Tải bản đầy đủ (.doc) (157 trang)

NIỀM TIN của NGƯỜI VIỆT đối với tín NGƯỠNG THỜ CÚNG tổ TIÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.78 MB, 157 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
-----š›&š›-----

NGUYỄN THỊ HẢI YẾN

NIỀM TIN CỦA NGƯỜI VIỆT ĐỐI VỚI
TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN
Chuyên ngành: Tâm lý học chuyên ngành
Mã số: 62.31.80.05

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN HỒI LOAN

Hà Nội -2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và chưa từng công bố trong bất kỳ công
trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả luận án

Nguyễn Thị Hải Yến


MỤC LỤC
PHỤ LỤC




DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
TCTT

: Thờ cúng Tổ tiên

4


DANH MỤC BẢNG

5


DANH MỤC BIỂU ĐỒ

6


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Thờ cúng Tổ tiên là một hiện tượng xã hội xuất hiện từ xa xưa của lịch sử
nhân loại và tồn tại ở nhiều cộng đồng trên thế giới. Cho đến nay, tín ngưỡng Thờ
cúng Tổ tiên vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của nhiều tộc
người. Ở nước ta, tín ngưỡng này đã phát triển qua nhiều thời kỳ lịch sử, tồn tại ở
nhiều cộng đồng các thành phần dân tộc, đan xen vào thẩm thấu vào hầu hết các tôn
giáo hiện có ở Việt Nam.
Theo khảo sát, ở Việt Nam hầu như 100% dân cư duy trì phong tục Thờ cúng
Tổ tiên [31, tr 351]. Ngoài nhu cầu tâm linh muốn gửi gắm, nhờ cậy vào Tổ tiên khi

ở thế giới trần gian đầy rủi ro, bấp bênh; Thờ cúng Tổ tiên còn biểu hiện của đạo lý
làm người, hướng về cội nguồn của gia đình và dân tộc. Thông qua nghi thức Thờ
cúng Tổ tiên, người Việt gửi gắm tình cảm sâu đậm về đạo lý “ ăn quả nhớ người
trồng cây”, và vì “ cây có gốc mới nở cành xanh ngọn, nước có nguồn mới bể rộng
sông sâu”, từ đó củng cố thêm lòng hiếu thảo vốn là giá trị đạo đức truyền thống của
người Việt.
Thờ cúng Tổ tiên không chỉ khơi dậy lòng hiếu thảo với bố mẹ, mà còn góp
phần hoà thuận với anh em, có trách nhiệm với cộng đồng huyết tộc, làng xóm và
xã hội. Trong những dịp giỗ Tết, chạp họ, ma chay... anh em, con cháu dù ở gần hay
xa, thân phận mỗi người một khác (giàu nghèo hay sang hèn) cũng cố gắng nhân
ngày ấy mà về quây quần bên nhau để ôn lại công lao của bố mẹ, ông bà, tổ tiên đã
có công sinh thành và nuôi dưỡng mình. Ngoài ra, đây cũng là những dịp này bố
mẹ, anh em, con cháu có dịp hàn huyên, giãi bày tâm sự nhằm giải toả những vướng
mắc, mâu thuẫn trong quan hệ thân tộc đã diễn ra trong đời thường.
Sau một thời gian bị lắng chìm và thu hẹp, từ khi Đảng và Nhà nước ta chủ
trương thực hiện chính sách Đổi mới đất nước, nhất là từ năm 1990 đến nay tín
ngưỡng Thờ cúng Tổ tiên có cơ hội phục hồi và phát triển mạnh mẽ. Hiện tượng tu
bổ mồ mả tổ tiên, nhà thờ họ, chỉnh trang nghĩa trang liệt sĩ, xây dựng đình làng;
1


mở rộng di tích đền Hùng, cùng với trào lưu trở về nguồn cội qua việc khôi phục
truyền thống viết gia phả, tộc phả,…diễn ra phổ biến trên khắp mọi miền của đất
nước, thu hút sự tham gia của mọi giai tầng, lứa tuổi, nghề nghiệp, người sống trong
nước cũng như cộng đồng người Việt xa quê hương, xứ sở.
Trước sự khôi phục, phát triển tín ngưỡng Thờ cúng Tổ tiên (TCTT) và ảnh
hưởng to lớn của tín ngưỡng này trên các mặt của đời sống xã hội, nhiều nhà khoa
học đã công bố các nghiên cứu mới của họ về TCTT trên các diễn đàn khoa học
trong nước và quốc tế. Hầu hết các nghiên cứu đều xuất phát từ góc độ triết học,
nhân học, tôn giáo học, xã hội học, lịch sử…, rất ít công trình nghiên cứu dưới góc

độ tâm lý học. Muốn hiểu được đầy đủ bản chất của tín ngưỡng TCTT của người
Việt, nhất thiết cần phải nghiên cứu cả trên góc độ của khoa học tâm lý. Bởi lẽ, t ín
ngưỡng Thờ cúng Tổ tiên phản ánh rất nhiều khía cạnh tâm lý, tình cảm của người
Việt như tính cách, nhu cầu, động cơ, tình cảm, giao tiếp ứng xử, triết lý thế giới
quan, nhân sinh quan, niềm tin, … của họ.
Niềm tin vào tín ngưỡng TCTT là một trong những khía cạnh tâm lý có vai
trò quan trọng đối với sự tồn tại của tín ngưỡng TCTT trong cộng đồng người Việt,
là nguyên nhân sâu xa khiến cho tín ngưỡng này có sức ảnh hưởng lớn đến đời sống
văn hóa tinh thần của người Việt trong quá khứ cũng như ở thời điểm hiện tại. Vì
vậy, nghiên cứu khía cạnh niềm tin của người Việt đối với tín ngưỡng TCTT là cần
thiết, có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ những lý do kể trên, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu:
“Niềm tin của người Việt đối với tín ngưỡng Thờ cúng Tổ tiên”.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận án nhằm làm rõ thực trạng niềm tin đối với tín ngưỡng Thờ cúng Tổ
tiên của người Việt. Trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị nhằm phát huy ảnh
hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của niềm tin này đến đời sống của cá
nhân và cộng đồng.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Hệ thống hóa các vấn đề lí luận liên quan đến vấn đề niềm tin đối với tín
ngưỡng Thờ cúng Tổ tiên của người Việt.

2


3.2. Tìm hiểu thực trạng niềm tin của người Việt đối với tín ngưỡng Thờ
cúng Tổ tiên.
3.3. Đề xuất một số biện pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế
ảnh hưởng tiêu cực của niềm tin đối với tín ngưỡng Thờ cúng Tổ tiên đến đời sống
của cá nhân, gia đình, cộng đồng và xã hội.

4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu
Niềm tin đối với tín ngưỡng Thờ cúng Tổ tiên của người Việt
4.2. Khách thể nghiên cứu
4.2.1. Khách thể nghiên cứu chính
Chúng tôi tiến hành khảo sát 304 người, phỏng vấn sâu 27 người, 03 nhóm
thảo luận với 24 người Việt đang sinh sống tại 3 tỉnh, thành (Bắc Ninh, Ninh Bình
và Hà Nội).
4.2.2. Khách thể nghiên cứu phụ
Chúng tôi cũng tiến hành khảo sát 55 cán bộ quản lý nhà nước trong lĩnh vực
văn hóa và tôn giáo, tín ngưỡng, 95 em học sinh lớp 6 trường phổ thông cơ sở
Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
5. Giới hạn nghiên cứu
5.1.Về nội dung nghiên cứu:
Tín ngưỡng TCTT phản ánh nhiều khía cạnh trong đời sống tâm lý của người
Việt. Tuy nhiên, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu khía cạnh niềm tin đối với tín
ngưỡng này. Đây là yếu tố trung tâm, có ý nghĩa quyết định nhất đến sự tồn tại lâu
dài và bền vững của tín ngưỡng TCTT trong cộng đồng người Việt suốt nhiều thế
kỷ qua cho đến ngày nay.
5.2.Về không gian nghiên cứu:
Chúng tôi nghiên cứu tại 3 tỉnh, thành thuộc đồng bằng Bắc Bộ gồm: Bắc
Ninh, Ninh Bình và Hà Nội. Đây là 3 tỉnh, thành phố có số người Việt chiếm đa số
trong cơ cấu dân số, cụ thể ở tỉnh Bắc Ninh người Việt chiếm tuyệt đại đa số
99,67%, ở tỉnh Ninh Bình chiếm 98%, ở thành phố Hà Nội chiếm 98,73%. Tại mỗi
tỉnh, thành chúng tôi cũng chỉ nghiên cứu khảo sát tại một xã, phường, thị trấn tiêu biểu.
5.3.Về thời gian nghiên cứu:

3



Đề tài luận án nghiên cứu tín ngưỡng TCTT trong quá khứ với mức độ nhất
định để làm rõ hiện tại, nhưng chủ yếu tập trung thời kỳ đổi mới từ năm 1990 đến
nay. Việc khảo sát để thực hiện đề tài sẽ tiến hành trong 3 năm, từ 2011-2013. Do
vậy, kết quả nghiên cứu sẽ phản ánh niềm tin tôn giáo của người dân trong khoảng
thời gian này.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1.Những nguyên tắc phương pháp luận nghiên cứu đề tài
6.1.1. Nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác Lênin.
6.1.2. Việc nghiên cứu đề tài luận án theo cách tiếp cận liên ngành (Tâm lý
học, Xã hội học, Tôn giáo học)
6.2.Các phương pháp nghiên cứu
(Trình bày chi tiết ở chương II)
Để thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng các nhóm phương pháp sau đây:
6.2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
6.2.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn, gồm:
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
- Phương pháp phỏng vấn sâu
- Phương pháp thảo luận nhóm tập trung
- Phương pháp chuyên gia
6.2.3. Các phương pháp phân tích kết quả nghiên cứu
- Phương pháp phân tích định tính
- Phương pháp phân tích định lượng
7. Giả thuyết khoa học
- Phần lớn người Việt hiện nay có niềm tin đối với tín ngưỡng TCTT, niềm
tin đó được biểu hiện trên ba mặt: nhận thức về tín ngưỡng TCTT, xúc cảm tình
cảm đối với tín ngưỡng TCTT và hành vi thực hành nghi lễ TCTT.

4



- Đối tượng của niềm tin đối với tín ngưỡng TCTT gồm: niềm tin đối với
linh hồn tổ tiên, niềm tin đối với thế giới khác và niềm tin vào các giá trị đạo đức
chứa đựng trong tín ngưỡng này.
- Niềm tin đối với các giá trị đạo đức của tín ngưỡng TCTT đang có xu
hướng giảm dần, một số giá trị đạo đức của tín ngưỡng TCTT đã được khẳng định
trong xã hội truyền thống bây giờ được ít người tin tưởng, trong khi niềm tin vào
linh hồn tổ tiên và niềm tin vào thế giới khác có phần nổi trội hơn. Điều này đã dẫn
đến những hành vi mang tính chất mê tín dị đoan như đốt vàng mã, gọi hồn, tìm mộ
bằng ngoại cảm…
8. Đóng góp mới của luận án
8.1- Về mặt lý luận
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về niềm tin đối với tín ngưỡng TCTT.
- Bổ sung một số khái niệm dưới góc độ Tâm lý học như khái niệm niềm tin,
tín ngưỡng Thờ cúng Tổ tiên, khái niệm niềm tin đối với tín ngưỡng Thờ cúng Tổ tiên.
8.2-Về mặt thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu thực tiễn của luận án đã chỉ ra thực trạng niềm tin của
người Việt đối với tín ngưỡng TCTT.
- Đề xuất những kiến nghị nhằm định hướng tuyên truyền, giáo dục niềm tin
đúng đắn cho người Việt, đồng thời góp phần giúp cơ quan quản lý nhà nước nhận
diện và xử lý các hiện tượng lợi dụng niềm tin của người Việt đối với tín ngưỡng TCTT.
9. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục các công trình đã công bố
của tác giả có liên quan đến đề tài nghiên cứu, danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 3 chương:
Chương 1: Cở sở lý luận nghiên cứu niềm tin đối với tín ngưỡng Thờ cúng
Tổ tiên
Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu về niềm tin của người Việt đối với tín

ngưỡng Thờ cúng Tổ tiên
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU NIỀM TIN ĐỐI VỚI TÍN
NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN
5


1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
1.1.1.1.Nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về vấn đề niềm tin đối với tín
ngưỡng, tôn giáo
Tín ngưỡng, tôn giáo là hiện tượng xã hội đặc biệt, xuất hiện rất sớm trong
lịch sử nhân loại với rất nhiều loại hình phong phú, đa dạng. Dù hình thức đơn sơ,
nguyên thủy hay đã hoàn chỉnh, hiện đại song yếu tố quyết định nhất cho sự tồn tại
và phát triển một tín ngưỡng, tôn giáo là niềm tin của tín đồ đối với tín ngưỡng, tôn
giáo ấy. Chính vì vậy, vấn đề niềm tin đối với tín ngưỡng, tôn giáo từ lâu đã là một
trong những vấn đề thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học xã hội và nhân văn
trên toàn thế giới, đặc biệt là các nhà thần học, nhà triết học, nhà tôn giáo học, nhà
xã hội học và các nhà tâm lý học…Tùy vào góc độ nghiên cứu, vấn đề niềm tin đối
với tín ngưỡng, tôn giáo được khai thác ở những khía cạnh khác nhau.
-Nghiên cứu niềm tin đối với tín ngưỡng, tôn giáo theo các quan điểm ngoài
tâm lý học
Các nhà thần học, nhất là các nhà thần học Kitô giáo đã viết nhiều công trình
về niềm tin đối với tôn giáo. Có thể kể đến các tác giả như Karl Barth (18891968), M.M.Tareev, R.Otto (1869-1937) đều cho rằng niềm tin của tín đồ đối với
Kitô giáo là niềm tin vào Chúa, tin vào sức mạnh vô biên của Chúa. Niềm tin đó bắt
nguồn từ sự tự ý thức về sự nhỏ bé, yếu ớt của bản thân và ý thức về sức mạnh của
lực lượng siêu nhiên [26, tr 52].Tương tự, những nhà thần học Tin Lành như
Martin Luther (1483-1546), John Calvin (1509-1564), …cũng cho rằng niềm tin
đối với đạo Tin Lành là niềm tin đối với Chúa Trời, tin vào Kinh Thánh.
Các nhà triết học duy vật phủ định hoàn toàn sự tồn tại của Thượng đế và các
lực lượng siêu nhiên khác. Ngay từ thời cổ đại, Democritus (460 - 370 TCN) đã

cho rằng sở dĩ con người tin vào thần thánh là vì con người đã bất lực trước những
hiện tượng khủng khiếp của tự nhiên. Vì con người sợ hãi trước sức mạnh của tự
nhiên nên họ đã tin vào lực lượng không tồn tại trong thực tế để tìm kiếm sự giúp
đỡ nhằm chế ngự nỗi sợ hãi này. Đến thế kỷ 17, nhà triết học duy vật Baruch

6


Spinoza (1632 - 1677) cũng có cùng quan điểm với Democritus cho rằng khi con
người rơi vào hoàn cảnh khó khăn, bế tắc, không tìm được cách giải quyết thì họ đã
tin vào lực lượng thần thánh đầy bí hiểm [26, tr 44-45]. Như vậy, theo quan điểm
của các nhà triết học duy vật, niềm tin đối với thần thánh hay đối với một tín
ngưỡng, tôn giáo nhất định không phải bắt nguồn từ Thượng đế, lực lượng siêu
nhiên thần thánh mà có nguồn gốc từ các trạng thái tâm lý của con người, đặc biệt
là nỗi sợ hãi.
Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác-Lênin gồm Karl Marx (1818-1883),
F.Engels (1820-1895), V.I.Lenin (1870-1924) không phủ nhận nguồn gốc tâm lý
của tôn giáo và không dưới một lần nhắc đến luận điểm “sự sợ hãi tạo ra thần linh”,
song các nhà kinh điển nhấn mạnh đối tượng gây nên sự sợ hãi là các hiện tượng xã
hội. Từ sự sợ hãi nảy sinh nhu cầu che chở, chế ngự, né tránh…để chống trả nỗi nợ
hãi một cách thụ động qua những hành vi tôn giáo. Tuy nhiên, không phải chỉ có
những tình cảm tiêu cực như sợ hãi, thất vọng, phụ thuộc…mới nảy sinh và nuôi
dưỡng niềm tin đối với tín ngưỡng, tôn giáo mà ngay cả những tình cảm tích cực
như là sự thỏa mãn, lòng biết ơn, lòng kính trọng…cũng khuyến khích niềm tin đối
với tôn giáo, tín ngưỡng. Tín ngưỡng Thờ cúng tổ tiên, thờ những người có công
với dân, với Tổ quốc không phải xuất phát từ sự sợ hãi mà là lòng biết ơn [53, tr 23-24].
Từ cách tiếp cận xã hội học, Max Weber (1864-1920) cho rằng niềm tin của
những tín đồ theo đạo Tin Lành là niềm tin vào Chúa Trời. Niềm tin vào Chúa Trời
phải được thể hiện ở niềm tin vào chính mình có đủ năng lực vượt qua những khó
khăn trong cuộc sống, nỗ lực không ngừng để có cuộc sống tốt hơn trong thế giới

hiện tại. Còn nhà xã hội học nổi tiếng người Pháp E.Durkhem (1858-1917) khi
định nghĩa về tôn giáo đã cho rằng tôn giáo là niềm tin của con người đối với các
thực thể tâm linh. “Gọi là thực thể tâm linh, cần hiểu rằng đó là những vật có ý
thức, có quyền lực cao hơn con người bình thường; sự đánh giá đó phù hợp với linh
hồn người chết, thần linh, ma quỉ cũng như với thượng đế” [35, tr 42]. Điều đáng
nói là Durkhem nhấn mạnh đến khía cạnh xã hội của tôn giáo, xem tôn giáo là một
biểu trưng của tập thể. Ông viết: “Thần của bộ tộc, nguyên lý vật tổ không thể là cái

7


gì khác ngoài bản thân bộ tộc nhưng đã được chuyển loại và hình dung trong tưởng
tượng dưới hình thức của những loài hữu tình như cây cỏ hay súc vật được dùng
làm vật tổ”. Durkhem còn khẳng định “không còn nghi ngờ gì nữa là một xã hội có
đủ khả năng để đánh thức trong ý thức của các thành viên một cảm giác về thần
thánh, chỉ duy nhất bằng tác động của nó lên họ; vì xã hội đối với thành viên cũng
giống như một vị chúa tể đối với các tín đồ” [35, tr 64]. Điểm gặp nhau giữa Max
Weber và E.Durkheim và các nhà xã hội học khác là ở chỗ nhấn mạnh đến vai trò
của xã hội đối với sự hình thành và nuôi dưỡng niềm tin đối với tôn giáo, tín ngưỡng
của con người.
Như vậy, qua một số các công trình nghiên cứu trên của các tác giả nước
ngoài đã đề cập đến vấn đề nguồn gốc hình thành niềm tin và biểu hiện của niềm tin
tôn giáo đối với tín ngưỡng, tôn giáo. Tuy vậy, niềm tin đối với tôn giáo nguyên
thủy, với tín ngưỡng dân gian ít được quan tâm nghiên cứu hơn.
-Nghiên cứu niềm tin đối với tín ngưỡng, tôn giáo theo quan điểm tâm lý học
Nghiên cứu tâm lý học tôn giáo nói chung và nghiên cứu vấn đề niềm tin đối
với tín ngưỡng, tôn giáo từ góc độ khoa học tâm lý học nói riêng là một vấn đề
tương đối mới mẻ, xuất hiện vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.
William James (1842-1910) được xem là người sáng lập nền tâm lý học
Mỹ, cũng là một trong những người góp phần đặt nền móng cho tâm lý học tôn giáo

qua tác phẩm Các loại kinh nghiệm tôn giáo (The Varieties of Religious
Experience- A study in Human nature) được xuất bản lần đầu tiên năm 1902. Qua
những dẫn chứng thực tế về kinh nghiệm tôn giáo của các cá nhân trong tác phẩm
này, William James bàn đến tôn giáo cá nhân, kinh nghiệm tôn giáo cá nhân và
niềm tin đối với tôn giáo của cá nhân. Theo James, niềm tin tôn giáo của cá nhân là
sự cảm nhận chân lý nguyên thủy mà tự mình cảm giác được, “loại niềm tin trực
giác phi lý trí này là thứ nằm ở tầng sâu trong con người chúng ta, luận chứng duy
lý chẳng qua chỉ là thứ hiển thị ở bên ngoài” [11, tr 115]. Nói cách khác, việc tự
mình trải qua kinh nghiệm tôn giáo là luận cứ vững chắc nhất củng cố niềm tin của
cá nhân đối với một tín ngưỡng, tôn giáo nào đó, hơn cả những luận cứ đã được

8


khoa học và chủ nghĩ duy lý chứng minh. Đối với những người đã trải qua kinh
nghiệm tôn giáo, cảm giác thực tại về đối tượng thờ phụng của tôn giáo rất chân
thực, đáng tin như bất kỳ kinh nghiệm cảm quan trực tiếp nào. “Đối với một tín đồ
tôn giáo mà nói, nếu anh ta lấy trực giác trầm mặc để phản đối những kết luận của
lý trí, quan điểm chủ nghĩa duy lý sẽ vô phương khiến cho họ tin phục và quy y, bởi
vì trực giác của họ đến từ tầng sâu của nhân tính, vượt ra ngoài phạm vi biện luận
mà chủ nghĩa duy lý chiếm hữu…họ có sẵn trong tâm trí cái chủ định: cái mà ta tin
nhất định chân thực hơn bất cứ một lý lẽ đanh thép nào của chủ nghĩa duy lý” [11, tr
113].
Simund Frued (1856-1939) là người sáng lập ngành Phân tâm học, cũng
được xem là một trong những người khai phá mảnh đất Tâm lý học tôn giáo. Trong
nghiên cứu Tâm lý học tôn giáo, sự quan tâm của Frued chủ yếu tập trung vào
nguồn gốc tâm lý của hiện tượng tôn giáo bằng phương pháp phân tích tinh thần.
Trên cơ sở phân tích đời sống nội tâm của con người, Frued đã phủ nhận vai
trò của ý thức, cho rằng ý thức không phải là động lực thúc đẩy và chi phối toàn bộ
hoạt động của con người mà là “libido” (cái mà sinh ra con người đã có). Libido

-ban đầu được Frued sử dụng để chỉ bản năng tính dục, nhưng sau ông coi là năng
lượng bản năng của toàn bộ sự sống, đem lại nguồn năng lượng cơ bản cho mọi
phương thức hoạt động sống của con người. Libido trong đời sống tâm lý của con
người hoạt động theo nguyên tắc thỏa mãn, luôn cố gắng để thực hiện những ham
muốn, nhu cầu, khát vọng của mình và né tránh khổ đau. Những ham muốn, nhu
cầu, khát vọng xuất hiện một khi được thỏa mãn sẽ tạo ra khoái cảm ở mức cao
nhất, làm dịu đi những lo âu, phiền muộn, căng thẳng. Mặt khác, theo Frued nguyên
tắc thỏa mãn được hiểu là một lối sống bằng cách đáp ứng nhu cầu của cơ thể, chịu
sự chi phối của nhu cầu cơ thể (bản năng sinh học) nên nó thường dẫn con người
đến những hành động thiếu suy nghĩ. Lối sống này nếu được phổ biến rộng rãi, nó
sẽ dẫn đến cuộc chiến mang tính chất thú vật giữa con người và con người và kết
cục là cái chết theo đúng nghĩa đen của từ này. Vì vậy, để có thể cùng tồn tại trong
cộng đồng, con người cần phải hạn chế bớt một số nhu cầu và chấp nhận lẫn nhau.

9


Và để hạn chế nhu cầu, con người cần phải có khả năng điều tiết những nhu cầu đó
bằng ý thức [78, tr 24]. Như vậy, tồn tại song song với nguyên tắc thỏa mãn là
nguyên tắc tính thực tại. Nguyên tắc này buộc con người phải thích ứng với điều
kiện thực tế bên ngoài nên thường không đáp ứng tức thời những đòi hỏi, khát khao
của bản năng sinh học bằng lý trí, ý thức. Lý trí của con người có thể trì hoãn sự
hưởng thụ khoái cảm để rồi đền bù nó trong tương lai, hoặc giải tỏa nó qua những
giấc mơ, sự thăng hoa trong nghệ thuật hoặc niềm tin đối với tín ngưỡng, tôn giáo.
Trong tác phẩm Vật tổ và Cấm kỵ - đóng góp chính của Frued đối với Tâm lý
học tôn giáo, Frued đã phân tích trường hợp Tôtem giáo và những cấm kỵ xung
quanh động vật tôtem nhằm chứng minh quan điểm của ông rằng chính niềm tin đối
với tôtem có nguồn gốc từ xung đột nội tâm của con người, mà cụ thể là xung đột
giữa bản năng sinh học mang tính vô thức và ý thức của con người và là kết quả của
việc ý thức cố gắng hạn chế, kìm hãm sự thỏa mãn khát vọng bản năng.

Carl Gustav Jung (1875-1961) là người kế thừa và phát triển Phân tâm học
(còn gọi là Tâm lý học tầng sâu), là người thúc đẩy Phân tâm học và tâm lý học tôn
giáo phát triển lên một giai đoạn mới bằng cách phê bình một số quan điểm của
Frued và có nhiều sáng tạo mới. Phát hiện của Jung về vô thức tập thể là đóng góp
quan trọng nhất của ông đối với tâm lý học tôn giáo. Qua việc nghiên cứu mối quan
hệ giữa thần thoại, tôn giáo Phương Đông với hiện tượng vô thức, Jung cho rằng thế
giới vô thức của con người chia là hai loại: vô thức cá nhân và vô thức tập thể. Theo
ông, vô thức cá nhân do các kinh nghiệm cá nhân bị lãng quên hoặc bị áp chế mà
thành, còn vô thức tập thể do di truyền lại trong kết cấu não người. Liên tưởng thần
thoại chủng tộc hoặc ý tưởng thần bí chủng tộc là những mô hình nguyên thủy của
vô thức tập thể mà thần hay Thượng đế là những phương thức biểu đạt cơ bản nhất.
Trong quá trình phát triển nhân cách (Jung gọi là quá trình cá tính hóa), kinh
nghiệm trực tiếp của tín đồ đối với những cái thần bí mang lại cho con người những
cảm thụ phức tạp, chẳng hạn như cảm giác thần bí, cảm giác tôn sùng, cảm giác
hoàn mỹ, cảm giác trông cậy, cảm giác siêu việt…khiến cho con người đặt niềm tin
đối với tôn giáo.

10


Có thể nhận thấy, dù có quan điểm tương đối mới mẻ so với người thầy
Freud, nhưng suy cho cùng Jung vẫn khẳng định niềm tin đối với tín ngưỡng, tôn
giáo có nguồn gốc bản năng, di truyền, vô thức. Nó vốn tiềm ẩn trong thế giới nội
tâm của mỗi cá nhân và dần được hé lộ trong quá trình trưởng thành về mặt nhân cách.
Nhà Tâm lý học người Mỹ James H.Leuba (1867-1946), tác giả của những
tác phẩm nổi tiếng về Tâm lý học tôn giáo những năm đầu thế kỷ 20, đặc biệt quan
tâm đến hai khía cạnh của niềm tin đối với tôn giáo, đó là: niềm tin đối với thánh
thần và niềm tin vào sự bất tử. Trong cuốn Niềm tin đối với Chúa và sự bất tử (The
belief in god and immortality) [101]. Leuba tập trung tìm hiểm nguồn gốc và đặc
trưng của hai loại niềm tin này. Thông qua các tài liệu nhân học, lịch sử Leuba cho

rằng niềm tin vào thánh thần, vào linh hồn người chết, sự tồn tại sau cái chết và sự
bất tử đã xuất hiện từ thời nguyên thủy và niềm tin này vẫn tiếp tục tồn tại cho đến
thời hiện đại. Bằng kết quả nghiên cứu điều tra ở nhóm sinh viên các trường cao
đẳng và các nhà khoa học Mỹ, Leuba đã khẳng định niềm tin vào thánh thần và sự
bất tử không chỉ tồn tại ở những con người ngu muội mà còn có ở những người có
học thức, có trình độ nhận thức cao trong xã hội. Leuba cũng cho rằng niềm tin vào
thánh thần và sự bất tử có nguồn gốc xã hội, xuất phát từ nhu cầu giải thích những
bí ẩn trong cuộc sống và vì lợi ích mà những niềm tin này mang lại cho con người.
Từ góc độ tâm lý học xã hội, Benjamin Beit và Michael Argyle – tác giả
cuốn Tâm lý học về hành vi tôn giáo, niềm tin tôn giáo và kinh nghiệm tôn giáo [98]
đã đi sâu phân tích ảnh hưởng của niềm tin tôn giáo ở hai cấp độ: cấp độ cá nhân và
cấp độ xã hội; lý giải sự thay đổi niềm tin tôn giáo của con người qua những hiện
tượng như cải đạo, bỏ đạo hoặc chuyển đạo.
Trong tác phẩm Giới thiệu Tâm lý học và tôn giáo, Michael Argule khẳng
định niềm tin tôn giáo là vấn đề trung tâm của mọi tôn giáo và là yếu tố xác định
một cá nhân có là tín đồ tôn giáo hay không. Tuy không đưa ra một định nghĩa cụ
thể về niềm tin tôn giáo, song ông tập trung phân tích các biểu hiện của niềm tin tôn
giáo thông qua các nghiên cứu khảo sát của bản thân và các nhà khoa học khác về
niềm tin tôn giáo đối với Chính thống giáo và đạo Tin Lành ở Mỹ và Anh. Theo

11


Michael Argule, biểu hiện niềm tin tôn giáo là niềm tin vào Chúa Trời, niềm tin vào
cuộc sống sau khi chết, niềm tin vào Kinh Thánh và niềm tin vào bản chất của con
người. Ông còn đưa ra một đặc điểm nổi bật của niềm tin tôn giáo, đó là tính phi
logic, ông viết: “niềm tin tôn giáo không theo logic giống như trong khoa học về thế
giới …”. Niềm tin tôn giáo là niềm tin không thể chứng minh. Niềm tin tôn giáo
được xác định như thế nào? Rõ ràng là không thể bằng các phương pháp mà các nhà
khoa học thường dùng, nhưng người ta phải có một vài cách xác định chúng. Một

trong những cách đó dường như là thông qua kinh nghiệm [97]. Cùng quan điểm
này, một học giả khác là Witgensteint cho rằng việc cố gắng chứng minh niềm tin
tôn giáo sẽ không đem lại hiệu quả vì những chứng cứ được đưa ra thường thiếu và
không đủ rõ ràng . Cũng trong tác phẩm này, Michael Argule đưa ra cấu trúc tâm lý
của niềm tin, gồm có 3 yếu tố: nhận thức, xúc cảm và hành vi.
Có thể nhận thấy, các nghiên cứu niềm tin đối với tín ngưỡng, tôn giáo trên
góc độ tâm lý học đã đi sâu phân tích nguồn gốc tâm lý của loại niềm tin này. Trải
nghiệm về những điều thần bí của cá nhân, bản năng vô thức và ý thức về lợi ích
của tôn giáo là những yếu tố tâm lý được các nhà khoa học xem là nguồn gốc dẫn
đến sự hình thành niềm tin đối với tín ngưỡng, tôn giáo. Ngoài ra, một số nhà khoa
học cũng đã chỉ ra được một số đặc điểm đặc thù của niềm tin đối với tín ngưỡng,
tôn giáo như là: tính phi logic, tính phi khoa học…Đây là những nghiên cứu rất có
giá trị đối với khoa học tâm lý học tôn giáo nói chung, và là những gợi ý quý giá
đối với chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài luận án.
1.1.1.2.Nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về tín ngưỡng Thờ cúng Tổ tiên
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, thờ cúng tổ tiên (TCTT) là
hiện tượng phổ biến. Đến nay, TCTT vẫn còn tồn tại ở nhiều quốc gia, dân tộc. Tuy
vậy, vị trí và vai trò của nó trong đời sống tinh thần của con người ở mỗi nơi mỗi
khác. Ở các quốc gia đưa một tôn giáo thành độc tôn, nhất thần thì TCTT có vai trò
mờ nhạt trong đời sống tinh thần của cá nhân và cộng đồng. Nhưng ở những quốc
gia đa, phiếm thần như ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam…thì TCTT
có vai trò quan trọng, nó tác động không nhỏ tới đời sống tinh thần của toàn xã hội.

12


Tuy nhiên, TCTT ở mỗi quốc gia, dân tộc cũng có những đặc thù riêng, nó phản
ánh nhận thức, nhu cầu, nguyện vọng, niềm tin…của con người ở mỗi nước. Tìm
hiểu TCTT ở mỗi quốc gia, dân tộc này là một trong những cách tiếp cận con người
hiệu quả. Do vậy, đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu TCTT ở các nước khác

nhau, như: Robert John Smith, Peter Knecht nghiên cứu về TCTT ở Nhật Bản,
nghiên cứu TCTT ở Hà Quốc có Roger L. Janelli và Dawnhee Yim Janelli, nghiên
cứu TCTT ở Trung quốc có Trịnh Hiểu Vân, Trương Trấn Vỹ, Phan Kỳ Húc, An
Đức Minh [45].
Tín ngưỡng TCTT ở nước ta có đặc trưng riêng và rất điển hình về nhiều
phương diện, khiến cho TCTT ở Việt Nam là đề tài nghiên cứu không chỉ hấp dẫn
với người trong nước mà còn thu hút được các học giả nước ngoài, trong số ấy, phải
kể đến linh mục Cadière. Ông đã nghiên cứu một cách tỉ mỉ và sâu sắc về TCTT
bằng nhãn quang khoa học chứ không phải bằng nhãn quan của một nhà truyền
giáo. Cuốn sách Văn hoá tín ngưỡng gia đình Việt Nam qua nhãn quan học giả
L.Cadière do Đỗ Trinh Huệ biên khảo là tập hợp các nghiên cứu của L.Cadière về
tín ngưỡng, văn hóa Việt Nam, đặc biệt là tín ngưỡng TCTT sâu sắc và chi tiết.
Cadière xem TCTT là một hiện tượng văn hóa thể hiện “cái hồn” của dân tộc Việt
Nam cần được bảo tồn, gìn giữ. Với khả năng quan sát sắc bén mà Cadière đã mô tả
chi tiết, rõ rệt về niềm tin của người Việt trong việc TCTT cũng như các nghi lễ
TCTT [37].
Shin Chi Yong (người Hàn Quốc) đã khái quát về văn hóa và gia đình của
người Việt Nam sinh sống tại Hà Nội và những vùng phụ cận, trong đó chú trọng
nghiên cứu sự hòa đồng như một đặc điểm độc đáo, thể hiện bản sắc của người Việt
trong việc TCTT [96]
Kate Jellema (đại học Michigan – Mỹ) nghiên cứu tục TCTT của người dân
sống ở vùng châu thổ Sông Hồng trong thời kỳ Đổi mới qua việc nghiên cứu 2
trường hợp điển hình ở làng Đình Bảng tỉnh Bắc Ninh. Tác giả đã làm sáng tỏ quan
niệm, niềm tin của cư dân Bắc Bộ hiện nay về việc TCTT và cách thể hiện niềm tin
của họ. Với những tư liệu có được trong 2 năm thực tế tại Việt Nam, tác giả đã

13


khẳng định rằng tổ tiên đã chết song có ý nghĩa quan trọng trong đời sống của

người dân Việt Nam hiện nay. Đối với cá nhân, TCTT giúp cá nhân thỏa mãn nhu
cầu tâm linh, tiếp tục mối quan hệ giữa người sống và người đã chết. Còn với cộng
đồng, TCTT góp phần củng cố mối quan hệ xã hội giữa các thành viên trong gia
đình, họ tộc [13].
Trong cuộc hội thảo quốc tế về TCTT diễn ra tại Đền Hùng, thành phố Việt
Trì tỉnh Phú Thọ tháng 3/2011 có khá nhiều tham luận về tín ngưỡng TCTT ở Việt
Nam. Có thể kể đến một số nhà nghiên cứu như giáo sư đại học sư phạm Đài Bắc
(Đài Loan) Chung Tông Hiến nghiên cứu về hiện tượng người Việt Nam đưa tổ
tiên Hùng Vương về tận Viêm Đế, Vương Tam Khánh (Đài Loan) có bài Nghiên
cứu TCTT của Việt Nam qua các văn bia chữ Hán, Triệu Minh Long (Trung Quốc)
có bài nghiên cứu so sánh TCTT của nhân dân hai nước Trung - Việt, …[45]. Qua
cuộc hội thảo quốc này cho thấy TCTT đang trở thành một hiện tượng được các nhà
khoa học từ khắp nơi trên thế giới quan tâm. Tuy nhiên, những tác phẩm này và
những bài tham luận trong cuộc hội thảo phần lớn đứng trên góc độ Văn hóa học,
Dân tộc học, Nhân học, Lịch sử…rất ít các tham luận, tác phẩm nghiên cứu về tín
ngưỡng TCTT của các nhà tâm lý học. Điều này chứng tỏ rằng các nhà tâm lý học
trên thế giới cũng như ở Việt Nam chưa quan tâm đúng mức đến TCTT. Chúng tôi
cho rằng, muốn tìm hiểu đời sống tâm linh, tinh thần của người Việt Nam thì cần
chú ý nghiên cứu những yếu tố tâm lý ẩn chứa trong tín ngưỡng TCTT chứ không
chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu đặc điểm, biểu hiện hay vai trò của nó trong đời sống
xã hội.
1.1.2. Nghiên cứu của các tác giả trong nước
1.1.2.1.Nghiên cứu của các tác giả trong nước về vấn đề niềm tin đối với tín
ngưỡng, tôn giáo
-Nghiên cứu niềm tin đối với tín ngưỡng, tôn giáo theo các quan điểm ngoài
tâm lý học
Đứng ở góc độ thần học Kitô giáo, Nguyễn Sinh đã sử dụng những kiến
thức khoa học hiện đại để luận giải những vấn đề thuộc đức tin Kitô. Tác giả viện
dẫn nhiều chứng cứ khoa học để chứng minh Chúa tồn tại và niềm tin đối với Chúa


14


là niềm tin đúng đắn. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có rất nhiều người (gồm cả người
có học thức và không có học thức) không có niềm tin đối với Chúa, không tin đạo
Kitô. Theo tác giả, lý do duy nhất khiến người ta không tin Chúa, không có niềm tin
đối với đạo là vì họ không muốn tin [69].
Trong cuốn Niềm tin và hy vọng, tác giả Lý Minh Tuấn đã đề cập đến niềm
tin của con người đối với một số tín ngưỡng như niềm tin đối với tín ngưỡng thành
hoàng, tín ngưỡng TCTT, tín ngưỡng thờ thánh sư…và niềm tin đối với một số tôn
giáo như niềm tin trong đạo Công giáo, niềm tin trong Đạo giáo, Lão giáo, Phật
giáo....Tuy nhiên, do những vấn đề này được trình bày một cách dàn trải và sơ lược
nên kém sâu sắc, chỉ mang tính gợi mở [86].
Đặng Nghiêm Vạn là một trong số ít nhà nghiên cứu trong nước quan tâm
nghiên cứu niềm tin đối với tôn giáo ở góc độ tôn giáo học. Nghiên cứu về niềm tin
đối với tôn giáo, tín ngưỡng của ông được thể hiện qua hai tác phẩm: Về tôn giáo
tín ngưỡng Việt Nam hiện nay và Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt
Nam. Đây là kết quả của hai đợt khảo sát về tình hình đời sống tôn giáo ở Việt Nam
giai đoạn 1992 đến 1994 và giai đoạn 1995 đến 1998. Đối tượng được nghiên cứu
chủ yếu là người dân tin theo Kitô giáo và những người tin theo các tín ngưỡng tôn
giáo khác nhau mà theo tác giả “đặc điểm nổi bật của nó là vắng bóng niềm tin vào
Đấng Sáng thế như Kitô giáo” [88, tr 224].
Trong cuốn sách Về tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện nay trình bày kết quả
nghiên cứu khảo sát đợt 1, tác giả nhận xét về niềm tin đối với đạo Công giáo của
giáo dân là “bộc lộ niềm tin không sâu sắc và sự hiểu biết về giáo lý không chặt
chẽ” [88, tr 77]. Họ thường trả lời các câu hỏi của nhóm nghiên cứu theo cách suy
diễn thông thường của tín ngưỡng TCTT và các tôn giáo, tín ngưỡng khác. Phần lớn
tín đồ Công giáo được hỏi và phỏng vấn vẫn TCTT, có niềm tin đối với tín ngưỡng
TCTT và một tỉ lệ không nhỏ giáo dân Công giáo tin vào những điều gắn với truyền
thống, tâm linh người Việt song xa lạ với đạo Công giáo như vấn đề việc xem ngày

giờ khi làm một việc hệ trọng, tin vào số mệnh (chứ không phải do Chúa an bài), tin
vào bói toán, tướng số, hầu bóng, tử vi, tin vào ngoại cảm… Về những người không

15


theo Kitô giáo, Đặng Nghiêm Vạn nhận xét: “tâm linh tôn giáo của bộ phận không
Kitô giáo là bàng bạc” [88, tr 87]. Đợt nghiên cứu lần hai, tác giả cũng đưa ra nhận
xét tương tự: “Có thể xem đức tin của họ là bàng bạc, là dàn trải sự hiểu biết về
những điều mình tin theo” [89, tr 247].
Vẫn tập trung vào những vấn đề đã được nghiên cứu về niềm tin đối với các
tín ngưỡng tôn giáo của hai đối tượng trên, kết quả điều tra khảo sát lần hai (được
trình bày trong tác phẩm Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam) tác
giả cho rằng biểu hiện niềm tin đối với tôn giáo tín ngưỡng của người Việt Nam
dường như có mức độ đậm, nhạt khác nhau. Giáo dân Kitô giáo đặt niềm tin cả vào
đạo chính và đạo Tổ tiên, còn bộ phận người dân không tin theo Kitô giáo lại dàn
trải niềm tin vào các tôn giáo khác nhau, “niềm tin của họ quyện vào những lời dạy
một cách bình dân những lời của các nhà sáng lập ra các tôn giáo như Phật, Nho,
Đạo, cũng như những lời dạy của tổ tiên truyền lại. Niềm tin đó lại được thể hiện và
củng cố bằng những hành vi các tôn giáo khác nhau” [89, tr 244]. Dù vậy, theo tác
giả, mối quan tâm hàng đầu của bộ phận không Kitô giáo vẫn là đạo Tổ tiên, ngoài
ra họ còn thờ Phật, thờ Mẫu, thờ thần tài, thổ địa, tổ sư các ngành nghề…
Một số tác giả như Vương Duy Quang, Phan Viết Phong nghiên cứu thực
trạng niềm tin đối với đạo Tin Lành. Hoàng Minh Đô nghiên cứu niềm tin đối với
đạo Tin Lành ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Tháp. Viện nghiên cứu
tôn giáo nghiên cứu thực trạng niềm tin đối với đạo Công giáo ở một số tỉnh miền
Bắc, Huế và thành phố Hồ Chí Minh.
Vậy, các nghiên cứu niềm tin đối với tín ngưỡng, tôn giáo theo các quan
điểm ngoài tâm lý học chủ yếu mô tả thực trạng niềm tin của người dân đối với đạo
Kitô. Một số ít tác phẩm có đề cập đến niềm tin đối với các tôn giáo, tín ngưỡng

khác nhưng vẫn còn sơ lược. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu ở trên chưa
trình bày một cách có hệ thống về lý luận niềm tin đối với tín ngưỡng, tôn giáo và
chưa nghiên cứu thực trạng niềm tin của người dân đối với tín ngưỡng TCTT.
-Nghiên cứu niềm tin đối với tín ngưỡng, tôn giáo theo quan điểm tâm lý học

16


Từ góc độ Tâm lý học, về mặt lý luận mới chỉ có một tác phẩm duy nhất bàn
về niềm tin tôn giáo là cuốn sách Tâm lý học tôn giáo của tác giả Vũ Dũng [17].
Tác phẩm này đã nêu ra những đặc điểm đặc trưng của niềm tin tôn giáo. Ngoài ra,
Vũ Dũng cũng nghiên cứu thực tiễn về đặc điểm niềm tin đối với Phật giáo và Kitô
giáo của người dân ở thành phố Hà Nội. Kết quả nghiên cứu thực tiễn của ông đã
chỉ ra rằng niềm tin tôn giáo không chỉ có ở những tín đồ của các tôn giáo cụ thể mà
còn tồn tại ở cả những người không theo tôn giáo nào cả. Sau đó, trong khuôn khổ
của Dự án điều tra cơ bản cấp Nhà nước "Những yếu tố tâm lý dân tộc ảnh hưởng
đến sự ổn định và phát triển ở Tây Nguyên hiện nay"(2004) [17] và đề tài độc lập
cấp Nhà nước "Những đặc điểm tâm lý cơ bản của cộng đồng người Tây Nguyên,
Tây Nam Bộ và ảnh hưởng của chúng đến sự phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực
này"(2005) [18]. Vũ Dũng đã phân tích một số hành vi tôn giáo phản ánh niềm tin
của tín đồ đối với đạo Tin Lành.
Vương Thị Kim Oanh nghiên cứu niềm tin đối với đạo Tin Lành của tín đồ
người dân tộc thiểu số ở Gia Lai (2006). Theo tác giả, niềm tin đối với đạo Tin
Lành thể hiện ở niềm tin đối với Đức Chúa Trời, đối với thế giới khác và con người.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tác giả kết luận tuyệt đại đa số tín đồ người dân tộc
thiểu số ở Gia Lai có niềm tin đối với đạo Tin Lành, tuy nhiên niềm tin của họ
không thực sự sâu sắc [63].
Phạm Văn Quyết nghiên cứu ảnh hưởng của niềm tin đối với Thiên chúa
giáo của giáo dân xã Xuân Ngọc thuộc giáo xứ Bùi Chu đến hành vi sinh sản. Kết
quả nghiên cứu cho thấy giáo dân có niềm tin tôn giáo cao hơn thì ít tích cực đi thực

hiện kế hoạch hóa gia đình, quan niệm về số con cần có trong các gia đình Thiên
Chúa giáo phụ thuộc vào mức độ niềm tin tôn giáo của họ [64].
Lê Minh Thiện cho rằng niềm tin đối với Công giáo là sự tin tưởng của bản
thân mỗi người vào Chúa, tin vào lời dạy của Chúa, tin vào Kinh Thánh, tin vào
giáo lý. “Niềm tin này được thể hiện ở sự tin tưởng vào chính tôn giáo mà họ đang
theo” [76].

17


Nguyễn Hồi Loan có bài nghiên cứu về Niềm tin về đạo Phật của sinh viên
trường đại học khoa học xã hội và nhân văn [56]. Tác giả cho rằng niềm tin đối với
đạo Phật thể hiện qua nhận thức của sinh viên về đạo Phật, về sự tồn tại của Phật,
Cõi niết bàn, Địa ngục và qua hành vi thực hành nghi lễ đạo Phật, đặc biệt là hành
vi đi lễ chùa. Nguyễn Hồi Loan cũng nghiên cứu niềm tin trong tín ngưỡng TCTT
của người Việt ở huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Niềm tin này thể hiện ở sự nhận
thức của người dân về tầm quan trọng của tín ngưỡng TCTT trong đời sống tinh
thần của gia đình, ở quan niệm của người dân về sự tồn tại của tổ tiên, ở nội dung
cầu khấn của người dân [57].
Có thể nói, từ góc độ khoa học tâm lý bước đầu đã có những nghiên cứu về
niềm tin đối với tín ngưỡng, tôn giáo. Qua các công trình nghiên cứu kể trên đã góp
phần khắc họa đặc trưng của loại niềm tin này, các biểu hiện của nó qua hành vi cả
con người. Đây là những gợi ý có ý nghĩa cho chúng tôi trong quá trình hệ thống
hóa và để xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài luận án.
1.1.2.2. Nghiên cứu của các tác giả trong nước về tín ngưỡng Thờ cúng Tổ tiên
Đào Duy Anh quan niệm TCTT là một tín ngưỡng thể hiện lòng tin, sự sùng
bái của con người đối với linh hồn và tin vào mối quan hệ khăng khít giữa người
sống và linh hồn của người thân đã chết. Trong cuốn Việt Nam văn hóa sử cương,
Đào Duy Anh viết: “Mỗi khi gia đình có điều vui, điều buồn, điều mừng, điều sợ thì
linh hồn tổ tiên thường cũng dự một phần. Con cháu làm ăn tổ tiên thường phù hộ,

khi có việc gì nguy hiểm sắp tới, tổ tiên thường báo mộng để con cháu tìm cách mà
đề phòng. Bởi đối với gia đình, linh hồn tổ tiên có quan hệ mật thiết như thế, nên
con cháu phải cúng cấp tổ tiên” [1, tr 207].
Phan Kế Bính trong Việt Nam phong tục xem TCTT là phong tục cổ truyền
“xét cái tục phụng sự tổ tiên của ta rất là thành kính, ấy cũng là một lòng bất vong
bản, cũng là một việc nghĩa vụ của người. Nhưng cũng nên biết rằng sự cúng cấp là
để tỏ cái lòng thành kính, chứ không phải để mà phụng dưỡng tổ tiên, thì dùng cách
nào cho ngụ được cái lòng ấy cũng đủ” [9, tr 25-26].
Toan Ánh thì coi TCTT là một luật tục. Mặc dù mô tả rất kỹ những nghi
thức cầu cúng lễ bái thể hiện quan niệm của người Việt Nam đối với thế giới vô

18


hình, đối với linh hồn người chết, nhưng Toán Anh vẫn một mực khẳng định: “Việc
thờ cúng ấy không phải là một tôn giáo mà là một luật tục” [2, tr 5] “TCTT do lòng
thành kính và biết ơn của con cháu đối với cha mẹ, ông bà, cụ kỵ đã khuất mà thôi”
[2, tr 19].
Mai Thanh Hải đề cập đến rất nhiều vấn đề xung quanh nghi lễ TCTT như
cách lập bàn thờ, cách cúng lễ, săn sóc phần mộ tổ tiên … trong cuốn TCTT nên
như thế nào [33]. Tân Việt [96] và Diệu Bình [7] giới thiệu cho người đọc những
bài văn khấn TCTT theo phong tục cổ truyền trong tất cả các dịp lễ tiết trong năm.
Minh Đường hướng dẫn người đọc cách thiết lập, bài trí bàn thờ gia tiên [27]
Phước Thuận [80] và Từ Liêm [48] trình bày những nghi lễ cơ bản trong tang chế
của người Việt.
Bên cạnh những tác phẩm kể trên, người ta còn nghiên cứu TCTT qua các đề
tài nghiên cứu khoa học, luận án, luận văn, chuyên khảo…
Từ góc độ triết học, luận án tiến sĩ Những khía cạnh triết học trong tín
ngưỡng TCTT của người Việt đồng bằng Bắc Bộ hiện nay, Trần Đăng Sinh tìm hiểu
quan điểm nhân sinh quan và thế giới quan của người Việt trong tín ngưỡng TCTT [71].

Từ góc độ nghiên cứu Tôn giáo học, chuyên đề Vấn đề TCTT của người
Công giáo đồng bằng Bắc Bộ - Việt Nam được thực hiện bởi nhà nghiên cứu Lê
Đức Hạnh mô tả chi tiết quan niệm của người Công giáo xứ đạo Tử Nê, tỉnh Bắc
Ninh về việc TCTT và các nghi lễ TCTT của họ [40].
Ngoài ra còn những bài viết liên quan đến tín ngưỡng Thờ cúng Tổ đã được
công bố trên các tạp chí khoa học, như: Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Tạp chí Công
tác Tôn giáo, Tạp chí Dân vận, Tạp chí Mặt trận, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, Tạp
chí Triết học, Tạp chí Dân tộc học, Tạp chí Tâm lý học … của các tác giả: Nguyễn
Tài Thư, Nguyễn Hữu Vui, Nguyễn Đức Lữ, Ngô Đức Thịnh, Nguyễn Hồi
Loan...Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau về tín
ngưỡng, tôn giáo nói chung và tín ngưỡng TCTT của người Việt nói riêng.
Nhận xét chung về các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước

19


×