Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Luận văn Phát triển giáo dục thể chất và thể dục thể thao trong nhà trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 90 trang )

Luận văn: Phát triển giáo dục thể chất và thể dục thể thao trong nhà trƣờng

Chƣơng 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Vị trí vai trò của Giáo dục Đào tạo và Giáo dục Thể chất trong hệ
thống giáo dục quốc dân
1.1.1. Vị trí và vai trò của Giáo dục Đào tạo trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Đất nước ta đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh quá trình nhằm phát
triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc và phát triển
nhanh, bền vững. Với bối cảnh đó, yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, nhất là trí lực, thể lực, tinh thần và ý chí Việt Nam là vấn đề có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Hiện nay có một số cách hiểu về nguồn nhân lực.
Theo Liên Hợp Quốc, “Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ
năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới
sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước”. Theo quan niệm của Liên
hiệp quốc, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực bao gồm giáo dục, đào tạo
và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và
nâng cao chất lượng cuộc sống, nguồn nhân lực, năng lực của con người về
mọi mặt: Thể lực, trí lực, tâm lực, đồng thời phân bổ, sử dụng, khai thác và
phát huy hiệu quả nhất nguồn nhân lực thông qua hệ thống phân công lao
động và giải quyết việc làm để phát triển kinh tế- xã hội. [ Nội san nhà
trường, Nguồn nhân lực trong công cuộc CNH, HĐH ở nước ta,
/>Ngân hàng thế giới cho rằng, nguồn nhân lực là toàn bộ vốn con
người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… của mỗi cá nhân.
Như vậy, ở đây nguồn lực con người được coi như một nguồn vốn bên cạnh
các loại vốn vật chất khác: vốn tiền tệ, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên.
Theo tổ chức lao động quôc tế: Nguồn nhân lực của một quốc gia là
1



Luận văn: Phát triển giáo dục thể chất và thể dục thể thao trong nhà trƣờng

toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động.
Nguồn nhân lực được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, nguồn
nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp
nguồn lực con người cho sự phát triển. Do đó, nguồn nhân lực bao gồm
toàn bộ dân cư có thể phát triển bình thường. Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân
lực là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự phát triển kinh tế
xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng
tham gia vào lao động, sản xuất xã hội, tức là toàn bộ các cá nhân cụ thể
tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực
của họ được huy động vào quá trình lao động.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xu hướng phát triển của các nước
trên thế giới. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta để thực
hiện mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh". Công nghiệp hoá, hiện đại hoá chính là quá trình biến đổi sâu sắc
các lĩnh vực đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, khoa học…) làm cho xã
hội phát triển lên một trạng thái mới về chất. Sự thành công của quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi ngoài môi trường chính trị ổn định,
còn phải có nguồn lực cần thiết như nguồn lực con người, vốn tài nguyên
thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật. Các nguồn lực này quan hệ chặt chẽ
với nhau. Cùng tham gia vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nhưng mức độ tác động vào vai trò của chúng đối với toàn bộ quá trình
công nghiệp hoá hiện đại hoá không giống nhau, trong đó nguồn nhân lực
phải đủ về số lượng mạnh về chất lượng. Nói cách khác nguồn nhân lực
phải trở thành động lực phát triển. Nguồn nhân lực phát triển thì tất yếu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải tiến hành để đáp ứng nhu cầu đó.
Khi phân tích các nguồn lực phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta
đã xác định: đối với nước ta, nguồn lực con người là nguồn lực giàu tiềm

năng và là nguồn lực quan trọng nhất.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ IX đã xác định,
một trong 3 giải pháp then chốt để phát triển đất nước trong thời kỳ mới là

2


Luận văn: Phát triển giáo dục thể chất và thể dục thể thao trong nhà trƣờng

cần bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao. Theo đó giáo
dục và đào tạo có vị trí và vai trò quyết định.
Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định “Giáo dục và đào tạo là quốc sách
hàng đầu” và luôn quan tâm, coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân
lực cho đất nước.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII và các chủ trương của
Đảng, Nhà nước về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lĩnh vực giáo dục và đào tạo nước ta đã
đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cụ thể là: Đã xây dựng được hệ thống giáo dục và
đào tạo tương đối hoàn ch nh t mầm non đến đại học. Cơ sở vật chất, thiết bị
giáo dục, đào tạo được cải thiện r rệt và t ng bước hiện đại hóa. Số lượng
học sinh, sinh viên tăng nhanh, nhất là ở giáo dục đại học và giáo dục nghề
nghiệp. Chất lượng giáo dục và đào tạo có tiến bộ. Đội ngũ nhà giáo và cán
bộ quản lý giáo dục phát triển cả về số lượng và chất lượng, với cơ cấu ngày
càng hợp lý. Chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo đạt mức 20

tổng chi

ngân sách nhà nước. Xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh; hệ thống giáo dục
và đào tạo ngoài công lập góp phần đáng kể vào phát triển giáo dục và đào tạo

chung của toàn xã hội. Công tác quản lý giáo dục và đào tạo có bước chuyển
biến nhất định.
Định hướng phát triển giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ, Nghị
quyết Trung ương II khóa VIII đã khẳng định giáo dục đào tạo cùng với khoa
học và công nghệ phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu... Chuẩn bị tốt
hành trang cho thế hệ trẻ đi vào thế kỷ XXI... Muốn xây dựng đất nước giàu
mạnh, văn minh phải có con người phát triển toàn diện, không ch phát triển
về trí tuệ, trong sáng về đạo đức lối sống mà phải là con người cường tráng về
thể chất. Chăm lo cho con người về thể chất là trách nhiệm của toàn xã hội
của tất cả các ngành các đoàn thể, trong đó có giáo dục - đào tạo, y tế TDTT

3


Luận văn: Phát triển giáo dục thể chất và thể dục thể thao trong nhà trƣờng

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI
(Nghị quyết số 29-NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo, đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng XHCN và hội nhập quốc tế.
iáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà
nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên
đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn
đề lớn, cốt l i, cấp thiết, t quan điểm, tư tưởng ch đạo đến mục tiêu, nội
dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi
mới t sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản
trị của các cơ sở giáo dục - đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng
đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành
học. Trong quá trình đổi mới, cần kế th a, phát huy những thành tựu, phát

triển những nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế
giới; kiên quyết chấn ch nh những nhận thức, việc làm lệch lạc. Đổi mới
phải bảo đảm tính hệ thống, tầm nhìn dài hạn, phù hợp với t ng loại đối
tượng và cấp học; các giải pháp phải đồng bộ, khả thi, có trọng tâm, trọng
điểm, lộ trình, bước đi phù hợp.
Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục t chủ yếu trang bị kiến
thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi
với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục
gia đình và giáo dục xã hội.
Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật
khách quan. Chuyển phát triển giáo dục và đào tạo t chủ yếu theo số lượng
sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng.

4


Luận văn: Phát triển giáo dục thể chất và thể dục thể thao trong nhà trƣờng

Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các
bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hoá, hiện
đại hoá giáo dục và đào tạo.
Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị
trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và
đào tạo. Phát triển hài hòa, hỗ trợ giữa giáo dục công lập và ngoài công lập,
giữa các vùng, miền. Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo đối với
các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng
sâu, vùng xa và các đối tượng chính sách. Thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa
giáo dục và đào tạo.

Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo,
đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát
triển đất nước. [ />Việc nghiên cứu, lựa chọn các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo
nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường và
hội nhập quốc tế là một yêu cầu bức thiết của quá trình đổi mới căn bản và
toàn diện giáo dục và đào tạo nước ta, trong đó có giáo dục thể chất, một
trong các mặt của giáo dục toàn diện và giữ vai trò tiền đề cho các mặt giáo
dục khác.
1.1.2. Vị trí và vai trò của giáo dục thể chất và thể dục thể thao trong
nhà trường các cấp
1.1.2.1. Khái niệm về giáo dục thể chất và thể dục thể thao
- Giáo dục Thể chất
DTC là một bộ phận hữu cơ của giáo dục toàn diện nhằm tác động có
hệ thống phát triển những năng lực thể chất toàn diện cho con người. Dạy học
động tác và những hiểu biết có liên quan là nội dung cơ bản của DTC. Thực
5


Luận văn: Phát triển giáo dục thể chất và thể dục thể thao trong nhà trƣờng

chất đó là dạy cho con người cách điều khiển vận động hợp lí, hình thành kĩ
năng kĩ xảo vận động. Mặt khác, DTC trực tiếp phát triển thể lực chung (sức
nhanh, sức mạnh, sức bền, mềm dẻo và khéo léo) và thể lực chuyên môn có ý
nghĩa thực dụng đối với hoạt động nghề nghiệp thể thao và chữa bệnh.
Khái niệm
đó có nghĩa

DTC nằm trong khái niệm giáo dục theo nghĩa rộng. Điều


DTC là là một hiện tượng sư phạm bởi đầy đủ ý nghĩa của nó

(vai trò chủ đạo của nhà sư phạm, tổ chức hoạt động của thầy giáo và học sinh
phù hợp với nguyên tắc sư phạm…). Đặc điểm nổi bật của DTC là ở chỗ đó
là quá trình hình thành kỹ năng, kỹ xảo vận động và phát triển tố chất vận
động. Tổng hợp những quá trình đó xác định khả năng thích nghi thể lực của
con người.
DTC (hay còn gọi tắt là thể dục, hiểu theo nghĩa rộng t ấy) là một quá
trình giáo dục tác động có mục đích, có kế hoạch, có phương pháp và phương
tiện nhằm phát triển những năng lực của con người để đáp ứng các yêu cầu
của một xã hội nhất định [Phạm Minh Hạc (1986), Một số vấn đề Giáo dục và
Khoa học giáo dục, NXB iáo dục.].
DTC được chia thành hai mặt chuyên biệt: dạy học động tác và giáo
dục tố chất vận động. Như vậy, có thể định nghĩa DTC là một loại hình giáo
dục có nội dung đặc thù là giảng dạy động tác và giáo dục tố chất vận động.
Trong hệ thống giáo dục cộng sản chủ nghĩa, DTC có ý nghĩa như một
trong những nhân tố giáo dục toàn diện nhân cách.
Tóm lại, DTC là một quá trình giáo dục mà đặc trưng của nó thể hiện ở
việc giảng dạy các động tác và giáo dục (điều khiển sự phát triển) các tố chất
thể lực của con người.
- Thể dục - Thể thao
Thuật ngữ TDTT được dùng ở nước ta vào những năm sau hòa bình
(1955) ở niềm Bắc. Ngay t khi sử dụng thuật ngữ này, chưa ai xây dựng cho
nó nội dung có tính khoa học. Khó có thể giải thích thuật ngữ TDTT theo

6


Luận văn: Phát triển giáo dục thể chất và thể dục thể thao trong nhà trƣờng


phương pháp cắt nghĩa t ng chữ như “thể” là thân thể, “dục” nghĩa là giáo
dục, “thể dục” nghĩa là giáo dục cơ thể.
Trong những tài liệu chuyên môn gần đây, thuật ngữ TDTT đã có nội
dung cụ thể. Nội dung của thuật ngữ này được phiên dịch t các tài liệu nước
ngoài. Nếu dịch theo đúng t điển thì nội dung khái niệm TDTT đang dùng
phải mang tên là văn hóa thể chất.
Song khó có thể thay đổi một thuật ngữ đã quen dùng t lâu bằng một
thuật ngữ phù hợp với nội dung khoa học. Do vậy, thuật ngữ này được hiểu
theo nội dung khoa học mà thế giới đã thống nhất và tên gọi ở Việt Nam là
TDTT. Như vậy, TDTT là t đồng nghĩa với văn hóa thể chất và bao gồm cả
DTC và thể thao.
Theo P S. TS Vũ Đức Thu và TS. Trương Anh Tuấn thì: văn hóa thể
chất (TDTT) là một quá trình hoạt động nhằm tác động có chủ đích, có tổ
chức theo những nhu cầu, lợi ích của con người (không phải ngẫu nhiên, bẩm
sinh, vô thức). Nó là những hình thức hoạt động hợp lý mà trong đó con
người sử dụng một cách khoa học sự vận động tích cực của cơ bắp để hoàn
thiện thể chất của mình. Trong cuộc sống, con người sử dụng sự vận động cơ
bắp trong nhiều hoạt động khác nhau, nhưng không phải tất cả các hình thức
vận động đó đều thuộc về văn hóa thể chất, mà ch có những hành động vận
động được lựa chọn để hình thành kỹ năng, kỹ xảo vận động cần thiết cho
cuộc sống (kỹ năng sống), cho sự phát triển các tố chất thể lực; phát triển tối
ưu trạng thái sức khỏe, tăng khả năng làm việc mới thuộc về văn hóa thể chất.
Trong trường hợp này thành phần cơ bản của văn hóa thể chất là các bài tập
thể dục thể thao [Vũ Đức Thu - Nguyễn Trương Tuấn (1998), Lý luận và
phương pháp GDTC, NXB TDTT Hà Nội.].
Tóm lại, TDTT là một bộ phận của nền văn hóa xã hội, một loại hình
hoạt động mà phương tiện cơ bản là các bài tập thể lực nhằm tăng cường thể
chất con người hoặc nâng cao thành tích thể thao, góp phần làm phong phú
đời sống tinh thần, giáo dục con người phát triển toàn diện, làm khơi dậy và
phát huy tối đa mọi tiềm năng di truyền trong con người. TDTT bao gồm ba

7


Luận văn: Phát triển giáo dục thể chất và thể dục thể thao trong nhà trƣờng

bộ phận chủ yếu cấu thành: TDTT trường học, TDTT quần chúng (tức là thể
thao cho mọi người) và thể thao thành tích cao.
1.1.2.2. Vị trí vai trò của giáo dục thể chất và thể dục thể thao trong nhà
trường các cấp
Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992, tại điều 41 đã chi r
“Quy định chế độ DTC bắt buộc trong trường học"
Điều đó đã khẳng định vị trí và vai trò của

DTC trong đào tạo thế hệ

trẻ - lực lượng lao động mới quyết định sự thành công của sự nghiệp CNH HĐH đất nước khẳng định sự quan tâm của Đảng và Nhà nước với sự nghiệp
phát triển TDTT trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
So với các loại hình TDTT khác,

DTC và thể thao trường học có những ưu

thế tuyệt đối:
Tính đến năm 2009, cả nước có gần 20 triệu HS, SV đang học tập t các
trường tiểu học đến đại học là lực lượng thanh thiếu niên đang thực hiện chế
độ

DTC bắt buộc của nền giáo dục quốc dân. Đó chính là điều kiện cho

phép mở rộng và phát huy vị trí vai trò và tầm ảnh hưởng của công tác TDTT
nói chung, DTC trường học nói riêng.

DTC là môn học bắt buộc duy nhất trong hệ thống giáo dục quốc dân
được tiến hành đào tạo t mẫu giáo đến đại học. Đó là điều kiện để GDTC
trường học tác động có chủ đích, kế hoạch và khoa học đến t ng giai đoạn
phát triển của nhi đồng và thanh thiếu niên Việt Nam
Với học sinh, sinh viên thì

DTC không ch là môn học là còn là nội

dung, hình thức, phương tiện hoạt động trong quá trình học tập và rèn luyện
tại nhà trường là nội dung và phương thức để nhà trường và các cấp triển khai
các hoạt động giáo dục học sinh. DTC trường học thực hiện chức năng giao
tiếp và liên kết trong giáo dục HS, SV tạo ra bầu không khí thân thiết và hiểu
biết lẫn nhau giữa các HS, các nhà trường, truyền tải những giá trị chân chính
của TDTT đến t ng HS, SV thông qua đó giáo dục ở các em những tư tưởng,
tình cảm và nhân cách của con người mới XHCN đồng thời góp phần giáo
dục và phát triển thẩm mỹ cho HS, SV.
8


Luận văn: Phát triển giáo dục thể chất và thể dục thể thao trong nhà trƣờng

Trong tiến trình thực hiện chủ trương xã hội hóa TDTT của Đảng và
Nhà nước khẳng định trường học là địa bàn chiến lược và HS, SV là lực
lượng quyết định sự thành công của sự nghiệp xà hội hóa TDTT trên phạm
vi toàn quốc
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã t ng nói: “TDTT là một công tác
cách mạng như các công tác cách mạng khác”. Năm 1946, khi nước ta v a
giành được độc lập, Người đã viết bài báo “Sức khỏe và Thể dục” khuyên
nhân dân nên luyện tập thể dục để bồi bổ sức khỏe để xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, coi đó là bổn phận của mỗi người dân yêu nước. Người viết: "Giữ gìn

dân chủ xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe
mới làm thành công, mỗi một người dân yếu ớt tức là cả nước yếu ớt, mỗi một
người dân mạnh khỏe tức là cả nước mạnh khỏe. Vậy nên luyện tập thể dục,
bồi bổ sức khỏe là bổn phận của mỗi một người dân yêu nước" (Báo Cứu
quốc, số 199, ngày 27 tháng 3 năm 1946) [Quốc hội nước CHXHCN Việt
Nam (2005), Luật Giáo dục, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội]. Chủ tịch Hồ
Chí Minh rất quan tâm đến sự nghiệp TDTT vì sức khỏe nhân dân. Người đặc
biệt quan tâm đến sự phát triển thể chất và tinh thần của thế hệ trẻ.
Năm 1995 Thủ tướng Chính phủ đã có Ch thị 133 TTg về xây dựng quy
hoạch phát triển ngành TDTT. Trong đó đã nêu: Bộ Giáo dục và Đào tạo cần
đặc biệt coi trọng việc giáo dục thể chất trong nhà trường. Cải tiến nội dung
giảng dạy TDTT nội khóa, ngoại khóa, quy định tiêu chuẩn rèn luyện thân thể
cho học sinh ở các cấp học, quy chế bắt buộc ở các trường, nhất là các
trường đại học phải có sân bãi, phòng tập TDTT, có định biên hợp lý và có kế
hoạch đào tạo đội ngũ giáo viên TDTT đáp ứng nhu cầu ở tất cả cấp học"
[Ch thị 133 của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng và quy hoạch phát triển
ngành nghề thể thao ngày 07-03-1995].
Đảng, Nhà nước và Quốc hội đã khẳng định sự quan tâm đối với TDTT
và DTC trường học, coi đó là trách nhiệm lãnh đạo và ch đạo quan trọng và

9


Luận văn: Phát triển giáo dục thể chất và thể dục thể thao trong nhà trƣờng

thường xuyên của các cấp ủy Đảng, Chính quyền và nhiệm vụ của toàn dân
và toàn xã hội.
* Trách nhiệm của Nhà nước đối với GDTC và thể thao trong nhà trường
- Nhà nước có chính sách dành đất đai, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất
cho giáo dục thể chất và thể thao trong nhà trường, bảo đảm đủ giáo viên,

giảng viên thể dục thể thao cho các bậc học. (Điều 21 - Luật TDTT 2007).
- Bộ trưởng Bộ iáo dục và Đào tạo phối hợp với Bộ trưởng, Chủ nhiệm
Uỷ ban Thể dục thể thao xây dựng chương trình giáo dục thể chất, đào tạo,
bồi dưỡng giáo viên, giảng viên thể dục thể thao, hướng dẫn nội dung hoạt
động thể thao ngoại khoá trong nhà trường.
- Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm ch
đạo, tổ chức thực hiện việc xây dựng cơ sở vật chất, bố trí giáo viên, giảng
viên thể dục thể thao cho các trường thuộc phạm vi quản lý của mình.
- Uỷ ban nhân dân t nh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm
sau đây:
+ Quy hoạch đất đai, xây dựng cơ sở vật chất, nhà tập đa năng, bảo đảm
trang thiết bị, dụng cụ thể thao, ch tiêu biên chế giáo viên, giảng viên thể dục
thể thao cho các trường công lập thuộc địa phương;
+ Thực hiện chính sách ưu đãi về đất đai theo quy định của pháp luật đối
với trường tư thục, trường dân lập để các trường này có điều kiện xây dựng cơ
sở vật chất phục vụ giáo dục thể chất và thể thao trong nhà trường
* Trách nhiệm của Nhà trường
- Tổ chức thực hiện chương trình môn học giáo dục thể chất theo quy
định của Bộ trưởng Bộ iáo dục và Đào tạo.
- Quản lý và sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ
giáo dục thể chất và thể thao trong nhà trường.
- Tổ chức cho người học tham gia các hoạt động thể thao ngoại khoá.
- Bảo đảm an toàn cho người dạy và người học trong các hoạt động thể
dục, thể thao.
- Phát hiện, bồi dưỡng năng khiếu thể thao. (Điều 22 - Luật TDTT 2007).
10


Luận văn: Phát triển giáo dục thể chất và thể dục thể thao trong nhà trƣờng


* Trách nhiệm của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, các tổ chức xã hội - nghề
nghiệp về thể thao có trách nhiệm phối hợp với nhà trường tổ chức các hoạt
động thể thao ngoại khoá cho người học. (Điều 26-Luật TDTT 2007).
1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc về TDTT nói chung và GDTC
trƣờng học nói riêng
Trong chiến lược phát triển TDTT Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm
đến mục tiêu giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ. Trí dục, Thể dục và Đức dục
được coi là những vấn đề quan trọng nhằm giáo dục hình thành cho người học
sự phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần,
trong sáng về đạo đức.
Nghị quyết đại hội Đảng cộng sản Việt Nam là thứ VIII đã ch r : Hai
ngành

iáo dục - Đào tạo và Thể dục thể thao cần thống nhất những biện

pháp chủ yếu, để nhằm tăng cường đẩy mạnh nâng cao chất lượng công tác
DTC trong nhà trường các cấp là: " Thống nhất tổ chức cuộc vận động
tuyên truyền rộng khắp nhằm có được nhận thức đúng về vị trí quan trọng
của công tác giáo dục thể chất trong chiến lược phát triển con người tới đội
ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục đào tạo và TDTT, học sinh, sinh viên
và toàn xã hội. Kiện toàn tổ chức chỉ đạo và quản lý GDTC từ Trung ương tới
trường học. Cần có hình thức chỉ đạo linh hoạt, gắn hoạt động GDTC với sự
nghiệp giáo dục, đào tạo, TDTT, văn hóa, kinh tế - xã hội"; "Xác định rõ
trách nhiệm hiệu trưởng nhà trường các cấp và toàn thể đội ngũ cán bộ quản
lý giáo dục đối với công tác GDTC. Kiến nghị với các cấp, các ngành cần
chấm dứt việc lấn chiếm sân chơi, bãi tập của nhà trường. Các địa phương
cần cấp đất đủ để xây dựng sân chơi bãi tập cho học sinh, sinh viên trong
trường học các cấp" [Văn kiện Đại hội toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam
lần thứ VII tháng 06-1991, Nxb Sự thật, 1992.].

Ch thị 36 CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác TDTT
trong giai đoạn mới, xác định:"Phát triển TDTT là bộ phận quan trọng trong
11


Luận văn: Phát triển giáo dục thể chất và thể dục thể thao trong nhà trƣờng

chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước nhằm bồi dưỡng
và phát huy nhân tố con người công tác TDTT phải góp phần nâng cao sức
khỏe, thể lực, giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống lành mạnh làm phong
phú đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, nâng cao năng suất lao động
xã hội và sức chiến đấu của các lực lượng vũ trang và nhấn mạnh: "Thực
hiện nền giáo dục thể chất trong tất cả các trường học, làm cho việc tập luyện
TDTT trở thành nếp sống hằng ngày của hầu hết học sinh - sinh viên”. [Chỉ
thị 36 CT-TW của Ban bí thư Trung ương Đảng về công tác TDTT trong giai
đoạn mới]
Để công tác GDTC trong nhà trường thực sự trở thành một khâu quan
trọng của sự nghiệp giáo dục - đào tạo và được triển khai đồng bộ với các mặt
giáo dục tri thức, nhân cách cho học sinh, sinh viên t lứa tuổi mầm non cho
đến đại học, Bộ trưởng Bộ

iáo dục và Đào tạo đã ban hành quy chế về công

tác GDTC trong nhà trường các cấp. Trong đó khẳng định: "Giáo dục thể chất
được thực hiện trong nhà trường từ mầm non đến đại học, góp phần đào tạo
những công dân phát triển toàn diện. GDTC là một bộ phận hữu cơ của mục
tiêu giáo dục và đào tạo, nhằm giúp con người phát triển cao về trí tuệ, cường
tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”. [Quy chế về
công tác GDTC trong nhà trường các cấp, Ban hành kèm theo Quyết định số
93 QĐ/RLTT ngày 29-04-1993 của Bộ trưởng Bộ iáo dục và Đào tạo]; Luật

giáo dục đã ch r "Chương trình GDTC trong các trường đại học nhằm giải
quyết nhiệm vụ giáo dục: trang bị kiến thức, kỹ năng về rèn luyện thể lực của
sinh viên, giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa, cung cấp cho sinh viên những
kiến thức lý luận cơ bản về nội dung và phương pháp tập luyện TDTT, góp
phần duy trì và củng cố sức khỏe của sinh viên" [Luật

iáo dục (1999), Nxb

iáo dục, Hà Nội.].
1.3.Xu thế đổi mới giáo dục thể chất theo định hƣớng nghề trong
Giáo dục và Đào tạo chuyên nghiệp.

12


Luận văn: Phát triển giáo dục thể chất và thể dục thể thao trong nhà trƣờng

1.3.1. Xu thế đổi mới của Giáo dục và Đào tạo chuyên nghiệp.
* Chuyển đổi đào tạo t niên chế sang học chế tín ch .
Đổi mới giáo dục
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều lấy giáo dục phổ thông làm nền
tảng và coi giáo dục đại học là yếu tố quyết định chất lượng nguồn nhân lực.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của
nước mình, mỗi quốc gia có thể nhấn mạnh khía cạnh khác nhau trong chiến
lược phát triển giáo dục đại học. Bởi vậy xu thế hiện nay là chuyển đổi
chương trình đào tạo theo niên chế sang đào tạo theo học chế tín ch nhằm
mục đích:
+ Rút ngắn thời gian đào tạo t ng môn học, đồng thời mở rộng thời gian
tự học của sinh viên.
+ Trao quyền chủ động cho sinh viên.

+ Tạo điều kiện để sinh viên tăng cường khả năng tự học.
+ Bắt buộc giáo viên đổi mới phương pháp dạy học: T thầy đọc ghi
sang thầy là người tổ chức, điều khiển và hướng dẫn sinh viên tiếp nhận
những tri thức.
+ Trong vai trò của người tham gia vào quá trình dạy và học, người dạy
hoạt động như là một thành viên tham gia vào quá trình học tập ở trên lớp với
các nhóm người học. Với tư cách v a là cố vấn v a là người tham gia vào quá
trình học tập, người dạy còn có thêm một vai trò bổ sung nữa: Đó là, nguồn
tham khảo cho người học, giúp họ tháo gỡ những khó khăn trong quá trình
học tập và nghiên cứu.
+ Mở rộng nội dung tự chọn trong đào tạo.
+ Phát huy tính tự giác tích cực của sinh viên.
+ Người học phải được tạo điều kiện để thực sự trở thành người đàm
phán tích cực và có hiệu quả với chính mình trong quá trình học tập, với
mục tiêu học tập, với các thành viên trong nhóm và trong lớp học và với
13


Luận văn: Phát triển giáo dục thể chất và thể dục thể thao trong nhà trƣờng

người dạy.
+ Tạo điều kiện để sinh viên có khả năng tự hoạch định kế hoạch đào tạo
trong quá trình học đại học.
Phương thức đào tạo theo tín ch hầu như đã trở thành phổ biến ở nhiều
nước trên thế giới. Chuyển sang phương thức đào tạo theo tín ch sẽ tạo được
sự liên thông giữa các sơ sở đào tạo đại học trong nước và ngoài nước. Khi
đó, người học có thể dễ dàng di chuyển t trường đại học này sang học ở
trường đại học kia (kể cả trong nước và ngoài nước) cũng được dễ dàng hơn
mà không gặp khó khăn trong việc chuyển đổi tín ch .
Việc áp dụng phương thức đào tạo theo tín ch sẽ khuyến khích sự di

chuyển của sinh viên, mở rộng sự lựa chọn học tập của họ, làm tăng độ minh
bạch của hệ thống giáo dục, và giúp cho họ việc so sánh giữa các hệ thống
giáo dục đại học trên thế giới được dễ dàng hơn.
* Đổi mới phương pháp dạy học
Trong quá trình tiến hành đổi mới phương pháp dạy học, các nhà trường
sư phạm phải tạo nên sự đột phá và tiên phong đi đầu về đổi mới phương
pháp dạy học. Bởi lẽ các trường sư phạm có ảnh h ưởng rất lớn, quyết định
đến phương pháp dạy học ở trường phổ thông, nếu ở trường sư phạm sinh
viên có điều kiện tiếp cận với phương pháp dạy học tích cực, hiện đại thì khi
trở thành giáo viên tương lại tại nhà trường phổ thông họ mới có thể sử dụng
được các phương pháp đó vào trong quá trình công tác giảng dạy.
Việc đổi mới phương pháp dạy học là một quá trình liên tục hoàn thiện
và không ng ng phát triển, khâu nọ ảnh hưởng trực tiếp đến khâu kia trong
quá trình dạy học, khi bắt đầu xây dựng một chương trình dạy học nào đó
thường phải đánh giá được thực trạng chương trình dạy học hiện hành xem nó có
ưu, nhược điểm gì, có phù hợp với tình hình mới hay không, sau đó kết hợp với
điều kiện thực tế của nhà trường và nhu cầu đào tạo của người học, xã hội ... T
đó đưa ra những đổi mới phương pháp dạy học sao cho phù hợp với xu thế phát
14


Luận văn: Phát triển giáo dục thể chất và thể dục thể thao trong nhà trƣờng

triển của thời đại. Xu hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay là:
- Đổi mới về phương tiện dạy học.
- Đổi mới về phương pháp dạy học.
- Đổi mới về nội dung dạy học.
Nhằm tích cực hóa quá trình học tập của sinh viên. Tăng cường bồi
dưỡng cho người học ý thức, thói quen, phương pháp tự học biến quá trình
đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Phương pháp dạy học nhằm phát huy

tính tích cực, độc lập sáng tạo của học sinh, sinh viên. Tức là lấy hoạt động
nhận thức của sinh viên làm trung tâm trong quá trình dạy học, ứng dụng
các phương tiện dạy học hiện đại (công nghệ thông tin) vào quá trình đào
tạo. [S.D.Shama, Shakti (1996), Phương pháp dạy học ở đại học. Nhà xuất
bản

iáo dục Hà Nội]
Như vậy, việc đổi mới phương pháp dạy học là một khâu quan trọng của

quá trình xây dựng và hoàn thiện chương trình, nhằm đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao về chất lượng đào tạo. Do đó khi đổi mới phương pháp dạy học cần
phải chú ý xem xét đến t ng môn học.
Phương pháp dạy học là những hình thức và cách thức hoạt động của
giáo viên và học sinh trong những điều kiện dạy học xác định nhằm đạt mục
đích dạy học.
Cốt l i của việc đổi mới phương pháp dạy học là hướng tới hoạt động
học tập tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh, chống lại thói quen học tập
thụ động. Đổi mới phương pháp dạy học bao gồm đổi mới nội dung và hình
thức hoạt động của giáo viên và học sinh, đổi mới hình thức tổ chức dạy học,
đổi mới hình thức tương tác xã hội trong dạy học, đổi mới kỹ thuật dạy học
với định hướng:
- Bám sát mục tiêu đào tạo.
- Phù hợp với nội dung dạy học cụ thể.
- Phù hợp với đặc điểm lứa tuổi người học.

15


Luận văn: Phát triển giáo dục thể chất và thể dục thể thao trong nhà trƣờng


- Phù hợp với cơ sở vật chất, các điều kiện dạy học của nhà trường.
- Phù hợp với việc đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả dạy học.
- Kết hợp giữa việc tiếp thu và sử dụng có chọn lọc, có hiệu quả các
phương pháp dạy học tiên tiến, hiện đại với việc khai thác những yếu tố tích
cực của các phương pháp dạy học truyền thống.
- Tăng cường sử dụng các phương tiện dạy học, thiết bị dạy học và đặc
biệt lưu ý đến những ứng dụng của công nghệ thông tin.
Mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học là thay đổi lối dạy học
truyền thụ một chiều sang dạy học theo “Phương pháp dạy học tích cực” với
các kỹ thuật dạy, học tích cực nhằm giúp sinh viên phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần
hợp tác, kỹ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong
học tập và trong thực tiễn; tạo niềm tin, niềm vui, hứng thú học tập. Làm cho
“ Học” là quá trình kiến tạo; sinh viên tìm tòi, khám phá, phát hiện, luyện tập,
khai thác và xử lý thông tin, tự hình thành tri thức, có năng lực và phẩm chất
của con người mới tự tin, năng động, sáng tạo trong cuộc sống.
Như vậy đổi mới phương pháp dạy học là một khâu của quá trình xây
dựng và hoàn thiện chương trình, nhằm không ng ng đáp ứng tốt hơn với yêu cầu
ngày càng cao về chất lượng đào tạo của xã hội. Điều đó cho thấy chương
trình dạy học có quan hệ, ảnh hưởng qua lại mật thiết với nhau không những
ở các cấp học, bậc học mà ở ngay các môn học. Do đó khi đổi mới phương
pháp dạy học cần phải chú ý xem xét đến t ng môn học.
1.3.2. Xu thế đổi mới GDTC theo định hướng nghề.
T kết quả nghiên cứu thực trạng công tác

iáo dục Thể chất ở các

trường Đại học và Cao đẳng hiện nay cho thấy hiệu quả đào tạo chưa cao,
chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, lý do cơ bản và trực tiếp là chương trình
được xây dựng chưa đáp ứng được yêu cầu nghề nghiệp đào tạo. Những tồn

tại chủ yếu là:
- Nội dung chương trình chưa quan tâm nhiều đến người học và chất

16


Luận văn: Phát triển giáo dục thể chất và thể dục thể thao trong nhà trƣờng

lượng đào tạo.
- Thời lượng dành cho hoạt động thể lực là quá ít chưa đáp ứng được yêu
cầu của nghề nghiệp đòi hỏi.
Nguyên nhân cơ bản là xây dựng và thiết kế chương trình theo kiểu áp
đặt khung thời gian và phỏng đoán nhu cầu, quá trình hình thành chương trình
chưa đáp ứng nhu cầu nghề nghiệp một cách toàn diện.
Chính vì vậy việc xây dựng một chương trình môn học

DTC đáp ứng

nhu cầu nghề nghiệp nhằm nâng cao thể lực, phát triển thể chất cho sinh viên
là điều hết sức cấp bách.
Xu hướng đổi mới nội dung chương trình

DTC theo hướng đáp ứng

nhu cầu nghề nghiệp được thể hiện trên những mặt sau:
- Sử dụng các môn thể thao mang tính phổ cập, các môn thể thao phù
hợp với sức khỏe, trình độ và sở trường của học sinh, sinh viên, nhằm đáp
ứng nhu cầu và tích cực hoá quá trình học tập của học sinh, sinh viên. Tạo
điều kiện để học sinh, sinh viên có điều kiện sử dụng một môn thể thao để rèn
luyện suốt đời.

- Lựa chọn các bài tập thể lực chuyên biệt có tác dụng phát triển các
năng lực vận động đáp ứng nhu cầu của ngành nghề đào tạo.
Yêu cầu chuẩn bị các tố chất thể lực cho nghề nghiệp của sinh viên là
yêu cầu cấp thiết và không thể thiếu trong quá trình

DTC các trường Đại

học nhằm trực tiếp góp phần nâng cao hiệu quả học tập, tạo ra những năng lực
và tố chất thể lực cần thiết cho sinh viên chuẩn bị sẵn sàng bước vào quá trình
lao động của mình sau này.
1.4. Đặc điểm nội dung chƣơng trình đào tạo cán bộ y tế có trình độ
trung cấp
1.4.1. Đặc điểm nội dung chương trình đào tạo cán bộ y tế có trình độ
trung cấp.

17


Luận văn: Phát triển giáo dục thể chất và thể dục thể thao trong nhà trƣờng

1.4.2. Sự tương đồng về nội dung đào tạo giữa chuyên môn cán bộ y tế
và cán bộ thể dục thể thao.
Khi một cán bộ y tế được cung cấp tài liệu, bồi dưỡng những kiến thức
cơ bản về y sinh học như:

iải phẫu người, Sinh cơ TDTT, Sinh hóa TDTT,

Vệ sinh TDTT, Y học TDTT, Sinh lý TDTT và thường xuyên được tổ chức
các hoạt động y tế tại các trung tâm TDTT, các CLB TDTT khi đó họ sẽ có
kiến thức để tham gia phục vụ các giải thi đấu thể thao các cấp, có kết hợp với

Y tế khám và chữa bệnh, đặc biệt là các chấn thương trong hoạt động thể thao
và có khả năng đảm nhiệm công tác y tế cho VĐV trong các đội tuyển thể
thao và làm tốt công tác hồi phục chức năng vận động cho VĐV ở các cơ sở
đơn vị nhỏ lẻ cho tới trung tâm lớn cũng như tất cả mọi người tham gia tập
luyện tại các trung tâm y học TDTT hoặc trung tâm điều dưỡng.
Hiệu quả của việc lồng ghép kiến thức Y sinh học trong hoạt động giáo
dục thể chất có khả năng đảm nhận tốt công tác chăm sóc và theo d i sức
khỏe và năng lực vận động của người bệnh, VĐV trong xã phường thị trấn
quận huyện, trường học phổ thông các cấp và chuyên nghiệp.
- Công tác trong các bệnh viện TDTT và trung tâm TDTT, CLB
TDTT, Đội tuyển khi đó họ sẽ có năng lực tham gia chẩn đoán, đánh giá,
ch dẫn, điều trị bằng vận động, lý liệu pháp cho các VĐV và bệnh nhân
trong các đơn vị.
- Biết phát hiện sớm các chấn thương và các trạng thái bệnh lý thường
gặp trong tập luyện và thi đấu thể thao. Phòng ng a và xử lý bước
đầu các chấn thương thể thao.
18


Luận văn: Phát triển giáo dục thể chất và thể dục thể thao trong nhà trƣờng

- Có khả năng giáo dục và cố vấn cho VĐV, hướng dẫn viên cho người
dân khi tham gia lao động và hoạt động TDTT. Thông thường khi đã có kiến
thức về Y học TDTT thì về chăm sóc sức khỏe và đề phòng các chấn thương,
các bệnh thường gặp trong hoạt động TDTT là rất tốt đem lại cuộc sống vui
vẻ hạnh phúc trong công tác và đời sống hàng ngày
1.4.3. Vị trí, vai trò của các nhóm y học trong hoạt động nghề nghiệp
của cán bộ y tế

1.4.4. Vị trí, vai trò của các môn học nhóm y sinh trong hoạt động

nghề nghiệp của cán bộ thể dục thể thao
Trong đời sống xã hội hiện nay, TDTT đã trở thành một phần không thể
thiếu trong cuộc sống tinh thần của con người. Để có được thành công trong
bất kỳ bộ môn thể thao nào, người chơi thậm chí đã phải đổ cả mồ hôi và
máu. Và những chấn thương xảy ra khi đang tập luyện hoặc chơi thể thao lúc
nào cũng có thể xảy ra. Vì thế ngành y sinh học TDTT đã ra đời như một tất
yếu, những kiến thức về y sinh học tới hoạt động thể thao đã có sự đóng góp
thầm lặng không ch thể hiện ở đội ngũ bác sĩ mà còn các cán bộ y học thể
thao đã góp phần không nhỏ vào bảng vàng thành công trong sự nghiệp thể
thao tập thể và cá nhân. iữa môn Y sinh học và hoạt động thể thao đã có mối
quan hệ chặt chẽ hỗ trợ cho nhau trong công tác nghiên cứu khoa học thể
thao, huấn luyện thể thao và đã được chứng minh bằng sự ra đời của môn Y
sinh học TDTT. Thực tế chúng được đưa vào giảng dạy ở nhiều trường đại
học, cao đẳng trên thế giới trong đó có Việt Nam. Đi đầu trong ngành này ở
19


Luận văn: Phát triển giáo dục thể chất và thể dục thể thao trong nhà trƣờng

nước ta là trường Đại học TDTT Bắc Ninh và TP.HCM và một số trường đại
học có chuyên ngành về Thể dục thể thao và Y sinh học. Dựa trên những vận
dụng khoa học và chuẩn đoán, cũng như kỹ năng tổ chức y tế trong thi đấu thể
thao, cán bộ y bác sĩ ngành y sinh học TDTT có thể phòng ng a, phát hiện và
hỗ trợ điều trị những chấn thương thể thao thường gặp phải.
Y sinh học TDTT là một ngành độc lập nhưng có liên quan mật thiết đến
y học và dược học. Những kiến thức chuyên ngành này rất rộng như hóa hữu
cơ, thể dục chữa bệnh, sinh lý bệnh, y tế cơ sở, vật lý trị liệu, kỹ thuật y học,
di truyền học, sinh hóa TDTT…. Chính vì điều này mà các cán bộ chuyên
ngành thể thao cũng như các y bác sỹ phải nắm vững những kiến thức cơ bản
nền tảng về y sinh học TDTT.

1.5. Đặc điểm hoạt động nghề nghiệp của nhân viên Y tế cơ sở.
1.5.1. Đặc điểm hoạt động nghề nghiệp của nhân viên Y tế cơ sở
thôn, bản
Căn cứ vào thông tư số: 07/2013/TT-BYT của Bộ y tế ra ngày 08 tháng
03 năm 2013 Quy định tiêu chuẩn, chức năng, nhiệm vụ của nhân viên y tế
thôn, bản; Căn cứ Nghị định số 63/2012/NĐ-CP ngày 31 tháng 8 năm 2012
của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Bộ Y tế; Căn cứ Quyết định số 153/2006/QĐ-TTg ngày 30 tháng 6 năm
2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể phát
triển hệ thống y tế Việt Nam giai đoạn 2010 và tầm nhìn đến năm 2020; Căn
cứ Quyết định số 75/2009/QĐ-TTg ngày 11 tháng 5 năm 2009 của Thủ tướng
Chính phủ về việc quy định chế độ phụ cấp đối với nhân viên y tế thôn, bản.
Theo đề nghị của Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ trưởng Vụ Sức khỏe
Bà mẹ - Trẻ em, Bộ Y tế; Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành Thông tư quy định tiêu
chuẩn, chức năng, nhiệm vụ của nhân viên y tế thôn, bản.
- Nhân viên y tế thôn, bản làm công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu.
- Về trình độ chuyên môn, đào tạo: Có trình độ chuyên môn về y t sơ
cấp trở lên hoặc đã hoàn thành khóa đào tạo có thời gian t 3 tháng trở lên
20


Luận văn: Phát triển giáo dục thể chất và thể dục thể thao trong nhà trƣờng

theo khung chương trình đào tạo nhân viên y tế thôn, bản của Bộ Y tế. Đang
sinh sống, làm việc ổn định tại thôn, bản; tự nguyện tham gia làm nhân viên y
tế thôn, bản hoặc cô đỡ thôn, bản. Có tinh thần trách nhiệm, nhiệt tình tham
gia hoạt động xã hội, có khả năng vận động quần chúng và được cộng đồng
tín nhiệm. Có đủ sức khoẻ để thực hiện các nhiệm vụ theo quy định.
- Chức năng của nhân viên y tế thôn, bản có chức năng tham gia chăm
sóc sức khỏe ban đầu tại thôn, bản.

- Nhiệm vụ của nhân viên y tế thôn, bản
+ Tuyên truyền, giáo dục sức khoẻ tại cộng đồng: Thực hiện tuyên
truyền, phổ biến kiến thức bảo vệ sức khoẻ, vệ sinh môi trường và an toàn
thực phẩm, hướng dẫn một số biện pháp chăm sóc sức khoẻ ban đầu; phòng,
chống dịch bệnh tại cộng đồng, tuyên truyền, giáo dục người dân về phòng,
chống HIV/AIDS, vận động, cung cấp thông tin, tư vấn về công tác dân số kế hoạch hóa gia đình.
+ Tham gia thực hiện các hoạt động chuyên môn về y tế tại cộng đồng:
phát hiện, tham gia giám sát và báo cáo tình hình dịch, bệnh truyền nhiễm,
bệnh không lây nhiễm, bệnh xã hội, bệnh truyền qua thực phẩm tại thôn, bản,
tham gia giám sát chất lượng nước dùng cho ăn uống, sinh hoạt; công trình vệ
sinh hộ gia đình, nơi công cộng tại thôn, bản, tham gia triển khai thực hiện
các phong trào vệ sinh phòng bệnh, an toàn thực phẩm, nâng cao sức khỏe
cộng đồng, xây dựng làng văn hóa sức khỏe.
+ Sơ cứu ban đầu và chăm sóc bệnh thông thường: thực hiện sơ cứu ban
đầu các cấp cứu và tai nạn, chăm sóc một số bệnh thông thường tại cộng
đồng, tham gia hướng dẫn chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, người khuyết
tật, người mắc bệnh xã hội, bệnh không lây nhiễm tại gia đình.
- Tham gia thực hiện các chương trình y tế tại thôn, bản.
- Vận động, hướng dẫn nhân dân nuôi trồng và sử dụng thuốc nam tại gia
đình để phòng và chữa một số chứng, bệnh thông thường

21


Luận văn: Phát triển giáo dục thể chất và thể dục thể thao trong nhà trƣờng

- Tham gia giao ban định kỳ với trạm y tế xã, phường, thị trấn (sau đây
gọi là trạm y tế xã); tham gia các khoá đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng về chuyên
môn do cơ quan y tế cấp trên tổ chức để nâng cao trình độ.
- Quản lý và sử dụng hiệu quả Túi y tế thôn, bản.

- Thực hiện ghi chép, báo cáo kịp thời, đầy đủ theo hướng dẫn của trạm
y tế xã.
* Nhân viên y tế thôn, bản chịu sự quản lý, ch đạo trực tiếp và hướng
dẫn về chuyên môn kỹ thuật của Trạm y tế xã.
* Nhân viên y tế thôn, bản chịu sự quản lý, giám sát về hoạt động của Ủy
ban nhân dân cấp xã, Trưởng thôn, bản.
* Nhân viên y tế thôn, bản có mối quan hệ phối hợp với các tổ chức quần
chúng, đoàn thể tại thôn, bản.
* Các nhân viên y tế thôn, bản cùng phối hợp thực hiện nhiệm vụ được
phân công.
1.5.2. Đặc điểm hoạt động nghề nghiệp của nhân viên trạm Y tế xã
Ngày 3-2-1994, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định số 58/QĐTTg quy định về tổ chức và chế độ chính sách đối với y tế cơ sở. Theo quyết
định này, cán bộ làm việc tại trạm y tế xã có 2 loại: Thuộc biên chế Nhà nước
và không thuộc biên chế Nhà nước nhưng được hưởng mội quyền lợi và theo
hệ số ngạch bậc lương của cán bộ nhân viên y tế trong biên chế Nhà nước có
cùng trình độ.
Tuy nhiên, trong thực tế cho thấy việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý
lao động trong các trạm y tế xã, phường, thị trấn t năm 1994 đến nay có sự
khác nhau giữa 2 đối tượng lao động là viên chức và hợp đồng theo Quyết
định 58/QĐ-TTg. Vì tất cả các văn bản hướng dẫn thi hành quyết định này ch
quy định đối tượng là viên chức, không có văn bản nào đề cập đến đối tượng
hợp đồng theo Quyết định 58/QĐ-TTg, nên các chức danh chuyên môn làm
việc tại trạm y tế (kể cả bác sĩ, trưởng trạm) đều thực hiện tuyển dụng, quản

22


Luận văn: Phát triển giáo dục thể chất và thể dục thể thao trong nhà trƣờng

lý như lao động hợp đồng. Trong khi đó, chức danh dân số (trước kia là

chuyên trách dân số xã) lại được một số địa phương tuyển dụng, quản lý như
đối với viên chức. Chính điều này đã tạo ra sự không hợp lý trong tuyển dụng,
quản lý sử dụng nhân lực làm việc ở trạm y tế.
T thực tế trên, Bộ Y tế đã soạn thảo dự thảo nghị định của Chính phủ
quy định về tổ chức và nhân lực đối với trạm y tế xã, phường, thị trấn (sau
đây gọi chung là trạm y tế xã). Và hiện dự thảo nghị định này đang được đưa
ra lấy ý kiến đóng góp của các cấp, các ngành trước khi trình chính phủ phê
duyệt. Theo dự thảo nghị định, tổ chức của trạm y tế xã là đơn vị chuyên môn
kỹ thuật thuộc Trung tâm Y tế huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc t nh, có
chức năng cung cấp dịch vụ chuyên môn, kỹ thuật về chăm sóc sức khỏe ban
đầu cho nhân dân trên địa bàn. Trạm y tế xã được thành lập theo đơn vị hành
chính xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là đơn vị hành chính cấp xã) và
theo cụm dân cư ở những xã thuộc vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn, biên giới, hải đảo. Việc thành lập, sáp nhập giải thể trạm y tế xã do
Ủy ban nhân dân t nh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định hoặc phân
cấp theo thẩm quyền.
Nhân lực làm việc tại trạm y tế xã là viên chức sự nghiệp y tế, nằm trong
tổng số người làm việc của Trung tâm Y tế huyện được phân công, bố trí làm
việc tại trạm y tế xã. Số lượng người làm việc và cơ cấu chức danh nghề
nghiệp viên chức làm việc tại trạm y tế xã được xác định theo quy định của
pháp luật. Việc quản lý, sử dụng nhân lực làm việc tại trạm y tế xã thực hiện
theo quy định của Luật Viên chức; các chế độ, chính sách thực hiện theo quy
định của pháp luật.
Nhân viên y tế xã làm việc theo chế độ ngày làm 8 giờ và phân công
thường trực 24/24 giờ tại trạm y tế (kể cả ngày lễ và thứ bảy, chủ nhật) để
đảm bảo cấp cứu, khám, chữa bệnh, phòng chống dịch và bảo vệ cơ sở nhà

23



Luận văn: Phát triển giáo dục thể chất và thể dục thể thao trong nhà trƣờng

trạm. Kinh phí đảm bảo cho các hoạt động chuyên môn và đầu tư phát triển
đối với trạm y xã thực hiện theo quy định của pháp luật.
Cũng theo dự thảo nghị định này, UBND cấp t nh có trách nhiệm rà soát
số lao động hiện đang làm việc tại trạm y tế thuộc diện hợp đồng theo Quyết
định số 58/TTg của Thủ tướng chính phủ, nếu đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo
yêu cầu của vị trí việc làm và chức danh nghề nghiệp viên chức y tế thì ký
hợp đồng làm việc theo quy định của Luật Viên chức. Nếu người nào không
đủ điều kiện, tiêu chuẩn thì thực hiện chấm dứt hợp đồng lao động và giải
quyết chế độ theo quy định. Căn cứ vào đặc điểm, tình hình phát triển kinh tế
- xã hội, nhu cầu thực tế của địa phương, bố trí đủ số lượng người làm việc
theo cơ cấu chức danh nghề nghiệp của trạm y tế xã theo quy định.
[ />1.6. Khái quát về trƣờng trung cấp Y tế Hà Giang
1.6.1. Khái quát về điều kiện đại lý và kinh tế Hà Giang
Hà iang là một t nh thuộc vùng núi phía Bắc Việt Nam, phía đông giáp
t nh Cao Bằng, phía tây giáp t nh Yên Bái và Lào Cai, phía nam giáp
t nh Tuyên Quang. Về phía bắc, Hà iang giáp châu tự trị dân tộc Choang và
Miêu Văn Sơn thuộc t nh Vân Nam thuộc t nh Quảng Tây của Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa


iang nằm ở cực Bắc của Việt Nam, t nh này có nhiều ngọn núi đá

cao và sông suối.
T nh Hà Giang được thành lập ngày 20/8/1891 và tái thành lập ngày
1/10/1991. Diện tích tự nhiên là 7.884,37km2
Địa hình của t nh Hà

iang khá phức tạp, có thể chia làm 3 vùng. Vùng


cao núi đá phía bắc nằm sát chí tuyến Bắc, có độ dốc khá lớn, thung lũng và
sông suối bị chia cắt nhiều. Nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm nhưng
do địa hình cao nên khí hậu Hà

iang mang nhiều sắc thái ôn đới. Vùng cao

24


Luận văn: Phát triển giáo dục thể chất và thể dục thể thao trong nhà trƣờng

núi đất phía tây thuộc khối núi thượng nguồn sông Chảy, sườn núi dốc, đèo
cao, thung lũng và lòng suối hẹp.Vùng thấp trong t nh gồm vùng đồi núi,
thung lũng sông Lô và Thành phố Hà iang.
Kinh tế xã hội của Hà giang là vùng miền núi nên dân số trong t nh
không đông, người Kinh chiếm đa số, còn lại là các sắc dân gồm Thổ, Mèo,
Tày, Dao, Mán, Nùng,

iáy và Lô Lô. Phần đông đều thờ cúng tổ tiên, thần

linh và đều có những sắc thái văn hóa đặc thù.
Cũng vì địa thế toàn r ng núi nên kinh tế Hà

iang tương đối kém phát

triển. Lâm sản chính là vài loại gỗ quý như lát hoa, lát da đồng và các loại gỗ
cứng như lim, sến, trai, táu, đinh. Củ nâu, vầu, nứa ở đâu cũng có. Nông sản
gồm lúa, ngô, khoai và các loại đậu đỗ. Vùng chân núi Tây Côn Lĩnh trồng
nhiều trà. Dân chúng cũng trồng cây ăn trái, mận và lê ở vùng Đồng

Văn, Hoàng Su Phì rất nổi tiếng. Nghề nuôi ong lấy mật khá thịnh hành. R ng
Hà iang có nhiều động vật hoang dã như phượng hoàng, trăn, rắn, công, trĩ...
Khí hậu Hà Giang nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa và là miền núi cao,
khí hậu Hà Giang về cơ bản mang những đặc điểm của vùng núi Việt Bắc –
Hoàng Liên Sơn, song cũng có những đặc điểm riêng, mát và lạnh hơn các
t nh miền Đông Bắc, nhưng ấm hơn các t nh miền Tây Bắc . . .
Nhiệt độ trung bình cả năm khoảng 21,60C - 23,90C, biên độ nhiệt trong
năm có sự dao động trên 100C và trong ngày cũng t 6 - 70C. Mùa nóng nhiệt
độ cao tuyệt đối lên đến 400C (tháng 6, 7); ngược lại mùa lạnh nhiệt độ thấp
tuyệt đối là 2,20C (tháng l).
Chế độ mưa ở Hà Giang khá phong phú. Toàn t nh đạt bình quân lượng
mưa hàng năm khoảng 2.300 - 2.400 mm, riêng Bắc Quang hơn 4.000 mm, là
một trong số trung tâm mưa lớn nhất nước ta. Dao động lượng mưa giữa các
vùng, các năm và các tháng trong năm khá lớn. Năm 2001, lượng mưa đo
được ở trạm Hà iang là 2.253,6 mm, Bắc Quang là 4.244 mm, Hoàng Su Phì
là 1.337,9 mm... Tháng mưa cao nhất ở Bắc Quang (tháng 6) có thể đạt trên

25


×