,
Trà Cổ, đảo Cô Tô v.v... Tỉnh có nhiều điểm tham quan văn hóa, mang lại

1


những trải nghiệm về văn hóa và lịch sử như di tích Yên Tử - một trong
những địa điểm quan trọng nhất trong tỉnh, sông Bạch Đằng, núi Bài Thơ…
Cuối cùng, có rất nhiều thành phố và thị xã như thành phố Hạ Long và thành
phố biên giới Móng Cái tạo những cơ hội mua sắm và ăn uống cho khách du
lịch. Du lịch Quảng Ninh đã và đang đóng một vai trò khá quan trọng trong
ngành du lịch vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và Vùng du lịch Bắc Bộ,
không chỉ thu hút được lượng lớn khách du lịch trong và ngoài nước, đồng
thời cũng mang lại một nguồn thu tương đối lớn vào ngân sách của tỉnh và
Nhà nước. Do đó, sự phát triển của du lịch tỉnh Quảng Ninh đã đóng góp một
phần không nhỏ vào sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam nói chung và
sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói riêng. Tuy nhiên, tỉnh vẫn chưa phát
huy được hết tiềm năng và lợi thế của mình, ngành du lịch vẫn còn bộc lộ
những hạn chế nhất định. Chất lượng dịch vụ du lịch chưa cao: nhiều công
trình, khu di tích bị xuống cấp, tập trung chủ yếu vào du lịch biển mà thiếu sự
quan tâm đối với du lịch văn hóa, tín ngưỡng…Vấn đề quản lý nhà nước đối
với ngành du lịch hiệu quả còn thấp, nhất là trong việc quản lý các dịch vụ, cơ
sở du lịch. Điều này đặt ra cho tỉnh nhiệm vụ quan trong là phải hoàn thiện và
nâng cao hơn nữa quản lý nhà nước về du lịch. Để từ đó, định hướng cho sự
phát triển về mọi mặt của ngành du lịch, đem lại lợi nhuận ngày càng nhiều
cho nền kinh tế toàn tỉnh.
Xuất phát từ lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Quản lý nhà nước về du

lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh” làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ chuyên
ngành Quản lý công nhằm góp phần vào giải quyết những vấn đề đặt ra.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề quản lý nhà nước về du lịch đã được rất nhiều tác giả nghiên cứu.
Sau đây là một số công trình tiêu biểu:

2


- Lê Long (2012), Tăng cường công tác quản lý nhà nước về hoạt động
kinh doanh lữ hành của ngành du lịch tỉnh Quảng Ninh, Luận văn thạc sỹ
Kinh tế, Trường Đại học kinh tế và Quản trị kinh doanh, Đại học Thái
nguyên.
- Nguyễn Thị Thùy (2013), Quản lý nhà nước về du lịch tại huyện đảo
Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, Luận văn thạc sỹ Du lịch, Trường Đại học Khoa
học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Lê Anh Cường (2013), Tăng cường quản lý nhà nước về du lịch ở Thành
phố Hạ Long, Luận văn thạc sỹ Kinh tế, Trường Đại học kinh tế và quản trị
kinh doanh, Đại học Thái Nguyên.
- Đỗ Hồng Thủy (2014), Quản lý nhà nước về bảo tồn khu di tích lịch sử
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, Luận văn thạc sỹ Quản lý công, Học viện Hành
chính Quốc gia.
- Đỗ Lyna (2012), Quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc, Luận văn thạc sỹ Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia.
- Nguyễn Thăng Long (2009), Tăng cường quản lý nhà nước đối với ngành
du lịch ở tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sỹ Quản
lý công, Học viện Hành chính Quốc gia.
- Nguyễn Thị Doan (2015), Quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn Hà
Nội, Luận văn thạc sỹ Quản lý kinh tế, Trường Đại học kinh tế, Đại học Quốc
gia Hà Nội.

- Vũ Thị Hạnh (2012), Phát triển nhân lực du lịch Quảng Ninh 2011 –
2012, Luận văn Thạc sỹ Du lịch, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân
văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Trần Nguyễn Tuyên (2005), Du lịch Việt Nam phát triển theo hướng trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn, Tạp chí Quản lý Nhà nước, Số 114.

3


- Vũ Khoan (2007), Đưa du lịch trẻ thành ngành kinh tế mũi nhọn vào năm
2010, Tạp chí Du lịch, Số 11.
- Hoàng Anh Tuấn (2007), Du lịch Việt Nam – Thành tựu và phát triển,
Tạp chí Quản lý nhà nước, Số 133.
Các công trình nghiên cứu trên là nguồn tư liệu để tham khảo và học hỏi.
“Quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh” là một đề tài
mang tính đặc thù riêng, không sao chép và trùng lặp với bất kì công trình
nghiên cứu nào trước đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích
Trên cơ sở đánh giá thực trạng vấn đề quản lý nhà nước về du lịch của tỉnh
Quảng Ninh để tìm ra các phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng
cao hơn nữa quản lý đối với du lịch trên địa bàn tỉnh. Qua đó thúc đẩy ngành
du lịch của tỉnh phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, phù hợp với tình hình
phát triển kinh tế của đất nước.
- Nhiệm vụ
+ Nghiên cứu những lý luận chung về du lịch và quản lý nhà nước về du lịch.
+ Nghiên cứu những kinh nghiệm quản lý nhà nước về du lịch của các tỉnh
thành khác trong cả nước. Từ đó, rút ra bài học cho Quảng Ninh.
+ Phân tích, đánh giá thưc trạng quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn
tỉnh, nêu lên những kết quả đạt được và những tồn tại của vấn đề, chỉ rõ

nguyên nhân của vấn đề.
+ Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa vấn đề quản lý nhà nước
về du lịch trên địa bàn tỉnh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động quản lý nhà nước về du
lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.

4


- Phạm vi nghiên cứu
+ Không gian: Nghiên cứu quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh
+ Thời gian: Nghiên cứu vấn đề quản lý nhà nước về du lịch ở Quảng Ninh
từ năm 2010 – 2015.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận
Luận văn dựa trên phương pháp luận duy vật lịch sử, duy vật biện chứng
của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối
của Đảng; Luật Du Lịch 2005; Luật Di sản văn hóa; các nghị quyết của Chính
phủ và một số văn bản pháp luật khác.
- Phương pháp nghiên cứu của luận văn
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Thu thập, tổng hợp và phân tích các tài
liệu liên quan đến quản lý nhà nước về du lịch. Từ đó đánh giá thực trạng của
vấn đề.
+ Phương pháp khảo sát thực địa: Trực tiếp khảo sát tại một số nơi như bến
cảng, bãi biển, khách sạn...
+ Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: Tham khảo ý kiến của một số
chuyên gia, cụ thể ở đây là những người có chức trách, làm việc tại Sở Văn

hóa, Thể thao và Du lịch Quảng Ninh; hoặc chủ các hộ kinh doanh dịch vụ,
du lịch (cửa hàng, công ty du lịch, chủ khách sạn…)
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Làm sáng tỏ các vấn đề lý luận cơ bản về quản lý nhà
nước về du lịch đối với Việt Nam và cấp tỉnh, ở đây là tỉnh Quảng Ninh;
- Ý nghĩa thực tiễn:
+ Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để các cá nhân, cơ quan ban
ngành trong việc nghiên cứu tình hình du lịch ở Quảng Ninh.

5


+ Đánh giá được thực trạng quản lý nhà nước đối vơi hoạt động du lịch trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Từ đó đưa ra được những việc đã làm được và chưa
làm được, tìm ra nguyên nhân của vấn đề.
+ Đề xuất những giải pháp mới nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về du
lịch trên địa bàn tỉnh, phù hợp với tình hình phát triển của tỉnh.
7. Kết cấu luận văn: Gồm 3 chương
Chương 1. Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về du lịch
Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh
Chương 3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về du
lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh

6


Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH
1.1. Các khái niệm cơ bản

1.1.1. Du lịch
Từ giữa thế kỷ 19, du lịch bắt đầu phát triển mạnh và ngày nay đã trở
thành một hiện tượng kinh tế - xã hội phổ biến. Nhiều nước đã lấy chỉ tiêu đi
du lịch của dân cư là một trong những tiêu chí đánh giá chất lượng cuộc sống.
Nhờ vậy, mà du lịch đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia
trên thế giới, trong đó có Việt Nam.Tuy nhiên, thế nào là du lịch xét từ góc độ
của người du lịch và bản thân người làm du lịch, thì cho đến nay vẫn còn có
sự khác nhau, chưa thống nhất trong quan niệm giữa những người nghiên cứu
và những ngườihoạt động trong lĩnh vực này.
Vào năm 1941, ông w. Hunziker và Kraff (Thụy Sỹ) đưa ra định nghĩa:
“Du lịch là tổng hợp những hiện tượng và các mối quan hệ nảy sinh từ việc di
chuyển và dừng lại của con người tại nơi không phải là nơi cư trú thường
xuyên của họ; hơn nữa, họ không ở lại đó vĩnh viễn và không có bất kỳ hoạt
động nào để có thu nhập tại nơi đến”.
Tại hội nghị LHQ về du lịch họp tại Rome – Italia (21/8 – 5/9/1963), các
chuyên gia đưa ra định nghĩa về du lịch: “Du lịch là tổng hợp các mối quan
hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và
lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay
ngoài nước họ với mục đích hoà bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi
làm việc của họ”.
Các học giả Trung Quốc đã đưa ra định nghĩa khá đầy đủ về du lịch: Du
lịch là hiện tượng kinh tế - xã hội nảy sinh trong điều kiện kinh tế - xã hội
nhất định, là sự tổng hòa các quan hệ và hiện tượng do việc lữ hành để thỏa

7


mãn mục đích chủ yếu là nghỉ ngơi, tiêu khiển, giới thiệu văn hóa nhưng lưu
động chứ không định cư mà tạm thời lưu trú của mọi người dẫn tới.
Theo Liên hiệp quốc tế các tổ chức lữ hành chính thức (International

Union of Official Travel Oragnization: IUOTO): “Du lịch được hiểu là hành
động du hành đến một nơi khác với địa điểm cư trú thường xuyên của mình
nhằm mục đích không phải để làm ăn, tức không phải để làm một nghề hay
một việc kiếm tiền sinh sống,…”
Theo Tổ chức Du lịch thế giới (World Tourism Organization): “Du lịch
bao gồm tất cả mọi hoạt động của những người du hành tạm trú với mục đích
tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm hoặc với mục đích nghỉ ngơi,
giải trí, thư giãn cũng như mục đích hành nghề và những mục đích khác nữa
trong thời gian liên tục nhưng không quá một năm ở bên ngoài môi trường
sống định cư nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích chính là kiếm tiền”.
Tại Việt Nam, mặc dù du lịch là một lĩnh vực khá mới mẻ nhưng các nhà
nghiên cứu của Việt Nam cũng đưa ra các khái niệm xét trên nhiều góc độ
nghiên cứu khác nhau:
Các học giả biên soạn Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam (1966) đã
tách 2 nội dung cơ bản của du lịch thành 2 phần riêng biệt:
- Thứ nhất, du lịch là một dạng nghỉ dưỡng sức, tham quan tích cực của
con người ngoài nơi cư trú với mục đích: nghỉ ngơi, giải trí, xem danh lam
thắng cảnh, di tích lịch sử, công trình văn hóa nghệ thuật. Theo nghĩa này, du
lịch được xem xét ở góc độ cầu, góc độ người đi du lịch.
- Thứ hai, du lịch là một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao về
nhiều mặt: nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử và văn hóa
dân tộc, từ đó góp phần làm tăng thêm tình yêu đất nước; đối với người nước
ngoài là tình hữu nghị với dân tộc mình; về mặt kinh tế du lịch là lĩnh vực
kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn; có thể coi là hình thức xuất khẩu hàng

8


hóa và dịch vụ tại chỗ. Theo nghĩa này, du lịch được xem xét ở góc độ một
ngành kinh tế.

Theo Luật Du lịch do Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa 11, kỳ họp lần thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005 đã đưa ra định
nghĩa như sau: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con
người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham
quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”[6].
Từ những khái niệm trên, có thể rút ra những luận điểm cơ bản về du lịch
như sau:
- Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên;
- Chuyến du lịch ở nơi đến mang tính tạm thời, trong một thời gian ngắn;
- Mục đích của chuyến du lịch là thỏa mãn nhu cầu tham quan, nghỉ
dưỡng hoặc kết hợp đi du lịch với giải quyết những công việc của cơ quan và
nghiên cứu thị trường, nhưng không vì mục đích định cư hoặc tìm kiếm việc
làm để nhận thu nhập nơi đến viếng thăm.
- Du lịch là thiết lập các quan hệ giữa khách du lịch với nhà cung ứng các
dịch vụ du lịch, chính quyền địa phương và cư dân ở địa phương.
1.1.2. Hoạt động du lịch
Trước đây, hoạt động du lịch được coi là một hoạt động mang tính chất
văn hóa nhằm thỏa mãn nhu cầu giải trí và những nhu cầu hiểu biết của con
người, nó không được coi là hoạt động kinh tế, không mang tính chất kinh
doanh và ít được đầu tư phát triển. Ngày nay, du lịch được nhiều quốc gia trên
thế giới xem xét là một ngành kinh tế quan trọng thì quan niệm hoạt động du
lịch được hiểu một cách đầy đủ hơn. Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp,
bao gồm các hoạt động khá đa dạng từ dịch vụ phòng nghỉ, ăn uống, mua bán
đồ lưu niệm và hàng hóa,…các dịch vụ này được gọi là hoạt động du lịch.

9


Luật Du lịch năm 2005 đưa ra khái niệm về hoạt động du lịch như sau:
“Hoạt động du lịch là hoạt động của khách du lịch, tổ chức, cá nhân kinh

doanh du lịch, cộng đồng dân cư và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan
đến du lịch” [6].
Với cách tiếp cận như vậy, hoạt động du lịch được nhìn nhận dưới 3 khía
cạnh:
Thứ nhất, hoạt động của khách du lịch nghĩa là việc di chuyển và lưu trú
tạm thời của người du lịch đến một nơi ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ
để tham quan, nghỉ dưỡng, chữa bệnh, tìm hiểu lịch sử, văn hóa và nghệ thuật.
Thứ hai, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch là những người hoạt động tổ
chức lưu trú, phục vụ ăn uống, hướng dẫn tham quan, vận chuyển đưa đón
khách du khách, kinh doanh các hàng hóa, dịch vụ khác nhằm mục tiêu lợi
nhuận.
Thứ ba, cộng đồng dân cư và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tức là
cơ quan nhà nước và các tổ chức có liên quan tại địa phương du lịch tổ chức
quản lý, điều phối, phục vụ hoạt động của khách du lịch và tổ chức, cá nhân
hoạt động kinh doanh du lịch nhằm đảm bảo cho các đối tượng này thực hiện
quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia hoạt động du lịch theo đúng luật
định.
Như vậy, hoạt động du lịch ở đây được tiếp cận bao gồm các dịch vụ trực
tiếp và gián tiếp cho du lịch. Ở một chừng mực nhất định, hoạt động du lịch
có thể được coi là đồng nghĩa với khái niệm ngành du lịch.
1.1.3. Các loại hình du lịch
Căn cứ vào nhu cầu của thị trường và trên cơ sở của tài nguyên du lịch có
khả năng khai thác và các điều kiện phát triển du lịch, người ta thường kết
hợp các yếu tố này với nhau để xác định các loại hình du lịch. Mục đích của
việc xác định các loại hình du lịch nhằm vào việc xây dựng chiến lược phát

10


triển du lịch của quốc gia, của địa phương và định hướng chiến lược kinh

doanh cho các doanh nghiệp du lịch. Hoạt động du lịch diễn ra rất phong phú
và đa dạng. Tùy thuộc vào cách phân chia mà có các loại hình du lịch khác
nhau. Mỗi loại hình du lịch đều có những tác động nhất định lên môi trường.
Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động du lịch có sự đan xen giữa các loại hình du
lịch trong quá trình phục vụ khách du lịch.
Việc phân chia các loại hình du lịch căn cứ vào những tiêu chí sau đây:
- Căn cứ vào phạm vi địa lý lãnh thổ:
+ Du lịch nội địa: là khách du lịch thực hiện chuyến đi du lịch trong phạm
vi quốc gia của mình. Ví dụ: Người Việt Nam đi du lịch tới các điểm du lịch
trong nước như Đà Nẵng, Nha trang, Đà Lạt, SaPa,…v.v.
+ Du lịch quốc tế: là sự di chuyển từ nước này sang nước khác, du khách
phải ra khỏi vùng lãnh thổ biên giới và tiêu bằng ngoại tệ nơi họ đến du lịch.
Ví dụ: người Việt Nam đi sang các nước khác du lịch như Thái Lan, Hàn
Quốc, Nhật Bản,…v.v. Trong loại hình du lịch quốc tế, người ta lại chia ra
làm hai loại hình du lịch quốc tế chủ động và du lịch quốc tế thụ động.
- Căn cứ vào mục đích của chuyến đi:
+ Du lịch tham quan văn hóa – lịch sử: Đây là một loại hình du lịch mang
tính phổ biến nhất và cốt lõi của các chương trình du lịch. Con người khi đi
du lịch với những mục đích khác nhau, nhưng cái chủ yếu vẫn là tìm hiểu
truyền thống văn hóa, phong tục tập quán, nếp sống của cộng đồng dân cư nơi
họ đến du lịch. Vì thế, việc khai thác tài nguyên du lịch nhân văn và xã hội ở
đây để phục vụ du khách (trong đó có cả khách du lịch trong nước lẫn khách
du lịch quốc tế) đóng một vai trò quyết định.
+ Du lịch nghỉ dưỡng: Du lịch được coi như một phương tiện nhằm tái hồi
sức lao động của con người sau những ngày tháng lao động vất vả. Loại hình
du lịch nghỉ dưỡng được phân ra thành ba loại khác nhau theo tiêu thức địa lý,

11



đó là: Du lịch nghỉ dưỡng ven biển và đảo; du lịch nghỉ dưỡng ở vùng núi và
du lịch nghỉ dưỡng ở vùng nước khoáng.
+ Du lịch công vụ: Đây là loại hình du lịch của những người đi công tác, dự
hội nghị, hội thảo, thăm dò đầu tư, thương mại và kết hợp với mục đích du
lịch. Số lượng khách đi theo loại hình du lịch này rất lớn và nhiều nước đặt ra
mục tiêu là trung tâm hội nghị, hội thảo và triển lãm của thế giới và khu vực.
+ Du lịch thăm thân nhân: Đây là loại hình du lịch phát triển mạnh mẽ trong
điều kiện thế giới rộng mở, con người có thể đi làm việc và định cư ở bất cứ
nơi nào trên trái đất, họ mong muốn trở về quê hương để thăm người thân kết
hợp với du lịch.
+ Du lịch chữa bệnh: Là một trong những loại hình du lịch phát triển từ xa
xưa, loại hình du lịch này chủ yếu phát triển tại những nơi có nguồn nước
khoáng, vùng núi và vùng ven biển với mục tiêu khai thác các tài nguyên
thiên nhiên (đất, nước, không khí, cỏ cây…) phục vụ việc điều dưỡng và chữa
bệnh cho con người.
+ Du lịch thể thao: Loại hình du lịch này gồm hai nhóm, đó là du lịch thể
thao dành cho các vận động viên thi đấu và khách du lịch đi xem các sự kiện
thi đấu thể thao. Đối với loại thứ nhất, du lịch phục vụ các đoàn vận động
viên đi thi đấu trong các giải thế giới, khu vực hoặc đi tập huấn kết hợp với
tham quan du lịch. Loại thứ hai là các cổ động viên, khán giả đi xem các cuộc
thi đấu thể thao kết hợp với tham quan du lịch.
+ Du lịch tôn giáo: Tôn giáo, tín ngưỡng đã hình thành và tồn tại hàng ngàn
năm nay. Con người ngoài đời sống vật chất còn có đời sống tinh thần, trong
đó có vấn đề tâm linh. Một bộ phận dân cư đã hình thành các tôn giáo: thiên
chúa giáo, phật giáo, đạo hồi,…Các tín đồ đạo giáo hình thành nhu cầu tín
ngưỡng được bộc lộ rõ nét trong các cuộc hành hương đến nơi có ý nghĩa tâm

12



linh. Xuất phát từ nhu cầu trên, loại hình du lịch tôn giáo đã hình thành, tồn
tại lâu đời và phổ biến ở các quốc gia.
+ Du lịch giải trí: Là một nhu cầu không thể thiếu được của du khách, vì
vậy, ngoài thời gian tham quan du khách còn phải được thư giãn, nghỉ ngơi để
phục hồi sức khỏe sau khoảng thời gian làm việc căng thẳng, do đó các khu
vui chơi cần phải có các chương trình vui chơi giải trí cho du khách.
+ Du lịch mạo hiểm. Đây là loại hình du lịch giành cho những người yêu
thích mạo hiểm để chứng tỏ lòng cam đảm và ý chí kiên cường như: trèo cao,
vượt thác, vượt sóng đại dương,…v.v. Loại hình du lịch này chủ yếu phát
triển ở những nước Châu Âu và Châu Mỹ.
+ Du lịch sinh thái: Là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản
sắc văn hóa địa phương với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền
vững. Khách du lịch lựa chọn loại hình du lịch này nhằm thưởng thức phong
cảnh thiên nhiên đẹp đẽ và trở về với đời sống tự nhiên hoang dã.
- Căn cứ vào việc sử dụng các phương tiện vận chuyển khách du lịch,
người ta đưa ra hai tiêu chí để xác định loại hình du lịch:
+ Căn cứ việc sử dụng phương tiện vận chuyển khách du lịch đến điểm du
lịch: gồm du lịch bằng đường không, du lịch bằng đường bộ, du lịch bằng
đường sắt, du lịch bằng tàu biển và du lịch bằng tàu thủy.
+ Căn cứ vào việc khách du lịch sử dụng phương tiện vận chuyển tại điểm
đến du lịch. Các phương tiện vận chuyển khách du lịch tại các khu du lịch,
các điểm du lịch rất phong phú và đa dạng, trước hết bằng ô tô, sau đó là các
loại xe thô sơ như: xích lô, ngựa kéo, trâu, bò kéo hoặc bằng thuyền, bằng xe
kéo bằng ắc quy, cáp treo,…v.v
1.1.4. Quản lý nhà nước về du lịch
Với tư cách là chủ thể, nhà nước thực hiện nhiệm vụ quản lý tất cả các
lĩnh vực, các mặt của đời sống xã hội và ngành du lịch cũng nằm trong số đó.

13



Hoạt động du lịch rất đa dạng và luôn đòi hỏi có sự quản lý của Nhà nước để
duy trì và phát triển. Việc thành công hay thất bại phụ thuộc rất lớn vào
khung pháp lý và những chính sách thích hợp với điều kiện và trình độ phát
triển của đất nước. Quản lý nhà nước về du lịch là một lĩnh vực của quản lý
nhà nước (QLNN), là hoạt động của hệ thống các cơ quan nhà nước nhằm
quản lý vi mô các hoạt động du lịch thông qua hệ thống các chính sách,
chương trình, văn bản quy phạm pháp luật các văn bản chỉ đạo, điều hành về
lĩnh vực du lịch nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức, doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế khác nhau hoạt động có hiệu quả trong lĩnh vực du lịch
[5].
Trên cơ sở nghiên cứu, tổng hợp từ những quan điểm khác nhau về quản
lý nhà nước đối với hoạt động du lịch, có thể đưa ra định nghĩa tổng quát
như sau: “Quản lý nhà nước về du lịch là sự tác động có tổ chức và được
điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước (qua hệ thống pháp luật) đối với các
quá trình, hoạt động du lịch của con người để duy trì và phát triển ngày càng
cao các hoạt động du lịch trong nước và quốc tế nhằm đạt được hiệu quả
kinh tế - xã hội đặt ra” [5]. Quản lý nhà nước về du lịch nhằm đưa du lịch
phát triển theo định hướng chung của tiến trình phát triển đất nước và theo
quy định của pháp luật.
Ở Việt Nam, cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực
du lịch trong phạm vi cả nước là Tổng cục Du lịch. Tổng cục Du lịch thực
hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
quản lý nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật về du lịch trong phạm vi cả
nước, quản lý các dịch vụ công về du lịch theo quy định của pháp luật [9].
1.1.5. Đặc điểm của quản lý nhà nước về du lịch
Một là, Nhà nước là người tổ chức và quản lý các hoạt động du lịch diễn
ra trong nền kinh tế thị trường

14



Xuất phát từ đặc trưng của nền kinh tế thị trường là tính phức tạp, năng
động và nhạy cảm. Vì vậy, hoạt động du lịch đòi hỏi phải có một chủ thể có
tiềm lực về mọi mặt để đứng ra tổ chức và điều hành, chủ thể ấy không ai
khác chính là Nhà nước – vừa là người quản lý, vừa là người tổ chức hoạt
động du lịch. Để hoàn thành sứ mệnh của mình, Nhà nước phải đề ra pháp
luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,…và sử dụng các công cụ
này để tổ chức và quản lý hoạt động du lịch.
Hai là, hệ thống công cụ như pháp luật, chính sách, chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch…phát triển du lịch là cơ sở, là công cụ để Nhà nước tổ chức
và quản lý hoạt động du lịch
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động du lịch diễn ra hết sức phức tạp
với sự đa dạng về chủ thể, về hình thức tổ chức và quy mô hoạt động…Dù
phức tạp thế nào đi chăng nữa, sự quản lý của Nhà nước cũng phải đảm bảo
cho hoạt động du lịch có tính tổ chức cao, ổn định, công bằng và có tính định
hướng rõ rệt. Do đó, Nhà nước phải ban hành pháp luật, đề ra các chính sách,
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch và dùng các công cụ này để
tác động vào lĩnh vực du lịch.
Ba là, quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch đòi hỏi phải có một bộ
máy nhà nước mạnh, có hiệu lực, hiệu quả và một đội ngũ cán bộ quản lý nhà
nước có trình độ, năng lực thật sự.
Quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch phải tạo được những cân đối
chung, điều tiết được thị trường, ngăn ngừa và xử lý những đột biến xấu, tạo
môi trường pháp lý thuận lợi cho mọi hoạt động du lịch phát triển. Và để thực
hiện tốt điều này thì tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước
không thể khác hơn là phải được tổ chức thống nhất, đồng bộ, có hiệu quả từ
Trung ương đến địa phương.

15



Bốn là, quản lý nhà nước còn xuất phát từ chính nhu cầu khách quan của
sự gia tăng vai trò của chính sách, pháp luật trong nền kinh tế thị trường với
tư cách là công cụ quản lý
Nền kinh tế thị trường với những quan hệ kinh tế rất đa dạng và năng
động đòi hỏi có một sân chơi an toàn và bình đẳng, đặc biệt là khi vấn đề toàn
cầu hóa kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế là mục tiêu mà các quốc gia hướng
tới. Trong bối cảnh đó, phải có một hệ thống chính sách, pháp luật hoàn
chỉnh, phù hợp không chỉ với điều kiện ở trong nước mà còn với thông lệ và
luật pháp quốc tế. Đây là sự thách thức lớn đối với mỗi quốc gia, trong đó có
Việt Nam. Bởi vì, mọi quan hệ hợp tác dù ở bất cứ lĩnh vực nào và với đối tác
nào cũng cần có trình tự nhất định và chỉ có thể dựa trên cơ sở chính sách,
pháp luật.
1.2. Những nội dung chủ yếu của quản lý nhà nước về du lịch
Trong xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa của hoạt động du lịch, việc hợp
tác liên kết luôn đi liền với cạnh tranh đòi hỏi mỗi nước phải có chiến nước
tổng thể phát triển du lịch xuất phát từ điều kiện của mình, vừa phát huy được
tính đặc thù, huy động được nội lực để tăng khả năng hấp dẫn khách du lịch
vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, tranh thủ được nguồn lực bên ngoài, để có
điều kiện hội nhập. Tùy theo điều kiện của từng quốc gia , trong từng giai
đoạn phát triển mà xác định nội dung quản lý nhà nước về du lịch cho phù
hợp. Ở nước ta, nội dung quản lý nhà nước về du lịch được quy định cụ thể tại
Điều 10, Luật Du lịch 2005, mang tính pháp lý chặt chẽ buộc các cấp chính
quyền và các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch phải tuân thủ.
Để du lịch thúc đẩy nhanh và bền vững, đảm bảo các mục tiêu về kinh tế, văn
hóa, xã hội, đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự và an toàn xã hội…quản lý nhà
nước về du lịch có các nội dung chủ yếu sau đây:

16



Thứ nhất, xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
và chính sách phát triển du lịch
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động du lịch diễn ra hết sức phức tạp,
do đó, nhà nước phải đề ra các chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển du lịch và dùng công cụ này tác động vào lĩnh vực du lịch để thúc
đẩy du lịch phát triển nhanh và bền vững, trở thành kinh tế mũi nhọn của quốc
gia. Đề làm được điều này, nhà nước phải xác định được chiến lược tổng thể
phát triển du lịch phù hợp với điều kiện đất nước, vừa phát huy được tính đặc
thù, huy động được nội lực để tăng khả năng hấp dẫn khách du lịch, vừa phù
hợp với thông lệ quốc tế, vừa tranh thủ được nguồn lực bên ngoài.
Trong hoạt động kinh doanh, mục tiêu cuối cùng là các đơn vị kinh doanh
có lợi nhuận. Do đó, nếu không được định hướng phát triển đúng sẽ gây ra
lãng phí, kém hiệu quả do không phù hợp với nhu cầu thị trường và thực tế
phát triển của địa phương, nhất là các hoạt động đầu tư xây dựng phát triển
kêt cấu hạ tầng các khu, điểm du lịch,…hoặc đầu tư xây dựng cơ sơ vật chất –
kỹ thuật như nhà hàng, khách sạn,…Vì thế, nhà nước phải hết sức quan tâm
đến việc xây dựng và tổ chức thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển du lịch của đất nước.
Thứ hai, xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp
luật, tiêu chuẩn định mức kinh tế - kỹ thuật trong hoạt động du lịch
Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng từ các quy định
chính sách, pháp luật của Nhà nước, buộc mọi người phải tuân thủ theo. Để
các quy định, chính sách đó đi vào cuộc sống thì Nhà nước phải xây dựng,
ban hành và tổ chức thực hiện chúng một cách nghiêm chỉnh. Như vậy, muốn
quản lý sự phát triển ngành du lịch tại địa phương, các cơ quan nhà nước ở
địa phương cần chỉ đạo thực hiện các luật lệ, chính sách của Trung ương ban
hành có hiệu quả ở địa phương mình, ban hành các văn bản quy phạm pháp


17


luật tại địa phương xuất phát từ yêu cầu quản lý phát triển ngành ở địa
phương nhưng không trái với luật pháp của Nhà nước. Mục đích là thiết lập
môi trường pháp lý để đưa các hoạt động du lịch vào khuôn khổ, tạo điều kiện
thuận lợi cho du lịch phát triển. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc
thực hiện các văn bản, các chính sách, pháp luật du lịch trên địa bàn, xử lý
nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật. Không tùy tiện thay đổi các
chính sách của mình, xóa bỏ các văn bản cũ trái với các văn bản mới ban
hành, giảm tối đa sự trùng lắp gây khó khăn cho hoạt động du lịch.
Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật phải đảm bảo theo đúng
quy định của pháp luật và quy định của cơ quan nhà nước cấp trên, vừa phải
thông thoáng trên cơ sở sử dụng nguồn lực của địa phương để khuyến khích
phát triển. Phải đảm bảo tính ổn định, bình đẳng và nghiêm minh trong quá
trình thực thi văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ ba, quy định tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về du lịch, sự phối
hợp của các cơ quan nhà nước trong việc quản lý nhà nước về du lịch
Du lịch là hoạt động mang tính liên ngành, do đó quản lý nhà nước đối
với hoạt động du lịch phải tạo được những cân đối chung, điều tiết được thị
trường, ngăn ngừa và xử lý những đột biến xấu, tạo môi trường pháp lý thuận
lợi cho mọi hoạt động du lịch phát triển. Và để thực hiện tốt điều này thì tổ
chức bộ máy quản lý nhà nước phải được tổ chức thống nhất, đồng bộ, có
hiệu quả từ Trung ương đến địa phương, đồng thời các cơ quan trong bộ máy
đó phải luôn được phối hợp chặt chẽ với nhau để đảm bảo du lịch luôn có sự
thống nhất trong tổ chức và hoạt động.
Hiện nay, theo quy định của Luật Du lịch Việt Nam (2005) thì hoạt động
du lịch chịu sự quản lý thống nhất của Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Chính phủ thống nhất quản lý
nhà nước về du lịch. Chính phủ trao cho Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch


18


quản lý nhà nước về du lịch và chịu trách nhiệm trước Chính phủ. Bộ, cơ
quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình và theo sự phân
công của Chính phủ có trách nhiệm phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về
du lịch ở trung ương trong việc thực hiện quản lý nhà nước về du lịch.Tổng
cục Du lịch là tổ chức trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, thực hiện
chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quản
lý nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật về du lịch trong phạm vi cả nước,
quản lý các dịch vụ công về du lịch theo quy định của pháp luật. Uỷ ban nhân
dân (UBND) tỉnh, thành phố trực thuộc trung trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình và theo sự phân cấp của Chính phủ có trách nhiệm thực hiện
quản lý nhà nước về du lịch tại địa phương; cụ thể hóa chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch, cơ chế, chính sách phát triển du lịch phù hợp với thực tế tại địa
phương và có biện pháp bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, vệ sinh môi
trường tại khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch. Các cơ quan
quản lý nhà nước về du lịch ở Trung ương và địa phương phải thống nhất và
luôn giữ mối quan hệ chặt chẽ, liên quan mật thiết với nhau trong việc tổ chức
thực hiện pháp luật và thực hiện quản lý nhà nước về du lịch [6].
Thứ tư, tổ chức, quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực;
nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ.
Cũng như các lĩnh vực khác, chất lượng nguồn nhân lực trong hoạt động
du lịch cũng ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của lĩnh vực này. Bởi lẽ,
từ cạnh tranh toàn cầu, cạnh tranh quốc gia, giữa các ngành các doanh nghiệp
cho đến cạnh tranh từng sản phẩm suy cho cùng là cạnh tranh bằng trí tuệ của
nhà quản lý và chất lượng nguồn nhân lực. Để hoạt động du lịch của một quốc
gia, một vùng, một địa phương phát triển, việc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng và
hỗ trợ đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực cho hoạt động du lịch cần được quan

tâm thực hiện thường xuyên. Đặc biệt, những địa phương có nhiều tiềm năng

19


để phát triển du lịch cần phải có chiến lược, kế hoạch phát triển, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, có như vậy mới khai thác có hiệu quả tiềm năng
du lịch góp phần thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Hệ thống kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất – kỹ thuật du lịch là một trong
những điều kiện quan trọng để phát triển du lịch. Vì vậy cơ quan nhà nước
cần có chính sách ưu tiên, hỗ trợ cho đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng du lịch
tại các điểm du lịch như mở đường giao thông, xây dựng hệ thống điện nước,
phát triển hệ thống thông tin liên lạc, ứng dụng khoa học, công nghệ về du
lịch để hỗ trợ trong việc tôn tạo và bảo tồn các di tích văn hóa – lịch sử, các
công trình kiến trúc, cảnh quan du lịch…
Thứ năm, tổ chức thực hiện hợp tác quốc tế về du lịch; hoạt động xúc tiến
du lịch ở trong nước và nước ngoài.
Nâng cao tính liên kết là một điều kiện tất yếu để phát triển bền vững
ngành du lịch trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, bao gồm tính liên kết
ngành, vùng và quốc gia. Sự liên kết chặt chẽ hơn giữa các doanh nghiệp du
lịch, liên kết giữa các doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước cũng sẽ tạo
nên một môi trường, cơ chế kinh doanh thuận lợi, công bằng. Để tạo điều kiện
tốt hơn cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh du lịch ở địa phương, cơ
quan nhà nước cần làm tốt việc cung cấp thông tin, cập nhật chính sách mới
về du lịch, tổ chức tập huấn cho cán bộ quản lý nhà nước và cán bộ quản trị
doanh nghiệp để giúp họ hiểu rõ về các cam kết, nghĩa vụ của Nhà nước và
của doanh nghiệp theo luật quốc tế và điều kiện của Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO). Chính quyền cấp tỉnh cần phải trở thành trung tâm gắn kết giữa
các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn với thị trường liên vùng, khu vực và
trên thế giới, nhất là các trung tâm kinh tế lớn. Một mặt, chính quyền cấp tỉnh

thực hiện nhiệm vụ tham gia hợp tác quốc tế về du lịch theo quy định của
pháp luật, góp phần đẩy mạnh liên kết và hội nhập dịch vụ du lịch với các

20


×