Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Tìm hiểu đặc điểm nhu cầu nhận thức của sinh viên trường đại học tây bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (803.21 KB, 63 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..........................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................................2
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu .........................................................................2
4. Giả thuyết khoa học ..................................................................................................2
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................................3
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài ..................................................................3
7. Phương pháp nghiên cứu .........................................................................................3
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ NHU CẦU, NHU CẦU NHẬN
THỨC CỦA SINH VIÊN ...............................................................................................5
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.....................................................................................5
1.1.1. Nghiên cứu ở nước ngoài...............................................................................5
1.1.2. Nghiên cứu ở Việt Nam ................................................................................11
1.2. Một số vấn đề lí luận về nhu cầu nhận thức .......................................................12
1.2.1. Khái niệm về nhu cầu nhận thức .................................................................12
1.2.1.1. Khái niệm về nhu cầu ...........................................................................12
1.2.1.2. Khái niệm về nhận thức ........................................................................14
1.2.2. Các đặc điểm của nhu cầu nhận thức..........................................................17
1.3. Nhu cầu nhận thức của sinh viên sư phạm .........................................................20
1.3.1. Khái quát về sinh viên ..................................................................................20
1.3.2. Khái niệm “sinh viên sư phạm” ..................................................................22
1.3.3. Nhu cầu nhận thức của sinh viên sư phạm ..................................................24
1.4. Một số yếu tố tác động đến NCNT của sinh viên sư phạm .................................26
1.4.1. Những yếu tố khách quan ............................................................................26
1.4.2. Những yếu tố chủ quan ................................................................................27
Chƣơng 2: TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.................................29
2.1. Vài nét về địa bàn và khách thể nghiên cứu .......................................................29
2.1.1. Về địa bàn nghiên cứu .................................................................................29
2.1.2. Về khách thể nghiên cứu ..............................................................................29
2.2. Tổ chức nghiên cứu .............................................................................................30


2.3. Nhóm các phương pháp nghiên cứu ...................................................................30
2.3.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu tài liệu lí luận, văn bản............................30
2.3.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn ...................................................31


Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU NHU CẦU NHẬN THỨC CỦA SINH
VIÊN SƢ PHẠM TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC ..................................................34
3.1. Thực trạng nhu cầu nhận thức của sinh viên......................................................34
3.1.1. NCNT của sinh viên và phương thức thỏa mãn NCNT ...............................34
3.1.1.1. Nhu cầu nhận thức của sinh viên .........................................................34
3.1.1.2. Nhận thức của sinh viên về phương thức thỏa mãn nhu cầu...............41
3.1.2. Thực trạng nhu cầu nhận thức của sinh viên biểu hiện ở mặt thái độ .......44
3.1.3. Thực trạng nhu cầu nhận thức của sinh viên biểu hiện ở mặt hành động..47
3.1.4. Nguyên nhân ảnh hưởng đến NCNT của sinh viên .....................................48
3.2. Đặc điểm NCNT của sinh viên sư phạm Trường Đại học Tây Bắc ...................53
3.2.1. NCNT của SV sư phạm Trường ĐHTB có tính chuyên nghiệp rõ rệt.........53
3.2.2. NCNT của sinh viên SP Trường ĐHTB có tính chuyên môn ......................54
3.2.3. NCNT của sinh viên sư phạm Trường ĐHTB có tính sư phạm ..................55
3.2.4. Đối tượng NCNT của SVSP Trường ĐHTB có nội dung phong phú, đa
dạng ........................................................................................................................56
3.2.5. Phương thức thỏa mãn NCNT của SVSP Trường ĐHTB có những nét đặc
thù ...........................................................................................................................57
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ......................................................................................59
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong mỗi con người, nhu cầu là vô hạn. Để thỏa mãn nhu cầu, con người

phải tiến hành hoạt động. Nhu cầu này được thỏa mãn thì nhu cầu khác lại xuất
hiện. Khi xã hội phát triển, quá trình hội nhập trở thành xu thế chung của toàn
nhân loại, mỗi cá nhân đang được cổ vũ, khích lệ, có cơ hội phát huy hết tài
năng, trí tuệ của mình để làm việc đạt hiệu quả cao. Xã hội càng phát triển nhu
cầu của con người cũng ngày càng tăng lên. Trong mỗi con người người luôn
luôn tồn tại cả hai dạng nhu cầu: nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần.
Nhu cầu nhận thức là một trong những nhu cầu tinh thần đặc trưng của con
người. Đó là những đòi hỏi, mong muốn, khát khao bù đắp sự thiếu hụt một cái
gì đó trong lĩnh vực nhận thức. Nhu cầu nhận thức là nhu cầu về tri thức, nhu
cầu hiểu biết, nhu cầu về thông tin có liên quan đến sự tồn tại và phát triển của
con người. Sự thỏa mãn nhu cầu này có ý nghĩa to lớn đối với đòi sống của cá
nhân và xã hội. Nhu cầu nhận thức là điều kiện tất yếu cho sự tồn tại và phát
triển cho mỗi người. Nếu xét theo quan điểm phát triển bền vững thì đó là điều
kiện cần thiết để phát triển con người bền vững. Vì vậy, quan tâm hình thành và
phát triển nhu cầu nhận thức cho mỗi người ngày càng trở nên cấp thiết.
Trong thời đại ngày nay, tri thức trở thành nhân tố quan trọng nhất quyết
định sự phát triển, tri thức là nguồn lực hàng đầu tạo ra sự tăng trưởng, quan
trọng hơn cả vốn, tài nguyên, đất đai. Khối lượng tri thức của con người ngày
càng tăng lên, hầu hết những người làm ở các nghề nghiệp khác nhau đều phải
đối mặt với một thực tế là kiến thức trang bị ban đầu không đủ giúp họ làm việc
trong suốt cả cuộc đời. Vì vậy, họ phải thường xuyên cập nhật và nâng cao kiến
thức, kĩ năng của mình trong suốt cuộc đời như Lênin đã từng nói “Học, học
nữa, học mãi”.
Đối với thanh niên, sinh viên thì điều này lại càng cần thiết. Trong bài
phát biểu của mình tại cuộc gặp gỡ với sinh viên Đại học Bách khoa vào dịp
sang thăm Việt Nam, tỉ phú Bill Gates đã nói: “Điều quan trọng nhất mà tôi
muốn nhắn gửi đến các bạn là phải đầu tư vào việc học tập của mình. Những
1



việc làm lý thú, đem lại nhiều tiền, giúp cải thiện thế giới, cải thiện cuộc sống
của các bạn, … đều đòi hỏi rất nhiều từ việc học tập. Đầu tư cho học tập là đầu
tư quan trọng nhất cho bản thân mình, cho đất nước mình. Những người vào
được đại học phải thấy mình có nghĩa vụ với quốc gia để có thể đem lại cho đất
nước những điều mình làm được,… Những nguyên tắc tôi theo đuổi trong công
việc là học hỏi điều mới lạ, lạc quan, có hoài bão,…”.
Sinh viên sư phạm là những người giáo viên tương lai. Nghề nghiệp của
họ rất đặc thù: vừa dạy chữ, vừa dạy người. Thành quả lao động của họ được thể
hiện ở bản thân học sinh. Vì vậy, đòi hỏi họ phải nắm bắt rất nhiều vấn đề về
nghề nghiệp, về xã hội, về cuộc sống để không chỉ là người làm tốt việc truyền
thụ tri thức khoa học cho học sinh mà còn cung cấp cho các em những kiến thức
về xã hội, về con người. Điều này đòi hỏi họ phải luôn luôn bị thôi thúc bởi
những nhu cầu nhận thức tích cực. Nhưng họ đã có hay chưa? Ở mức độ nào?
Và nhu cầu nhận thức của họ có đặc điểm gì? Làm thế nào để giúp họ phát triển
nhu cầu cấp cao đó?... Những vấn đề này còn ít được nghiên nghiên cứu ở sinh
viên, đặc biệt ở sinh viên sư phạm, trong đó có sinh viên sư phạm Trường Đại
học Tây Bắc. Vì thế, chúng tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Tìm hiểu đặc
điểm nhu cầu nhận thức của sinh viên Trường Đại học Tây Bắc”.
2. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ thực trạng nhu cầu nhận thức và một số đặc điểm nhu cầu nhận
thức ở sinh viên sư phạm Trường Đại học Tây Bắc. Trên cơ sở đó đề xuất một
số kiến nghị về biện pháp tâm lý - sư phạm nhằm khơi gợi và phát triển nhu cầu
nhận thức cho sinh viên, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường.
3. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm nhu cầu nhận thức của sinh viên sư phạm
* Khách thể nghiên cứu
Khảo sát 120 sinh viên Sư phạm Trường Đại học Tây Bắc
4. Giả thuyết khoa học
Đa số sinh viên Sư phạm Trường Đại học Tây Bắc được nghiên cứu có

2


nhu cầu nhận thức và nhu cầu này mang một số nét đặc thù như: tính chuyên
nghiệp, tình chuyên môn, tính sư phạm. Nhu cầu nhận thức của sinh viên có sự
khác nhau giữa các khoa, giới tính, khóa học. Có rất nhiều nguyên nhân khách
quan và chủ quan ảnh hưởng đến nhu cầu nhận thức của sinh viên. Nếu có
những biện pháp tác động phù hợp sẽ nâng cao nhu cầu nhận thức cho sinh viên.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu đã đề ra, đề tài thực hiện một số
nhiệm vụ cơ bản sau:
- Hệ thống hóa một số vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài
- Nghiên cứu thực trạng và những nguyên nhân ảnh hưởng đến nhu cầu
nhận thức của sinh viên Sư phạm Trường Đại học Tây Bắc
- Nêu được các đặc điểm nhu cầu nhận thức của sinh viên
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm tác động đến nhu cầu nhận thức của sinh
viên, giúp sinh viên tích cực hơn nữa trong hoạt động học tập.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Về đối tượng
Nhu cầu nhận thức được biểu hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau. Trong đề
tài chúng tôi chỉ tập trung làm rõ một số biểu hiện NCNT ở mặt nhận thức, thái
độ và hành vi, các yếu tố ảnh hưởng; từ đó rút ra các đặc điểm nhu cầu nhận
thức của sinh viên Sư phạm Trường Đại học Tây Bắc.
* Về khách thể nghiên cứu
Do điều kiện và thời gian có hạn, chúng tôi chỉ tiến hành khảo sát một số
sinh viên Sư phạm Trường Đại học Tây Bắc, cụ thể:
60 sinh viên khoa Toán – Lý – Tin (30 sinh viên năm thứ nhất – khóa 56,
30 sinh viên năm thứ 3 – khóa 54).
60 sinh viên khoa Ngữ văn (30 sinh viên năm thứ nhất – khóa 56, 30 sinh
viên năm thứ 3 - khóa 54).

7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu lí luận, văn bản
3


Phương pháp điều tra viết
Phương pháp phỏng vấn
Phương pháp xử lí số liệu bằng thống kê toán học

4


Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ NHU CẦU,
NHU CẦU NHẬN THỨC CỦA SINH VIÊN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Nghiên cứu ở nước ngoài
* Quan niệm về nhu cầu, nhu cầu nhận thức theo hướng tiếp cận của các nhà
Tâm lí học phương Tây
Vấn đề nhu cầu đã được nghiên cứu từ khá lâu trong tâm lí học, ngay từ
những thập kỉ đầu tiên của thế kỉ XX. Từ đó đến nay đã xuất hiện nhiều quan
điểm khác nhau về bản chất của nhu cầu, từ những quan điểm sinh học thuần túy
đến những quan điểm kinh tế, xã hội và triết học.
* S.Freud cho rằng: Đời sống tâm lý của con người bao gồm 3 khối: “cái
nó”, “cái tôi” và “cái siêu tôi”; trong đó, nhu cầu tự nhiên mà bản năng tính dục
“cái nó” khi không được thỏa mãn, bị dồn nén thì sẽ thăng hoa thành động lực
chủ yếu thúc đẩy con người hoạt động. Ông cũng cho rằng, mọi nhu cầu xã hội
khác chỉ là biến thể của nhu cầu tự nhiên, chúng vẫn có cái gốc là nhu cầu tự
nhiên, là bản năng tính dục. S.Freud mới chỉ đề cập đến nhu cầu tự nhiên mà
chưa đề cập đầy đủ đến nhu cầu xã hội và vai trò của nhu cầu xã hội đối với mỗi

cá nhân. Như vậy, theo quan niệm của ông nhu cầu nhận thức cũng có nguồn
gốc từ tự nhiên, là bản năng tính dục.
* H. Murray cho rằng, sự xuất hiện nhu cầu dẫn đến những thay đổi hóa
học trong não và do tác động của chúng mà diễn ra hoạt động tư duy và tình
cảm. Bất kì nhu cầu nào cũng gây ra trong cơ thể sự căng thẳng nhất định, mà
việc giải tỏa nó chỉ bằng cách thỏa mãn nhu cầu. Như vậy, nhu cầu phóng ra các
kiểu hành vi nhất định, mang lại sự thỏa mãn cần tìm. Ông đã tính có gần 20
dạng nhu cầu, trong đó có những dạng nhu cầu như thành đạt (đạt được cái
mong muốn), nhu cầu quan hệ, thuộc nhóm xã hội nhất định, nhu cầu thể hiện
tính xâm kích, nhu cầu độc lập và khát vọng quyền lực. [17, tr. 319]Ông còn đưa
ra một danh mục các nhu cầu thứ phát là những nhu cầu có nguồn gốc tâm lý,
xuất hiện do kết quả của sự dạy dỗ, học tập, huấn luyện dựa trên những bản
năng tương ứng. Đó là những nhu cầu thành tích, nhu cầu hội nhập, nhu cầu
5


được tôn trọng, nhu cầu an toàn, nhu cầu hiểu biết lẫn nhau, nhu cầu trốn tránh
thất bại,… Ngoài ra tác giả còn đề xuất 8 loại nhu cầu nữa đặc trưng ở người
như: nhu cầu sở thuộc, nhu cầu từ chối sự buộc tội, nhu cầu về tri thức, nhu cầu
sáng tạo, nhu cầu giải thích, nhu cầu được thừa nhận, nhu cầu tiết kiệm và nhu
cầu hợp tác. Murray khẳng định, nhu cầu là một tổ chức cơ động, có chức năng
tổ chức, hướng dẫn và thúc đẩy hành vi. Nhờ nhu cầu mà hoạt động mang tính
mục đích, do đó hoặc là đạt được sự thỏa mãn nhu cầu, hoặc là ngăn ngừa sự
đụng độ khó chịu với môi trường.
Điểm giống nhau giữa H.Murray và S.Freud là: trong sự phát triển của
mình, nhân cách trải qua hàng loạt các cấp độ. Trong từng giai đoạn, cái chủ đạo
là cách thức đạt được sự thỏa mãn các nhu cầu.
* E.Fromm phân chia thành 5 loại nhu cầu cơ bản:
1. Nhu cầu quan hệ giữa người với người
2. Nhu cầu tồn tại “cái tâm” con người

3. Nhu cầu bền vững và hài hòa
4. Nhu cầu đồng nhất bản thân và xã hội với dân tộc
5. Nhu cầu nhận thức, nghiên cứu [3, tr.70]
E.Fromm đã đề cập đến nhu cầu nhận thức của con người trong 5 loại nhu cầu
cơ bản. Nhưng theo quan điểm của ông, nhu cầu có nguồn gốc từ vô thức, và
nhu cầu nhận thức của con người cũng có nguồn gốc từ vô thức.
Một sự phân loại khác về nhu cầu của con người là của A.Maslow
* A.Maslow đưa ra hệ thống nhu cầu, quá trình nhận thức, triệu chứng
nhân cách và năng lực. Tất cả các yếu tố đó tạo nên động lực thúc đẩy hành vi
con người. Động cơ thúc đẩy mạnh mẽ nhất là nhu cầu.
Khác với Murray phân chia nhu cầu thành 20 dạng khác nhau, A.Maslow
phân chia ra thành 5 loại nhu cầu.
- Nhu cầu sinh lí: nhu cầu thỏa mãn, đói, khát, sinh dục, những nhu cầu
này có tính bản năng, có cả ở động vật.
- Nhu cầu an toàn: nhu cầu về sự yên ổn, trật tự và an ninh
- Nhu cầu yêu thương, nhu cầu lệ thuộc
6


- Nhu cầu được thừa nhận, nhu cầu thành đạt, nhu cầu kết quả, nhu cầu về
niềm tin
- Nhu cầu tự thực hiện: nhu cầu sáng tạo, nhu cầu hiểu biết, nhu cầu tri
thức, nhu cầu nghệ thuật.
Các loại nhu cầu này được chia thành nhu cầu cấp thấp và nhu cầu cấp cao.
Nhu cầu cấp cao: nhu cầu tự thực hiện, nhu cầu được thừa nhận, nhu cầu
yêu thương, lệ thuộc.
Nhu cầu cấp thấp: nhu cầu an toàn, nhu cầu sinh lý.
Ông cho rằng, nhu cầu sinh lý là nhu cầu mạnh nhất, còn nhu cầu tự thực hiện là
nhu cầu yếu nhất. Nhu cầu yêu thương, lệ thuộc là nhu cầu vừa cấp thấp, vừa
cấp cao.

Thứ tự các nhu cầu được ông nêu ra là rất quan trọng. [1, tr.78-79]Ông cho rằng,
nhu cầu được phân loại theo các nhóm cấu trúc có đẳng cấp từ thấp tới cao, mà
tính chất nhất quán, logic của chúng chứng tỏ một trật tự xuất hiện các nhu cầu
trong quá tình phát triển của cá thể, cũng như chứng tỏ sự phát triển của hệ
thống động cơ. Hệ thống gồm 5 nhóm nhu cầu trên xuất hiện một cách nhất
quán, có trật tự cùng với quá trình phát triển của chủ thể. Tuy nhiên, hệ thống
nhu cầu có tính tầng bậc này lại hết sức linh hoạt, nó thường xuyên biến động
theo mối quan hệ của chủ thể và hoàn cảnh. Mặc dù các nhu cầu ở tầng bậc thấp
hơn, về nguyên tắc sẽ dễ thỏa mãn hơn, và chúng được thỏa mãn thường xuyên
hơn so với những nhu cầu ở các tầng bậc cao hơn, nhưng trong cùng một thời
điểm, một người có thể trải nghiệm các nhu cầu thuộc các tầng bậc khác nhau.
Maslow cho rằng, các nhu cầu thuộc các tầng bậc cao hơn có thể ảnh hưởng tới
mọi người, thậm chí cả trong những trường hợp khi mà tất cả các nhu cầu ở
những tầng bậc thấp không được thỏa mãn đến cùng. Chẳng hạn, các nhu cầu ăn
uống của chúng ta ở một thời điểm hiện tại được thỏa mãn ở mức trung bình
khoảng 80% và xu hướng này sẽ được tăng cường ở tất cả các trình độ tiếp theo
của thứ bậc nhu cầu. Và như vậy, mức độ biểu hiện nhu cầu tự hiện thực hóa của
chúng ta trong trường hợp này có thể là 10%.

7


* Vroom, đại diện cho hướng tiếp cận nhu cầu với tư cách là động cơ thúc đẩy
đã đưa ra một lý thuyết đáng chú ý là: Lý thuyết Động cơ thúc đẩy theo hy vọng.
Vroom cho rằng: động cơ thúc đẩy con người làm việc được quy định bởi giá trị
mà họ đặt vào kết quả cố gắng của họ (dù là tích cực hay tiêu cực), được nhân
thêm bởi niềm tin mà họ cho rằng sự cố gắng của họ sẽ được hỗ trợ thực sự để
đạt được mục tiêu.
Theo ông, động cơ thúc đẩy là sản phẩm của giá trị mong đợi mà con người đặt
vào mục tiêu và những cơ hội mà họ thấy sẽ hoàn thành được mục tiêu đó. Quan

điểm của Vroom đã khắc phục được tính đơn giản trong cách tiếp cận của
A.Maslow, nó có thể lí giải được động cơ hành động của con người trong những
trường hợp khác nhau [5, tr.109 - 110]
* Quan niệm nhu cầu, nhu cầu nhận thức theo quan điểm các nhà Tâm lí học
hoạt động
Cùng với các nhà Tâm lí học phương Tây, nhu cầu cũng là vấn đề được
nhiều nhà tâm lí học Liên Xô (cũ) như D.N.Uznatde, A.N.Leonchiev, J.A.Comenxki,…
đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giữa nhu cầu với hoạt động của con người
D.N.Uznatde [19, tr.12] là người đầu tiên trong tâm lý học Xô Viết đề cập
một cách khá sâu sắc tới vấn đề nhu cầu. Ông là người khám phá ra mối quan hệ
giữa nhu cầu và hành vi. Tương ứng với mỗi kiểu hành vi là một loại nhu cầu cơ
bản. Ông cho rằng, khi có một loại nhu cầu cụ thể nào đó xuất hiện, chủ thể
hướng sức lực của mình vào thực tại xung quanh nhằm thỏa mãn nhu cầu đó. Đó
chính là cách nảy sinh hành vi. Nhu cầu là một thuộc tính tâm lý đặc trưng giữ
vai trò quan trọng thúc đẩy hành vi. Ông đã có những đóng góp quan trọng đối
với tâm lý học thế giới vì khẳng nhu cầu là yếu tố quyết định tạo ra tính tích cực,
nó xác định xu hướng, tính chất hành vi, không có nhu cầu thì không thể có tính
tích cực. Giữa nhu cầu và hành vi có liên quan mật thiết, vì thế có thể dựa vào
nhu cầu để phân loại các hành vi khác nhau ở con người.
A.N.Leonchiev đề cập đến vấn đề tương ứng giữa động cơ và nhu cầu.
Theo ông, một nhu cầu thực sự phải là nhu cầu về một cái gì đó. Các nhu cầu
của con người đều được sản xuất ra và được cải biến ngay trong quá trình sản
8


xuất và tiêu thụ. Trên cấp độ tâm lý, các nhu cầu bao giờ cũng phải thông qua sự
trung giới của phản ánh tâm lý - đối tượng thỏa mãn nhu cầu và bản thân trạng
thái nhu cầu đều được chủ thể phản ánh. Khi đó, xuất hiện các mối quan hệ hết
sức động cơ giữa các nhu cầu và các đối tượng thỏa mãn nhu cầu. Như vậy, đối
tượng thỏa mãn nhu cầu luôn tồn tại khách quan nhưng tự nó không bộc lộ ra

khi chủ thể có cảm giác thiếu hụt hay đòi hỏi mà chỉ khi con người thực sự hoạt
động thì nó mới phát lộ ra. Nhờ đó, nhu cầu có được tính đối tượng của nó, còn
cái được nhận biết thì có chức năng thúc đẩy, hướng dẫn hoạt động, tức là trở
thành động cơ hoạt động. Vậy là nội dung đối tượng của nhu cầu chính là động
cơ. Khi phân tích mối quan hệ giữa nhu cầu và hoạt động, A.N.Leonchiev đã
cho rằng nhu cầu của con người đều được sản sinh ra trong quá trình hoạt động,
vì thế có thể biểu diễn mối quan hệ đó bằng một sơ đồ theo chu kì:
HOẠT ĐỘNG

NHU CẦU

HOẠT ĐỘNG

Dưới góc độ tâm lý học cá nhân, vấn đề nhu cầu được tiếp cận với tư cách
một cấu trúc tâm lí quy định xu hướng nhân cách và được khẳng định rằng đó là
động lực bên trong tạo nên tính tích cực của con người. Một nhu cầu khi đã
được con người phản ánh nó sẽ trở thành một trạng thái chủ quan, một thái độ
của cá nhân, nó sẽ điều chỉnh hành vi, hoạt động của người đó. [7, tr.192 - 211]
Nhu cầu bao giờ cũng có nội dung đối tượng của nó, tức là nhu cầu về
một cái gì đó. Vì thế, trong các loại nhu cầu cấp cao, nhu cầu tinh thần đã được
quan tâm nghiên cứu, thì nhu cầu nhận thức là một trong những nhu cầu được đề
cập đến từ lâu và khá nhiều trong giáo dục học, tâm lí học.
J.A.Comenxki cho rằng: cần phải lôi cuốn, kích thích người học vào việc
học của chính bản thân. Ông rất coi trọng vai trò của nhu cầu học của người học
đối với hiệu quả dạy học nói chung và học tập nói riêng. Vì thế, ông đã dày công
nghiên cứu tìm ra cách thức cơ bản, quan trọng nhằm hình thành, phát triển nhu
cầu nhận thức ở chủ thể học tập, trong đó có vai trò tác động không nhỏ của yếu
tố khách quan, đặc biệt là vai trò của người giáo viên trong việc sắp xếp, chế
biến tài liệu học tập phù hợp, sinh động, phương pháp dạy học, nội dung chương
trình học tập vừa sức, thiết thực. Theo ông, để hình thành và phát triển nhu cầu

9


nhận thức ở người học thì bản thân việc dạy học cũng như người giáo viên phải
biết cách hấp dẫn người học, từ đó mới lôi cuốn, thúc đẩy họ học tập tích cực,
chủ động với tư cách là chủ thể của hoạt động học tập. [12]
K.D.Usinxki cũng khẳng định, nhu cầu nhận thức là cơ sở duy nhất vững
chắc cho mọi sự học tập có hiệu quả. Từ đó, ông cho rằng, cần phải dạy người
học biết định hướng về học tập, tự hình thành và phát triển nhu cầu nhận thức
của bản thân. Điều này cũng có nghĩa là muốn hình thành, phát triển nhu cầu
nhận thức phải tác động vào tự ý thức của người học để làm thay đổi từ nhận
thức, thái độ đến việc xây dựng thói quen tích cực học tập.
B.B.Đavưđov là người đã có những đóng góp quan trọng trong việc
nghiên cứu về nhu cầu nhận thức. Ông nhận thấy rằng, tiền đề của nhu cầu đối
với hoạt động học xuất hiện ở trẻ mẫu giáo lớn trong quá trình tham gia các trò
chơi đóng vai là những trò chơi mà qua đó tưởng tượng và các chức năng biểu
tượng phát triển mạnh mẽ. Nhu cầu học tập được hình thành, phát triển trong
quá trình học tập, khi đứa trẻ lĩnh hội kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên
nhằm thực hiện những nhiệm vụ dạy học, kiến thức lí luận với tư cách là nội
dung của hoạt động học, đồng thời cũng là nhu cầu về hoạt động học. Trong quá
trình hình thành nhu cầu học tập ở học sinh tiểu học đã diễn ra sự cụ thể hóa nó
trong những động cơ khác nhau thúc đẩy trẻ thực hiện các hành động học tập.
Các nhà tâm lý học hoạt động cũng khẳng định: về bản chất, con người là
một thực thể xã hội, nghĩa là thông qua hoạt động và giao tiếp thì nhân cách của
con người mới được hình thành và phát triển. Sự hình thành các nhu cầu thúc
đẩy hành vi có liên quan đến bản chất xã hội của tâm lý người; kể cả nhu cầu
sinh vật của con người (trong đó có bản năng và ham muốn) cũng được xã hội
hóa theo mức độ phát triển của xã hội loài người.
Nhìn chung, các kết quả nghiên cứu đã khẳng định vai trò đặc biệt của
nhu cầu đối với hoạt động của nói chung và của nhu cầu nhận thức đối với hoạt

động nhận thức nói riêng. Kết quả cũng cho thấy, trong hoạt động dạy học, để
phát huy tính tích cực, tự giác học tập ở người học, để nâng cao hiệu quả của

10


việc dạy học nói chung, điều quan trọng là phải hình thành nâng cao mức độ nhu
cầu nhận thức ở bản thân người học.
1.1.2. Nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, nghiên cứu về nhu cầu đã có nhiều nhà Tâm lí học đầu
ngành bàn đến như: Phạm Minh Hạc, Lê Khanh, Trần Trọng Thủy, Nguyễn
Quang Uẩn, Trần Quốc Thành… Các tác giả đã bàn luận về các khía cạnh: khái
niệm, phân loại, mức độ, vai trò của nhu cầu trên quan điểm truyền thống của
các nhà tâm lí học hoạt động. Dù mỗi tác giả có cách lập luận khác nhau nhưng
đều chung quan điểm: Nhu cầu được hiểu là sự biểu hiện mối quan hệ tích cực
của các cá nhân đối với hoàn cảnh, là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần
được thỏa mãn để tồn tại và phát triển. Các công trình này đã làm rõ thêm lí luận
về nhu cầu, vai trò của nhu cầu trong thực tiễn đời sống tâm lí con người.
Đương thời Bác Hồ đã nói đến vai trò quan trọng của nhu cầu nhận thức
đối với việc phát huy tinh thần độc lập, tự giác trong học tập của học sinh, sinh
viên. Kết quả những nghiên cứu khoa học sau này đã hoàn toàn khẳng định điều
đó. Các tác giả: Nguyễn Kế Hào, Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Lũy, Hoàng Thị
Thu Hà,… đã chỉ ra rằng nhu cầu nhận thức có tính “không no”, nó phát triển
không ngừng theo mức độ thỏa mãn. Đó là nhu cầu đối với những kiến thức
mới, đối với quá trình và phương thức tiếp nhận những kiến thức này. Các
nghiên cứu cũng cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa nhu cầu nhận thức và nhu
cầu học tập với động cơ học tập. Các yếu tố như phương pháp, nội dung chương
trình, cách thức tổ chức hoạt động có ảnh hưởng đến nhu cầu nhận thức với tư
cách là thành tố cơ bản của động cơ học tập. Các tác giả cũng đã chứng minh
rằng, nếu dạy học theo kiểu khái quát hóa lí luận thì nhu cầu học tập phát triển

bền vững. Việc dạy học theo phương pháp tích cực hóa hoạt động học tập của
học sinh là một trong những giải pháp quan trọng nhằm phát triển nhu cầu nhận
thức ở học sinh [15,19].
Việc nghiên cứu nhu cầu nhận thức ở sinh viên sư phạm là một trong những
hướng tích cực nhằm thúc đẩy hoạt động học tập của sinh viên, đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của xã hội. Vì thế, nghiên cứu nhằm đề xuất những biện pháp
11


giáo dục và phát triển nhu cầu nhận thức cho sinh viên sư phạm đang ngày càng
được quan tâm bởi đó là một trong những vấn đề quan trọng nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả học tập và đào tạo trong nhà trường sư phạm cũng như đáp ứng
xu thế phát triển nghề nghiệp trong tương lai của mỗi cá nhân sinh viên.
1.2. Một số vấn đề lí luận về nhu cầu nhận thức
1.2.1. Khái niệm về nhu cầu nhận thức
1.2.1.1. Khái niệm về nhu cầu
Trong các tài liệu tâm lí học có thể tìm thấy nhiều định nghĩa khác nhau
về nhu cầu; mỗi tác giả khác nhau dựa trên các cách tiếp cận khác nhau lại có
định nghĩa khác nhau về nhu cầu. Tuy nhiên, qua các tài liệu chúng tôi tổng hợp
thành các hướng chính cơ bản sau:
* Nhu cầu là sự xác định đối tượng của môi trường bên ngoài, nó cần thiết đối
với hoạt động sống của con người
Tác giả Nguyễn Quang Uẩn cũng có quan niệm về nhu cầu tương tự như
quan niệm của tác giả Đặng Xuân Hoài: “Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu mà con
người thấy cần được thỏa mãn để tồn tại và phát triển”. [23, tr.173]
Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác – Lênin dạy rằng: nhu cầu là những
đòi hỏi khách quan của mỗi con người trong những điều kiện nhất định đảm bảo
cho sự sống và sự phát triển của con người. [7, tr.192]
* Nhu cầu như là một trạng thái tâm lý phản ánh sự không đầy đủ, thiếu hụt một
cái gì đó

Trong từ điển của Vũ Dũng: “Nhu cầu là trạng thái của cá nhân, xuất phát
từ chỗ nhận thấy cần những đối tượng cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của
mình và đó là nguồn gốc tính tích cực của cá nhân”. [9, tr.190]
* Nhu cầu như là thuộc tính chủ yếu của nhân cách, nó xác định mối quan hệ
của nhân cách với thế giới
Theo tác giả Phạm Minh Hạc “Nhu cầu là một thuộc tính của nhân cách,
biểu thị mối quan hệ tích cực của cá nhân đối với hoàn cảnh, là những đòi hỏi
mà cá nhân thấy cần phải được thỏa mãn trong điều kiện nhất định để có thể tồn
tại và phát triển” [13]
12


Theo tác giả Lê Thị Bừng [5, tr.113] “Nhu cầu là sự biểu hiện mối quan
hệ tích cực của con người đối với hoàn cảnh, là sự đòi hỏi tất yếu mà con người
thấy cần được thỏa mãn để tồn tại và phát triển”.
Bàn về nhu cầu, mỗi tác giả có những nét riêng, có thể định nghĩa khái
quát về nhu cầu như sau: Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần
được thỏa mãn để tồn tại và phát triển, là sự biểu hiện mối quan hệ qua lại giữa
con người với những điều kiện cụ thể, luôn biến đổi của đời sống.
Nhu cầu có thể tồn tại ở nhiều mức độ khác nhau, tùy thuộc vào mức độ
tham gia của ý thức cá nhân. Vì thế, việc xem xét các mức độ khác nhau sẽ cho
thấy rõ nhu cầu là hoạt động tâm lí, còn mức độ ý thức của nhu cầu sẽ cho thấy
những dạng nhu cầu cụ thể.
Nhìn chung, trong tâm lí học hiện nay đều nhất trí với ba mức độ biểu
hiện của nhu cầu, đó là: ý hướng (khi nhu cầu được phản ánh trong ý thức còn
mù mờ, chưa rõ ràng), ý muốn (sự phản ánh trong ý thức về nhu cầu đã rõ rệt
hơn, song cá nhân vẫn chưa tìm được phương pháp, phương tiện thỏa mãn nhu
cầu) và ý định (khi sự phản ánh là cao nhất, tức là cá nhân đã nhận thức rõ cả về
mục đích, phương tiện thực hiện mục đích và ở trong tâm thế sẵn sàng thực hiện
mục đích).

Khi phân tích khái niệm nhu cầu, người ta cũng thường đề cập đến các
đặc điểm của nó. Nhìn chung, có một số đặc điểm chung thường được đề cập
đến như: tính đối tượng, tính chu kì, bản chất xã hội của nhu cầu,…; hay một số
đặc điểm khác như: việc nhận thức khá rõ ràng về nhu cầu làm theo trạng thái
cảm xúc tiêu biểu(sự hài lòng khi nhu cầu được thỏa mãn, hay hay không hài
lòng thậm chí đau khổ khi không được thỏa mãn); trạng thái ý chí – xúc cảm
thúc đẩy thỏa mãn nhu cầu phải tìm kiếm và tiến hành những cách thức cần thiết
để thỏa mãn nhu cầu đó (vì thế mà nhu cầu là một trong những động cơ nhất
thúc đẩy các hành động ý chí). Khi những nhu cầu này được thỏa mãn, các trạng
thái đó bị suy yếu, có lúc hoàn toàn biến mất hoặc trong một số trường hợp nó
biến thành trạng thái ngược lại.

13


Những đặc điểm kể trên của nhu cầu cho thấy tầm quan trọng đặc biệt của
nó trong quá trình quyết định hành vi con người, trong việc biểu hiện và củng cố
mối liên hệ giữa cá nhân và xã hội. Nhu cầu tạo thành cơ sở bản chất của nhân
cách con người, đồng thời nó cũng đánh dấu trình độ phong phú mà xã hội đã
đạt được qua từng thời kì lịch sử.
* Khi bàn về cách phân loại nhu cầu, có nhiều ý kiến khác nhau. Mỗi nhà
nghiên cứu thường dựa vào các tiêu chí khác nhau để đưa ra cách phân loại khác
nhau. Có tác giả phân loại nhu cầu thành nhu cầu tự nhiên và nhu cầu xã hội; tác
giả khác lại phân thành nhu cầu bậc thấp và nhu cầu bậc cao; hoặc nhu cầu vật
chất và nhu cầu tinh thần; nhu cầu vật chất – nhu cầu tinh thần và nhu cầu chính
trị đạo đức; hoặc nhu cầu vật chất, nhu cầu tinh thần và nhu cầu xã hội; hoặc
năm loại nhu cầu mà Maslow đưa ra trong tháp nhu cầu của ông là: nhu cầu cơ
thể, nhu cầu an toàn, nhu cầu sở thuộc, nhu cầu tôn trọng và nhu cầu phát huy
bản ngã… Có thể thấy rằng, mỗi cách phân loại đều có tính hợp lí riêng nhưng
sự phân loại nào cũng chỉ mang tính tương đối vì trên thực tế các loại nhu cầu

đều có liên quan mật thiết với nhau và khó có thể tách bạch hoàn toàn.
1.2.1.2. Khái niệm về nhận thức
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về bản chất của nhận thức:
- Nhận thức là quá trình phản ánh tái tạo lại hiện thực trong tư duy con người
trên cơ sở của thực tiễn xã hội.
- Nhận thức của con người là một quá trình trong đó có nhiều giai đoạn, trình
độ, vòng khâu và hình thức khác nhau. Chúng có nội dung cũng như vai trò khác
nhau đối với việc nhận thức sự vật.
+ Nhận thức cảm tính
Là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức, phản ánh các thuộc tính bề
ngoài, những mối quan hệ, liên hệ không gian và thời gian của đối tượng.
Phương thức phản ánh của nhận thức cảm tính là phản ánh trực tiếp sự vât hiện
tượng khi chúng tác động vào các giác quan của con người. Sản phẩm cảu nó là
những hình ảnh trực quan, cụ thể về thế giới (các cảm giác, các biểu tượng về
thế giới).
14


+ Nhận thức lí tính
Là giai đoạn tiếp theo và cao hơn về chất của quá trình nhận thức, nó nảy
sinh trên cơ sở nhận thức cảm tính. Nhận thức lí tính phản ánh những thuộc tính
bản chất, những mối liên hệ và quan hệ có tính quy luật của sự vật hiện tượng
trong hiện thực khách quan.
Nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính là hai giai đoạn khác nhau về
chất, nhưng chúng lại thống nhất biện chứng với nhau, liên hệ tác động lẫn nhau,
bổ sung, hỗ trợ cho nhau, không tách rời nhau. Chúng đều phẩn ánh thế giới vật
chất, có cùng một cơ sở sinh lý là hệ thần kinh của con người và cùng đều chịu
sự chi phối của thực tiến lịch sử - xã hội. Nhận thức cảm tính là cơ sở của nhận
thức lí tính; không có nhận thức cảm tính thì không có nhận thức lí tính. Trái lại,
nhận thức cảm tình mà không có nhận thức lí tính thì không nắm bắt được bản

chất và quy luật của sự vật. Vì vậy, cần phải phát triển nhận thức lí tính sẽ giúp
cho nhận thức cảm tính trở nên chính xác hơn.
Tóm lại: Nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính là hai giai đoạn của quá
trình nhận thức thống nhất của con người. Từ nhận thức cảm tính đến nhận thức
lí tính là sự chuyển hóa biện chứng, là bước nhảy vọt trong nhận thức. Đây là
hai giai đoạn, hia yếu tố không thể tách rời nhau của một quá trình nhận thức
thống nhất. V.I.Lenin đã vạch ra quy luật chung của nhận thức: “Từ trực quan
sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn đó là con
đường biện chứng của sự nhận thức chân lí, nhận thức thực tại khách quan”.
* Khái niệm về nhu cầu nhận thức
Trong các phân loại về nhu cầu, nhu cầu nhận thức được xếp vào nhóm
nhu cầu tinh thần, đặc trưng ở người. Chẳng hạn, trong phân loại của
A.G.Covaliov [8] là “nhu cầu học tập và nhận thức thế giới”. Nhu cầu này có
sau nhu cầu lao động. Trong quá trình lao động cải tạo và khai thác thiên nhiên,
con người từng bước có nhận thức về thế giới xung quanh, tích lũy những kinh
nghiệm trong lao động, hình thành được một hệ thống ý thức ban đầu về thế
giới, từ đó nảy sinh những nguyện vọng, ước mơ đạt đến những thành tựu cao
hơn, có sức mạnh để giải phóng con người khỏi những chế ước khắc nghiệt của
15


tự nhiên. Trình độ khoa học ngày càng phát triển, con người cũng dần khám phá
ra quy luật của tự nhiên và xã hội, và ngày càng có nhiều điều kiện nhận thức
thế giới. Như vậy, nhu cầu học tập và nhu cầu nhận thức thế giới là nhu cầu phổ
biến của con người, và cũng giống như nhiều nhu cầu khác, nó không có giới
hạn.
Còn trong bảng phân loại của A.Maslow thì nhu cầu nhận thức được đặt ở
bậc thang trên cùng trong 5 bậc, ngay dưới nhu cầu thẩm mĩ và nhu cầu sáng
tạo.
Nhìn chung, nhận thức được hiểu là đạt được một cái gì đó, có được một

cái gì đó, lĩnh hội được những kiến thức, hiểu biết về cái gì đó., nắm được quy
luật của các hiện tượng, quá trình,… Từ đó, có thể hiểu nhu cầu nhận thức là
mong muốn, ước muốn nắm được, lĩnh hội được những tri thức, những hiểu biết,
có liên quan đến sự tồn tại và phát triển của con người. Sự thỏa mãn nhu cầu này
có ý nghĩa to lớn đối với đời sống của cá nhân và xã hội.
Giống như các nhu cầu khác, nhu cầu nhận thức rất cơ động, nếu bị ngừng
thỏa mãn, nhu cầu này sẽ trở nên gay gắt thêm. Ngược lại, một việc làm quá
căng thẳng có thể làm trì trệ và suy yếu nó. Nhưng khác với nhu cầu cơ thể,, nhu
cầu nhận thức sẽ không tạm thời lắng dịu xuống mà càng tăng lên rõ rệt.. Và
đương nhiên nếu nhu cầu nhận thức thường xuyên không được thỏa mãn, tức là
không được củng cố, thì nó sẽ bị suy yếu đi và có thể mất hẳn.
Tính chất cơ động của nhu cầu nhận thức còn được biểu hiện ở chỗ: nó
được phản ánh vào ý thức con người trong một giai đoạn nhất định. Lúc đầu cá
nhân cảm thấy xốn xang, háo hức; tiếp đến là sự ước ao, căng thẳng; khi được
đáp ứng thì ta cảm thấy nhẹ nhõm, và cuối cùng cảm thấy thỏa mãn, sảng khoái.
Cách hiểu về nhu cầu nhận thức của các tác giả nhìn chung là nhất quán:
nhu cầu nhận thức là đòi hỏi của con người về việc tìm tòi, tiếp thu cái mới, cái
chưa có trong kinh nghiệm của cá nhân, mà cá nhân cần được thỏa mãn để phát
triển.

16


Như vây, xét cho cùng, nhu cầu nhận thức là nhu cầu về tri thức (hiểu
biết, thông tin) và nhu cầu về các kĩ năng, kĩ xảo hành động. Đây cũng chính là
những nội dung của nhu cầu nhận thức mà đề tài xem xét.
Các nghiên cứu đã chứng minh rằng, nhu cầu nhận thức là điều kiện tất
yếu cho sự tồn tại của chính bản thân con người. Khi một đứa trẻ bị mất hầu như
tất cả mọi cảm xúc và do đó không có khả năng thỏa mãn được một nhu cầu
nhận thức thì không được phát triển về mặt tâm lí nói chung và không thể hiện

một dấu hiệu nào của phản ứng nhận thức.
Quan sát của nhiều nhà khoa học phương Tây trên những trẻ sống trong
điều kiện “thiếu thông tin”, “đói giao tiếp” đã chỉ ra rằng: sự phát triển của
chúng bị kìm hãm một cách rõ rệt do chỗ các phương pháp tác động trong hoàn
cảnh đó là những kích thích đơn điệu và buồn chán, dẫn đến sự hạn chế hoạt
động nhận thức của trẻ.
Những nghiên cứu tâm lí học khác cũng chứng tỏ rằng, sự thỏa mãn nhu
cầu nhận thức là điều kiện tất yếu cho sự phát triển bình thường của con người.
Nhu cầu nhận thức ở con người phát triển từ rất sớm. Khi nghiên cứu sự phát
triển tư duy ở trẻ em, Margaret Donaldon thấy: ngay từ khi còn chưa nắm vững
ngôn ngữ, con người đã tích cực tìm hiểu thế giới xung quanh như đặt câu hỏi,
muốn hiểu biết; và ngay từ nhỏ đã có mục đích và ý định, nghĩa là đã muốn hành
động [15]. Hay thực nghiệm của H.Papousek cũng đã chứng minh, ngay từ khi
còn nhỏ, con người đã có một nhu cầu cơ bản, đó là nhu cầu tìm hiểu, khám phá
thế giới xung quanh và điều đó được thực hiện với sự kiểm tra có chủ định.
1.2.2. Các đặc điểm của nhu cầu nhận thức
Cũng như các loại nhu cầu khác ở người, nhu cầu nhận thức có những đặc
điểm cơ bản. Những đặc điểm này thể hiện ở nhiều góc độ khác nhau, với các
mức độ khác nhau, tạo nên những nét đặc trưng cho nhu cầu nhận thức của con
người. Nhìn chung, có 4 đặc điểm chủ yếu là:
- Cường độ của nhu cầu nhận thức: đó là độ mạnh, độ gay gắt của những
đòi hỏi về thông tin, sự hiểu biết của con người. Cường độ nhu cầu nhận thức có
thể được xem xét dưới góc độ ý thức và dưới góc độ xúc cảm – tình cảm trí tuệ..
17


Dưới góc độ ý thức, có thể có các mức độ nhu cầu nhận thức khác nhau được
biểu hiện từ thấp đến cao ở: ý hướng nhận thức, ý muốn nhận thức và ý định
nhận thức.
Dưới góc độ xúc cảm – tình cảm trí tuệ, có thể có các mức độ từ sự tò mò

ham hiểu biết đến sự say mê hiểu biết. Các mức độ của tình cảm trí tuệ đó luôn
đi kèm với những xúc cảm muôn màu muôn vẻ như: sự vui sướng thán phục tự
hào khi giải quyết được vấn đề; sự hoài nghi, chán nản khi không thành công; sự
lo âu, giận giữ nếu gặp những điều kiện khó khăn làm cản trở quá trình nhận
thức của cá nhân.
Như vậy, có thể nói, quá trình phản ánh của chủ thể về đối tượng và
phương thức thỏa mãn nhu cầu từ chỗ chưa rõ, chưa đầy đủ đến chỗ rõ ràng, đầy
đủ là quá trình biến hóa của nhu cầu, quá trình động cơ hóa. Trong quá trình
này, cùng với sự phát triển các cấp độ ý thức, các mức độ gay gắt của sự đòi hỏi
thông tin (cường độ nhu cầu nhận thức) cũng dần dần tăng lên. Tức là mức độ ý
thức rõ ràng về đối tượng và phương thức thỏa mãn nhu cầu nhận thức tỉ lệ
thuận với cường độ của nhu cầu nhận thức. Vì thế, để biết được cường độ của
nhu cầu nhận thức, cần phải tìm hiểu mức độ phản ánh của ý thức về đối tượng
và phương thức thỏa mãn nó.
Bên cạnh đó, những biểu hiện xúc cảm – tình cảm trí tuệ ở các mức khác
nhau là những dấu hiệu của mức độ phát triển nhu cầu nhận thức của cá nhân.
Tính chất của tình cảm trí tuệ phản ánh mức độ gay gắt của sự đòi hỏi thông tin
(cường độ nhu cầu nhận thức).
- Độ bền vững của nhu cầu nhận thức: được thể hiện ở chu kì xuất hiện
của nó. Chu kì xuất hiện càng liên tục, mật độ càng dày càng phản ánh độ bền
vững cao của nhu cầu nhận thức. Khi nhu cầu nhận thức là bền vững, nó sẽ chi
phối hoạt động nhận thức của con người trong một thời gian dài và ít phụ thuộc
vào hoàn cảnh. Biểu hiện cụ thể nhất là tính tự nguyện, tự giác trong việc thực
hiện các nhiệm vụ nhận thức.
- Nội dung đối tượng của nhu cầu nhận thức: đó là tập hợp những khách
thể của nền văn hóa vật chất và tinh thần có khả năng thỏa mãn nhu cầu đó và
18


khi được phản ánh vào đầu óc con người thì trở thành động cơ nhận thức, thúc

đẩy hoạt động nhận thức vươn tới chiếm lĩnh hoặc làm thay đổi nó. Như vậy,
nhu cầu nhận thức không trực tiếp dẫn đến hành vi, hoạt động nhận thức mà nó
ảnh hưởng đến hoạt động nhận thức thông qua các động cơ nhận thức. Từ đây,
có thể hiểu, mức độ phát triển của động cơ nhận thức là biểu hiện tương ứng với
các mức độ phát triển nhu cầu nhận thức.
- Phương thức thỏa mãn nhu cầu nhận thức. Là một nhu cầu cơ bản của
con người, nhu cầu nhận thức có thể được thỏa mãn bằng nhiều phương thức
khác nhau như học tập, vui chơi, giải trí, giao tiếp, lao động, tự học,… Trong
các dạng hoạt động đó, nhu cầu nhận thức có chức năng kích thích hoạt động,
đặc biệt là hoạt động nhận thức. Vì vậy, nhu cầu nhận thức là nguồn gốc bên
trong của tính tích cực nhận thức. Do đó, mức độ tích cực nhận thức của cá nhân
quyết định trực tiếp kết quả hoạt động của họ.
Tuy nhiên, tính tích cực nhận thức xuất phát không chỉ từ nhu cầu nhận
thức mà còn từ các nhu cầu khác như: nhu cầu sinh học, nhu cầu đạo đức, nhu
cầu thẩm mĩ, nhu cầu quan hệ xã hội,… Vì vậy, tính tích cực nhận thức chỉ liên
hệ với nhu cầu nhận thức khi nằm trong mối tương quan giữa động cơ đối tượng
của chủ thể với động cơ của nó – nội dung đối tượng cảu nhu cầu.. Do đó, nếu
tính tích cực nhận thức trong hoạt động nhận thức của người học hướng vào đối
tượng với tư cách là mục đích hoạt động đó thì tính tích cực nhận thức phản ánh
mức độ phát triển của nhu cầu nhận thức.. Còn tính tích cực hướng vào đối
tượng nhận thức chỉ như là phương tiện đạt được mục đích nằm ngoài hoạt động
nhận thức thì tính tích cực đó không phản ánh mức độ phát triển của nhu cầu
nhận thức. Chẳng hạn, đối với học sinh ở cùng một lứa tuổi nhất định, trong
cùng một điều kiện nhất định, nếu tính tự giác, chủ động, độc lập của chủ thể
trong hoạt động học tập được thúc đẩy bởi mục đích ưu thế là lĩnh hội tri thức và
phương pháp giành tri thức đó thì chứng tỏ nhu cầu nhận thức phát triển ở trình
đọ cao hơn so với hoạt động học tập mang tính đối phó, thụ động với mục đích
ưu thế là thỏa mãn nhu cầu đánh giá, nhu cầu về quan hệ xã hội.

19



Đối với sinh viên, hoạt động chủ đạo là học nghề, tức là học tập để nắm
vững nghề nghiệp tương lai, thì phương thức chủ yếu để thỏa mãn nhu cầu nhận
thức vẫn là hoạt động học tập bằng phương pháp nhà trường tương ứng với trình
độ văn minh, văn hóa nhà trường đại học. Do đó, tính tích cực nhận thức biểu
hiện trong mối quan hệ với động cơ học tập của họ. Tuy nhiên, xuất phát từ trình
độ phát triển tâm lí và nhân cách của lứa tuổi này, bên cạnh hoạt đông học tập có
tổ chức trong nhà trường đại học, sinh viên còn có thể thỏa mãn nhu cầu nhận
thức của mình thông qua các dạng hoạt động giải trí và hoạt động tự học. Như
vậy, có thể dựa vào rất nhiều dấu hiệu khác nhau để đánh giá mức độ nhận thức
của sinh viên.
1.3. Nhu cầu nhận thức của sinh viên sƣ phạm
1.3.1. Khái quát về sinh viên
* Khái niệm tuổi sinh viên
Thuật ngữ “sinh viên” có gốc từ tiếng Latinh “students”, nghĩa là người
làm việc, người tìm kiếm, khai thác tri thức. Sinh viên là những người đang
chuẩn bị cho một hoạt động mang lại lợi ích vật chất hay tinh thần của xã hội.
Các hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học, sản xuất hay hoạt động xã hội của
họ đều phục vụ cho việc chuẩn bị tốt nhất cho hoạt động mang tính nghề nghiệp
của mình sau khi kết thúc quá trình học trong các trường nghề.
Về tuổi sinh học, đa số sinh viên thuộc lứa tuổi thanh niên từ 17 đến 25
tuổi, một số ít có tuổi đời thấp hoặc cao hơn tuổi thanh niên. Vì vậy, sự phát
triển và trưởng thành về giải phẫu và sinh lí của lứa tuổi thanh niên là đặc trưng
cho lứa tuổi sinh viên.
Về phương diện xã hội, sinh viên là nhóm người chưa ổn định, còn phụ
thuộc về kinh tế do chưa thực sự tham gia vào guồng máy sản xuất của xã hội.
* Hoạt động học tập và đặc điểm tâm lý lứa tuổi sinh viên
- Hoạt động học tập của sinh viên: Hoạt động học tập của sinh viên không
chỉ đơn thuần là lĩnh hội những tri thức khoa học phổ thông mà là quá trình học

tập nghề nghiệp. Đối tượng học của sinh viên là tri thức, kĩ năng và nhân cách
nghề.
20


- Đặc điểm tâm lí lứa tuổi sinh viên: Với sự thay đổi của hoạt động chủ
đạo từ hoạt động học tập – định hướng nghề nghiệp (lứa tuổi học sinh trung học
phổ thông) sang hoạt động học tập nghề nghiệp, làm nảy sinh những nét cấu tạo
tâm lí mới ở lứa tuổi sinh viên. Và một trong những nét tâm lí nổi bật của sinh
viên là sự phát triển mạnh mẽ của tự ý thức – cái tôi với những ước mơ, hoài
bão, khát vọng và lí tưởng sống.
Bên cạnh sự trưởng thành về mặt thể chất, điều kiện hoàn cảnh xã hội cũng có ý
nghĩa quan trọng đối với sự phát triển cái tôi ở lứa tuổi sinh viên. Vai trò, trách
nhiệm, quyền lợi, sự độc lập cùng với sự hoàn thiện về mặt trí tuệ là những yếu
tố kích thích cái tôi phát triển mạnh mẽ về chất so với lứa tuổi trước.
Tự ý thức – cái tôi phát triển mạnh mẽ. Nếu như ở lứa tuổi học sinh trung
học phổ thông, các em mô tả về bản thân một cách trừu tượng và lí tưởng thì
bước sang giai đoạn này, sự tự ý thức về mình theo những chuẩn mực của xã hội
trên bình diện thể chất, tâm lí, đạo đức. Hơn thế nữa, họ tự đánh giá về hình ảnh
cơ thể của bản thân một cách tỉ mỉ và nghiêm khắc. Thường họ không hài lòng
về bản thân và có ý thức phấn đấu hơn nữa.
Trong quá trình tự ý thức về năng lực, họ bắt đầu có sự phấn đấu cho nghề
nghiệp tương lai của bản thân. Đa số sinh viên học tập vì nhu cầu nghề nghiệp
sau này. Họ học tập vì muốn tạo ra cơ sở vững chắc cho nghề nghiệp tương lai.
Họ thường tự chất vấn: Tôi sẽ trở thành một người… Tôi sẽ làm được. Tôi tin
vào khả năng của mình. Tôi không chắc lắm…
Tự ý thức của sinh viên còn được thể hiện ở việc tự quan sát, tự xem xét
mình, tự phản tỉnh về bản thân. Thế giới nội tâm của sinh viên rất phong phú và
phức tạp. Sự tự ý thức về cái tôi cũng vậy. Cái tôi được thể hiện trong mỗi sinh
viên rất phong phú, phức tạp và thay đổi theo từng hoàn cảnh cụ thể. Một trong

những yếu tố cốt lõi của cái tôi chính là lòng tự trọng. Lòng tự trọng là giá trị
của bản thân hay hình ảnh bản thân, là khía cạnh tổng thể của bản ngã. Để thể
hiện được cái tôi của mình, sinh viên thường tham gia vào các hoạt động xã hội
phù hợp với khả năng và hứng thú của bản thân như: văn nghệ, thể dục thể thao,
các hoạt động tình nguyện… Chính sự tham gia vào các hoạt động này đã làm
21


cho nhãn quan của họ mở rộng, thế giới quan của sinh viên hình thành, giúp họ
lý giải được các hiện tượng trong cuộc sống cũng như của bản thân.
Một yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển cái tôi của sinh viên
đó chính là đời sống xúc cảm, tình cảm và một loại tình cảm đặc trưng cho lứa
tuổi là tình yêu. Nó được bộc lộ trong các mối quan hệ với gia đình, bạn bè và
trong quan hệ với những người xung quanh khiến cho sinh viên chú ý nhiều đến
tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mĩ, lợi ích cá nhân và xã hội. Điều này đã làm
cho hình ảnh cái tôi của họ ngày càng hoàn thiện hơn.
Về “xây dựng kịch bản đường đời”: Tuổi thiếu niên và thanh niên học
sinh đã có kế hoạch đường đời nhưng đó chỉ là những phác thảo có tính đại
cương và mơ hồ. Khi vào các trường nghề, hầu hết sinh viên đều có kịch bản
riêng cho mình về đường đời sẽ đi. Đó là sự kì vọng về một tương lai gần và
viễn cảnh cuộc đời. Từ đó vạch ra kế hoạch chi tiết nhằm đạt được kì vọng đó.
Trong quá trình xây dựng kịch bản đường đời, sinh viên thường xuyên đặt ra
cho mình các câu hỏi và tự trả lời hoặc trao đổi với bạn bè hay người thân:
Tương lai của tôi sẽ như thế nào? Có nên lấy vợ/chồng ngay sau khi ra trường
hay không? Con đường sự nghiệp sẽ như thế nào?... Chính trong quá trình trao
đổi như vậy, nhiều sinh viên có cơ hội làm sáng tỏ hoặc chính xác hóa hơn kế
hoạch của mình.
Sinh viên là thời kì có nhiều biến động mạnh mẽ về động cơ, về thang giá
trị xã hội. Sinh viên đã biết xác định con đường sống tương lai, tích cực học tập
nghề nghiệp và bắt đầu dần cuộc sống độc lập.

1.3.2. Khái niệm “sinh viên sư phạm”
Sinh viên sư phạm được hiểu là những người đang theo học ở các trường
Cao đẳng và Đại học sư phạm. Họ là những người học tập, rèn luyện về chuyên
môn và nghiệp vụ sư phạm để trở thành người giáo viên tương lai.
Sinh viên sư phạm sẽ là những người mà trong tương lai, bằng chính nhân cách
của mình sẽ góp phần đào luyện thế hệ trẻ thành lớp người kế tục sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.

22


Sinh viên sư phạm có tất cả những đặc điểm nhân cách chung của giới sinh viên
như: có khả lập kế hoạch và thực hiện hành động một cách độc lập, có sự biến
đổi mạnh mẽ về động cơ, về thang giá trị xã hội có liên quan đến nghề nghiệp,
xác định con đường sống tích cực, bắt đầu thể nghiệm bản thân trong mọi lĩnh
vực cuộc sống, tự ý thức phát triển mạnh mẽ và thế giới quan đã được hình
thành ró rệt và tiếp tục phát triển.
Sinh viên thường hướng vào việc hình thành, phát triển nhân cách người chuyên
gia tương lai, củng cố và phát triển xu hướng nghề nghiệp, hình thành những
phẩm chất và năng lực cần thiết đáp ứng nhu cầu nghề nghiệp tương lai thông
qua hoạt động học tập nghề nghiệp (học nghề), qua đó hình thành tâm thế nghề
nghiệp. Sự hình thành, phát triển nhân cách người chuyên gia tương lai diễn ra
liên tục dưới nhiều hình thức hoạt động học tập khác nhau.
Hiện nay, nhu cầu về kiến thức của sinh viên nói chung có nhiều thay đổi
do những yêu cầu mới của thời đại. Đặc biệt, sinh viên phải có những kĩ năng,
thái độ phù hợp để sẵn sàng cho nghề nghiệp tương lai. Có ba yêu cầu được đặc
biệt nhấn mạnh đối với sinh viên hiện nay là: “sáng kiến”, “sáng tạo” và “linh
hoạt”.
Đề cập tới sinh viên của ngành sư phạm nói riêng, các chuyên gia cho
rằng, công tác đào tạo sinh viên sư phạm cần phải được hết sức chú ý ưu tiên

trong thời kì mới này vì họ là những người thầy trong tương lai, là người có vai
trò quan trọng đối với chất lượng giáo dục. Họ phải được đào tạo tốt để sau này
khi trở thành giáo viên họ mới có khả năng động viên được học sinh học tập
theo cách hợp tác, khuyến khích được tính độc lập tư duy cũng như phát triển
được khả năng tự đánh giá ở các em. So với trước đay, giáo dục hiện nay có sự
biến đổi quan trọng, đó là người giáo viên giúp học sinh xây dựng kiến thức của
mình trên cơ sở khuôn khổ riêng của các em và giúp các em làm chủ tri thức,
nâng cao tri thức. Đây là cách tiếp cận “Tạo dựng”. Vì vậy, sinh viên sư phạm
trước hết phải học tập và làm chủ được phương pháp này để khi trở thành giáo
viên thực sự, họ sẽ giảng dạy và hỗ trợ học sinh học tập tốt nhằm đáp ứng những
thay đổi của thời đại cũng như những đổi mới trong nghề nghiệp của mình. Một
23


×