Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Đội ngũ trí thức việt nam với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.93 KB, 63 trang )

Khoá luận tốt nghiệp

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội lần thứ VI (1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam được coi
là cột mốc lịch sử quan trọng trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ
nghĩa của nhân dân ta. Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở
ra bước ngoặt trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Để đưa nước ta trở thành một nước tiên tiến nhanh chóng hoà
nhập vào dòng tiến hoá chung của nhân loại, chúng ta chỉ có một con
đường là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Đảng ra cũng xác
định rằng để thực hiện được những mục tiêu của sự nghiệp đổi mới,
không chỉ bằng nhiệt tình và lòng dũng cảm như trước đây mà cần phải
phát huy hoạt động trí tuệ và tài năng sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân.
Đội ngũ trí thức là đại biểu tập trung cho trí tuệ dân tộc. Trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở nước ta thì trí thức tham gia
trực tiếp và chủ yếu vào nâng cao dân trí, là bộ phận nguồn lực khoa
học kỹ thuật, trí thức góp phần lớn lao vào việc phát triển lực lượng sản
xuất.
Đảng và Nhà nước ta đánh giá cao vai trò của đội ngũ trí thức
trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên
không phải mọi cấp, mọi người dân hay một bộ phận không nhỏ trí thức
chưa nhận thức được đầy đủ và sâu sắc vai trò của đội ngũ trí thức
trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Đây là một thực trạng đã và
đang tồn tại ở nước ta.
Vì vậy, để làm rõ hơn vai trò của đội ngũ trí thức là một nhân tố
cơ bản trong việc thực hiện thành công công nghiệp hoá, hiện đại hóa
đất nước, em xin chọn đề tài “Đội ngũ trí thức Việt Nam với sự nghiệp

1



Khoá luận tốt nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước” làm đề tài khoá luận tốt
nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Tầm quan trọng của đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước đã thu hút sự quan tâm của các
nhà khoa học, lý luận, các học giả ở nước ta.
Đã có những công trình liên quan đến đề tài này được công bố
- Đỗ Mười, Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới và xây
dựng đất nước. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.
- Phạm Tất Dong, Trí thức Việt Nam tiến và triển vọng, Nxb
Chính trị Quốc gia Hà Nội, 1995.
- Phan Thanh Khôi, Động lực của trí thức trong lao động sáng tạo
ở nước ta hiện nay, Luận án PTS triết học, Hà Nội, 1992.
- Nguyễn Thanh Tuấn : Đặc điểm và vai trò của đội ngũ trí thức
trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Luận án PTS triết học, Hà Nội, 1995.
- Ngô Đình Xây, Những yêu cầu đối với trí thức trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Tạp chí Cộng sản số 27-2002.
- Phan Tất Dong, Xu thế phát triển của đội ngũ trí thức, Tạp chí
Triết học số 10-1998
-Ngô Thị Phượng, Vai trò của tầng lớp trí thức Việt Nam trong sự
nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước, Luận án Ths Triết học ,
Hà Nội 1997
- Nguyễn Đắc Hưng, Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển
đất nước, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2005

2



Khoá luận tốt nghiệp
-Nguyễn Quốc Bảo, Đảng Cộng sản cầm quyền và vấn đề trí thức
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Luận án PTS Lịch sử, Hà
Nội, 2005
-Nguyễn Văn Khánh, Trí thức với Đảng, Đảng với trí thức trong
sự nghiệp gải phóng và xây dựng đất nước, NXB Thông tấn, Hà Nội,
2004
3. Mục đích và nhiệm vụ của khoá luận
+ Mục đích:Xác định rõ vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam
trong sự ngiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.Từ đó đề xuát
một số giải pháp để đội ngũ này thực hiện rõ vai trò của mình.
+ Nhiệm vụ:
-Làm rõ khái niệm trí thức.
-Phân tích thực trạng của đội ngũ trí thức Việt Nam.
-Làm rõ vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hóa đất nước.
+ Đề xuất một số giải pháp để đội ngũ trí thức nước ta thực hiện
tốt vai trò của mình.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
+ Khoá luận được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Khoá luận đã sử dụng và tham khảo số sách, báo, bài viết, luận
án về vấn đề trí thức.
+ Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của khoá luận là: phân tích
tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, đi từ trừu tượng đến cụ thể.

3


Khoá luận tốt nghiệp

5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khoá luận
- Góp phần nhỏ vào nghiên cứu trí thức, vai trò của đội ngũ trí
thức Việt Nam.
- Ý nghĩa thực tiễn, từ những điểm rút ra trong khoá luận có thể
góp phần nhận thức một cách rõ nét hơn vai trò của đội ngũ trí thức
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.
6. Kết cấu
Luận văn ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, Danh mục tài liệu
tham khảo, nội dung chính gồm 2 chương và 5 tiết.

4


Khoá luận tốt nghiệp

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. TRÍ THỨC VÀ ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VIỆT NAM
1.1.Trí thức với sự phát triển của xã hội
1.1.1. Vài nét khái quát về phạm trù trí thức
Tầng lớp trí thức là đại biểu cho trí tuệ của cả dân tộc. Trong
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thì
nhưng trí thức tiến bộ những nhà lý luận của giai cấp vô sản đã góp
phần thức tỉnh quần chúng nhân dân giác ngộ về lý tưởng cách mạng.
Trong xây dựng một xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa trí thức tham
gia trực tiếp và chủ yếu vào nâng cao dân trí. Và quan trọng hơn là trí
thức tham gia vào việc phát triển lực lượng sản xuất khoa học công
nghệ. Do vậy V.I.Lênin đa từng nói " không có sự chỉ đạo của các
chuyên gia am hiểu các lĩnh vực khoa học kỹ thuật và có kinh nghiệm,
thì không thể nào chuyển lên chủ nghĩa xã hội được vì chủ nghĩa xã
hội đòi hỏi một bước tiến có ý thức và có tính chất quần chúng để đi

tìm một năng xuất lao dộng cao hơn năng suất lao động của chủ nghĩa
tư bản trên cơ sở những kết quả mà chủ nghĩa tư bản đã đạt được"[16,
tr. 217]
Trong tất cả các chế độ xã hội trí thức đều cơ bản phục vụ cho
giai cấp thống trị, chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp thống trị. Theo
V.I.Lênin “Trí thức không hợp thành một giai cấp độc lập về kinh tế”
mà là một tầng lớp xã hội xuất thần từ nhiều giai cấp V.I.Lênin “Trí
thức được gọi là trí thức chính nhưng nó phản ánh và thể hiện sự phát
triển của các lợi ích giai cấp và các nhóm phản chính trị trong toàn bộ
xã hội một cách có ý thức hơn cả, kiên quyết hơn cả, chính xác hơn cả”
[14,tr. 416]

5


Khoá luận tốt nghiệp
Như vậy chúng ta có thể hiểu trí thứ không phải là một giai cấp
mà là một tầng lớp đặc biệt trong xã hội. Từ vị trí của mình trong phân
công lao động xã hội, trí thức không có quan hệ riêng với tư liệu sản
xuất -cái dấu hiệu quan trọng nhất để phân biệt giai cấp, do đó không
có thể đại biểu cho phương thức sản xuất nào cả, cũng không cóhệ tư
tưởng độc lộc. Cho nên trí thức phải luôn gắn bó với một tầng lớp nhất
định. Tầng lớp trí thức có thể tự giác hoặc không tự giác phục vụ cho
chế độ và giai cấp thống trị. Quá trình đấu tranh giai cấp tác động về
nhiều mặt về lợi ích đã làm cho tầng lớp trí thức phân hoá thành nhưng
bộ phận khác nhau. Nhưng bộ phận khác nhau đó sẽ ngả theo lực lượng
này hay lực lượng khác, giai cấp này hay giai cấp khác. Tính giai cấp
của tầng lớp trí thức phụ thuộc vào giai cấp mà nó phục vụ, giai cấp đã
sinh ra nó và truyền sức mạnh cho nó. Lênin luôn phê phán những ai coi
trí thức là "siêu giai cấp " hoặc đứng trên giai cấp. Ngưòi nói "Nếu không

nhập cục với một giai cấp thì thì giới trí thức chỉ là một con số không mà
thôi" [12,tr. 552].
Như vậy khi phân tích các luận điểm về khái niệm trí thức ở nước
ta, chúng ta cần phải vận dụng định nghĩa của V.I. Lênin về giai cấp,
để tiếp cận đúng đắn phạm trù trí thức. V.I.Lênin “gọi là các giai cấp,
những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ
trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau
về quan hệ của họ đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ
trong tổ chức lao động xã hội. Và như vậy là khác nhau về cách hưởng
thụ và về phần của cải xã hội, ít hay nhiều mà họ được hưởng”. (17,tr.
17-18)
Tầng lớp trí thức khác với những người lao động chân tay trước
hết chính là ở chỗ phân công lao động xã hội quy định. Sự phân công

6


Khoá luận tốt nghiệp
lao động xã hội quy định sự hình thành và phát triển của tầng lớp trí
thức. Vì vậy trí thức không chỉ là một phạm trù xã hội mà còn là một
phạm trù lịch sử. Trên cơ sở của sự phân công lao động (phân công lao
động vật chất, phân công lao động tinh thần) đã làm cho sự phân công
lao động trên các lĩnh vực hoạt động sản xuất và tinh thần được tăng
cường, năng xuất lao động ngày càng cao hơn, lực lượng sản xuất ngày
càng phát triển, mở rộng việc trao đổi. Như vậy trí thức là kết quả và
sản phẩm của quá trình phân công lao động vật chất và tinh thần tức là
sự phân chia lao động trí óc và lao động chân tay. Sự phân công lao
động đó như Mác-Anghen đã chỉ rõ sẽ dẫn tới phạm vi hoạt động "độc
chuyên" của "mỗi người trong xã hội và người đó phải nhận thấy và
không thể thoát được"[25,tr. 43].

Như vậy trí thức nói riêng hay tầng lớp trí thức nói chung trong
phân công lao động xã hội đó chính là vị trí của những người hoạt
động trên lĩnh vực "lao động tinh thần " khác với đại đa số quần chúng
nhân dân lao động chân tay trên lĩnh vực "sản xuất vật chất ". Chính
xuất phát từ vị trí do phân công lao động xã hội quy định mà chức năng
lao động xã hội quy định trí thức khác với người lao động chân tay. Do
đó cũng đòi hỏi người trí thức phỉ có trình độ học vấn chuyên môn cao
mới thực hiện được chức năng vai trò của họ trong phân công lao động
xã hội.
Ở đây đặc biệt phải chú ý đến tiêu chuẩn đầu tiên là vị trí của mỗi
giai cấp, tầng lớp xã hội trong hệ thống sản xuất xã hội. Các tính chất
như mối quan hệ đối với tư liệu sản xuất. Vai trò trong tổ chức lao động
xã hội và cách thức hưởng thụ đều là tiền đề quy định vị trí của các giai
cấp hay tầng lớp xã hội trong nền tảng của xã hội.

7


Khoá luận tốt nghiệp
Vai trò của trí thức là sản xuất, truyền bá ứng dụng tri thức khoa
học (chứ không phải là tri thức kinh nghiệm hay tri thức thông thường).
Từ bản chất xã hội đặc thù này mà trí thức luôn tồn tại và phát triển
như một tầng lớp xã hội độc lập tương đối trong một chế độ xã hội.
Như vậy từ những điều rút ra được từ các quan niệm trên, chúng
ta có thể hiểu về phạm trù trí thức là:
Những người sản xuất, truyền bá ứng dụng tri thức khoa học (chứ
không phải tri thức kinh nghiệm hay tri thức thường ngày) trong hệ
thống sản xuất xã hội. Do khoa học - công nghệ trở thành một yếu tố
độc lập và xuất hiện ở tất cả các yếu tố khác nhau của lực lượng sản
xuất xã hội và do hàm lượng trí tuệ trong sản phẩm hàng hóa và trong

công tác lãnh đạo, quản lý ngày càng cao cho nên trí thức có quan hệ
gián tiếp và cả trực tiếp đối với tư liệu sản xuất. Quá trình xích lại gần
nhau và phân hóa xã hội trong nền kinh tế thị trường cũng sẽ không dẫn
đến chỗ đồng nhất xã hội thành một bên là những người lao động trí óc,
một bên là những người lao động chân tay. Quá trình này sẽ càng ngày
càng làm đa dạng hóa cơ cấu xã hội trong đó có đội ngũ trí thức. Tính
đặc thù của đội ngũ trí thức là ở chỗ các nhóm xã hội của nó gắn bó
khăng khít với các giai cấp và tầng lớp xã hội khác. Bởi vì, ở mọi lĩnh
vực sản xuất đều có hoạt động truyền bá, ứng dụng tri thức khoa học.
Đội ngũ trí thức có 6 chức năng xã hội là: nhận thức khoa học (lý luận),
dự báo khoa học; ứng dụng tri thức khoa học và triển khai công nghệ
vào thực tiễn; giáo dục và đào tạo; chăm sóc y tế, chấn hưng văn hóa,
tạo lập cơ sở lý luận và giải pháp công nghệ cho công tác lãnh đạo và
quản lý.
Do đó có thể hiểu trí thức là một tầng lớp xã hội đặc thù, độc lập
tương đối, chuyên làm các nghề lao động trí óc phức tạp và sáng tạo và

8


Khoá luận tốt nghiệp
có học vấn chuyên môn cần thiết cho lĩnh vực lao động đó. Nếu hoạt
động trong lĩnh vực đòi hỏi trình độ cao đẳng hay đại học thì đó không
phải là đặc trưng duy nhất của tầng lớp này vì trong các giai cấp và
tầng lớp xã hội khác cũng có nhiều người có trình độ học vấn đó. Đặc
trưng quyết định nhất của tầng lớp trí thức là sáng tạo khoa học và
nghệ thuật. Trong quá trình lao động họ phải chủ quan hóa khách quan
và khách quan hóa chủ quan để tạo ra sự chuyển hóa tri thức khoa học
từ lượng thành chất và ngược lại nhằm khám phá, nhận thức ngày càng
rộng và sâu hơn các quy luật tự nhiên và xã hội và bản thân con người.

Do không phải tất cả lao động đều nắm được kiến thức chuyên môn một
cách có hệ thống, nhất là ở các chuyên ngành khoa học hiện đại, cũng
như không phải ai cũng nắm được đặc trưng cơ bản của phương pháp
nghiên cứu khoa học, sáng tạo văn chương, nghệ thuật cho nên trí thức
là một tầng lớp xã hội cần thiết cho mọi chế độ xã hội và độc lập tương
đối trong mọi thời đại.
Tóm lại có thể hiểu trí thức là một tầng lớp xã hội đặc thù, độc
lộc tương đối, chuyên làm các công việc có tính chất lao động trí óc
phức tạp và sáng tạo, có trính độ, học vấn chuyên môn cần thiết cho
lĩnh vực lao động đó. Đặc trưng nổi bật của trí thức là sáng tạo truyền
bá khoa học nghệ thuật trên cơ sở quan niệm triết học riêng với kiến
thức có hệ thống và phương pháp lao động sáng tạo
1.1.2. Vai trò của trí thức với sự phát triển của xã hội
Chủ nghĩa Mác-Lênin đánh giá cao vai trò của trí thức đối với sự
phát triển của xã hội loài người, thông qua cống hiến sáng tạo của họ
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vai trò của họ thể hiện trước hết
thông qua vai trò của những tư tưởng, đặc biệt là những tư tưởng triết
học. Trong xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp, sự thống trị của

9


Khoá luận tốt nghiệp
giai cấp bóc lột không chỉ bằng sự chiếm hữu của cải hàng hoá tiền tệ,
nô lệ mà còn cả sức mạnh tinh thần. Giai cấp thống trị độc quyền đã lợi
dụng chủ nghĩa duy tâm tôn giáo làm công cụ áp bức tinh thần. Các nhà
triết học cổ đại đồng thời là những nhà khoa học tự nhiên, sự cống hiến
của họ đã góp phần làm cho nền văn minh thế giới thêm rực rỡ và phát
triển. Nhiều nhà trí thức đã anh dũng hy sinh trên dàn lửa hoả thiêu,
trước toà án giáo hội để đấu tranh cho chân lý, cho tiến bộ xã hội, cho

khoa học trong đêm trường trung cổ. Họ đã góp phần làm chôn vùi thời
kỳ trung cổ bạo tàn, tạo nên sự đảo lộn tiến bộ mà trước đó nhân loại
chưa từng trải qua. Ở thời kỳ Khai sáng những nhà triết học duy vật đã
chuẩn bị cho tư tưởng, cho cuộc cách mạng Tư sản thế kỷ XVIII. Trong
xã hội hiện đại, V.I. Lênin đã chỉ rõ: “Công nhân trước đây không có ý
thức dân chủ xã hội được. ý thức này chỉ có thể từ bên ngoài đưa vào.
Lịch sử tất cả các nước chứng thực rằng chỉ do lực lượng của độc bản
thân mình thôi, thì giai cấp công nhân chỉ có thể đi đến ý thức công liên
chủ nghĩa. Còn học thuyết xã hội chủ nghĩa thì phải sinh ra từ lý luận
triết học lịch sử, kinh tế do những người có học thức trong giai cấp hữu
sản, những trí thức xây dựng nên” [13,tr. 38].
Bản thân những tư tưởng trên, những tư tưởng tiến tiến không thể
đánh bại sự thống trị, nhưng nó trở thành vũ khí tinh thần không thể
thiếu được của giai cấp vô sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch
sử của mình. Trong quá trình vận động cách mạng xã hội, trí thức tiên
tiến đã đưa những tư tưởng cách mạng tiên tiến vào phong trào cách
mạng của quần chúng vào tham gia tích cực góp phần tạo nên những
thắng lợi của cách mạng xã hội.
Vai trò của những người trí thức không chỉ thể hiện ở những việc
sáng tạo những tư tưởng nói trên mà còn thể hiện rất rõ trên các lĩnh

10


Khoá luận tốt nghiệp
vực lao động tinh thần nói chung. Vai trò của họ được thực hiện trên
các lĩnh vực khoa học công nghệ, giáo dục, văn hoá, nghệ thuật… họ đã
góp phần mở mang trí tuệ, giải phóng loài người khỏi sự áp bức tinh
thần mang lại cho con người những tư tưởng tình cảm cao đẹp, làm cho
đời sống tinh thần của con người thêm phong phú, lành mạnh, thông

qua lao động sáng tạo trên các lĩnh vực hoạt động của họ.
Vị trí của người trí thức, do phân công lao động xã hội hoạt động
trên lĩnh vực sản xuất tinh thần. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là
trí thức không có vai trò trên lĩnh vực sản xuất vật chất. Đánh giá vai
trò của trí thức trong việc phát triển lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư
bản V.I. Lênin nói: “ Không có những người này thì sản xuất tư bản
hiện đại là điều không thể có được” [15,tr. 162]
Đóng góp rõ nhất của trí thức là thông qua cuộc cách mạng khoa
học kỹ thuật đi kèm với nó là cuộc cách mạng lực lượng sản xuất. Vai
trò của các nhà trí thức khoa học kỹ thuật trong việc sáng tạo ra công cụ
mới ngày càng hoàn thiện hơn để nâng cao năng suất lao động xã hội.
Trong lĩnh vực sản xuất vật chất, vai trò của những trí thức, tổ chức,
quản lý, điều khiển cũng không thể phủ nhận được. Họ đã góp phần cho
sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội và như Mác - Ănghen đã chỉ
rõ: “do có những lực lượng sản xuất mới loài người đã thay đổi phương
thức sản xuất của mình… loài người thay đổi tất cả các mối quan hệ của
mình” [22,tr. 380].
Tri thức là một kết quả của tiến bộ xã hội, mặt khác, sự phát triển
của trí thức đã góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội, góp phần giải phóng
con người khỏi sự chi phối của những lực lượng tự phát trong tự nhiên
và trong xã hội. Điều kiện đầu tiên và cũng là tiền đề quan trọng đối
với sự xuất hiện của tầng lớp trí thức là sản phẩm của sự phân công lao

11


Khoá luận tốt nghiệp
động trong xã hội do nhu cầu xã hội quyết định. Hoạt động của tầng lớp
trí thức luôn luôn góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp thông qua 6 chức năng xã hội sau:

"Sản xuất những tri thức khoa học, trong đó phải kể đến những tư
tưởng triết học tiên tiến, nhất là triết học duy vật biện chứng, để nhân
loại nhận thức ngày càng đúng hơn các quy luật tự nhiên, xã hội, tư duy
và chính con người như một nhân cách. Dự báo khoa học. Hoạt động
ứng dụng tri thức khoa học nhằm biến khoa học thành lực lượng sản
xuất trực tiếp trong quá trình phát triển không ngừng của lực lượng sản
xuất xã hội. Hoạt động giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng trí lực, chăm sóc
và bồi dưỡng thế lực cho nhân dân. Kế thừa, tích lũy và phát triển các
giá trị văn hóa, khoa học, nghệ thuật v.v… của dân tộc và nhân loại để
ngày càng nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân. Góp phần vào sự
lãnh đạo quản lý xã hội, kinh tế bằng tri thức khoa học và công
nghệ"[2,tr. 35,36]
Từ khi hình thành nền văn minh loài người cho đến nay phải
khẳng định rằng những tri thức khoa học do những người trí thức sản
xuất cùng với kho tàng rộng lớn những tri thức kinh nghiệm, tri thức
thường ngày của các tầng lớp nhân dân lao động khác nhau đã được vật
chất hóa thành những công cụ sản xuất phục vụ đời sống con người.
Công nghệ sản xuất ngày càng hiện đại cùng những công trình kiến trúc
và cơ sở hạ tầng để con người tác động và cải tạo thế giới tự nhiên. Nhờ
đó, lực lượng sản xuất phát triển hơn, năng suất lao động cao hơn, sự
phân công lao động xã hội sâu sắc hơn. Kết quả tất yếu của sự phát
triển ấy là sự chuyển biến của xã hội lên một trình độ cao hơn. Song vai
trò của trí thức đối với tiến bộ xã hội không chỉ thể hiện trong lĩnh vực
sáng tạo ra của cải vật chất, mà còn cả trong lĩnh vực đời sống tinh

12


Khoá luận tốt nghiệp
thần. Mặc dù trong các xã hội có áp bức, bóc lột, giai cấp thống trị

thường lợi dụng khoa học, nghệ thuật để áp bức nhân dân về mặt tinh
thần, nhưng cũng không cản được sự phát triển của khoa học kỹ thuật,
văn hóa, giáo dục theo hướng dân chủ và nhân đạo. Những tri thức này
góp phần tích cực vào việc xua tan bức màn tăm tối về trí tuệ, khắc
phục tình trạng dốt nát và bệnh tật. Văn hóa, khoa học và nghệ thuật
thông qua những phương tiện thông tin đại chúng ngày càng hiện đại đã
giúp con người mở mang trí tuệ, giao lưu văn hóa và hấp thụ những tinh
hoa của nền văn minh nhân loại. Trí thức khoa học và nghệ thuật mang
nội dung tiến bộ, tình cảm cao đẹp đã góp phần làm cho đời sống tinh
thần của nhân dân ngày càng thêm phong phú. Những tư tưởng nhân
văn, tiến bộ không phải là kết quả tư duy tư biện của các trí thức tiên
tiến, mà là sự phản ánh khách quan đời sống xã hội hiện thực. Chúng
tạo ra cơ sở nhận thức mới, những quan điểm mới trong quá trình cải
tạo và phát triển không ngừng thế giới tự nhiên, xã hội và cả bản thân
con người. Tất cả những cái đó khẳng định vai trò to lớn của trí thức,
các đại biểu sáng tạo của loài người đối với tiến bộ xã hội.
Tuy nhiên trong sự phát triển của xã hội không phải lúc nào trí
thức cũng thực hiện được đầy đủ các chức năng xã hội của mình. Tầng
lớp trí thức thường bị phân hóa và không thể không phụ thuộc vào giai
cấp thống trị ở mức độ này hay mức độ khác. Trong những trường hợp
ấy, giai cấp thống trị phản động và bảo thủ thường lợi dụng một bộ
phận trí thức cùng tri thức khoa học, nghệ thuật kìm hãm và chống lại
sự tiến bộ của xã hội. Như vậy, tiến bộ xã hội là quá trình phức tạp đầy
mâu thuẫn. Sự tiến bộ xã hội không theo đường thẳng mà là qua đấu
tranh của các mặt đối lập, đấu tranh của các khuynh hướng khác nhau,
trong đó mặt tiến bộ này trải qua quá trình lịch sử lại trở thành thoái bộ,
làm tiền đề để cho một xu hướng tiến bộ mới ra đời và phát triển.
13



Khoá luận tốt nghiệp
Với quan niệm như vậy về tiến bộ xã hội, thì động lực đấu tranh
giai cấp và sự lôi kéo tầng lớp trí thức về chiến tuyến này hoặc chiến
tuyến kia chỉ là biểu hiện về mặt xã hội của mâu thuẫn giữa hai mặt lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa khoa học, nghệ thuật với
chính trị, giưa văn hó và phản văn hóa, v.v… C. Mác đã từng lưu ý
không nên hiểu khái niệm tiến bộ xã hội với một sự trừu tượng hóa tầm
thường. Do đó, lý giải vai trò của trí thức đối với tiến bộ xã hội phải
được quan niệm như một quy luật khách quan xuất phát từ tồn tại xã
hội, từ sự mâu thuẫn giữa các mặt đối lập của lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, giữa kinh tế, chính trị, khoa học, tôn giáo, v.v…
Ngày nay, khi khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp,
hệ thống các ngành khoa học đã phát triển và càng ngày trở thành một
chỉnh thể thống nhất, có liên quan hỗ trợ cho nhau thì vai trò của trí
thức đều được thể hiện lên một cách gián tiếp hay trực tiếp trong mọi
lĩnh vực sản xuất vật chất và đời sống xã hội. Nhờ đó trí thức góp phần
thúc đẩy xã hội tiến bộ hơn, nhằm đạt tới mục đích cuối cùng của cuộc
đấu tranh giai cấp đó là: Thủ tiêu hoàn toàn và vĩnh viễn mọi sự bóc lột
và áp bức.Thực hiện giải phóng giai cấp,giải phóng cá nhân và xã hội,
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản
1.2. Thực trạng Đội ngũ trí thức Việt Nam
1.2.1. Sự hình thành và phát triển của đội ngũ trí thức Việt Nam
Đội ngũ trí thức Việt Nam ra đời và phát triển luôn gắn bó với
những bước phát triển của dân tộc trong lịch sử. Lòng yêu nước, trí
thông minh, cần cù ham học hỏi là truyền thống quý báu của dân tộc
Việt Nam được gìn giữ từ thế hệ này qua thế hệ khác. Truyền thống ấy
được thể hiện rất rõ trong những người trí thức Việt Nam. Trong thời
kỳ của chế độ phong kiến, mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của một nền

14



Khoá luận tốt nghiệp
giáo dục từ bên ngoài, song một bộ phận không nhỏ trí thức Việt Nam
không hoàn toàn trung thành với giai cấp thống trị, mà đứng về phía
nhân dân lao động, đem trí tuệ, tài năng phục vụ cho lợi ích của nhân
dân và dân tộc. Trí thức Việt Nam có truyền thống yêu nước, gắn bó
với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Đội ngũ trí thức Việt Nam thực sự ra đời là từ triều đại nhà
Lý(1010-1125). Vào năm 1070 vua Lý Thánh Tông đã cho xây dựng
Văn Miếu, đến năm 1075 đã mở khoa thi đầu tiên ở Thănng Long, đến
năm 1076 thì cho xây dựng Quốc Tử Giám -trường đại học đầu tiên của
nước ta. Kể từ đó trí thức Việt nam phát triển nhanh cả về số lượng
cũng như chất lượng. Đã xuất hiện nhiều nhà trí thức, tài cao học rộng,
yêu nước đã biết đem tài năng trí tuệ ra phục vụ cho lợi ích của nhân
dân và dân tộc như Nguyễn Trãi, Ngô Thì Nhậm, Lê Quý Đôn, Nguyễn
Du..Từ khoa thi đầu tiên năm Ất Mão(1075) đến năm Kỷ Mùi (1919)
nền giáo dục khoa bảng của nước ta đã đầo tạo ra gần 3000 người đỗ
đại khoa (Từ phó bảng, bảng nhãn, thám hoa, trạng nguyên). Con số
này đã thể hiện truyền thống hiếu học và nguồn trí tuệ của dân tộc Việt
Nam.
Khi thực dân Pháp vào xâm lược nước ta cùng với chính sách
khai thác thuộc địa chúng đã thực hiện chính sách giáo dục của mình
vời mục đích nền giáo dục phục vụ đắc lực cho công cuộc khai thác
triệt để thuộc địa. Thực dân Pháp đã cho xây dựng nhiều trường đại
học, cao đẳng cùng với sự cải cách về giáo dục.mục đích của chúng là
muốn tạo ra được một đội ngũ trí thức tuyệt đối chung thành phục vụ
cho Pháp để bóc lột nước ta một cách tối đa nhất .
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945 khi nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà ra đời chúng ta đã xây dựng một nền giáo dục mới đó là tích


15


Khoá luận tốt nghiệp
cực thu hút những trí thức yêu nước và bắt đầu đào tạo những trí thức
mới. Đã xuất hiện nhiều trí thức được đào tạo baì bản ở nước ngoài
giàu yêu nước trong thời kỳ này như: Trần Đại Nghĩa, Tôn Thất
Tùng,..Đến năm 1954 sau hiệp định Giơnevơ hoà bình đã được lập lại ở
miền Bắc nước ta trí thức mới có điều kiện được đào tạo rộng rãi, đặc
biệt là được đào tạo ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Từ đó chúng ta
đã có một đội ngũ trí thức tăng nhanh về số lượng cũng như chất lượng,
đáp ứng yêu cầu cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội .
Ngày nay, khi đất nước đã thống nhất, cả nước bước vào thời kỳ
hoà bình xây dựng xã hội mới, trí thức Việt Nam tiếp tục kề vai sát
cánh với giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc. Những thành tựu trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội, đặc biệt trong hai mươi năm đổi mới đất nước đã
chứng minh sự đóng góp vô cùng to lớn của đội ngũ trí thức nước ta.
Đúng như nhận định của nguyên Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
Đỗ Mười: “Trí thức Việt Nam giàu lòng yêu nước, gắn bó với nhân dân,
chịu đựng gian khổ, hy sinh, đã góp phần xứng đáng cùng toàn dân
giành thắng lợi vẻ vang trong cuộc đấu tranh lâu dài vì độc lập dân
tộc,vì tự do hạnh phúc của nhân dân"[29,tr. 148]. Đội ngũ trí thức nước
ta có tiềm năng trí tụê to lớn, thông minh và ham hiểu biết, rất nhậy
cảm với cái mới, với xu thế thời cuộc, có khả năng nhanh chóng tiếp
cận trình độ tiên tiến của khoa học - công nghệ, và văn hoá thế giới.
1.2.2. Thực trạng đội ngũ trí thức Việt Nam
Nguồn đào tạo trí thức nước ta hiện nay rất đa dạng, phong phú:
phần lớn trí thức nước ta được đào tạo từ các trường cao đẳng, đại học

trong nước theo nhiều loại hình khác nhau (quốc lập, dân lập, bán công,
đại học mở, đại học tại chức…). Ngoài ra, còn một bộ phận trí thức

16


Khoá luận tốt nghiệp
được đào tạo từ nước ngoài. Bộ phận này có xu hướng ngày càng tăng
lên do đường lối mở cửa của Đảng và Nhà nước ta. Cùng với sự phát
triển của khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, trí thức nước ta
ngày càng tăng lên về số lượng, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã
hội.
Theo con số điều tra, tính đến tháng 12 năm 2000 Việt Nam có
khoảng 1,3 triệu người có trình độ đại học và cao đẳng, 10.000 thạc sĩ,
12.081 tiến sĩ, 610 tiến sĩ khoa học. Bình quân ở nước ta có 190 cán bộ
khoa học trên 10.000 dân. Theo số liệu điều tra dân số năm 1999 cho
thấy tuổi bình quân của cán bộ có trình độ cao đẳng là 38,2 tuổi, đại
học là 40,9 tuổi, thạc sĩ là 42,6 tuổi, tiến sĩ là 52,5 tuổi. Số cán bộ khoa
học công nghệ ở dưới tuổi 25 chỉ có 9,06%. Trong khi đó số cán bộ này
ở tuổi trên 55 chiếm 53,55%. Trong số 53 dân tộc thiểu số đến nay vẫn
còn có 9 dân tộc chưa có người đạt trình độ Cao đẳng, đại học, 50 dân
tộc chưa có cán bộ sau đại học[8,tr. 140,141]. Những năm gần đây xu
thế phát triển cán bộ khoa học đang chuyển biến theo hướng tích cực
hơn những năm trước vào những năm cuối thế kỷ 20, một số ngành
khoa học công nghệ được đào tạo nhưng như công nghệ thông tin, bưu
chính viễn thông, du lịch, quản trị kinh doanh… Việc mở rộng các
ngành đào tạo đã tạo ra sự thay đổi cơ cấu và diện mạo của đội ngũ cán
bộ khoa học và công nghệ ở nước ta. Trong 23 ngành đào tạo ở nước ta
thì ngành giáo dục vẫn giữ vị trí số 1, chiếm 34,6%, ngành kinh doanh
và quản lý chiếm 19,3%, ngành kỹ thuật chiếm 8,1%, ngành nông - lâm

- ngư nghiệp chiếm 4,41%, ngành chế tạo, chế biến chiếm 0,53%.
[8,tr141]

17


Khoá luận tốt nghiệp
Những con số thống kê trên cho thấy sự mất cân đối về sự phân
bố cán bộ khoa học kỹ thuật trong tổng thể cán bộ khoa học ở các
ngành trong nước.
Qua điều tra 8965 tiến sĩ trong toàn quốc cho thấy cơ cấu tiến sĩ
được phân bố theo các ngành học như sau:
1.Khoa học tự nhiên : 1.424 chiếm 15,9%
2. Kỹ thuật : 1.317 chiếm 14,7%
3. Kinh doanh và quản lý : 922 chiếm 10,3%
4. Nhân viên: 913 chiếm 10,2%
5. Sức khoẻ: 753 chiếm 8,4%
6. Nông, lâm nghiệp, thủy sản: 683 chiếm 7,6%
7. Khoa học sự sống: 631 chiếm 7,0%
8. Khoa học xã hội và hành vi: 538 chiếm 6,0%.
9. Toán và thống kê : 516 chiếm 5,8%
10. Xây dựng và kiến trúc: 353 chiếm 3,9%
11. Khoa học giáo dục và đào tạo: 207 chiếm 3,3% [8,tr153]
Trí thức nước ta ngày càng đông đảo về số lượng, nhưng lại có sự
mất cân đối về cơ cấu.
-Xét theo lĩnh vực lao động thì cơ cấu trí thức có sự mất cân đối
giữa khu vực sản xuất kinh doanh và khu vực hành chính sự nghiệp (trí
thức trong khu vực sản xuất kinh doanh chiếm 32,7%; còn trí thức trong
cơ quan hành chính sự nghiệp tổ chức Đảng, đoàn thể, hiệp hội chiếm
67,3% [9 , tr.97].

Đáng chú ý nữa là tỷ lệ lao động có trình độ cao đẳng, đại học so
với lao động nói chung cũng như có sư bất hợp lý giữa khu vực hành
chính sự nghiệp và đơn vị sản xuất kinh doanh:

18


Khoá luận tốt nghiệp
Khu vực hành chính sự nghiệp là

27,5%

Khu vực sản xuất kinh doanh

3,7%

Các cơ quan kinh tế cá thể

0,5%

Các doanh nghiệp Nhà nước

9,5%

Các doanh nghiệp có vốn nước ngoài

11,1%

Các doanh nghiệp chỉ có vốn trong nước 8,6% [9, tr.98]
Nếu như xét theo cơ cấu vùng lãnh thổ thì cơ cấu đội ngũ trí thức

có sự mất cân đối giữa thành thị và nông thôn: đại bộ phận trí thức có
trình độ cao tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ
Chí Minh, Hải phòng, … Nơi có nhiều viện nghiên cứu, nhiều trường
Đại học, nhiều doanh nghiệp lớn, nhiều cơ sở liên doanh với nước
ngoài, đó là nơi có nhu cầu sử dụng trí thức và có điều kiện làm việc tốt
hơn, thu nhập cao hơn, có đời sống vật chất và tinh thần phong phú
hơn.
Nếu xét theo độ tuổi, thì bộ phận trí thức đầu đàn, chuyên gia của
nước ta đang có hiện tượng “lão hoá”. Xét về lứa tuổi và giới tính, thì
hiện nay thì "số cán bộ có học vị Tiến sĩ và Phó tiến sĩ dưới 30 tuổi
chiếm 2%, dưới 40 tuổi chiếm 20%, từ 41đến 50 tuổi chiếm 70%, trên
50 tuổi chiếm 8,5%. Đặc biệt số tiến sĩ ở độ tuổi trên 50 chiếm
66%"[8,tr145-148]. Với cơ cấu tuổi này đội ngũ cán bộ không có hiện
tượng hụt hẫng giữa các thế hệ mà có sự hình thành kế tiếp lẫn nhau.
Có thể thấy số cán bộ dưới độ tuổi 30 chiếm tỷ lệ tương đối ít. Điều đó
phản ánh sự bão hòa việc làm trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ
giáo dục đào tạo. Phụ nữ chiếm hơn 37 % tổng số những người có trình
độ cao đẳng, đại học trở lên. Ở đây có thể có sai sót trong tính toán số
liệu, song vấn đề cơ bản là tỷ lệ nữ tốt nghiệp đại học, cao đẳng và trên
đại học có dấu hiệu giám sút, tỷ lệ nữ cán bộ lãnh đạo các ngành quá

19


Khoá luận tốt nghiệp
thấp, một số ngành có rất đông lao động nữ nhưng tỷ lệ cán bộ khoa
học kỹ thuật lại quá ít, ví dụ như cán bộ kỹ thuật nông - lâm nghiệp, tỷ
lệ nữ chuyên gia có trình độ cao rất thấp khoảng 15%. Nguyên nhân là
do chị em còn bị hạn chế nhiều do khó khăn về giới tính, về đời sống
gia đình hàng ngày.

Như vậy, việc phân tích đặc điểm lứa tuổi và giới tính cho phép
đánh giá đúng được thực trạng của giới trí thức vì các chỉ số đó phản
ánh cơ cấu và tính chất tự nhiên của đội ngũ này. Ngày nay, sự chuyển
đổi cơ chế từ tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường đã làm biến đổi
cơ cấu tự nhiên của đội ngũ trí thức và không phải gây ra những hụt
hẫng về thế hệ, sự bất lợi cho nữ giới trong hoạt động khoa học kỹ
thuật.
Như vậy, từ nhiều góc độ khác nhau chúng ta thấy cơ cấu đội ngũ
trí thức đều có sự bất cập. Điều này đòi hỏi trong những năm tới chúng
ta phải có sự điều chỉnh, khắc phục điều chỉnh hợp lý nhằm làm cho trí
thức đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện
đại hoá.
Về chất lượng, đội ngũ trí thức nước ta hiện nay còn nhiều hạn
chế. Cho đến nay, trong đội ngũ trí thức nước ta có rất nhiều gương mặt
điển hình, có nhiều đóng góp quan trọng cho đất nước. Song nhìn tổng
thể, thì trình độ chuyên môn và học vấn của trí thức nước ta còn nhiều
hạn chế. Có thể nói đa số trí thức nước ta ngày nay được đào tạo theo
cơ chế tập trung, bao cấp, phục vụ cho nên kinh tế kế hoạch hoá tập
trung, nên trình độ chuyên môn rất hẹp, thiếu trình độ kiến thức chung.
Trình độ ngoại ngữ và tin học của trí thức còn hạn chế, không đáp ứng
yêu cầu mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế. Trí thức nước ta chưa có
nhiều cơ hội và điều kiện tiếp cận với những thành tựu mới của các

20


Khoá luận tốt nghiệp
nước phát triển, nên thiếu kiến thức sâu ở nhiều lĩnh vực khoa học và
công nghệ hiện đại.
Chúng ta đang thiếu những người có chuyên môn và học vấn cao,

đặc biệt chuyên gia về công nghệ, đội ngũ trí thức nước ta chỉ có 1,2%
người có trình độ sau đại học (trong khi đó ở nhiều nước phát triển tỷ lệ
này là 25 đến 30%). Điều này gây khó khăn lớn đối với việc thực hiện
nhiệm vụ của trí thức trong giai đoạn cách mạng mới..Nhiều trí thức và
các cơ quan khoa học đã nhanh chóng thích ứng được với bước chuyển
đổi của đất nước sang một nền sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường
cũng như sự nghiệp đổi mới nói chung, nhưng vẫn còn một số chưa
thoát khỏi được ỷ lại, vẫn thiếu năng động, chậm đổi mới về tổ chức,…
mặt trái của cơ chế thị trường đã ảnh hưởng đến một bộ phận trí thức,
đưa đến các biểu hiện tiêu cực, thực dụng tiếp tay cho các hiện tượng
sản xuất phi pháp (làm hàng giả, trốn thuế, cạnh tranh thiếu lành
mạnh…), lãng phí và cả tham nhũng.
Hiện nay, đội ngũ chuyên gia của nước ta trên nhiều lĩnh vực còn
thiếu và yếu, trong một số lĩnh vực khoa học, công nghệ, quản lý kinh
tế vĩ mô, mộ số lĩnh vực khoa học công nghệ cao chưa có cán bộ đầu
ngành tầm cỡ khu vực. Vì vậy, trong thời gian tới cần tập trung đào tạo
một số chuyên gia trên một số lĩnh vực công nghệ cao. Trước mắt,
chuẩn bị đội ngũ cán bộ khoa học trẻ có nhiều triển vọng để đào tạo,
bồi dưỡng trở thành những chuyên gia ở một số lĩnh vực khoa học công
nghệ mũi nhọn mang tính chiến lược lâu dài, như: công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học, công nghệ nanô, công nghệ vật liệu mới, tự động
hóa, nghiên cứu hải dương học, hóa dầu…
Ở nước ta hiện nay, hiện tượng “lãng phí chất xám” diễn ra khá
nghiêm trọng, nó được thể hiện qua nhiều hiện tượng trí thức bỏ nghề,

21


Khoá luận tốt nghiệp
làm trái ngành nghề được đào tạo, không có đủ hoặc không đủ việc làm,

sinh viên ra trường không có việc làm. Sự lãng phí này không chỉ là
lãng phí trong đào tạo một người trí thức mà còn là lãng phí trình độ
học vấn, chuyên môn, kinh nghiệm đã tích lũy trong công tác. Sự lãng
phí chất xám còn thể hiện ở sử dụng sản phẩm trí tuệ. Nhiều đề tài
nghiên cứu không thành công đã gây thiệt hại rất lớn cho đất nước.
Hiện tượng “chảy máu chất xám” cũng rất đáng lo ngại, đó là
hiện tượng chuyển dịch địa điểm lao động của trí thức, thay đổi vị trí
đầu tư chất xám một cách tự phát gây cản trở cho sự phát triển và kế
hoạch chung của toàn bộ xã hội. Ở Việt Nam hiện tượng "chảy máu
chất xám" diễn ra ở khu vực kinh tế quốc doanh đến tổ chức sản xuất tư
nhân từ các trường đại học, cao đẳng đến các đơn vị kinh tế tư nhân, từ
nông thôn đến thành thị, từ miền núi đến miền xuôi. Trong đó chảy máu
chất xám đáng lo ngại hơn cả là chảy ra nước ngoài, có thể bằng con
đường hợp pháp hoặc không hợp pháp dưới nhiều hình thức.
Như vậy, những hạn chế về số lượng cơ cấu trình độ hoặc những
mặt trái của trí thức là những cản trở trong việc thực hiện vai trò của trí
thức nước ta trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.
Chính sách đối với trí thức trong thời gian qua cũng chưa hợp lý. Việc
thực hiện chủ trương chính sách đối với trí thức cũng chưa hợp lý, còn
nhiều thiếu sót và khuyết điểm làm hạn chế tài năng, sáng tạo của trí
thức nước ta.
Do vậy, để bước vào thời kỳ mới: công nghiệp hoá, hiện đại hóa
đất nước, đẩy mạnh nền kinh tế trí thức, Đảng và Nhà nước cần có
những biện pháp thích hợp để khắc phục những hạn chế và thiếu sót của
đội ngũ trí thức, tạo điều kiện để trí thức phát huy những khả năng sáng
tạo của mình để phục vụ cho Tổ quốc.

22



Khoá luận tốt nghiệp

CHƯƠNG 2 .VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VIỆT NAM

TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
ĐẤT NƯỚC
2.1. Một số vấn đề về công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở Việt Nam và
những yêu cầu đặt ra cho đội ngũ trí thức
2.1.1. Quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội,Đảng và
Nhà nước ta luôn xác định công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ
trung tâm của thời kỳ quá độ nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
cho chủ nghĩa xã hội.Vậy công nghiệp hoá hiện đại hoá là gì?
Công nghiệp hoá là quá trình cải biến nền kinh tế nông nghiệp
dựa trên nền tảng kỹ thuật thủ công mang tính hiện vật, tự cấp tự túc
thành nền kinh tế công nghiệp thị trường. Đây chính là một quá trình
xây dựng một xã hội dựa trên một nền văn minh công nghiệp. Cải biến
kỹ thuật, tạo dựng nền công nghiệp theo hướng hiện đại ( khía cạnh vật
chất kỹ thuật ) và khía cạnh phát triển nền kinh tế thị trường (khía cạnh
cơ chế thể chế) là hai mặt của một quá trình công nghiệp duy nhất.
Công nghiệp hoá còn là quá trình chuyển biến căn bản trình độ kỹ
thuật của nền kinh tế từ trình độ thủ công chuyển sang trình độ cơ khí,
biến nền kinh tế nông nghiệp thành nền kinh tế công nghiệp. Công
nghiệp hoá chính là quá trình xây dựng nền công nghiệp hiện đại tạo
lập nền tảng vật chất kỹ thuật (lực lượng sản xuất) của phương thức sản
xuất mới.
Như vậy xét tổng thể Công nghiệp hoá là một quá trình cải biến
toàn diện nền kinh tế. Một mặt đây là quá trình thay thế phương thúc
sản xuất dựa vào kỹ tuật thủ công, mặt khác còn là quá trình cải biến


23


Khoá luận tốt nghiệp
các phương thức sản xuất tiền tư bản thay thế bằng các phương thức sản
xuất dựa trên nguyên tắc thể chế mới - nguyên tắc thị trường.
Hiện đại hoá là đưa những yếu tố, những công nghệ mới hiện đại
vào sản xuất. Hoặc có thể hiểu là quá trình công nghiệp sử dụng những
yếu tố của công nghệ thuộc thế hệ mới nhất hoặc không xa thế hệ mới
nhất là bao nhiêu vào quá trình sản xuất.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế từ một nền kinh tế trong đó công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ
trọng ngày càng lớn. Riêng trong công nghiệp thì chuyển từ công
nghiệp khai thác sang chế biến. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một
chiến lược phát triển nền kinh tế xã hội trong một thời gian dài. Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá phải được hiểu như một chiến lược phát triển
có phương hướng mục đích của nền kinh tế.
Công nghiệp hoá còn là quá trình cải biến lao động thủ công lạc
hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để đạt được
năng xuất lao động cao. Như vậy mục tiêu chính của công nghiệp hoá,
hiện đại hoá là tăng năng xuất lao động xã hội-cái quyết định cho sự tồn
tại xã hội. Bàn về công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Hội nghị lần thứ bảy
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII đã khẳng định:"Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các
hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử
dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức
lao động cùng với công nghệ, phương tiện cùng với phương pháp tiên
tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa
học công nghệ, tạo ra năng xuất lao động cao"[4,tr65]. Như vậy thực
chất công nghiệp hoá là sự phát triển công nghệ, là quá trình chuyển

nền sản xuất xã hội (công nghiệp , nông nghiệp dịch vụ ) từ trình độ

24


Khoá luận tốt nghiệp
công nghệ thấp lên trình độ công nghệ cao, hiện đại. Lực lượng lao
động sẽ chuyển dịch thích ứng về cơ cấu ngành nghề, và trình độ tay
nghề học vấn
2.1.2. Nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta
Đối với nước ta trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa xã
hội Đảng ta đã xác định "đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xâydựng nền
kinh tế độc lộc tự chủ, đưa nuớc ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát
triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo địn
hướng xã hội chủ nghĩa " [ 7,tr. 24]
Hệ thống quan điểm chỉ đạo việc triển khai công nghiệp hoá, hiện
đại hóa đất nước được xác định như sau:
-Công nghiệp hoá, hiện đại hóa phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
-Công nghiệp hoá, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của
mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước là chủ đạo, được vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
-Khoa học, công nghệ là nền tảng của công nghiệp hoá, hiện đại
hóa. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ
đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định.
-Nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và
bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước. Tăng
cường kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa
giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
Trong toàn bộ sự nghiệp công nghiệp hoá, khái niệm trung tâm là
công nghệ mới. Do vậy, bàn đến công nghiệp hoá, trước hết, người ta

hiểu rằng, công nghiệp hoá là quá trình trang bị hoặc trang bị lại công
nghệ mới cho các ngành sản xuất trong nước, đặc biệt là đối với các
ngành then chốt. Yêu cầu làm chủ công nghệ mới, nhất là công nghệ

25


×