Tải bản đầy đủ (.docx) (185 trang)

Sự tham gia của người dân trong hoạt động quản lý rác thải đảm bảo phát triển bền vững đô thị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.95 MB, 185 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng dẫn
khoa học của PGS.TS Vũ Cao Đàm và PGS.TS Nguyễn Thị Kim Hoa
Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực, đảm bảo tính
khách quan, khoa học, dựa vào kết quả khảo sát thực tế. Các tài liệu tham khảo đều
có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2014

Ký tên

Nguyễn Thị Kim Nhung

1


LỜI CẢM ƠN

Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Vũ Cao Đàm và PGS.TS
Nguyễn Thị Kim Hoa đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình thực
hiện luận án này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Ban chủ nhiệm Khoa Xã hội học và Ban Giám
Hiệu trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi
trong công việc để tôi có thể tập trung hoàn thành luận án.
Tôi cũng xin cảm ơn UBND các phường Phan Chu Trinh và phường Hàng
Mã (thuộc quận Hoàn Kiếm), xã Liên Bạt và xã Cao Thành (thuộc huyện Ứng


Hòa), và các bác tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn cùng các cô, các chị công nhân
vệ sinh môi trường tại quận Hoàn Kiếm và huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội đã
hỗ trợ tôi trong quá trình thu thập các thông tin và số liệu cho luận án.
Sau cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè và các anh chị đồng
nghiệp đã luôn khuyến khích, động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và
thực hiện luận án.

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2014

Nghiên cứu sinh

Nguyễn Thị Kim Nhung

2


MỤC LỤC

3


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT

Thảo luận nhóm
Phỏng vấn sâu
Vệ sinh môi trường

Quản lý rác thải
Ủy ban nhân dân
Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
Phan Chu Trinh
Nhà xuất bản

TLN
PVS
VSMT
QLRT
UBND
CNH-HĐH
PCT
Nxb

4


DANH MỤC CÁC BẢNG

i” và “mức độ tham gia của người dân trong hoạt động quản lý rác thải”

5


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ

9
Hình 4 1: Sơ đồ về mối quan hệ giữa các bên liên quan trong hoạt động QLRT.........


6


7


MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Đô thị hóa là quy luật tất yếu trong quá trình phát triển đô thị của mỗi quốc
gia. Dân số đô thị ngày một tăng nhanh, ước tính chiếm tới 70% tổng số dân trên
toàn thế giới vào năm 2050 [Shen và cộng sự, 2011]. Quá trình đô thị hóa diễn ra
mạnh mẽ đã dẫn tới nhiều hệ quả kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục và môi trường
đối với khu vực đô thị nói riêng và tình hình phát triển chung của mỗi quốc gia. Đô
thị hóa một mặt đã đem tới sự phát triển và diện mạo mới cho cơ cấu kinh tế vùng,
các loại hình công việc và dịch vụ mới, thay đổi phương thức sản xuất; mặt khác,
cũng tạo ra nhiều vấn đề như thất nghiệp hay tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” trong
các khu đô thị hiện nay. Về phương diện xã hội, đô thị hóa đã tạo ra một số những
thay đổi liên quan đến các vấn đề như: cơ sở hạ tầng thiếu thốn, tắc nghẽn giao
thông đô thị, thiếu việc làm cho người lao động, vấn đề nhà ở và các tiện nghi vệ
sinh, bất bình đẳng trong xã hội đô thị, các tệ nạn xã hội, khoảng cách giữa nông
thôn-đô thị [Trịnh Duy Luân, 2005, tr. 81-82]. Đối với môi trường đô thị, quá trình
đô thị hóa đã dẫn tới ô nhiễm không khí, đất, nước, tiếng ồn, hay nhiều nhà cao
tầng mọc lên thay cho công viên và cây xanh. Một trong những vấn đề của môi
trường đô thị dưới tác động của đô thị hóa là quá trình quản lý rác thải đô thị còn
chưa hiệu quả và thiếu tính bền vững.
Hoạt động quản lý rác thải là một quá trình liên tục, từ phân loại rác thải tại
nguồn, thu gom, tập kết, vận chuyển đến quá trình xử lý, tái chế và tái sử dụng rác.
Hoạt động này có thể được xem xét ở các chiều cạnh như: (1) chiều cạnh các bên
liên quan (stakeholders), bao gồm: chính quyền địa phương, tổ chức phi chính phủ,

người sử dụng dịch vụ, khu vực tư nhân phi chính thức, khu vực tư nhân chính thức
và các tổ chức quyên góp, hỗ trợ; (2) chiều cạnh các nhân tố của hệ thống quản lý
rác thải gồm: sự phân loại, thu gom, chuyển giao vận chuyển, xử lý, hay giảm thiểu
rác thải, tái sử dụng và tái chế rác; (3) chiều cạnh các yếu tố kỹ thuật, tài chính/kinh
tế, văn hóa/xã hội, thể chế, chính trị/chính sách/luật pháp...[Hoffman&Muller,
8


2001]. Như vậy, trong các chiều cạnh khi xem xét hoạt động quản lý rác thải đô thị
hiện nay, vai trò và sự tham gia của các bên liên quan trong hoạt động này là một
vấn đề cần đưa vào khung phân tích.
Sự tham gia của cộng đồng và các bên liên quan là một trong những bình
diện của hoạt động quản lý rác thải. Sự tham gia của người dân và cộng đồng trong
hoạt động quản lý rác thải phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm yếu tố chủ
quan của người tham gia và các yếu tố khách quan thuộc về môi trường tự nhiên và môi
trường xã hội. Vì thế, để đảm bảo tính bền vững trong quá trình quản lý rác thải, bên
cạnh những vấn đề kinh tế-tài chính, kỹ thuật, thể chế-chính sách, thì yếu tố “sự tham
gia của người dân” cũng cần được phân tích và đánh giá, từ đó có những giải pháp hiệu
quả cho quá trình quản lý rác thải nói chung. Phát huy sự tham gia của người dân cũng
là đảm bảo cho mọi tầng lớp nhân dân có quyền bình đẳng như nhau khi đưa ra các ý
kiến và đánh giá về các vấn đề có liên quan trực tiếp đến cuộc sống của họ. Có như vậy,
mục tiêu dân chủ và phát triển bền vững xã hội trong chiến lược phát triển của mỗi quốc
gia mới được đảm bảo.
Thủ đô Hà Nội, trung tâm kinh tế - văn hóa – chính trị của cả nước cũng mang
nhiều đặc điểm của các đô thị khác trên thế giới, đặc biệt tại các quốc gia đang phát
triển. Dân số Hà Nội tăng nhanh dẫn đến những vấn đề về lao động – việc làm, khoảng
cách giàu-nghèo và các vấn đề về môi trường, trong đó phải kể đến sự gia tăng của
lượng rác thải và các loại hình rác thải. Mỗi ngày Hà Nội phát sinh 5.370 tấn chất thải
rắn sinh hoạt, trong đó ở khu vực các quận, thị xã là 3.200 tấn, trên địa bàn các
huyện là trên 2.000 tấn mỗi ngày [Thụy Anh, 2014]. Tuy nhiên, hoạt động quản lý

rác thải còn gặp nhiều khó khăn do các vấn đề về trang thiết bị, kỹ thuật xử lý, nguồn
lực tài chính và ý thức tham gia của cộng đồng [Nguyen Phuoc Dan&Nguyen Trung
Viet, 2009], [Nguyen Phuc Thanh cùng cộng sự, 2010]. Trên thực tế, chúng ta vẫn nhìn
thấy những hình ảnh người dân xả rác, đổ rác không đúng nơi quy định, hoặc người dân
không kịp đổ rác vào khung giờ quy định của Công ty vệ sinh môi trường, v.v. Câu hỏi
đặt ra là vì sao người dân có những hành vi vi phạm vệ sinh môi trường trong quản lý
rác thải mặc dù họ biết các nội quy và quy định này. Phải chăng sự tham gia của người
dân vào quá trình xây dựng và thực hiện chính sách còn tồn tại những hạn chế và không
có hiệu quả? Trước thực tế này, để giảm thiểu lượng rác thải trên địa bàn thành phố, bên
cạnh những giải pháp kỹ thuật, công nghệ xử lý, cần có những giải pháp mang tính xã
9


hội, trong đó nhấn mạnh đến vai trò của người dân và các bên liên quan trong hoạt động
quản lý rác thải. Bởi lẽ, thái độ và hành vi cũng như cách ứng xử của người dân với môi
trường sẽ có những ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng môi trường sống của chính họ
và tính bền vững của môi trường tự nhiên. Những hành vi và cách ứng xử của người dân
đối với hoạt động quản lý rác thải chính là biểu hiện cho sự tham gia từ phía cộng đồng.
Vì thế, tìm hiểu sự tham gia của cộng đồng chính là tìm hiểu các hành vi và cách ứng xử
của cộng đồng đối với các quá trình phân loại, thu gom đến vận chuyển và xử lý rác
thải. Các giải pháp tiếp cận từ dưới lên trên (bottom-up) sẽ mang tính bền vững và lâu
dài hơn, đồng thời cũng là nhằm thực hiện mục tiêu dân chủ và phát triển bền vững,
trong đó đề cao quyền lực công dân, đảm bảo cho các tầng lớp dân cư trong xã hội có
tiếng nói bình đẳng như nhau trong quá trình xây dựng và thực thi các quyết định có
liên quan trực tiếp đến cuộc sống của họ.
Với những lý do trên đây, tôi quyết định lựa chọn đề tài “Sự tham gia của người
dân trong hoạt động quản lý rác thải đảm bảo phát triển bền vững đô thị” (nghiên cứu
trường hợp quận Hoàn Kiếm và huyện Ứng Hòa, Hà Nội) làm đề tài luận án tiến sĩ của
mình.
1.2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

Trong luận án này, các kết quả nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ các chiều
cạnh của lý thuyết, từ lý thuyết hành động xã hội nhằm nhận diện các động cơ và
yếu tố chi phối hành vi môi trường của cá nhân, đến lý thuyết cạnh tranh chức năng
môi trường và lý thuyết phát triển bền vững giúp phát hiện các rủi ro, xung đột
tiềm ẩn và thách thức trong quá trình huy động sự tham gia của cộng đồng trong
quản lý rác thải đảm bảo phát triển bền vững đô thị. Đồng thời, từ chiều cạnh phân
tích sự tham gia như một quá trình trao quyền cho người dân, luận án đối chiếu và
so sánh với các thang bậc đo lường sự tham gia của Arnstein (1969) và Choguill
(1996), từ đó rút ra kết luận về cấp độ tham gia của người dân đô thị trong quá
trình quản lý rác thải. Bên cạnh đó, luận án cũng phân tích và minh chứng rõ thêm
đối tượng nghiên cứu của bộ môn xã hội học môi trường, bổ sung và làm phong
phú bằng những chứng cứ thực nghiệm cho lý thuyết xã hội học môi trường.
Về mặt thực tiễn, luận án sẽ cung cấp cho các nhà quản lý và những người
hoạch định chính sách một bức tranh khái quát về hoạt động quản lý rác thải tại đô
thị hiện nay. Những dữ liệu thu thập được về sự tham gia của nhóm chủ thể thải rác
10


cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia của nhóm này sẽ là cơ sở để các
nhà quản lý có các giải pháp về mặt chính sách có hiệu quả hơn nhằm phát huy
được quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời cũng huy động được sự tham gia chủ
động và tích cực hơn từ phía cộng đồng trong các hoạt động của quá trình quản lý
rác thải đô thị.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Luận án sẽ cung cấp một bức tranh toàn cảnh về thực trạng quản lý rác thải
hiện nay ở đô thị và sự tham gia của người dân trong hoạt động này, từ đó đề xuất
những giải pháp tăng cường sự tham gia của người dân, hướng tới thực hiện mục
tiêu phát triển bền vững đô thị.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Đánh giá tình hình quản lý rác thải của Hà Nội, tại quận Hoàn Kiếm và
huyện Ứng Hòa, tập trung vào ba hoạt động phân loại rác tại nguồn, thu gom và xử
lý rác.
- Tìm hiểu các hình thức và mức độ tham gia của người dân trong quá trình
quản lý rác thải tại quận Hoàn Kiếm và huyện Ứng Hòa.
- Nhận diện những yếu tố ảnh hưởng đến mức độ tham gia của người dân
trong hoạt động quản lý rác thải. Từ đó, đối chiếu phân tích các yếu tố này trong
bối cảnh đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững đô thị hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp thúc đẩy sự tham gia của người dân trong hoạt
động quản lý rác thải đảm bảo phát triển bền vững đô thị.
3. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Sự tham gia của người dân trong hoạt động quản lý rác thải đảm bảo phát
triển bền vững đô thị
3.2. Khách thể nghiên cứu
- Người dân

- Chính quyền

- Đoàn thể xã hội

- Công nhân VSMT

- Người thu mua phế liệu
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian:
11


Sau đợt mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8/2008, Hà Nội hiện nay

gồm 12 quận, 1 thị xã và 17 huyện ngoại thành. Việc tiến hành nghiên cứu toàn bộ
các quận và huyện ngoại thành Hà Nội là một việc làm không khả thi đối với một
cá nhân khi thực hiện một công trình nghiên cứu, do những hạn chế về nguồn lực,
vật lực và tài chính. Vì thế, tác giả lựa chọn nghiên cứu trường hợp. Hai địa bàn
nghiên cứu được tác giả lựa chọn là quận Hoàn Kiếm (đại diện cho khu vưc nội
thành) và huyện Ứng Hòa (đại diện cho khu vực ngoại thành). Quận Hoàn Kiếm là
quận trung tâm của khu vực nội thành, với những đặc trưng về lối sống, văn hóa
của người dân gốc Hà thành trong các khu phố cổ, bên cạnh những đặc điểm kinh
tế tập trung dân cư buôn bán, kinh doanh với mật độ dân cư khá đông. Trong quận
Hoàn Kiếm, tác giả lựa chọn phường Hàng Mã và phường Phan Chu Trinh làm
điểm nghiên cứu. Trong đó, phường Hàng Mã đại diện cho khu phố cổ Hà Nội, còn
phường Phan Chu Trinh là một trong những phường nội thành được chọn điểm
thực hiện dự án phân loại rác thải 3R của thành phố.
Đối với huyện Ứng Hòa là địa phương ngoại thành đầu tiên được thành phố
chọn làm thí điểm cho hoạt động phân loại và thu gom rác thải sinh hoạt. Trong địa
bàn huyện, tác giả lựa chọn xã Cao Thành (thôn Cao Lãm), một xã có trình độ dân
trí cao, người dân làm nông nghiệp không nhiều mà chuyển qua làm công ty, hoặc
các loại hình phi nông nghiệp, hiệu quả thu gom rác thải và công tác vệ sinh môi
trường được đánh giá khá cao; và xã Liên Bạt (thôn Lưu Khê) có trình độ dân trí
thấp hơn, công việc chủ yếu là chăn nuôi, trồng trọt và nông nghiệp, công tác vệ
sinh môi trường ở thôn còn nhiều hạn chế.
- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu được thực hiện trong khoảng thời gian 5
năm, từ năm 2009 đến 2014.
- Phạm vi nội dung
Hoạt động quản lý rác thải là một hoạt động tổng hợp nhiều quy trình, bao
gồm phân loại rác, thu gom rác, vận chuyển rác, xử lý và tái chế rác. Trong luận án
này, tác giả tìm hiểu sự tham gia của người dân trong hoạt động quản lý rác thải.
Nhận thấy, để tìm hiểu sự tham gia của người dân, cần lựa chọn các hoạt động và
quá trình mà vai trò của người dân thể hiện rõ nhất, gồm các quy trình phân loại,
thu gom và xử lý rác thải. Vì thế, khi phân tích sự tham gia của người dân như


12


thông qua cách người dân hành xử với môi trường, tác giả tiến hành phân tích cách
người dân phân loại, thu gom và xử lý rác thải.
Về chủ thể tham gia hoạt động quản lý rác thải, tác giả nhận thấy hoạt động
này cần huy động sự tham gia của nhiều bên liên quan, như chính quyền, các đoàn
thể xã hội, tổ chức dân sự, tổ chức phi chính phủ, nhóm công ty môi trường và
nhóm hộ gia đình. Tuy nhiên, luận án chỉ tập trung phân tích sự tham gia của nhóm
chủ thể thải rác – các hộ gia đình với đại diện là các cá nhân. Người dân được đặt ở
vị trí trung tâm trong bức tranh quản lý rác thải đô thị, trong khi đó các bên liên
quan khác được xem như những yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia của nhóm người
dân (hộ gia đình).
4. Câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu
4.1. Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu 1: Hoạt động quản lý rác thải được thực hiện thế nào tại
quận Hoàn Kiếm và huyện Ứng Hòa?
Câu hỏi nghiên cứu 2: Người dân quận Hoàn Kiếm và huyện Ứng Hòa đã
tham gia vào quá trình quản lý rác thải đô thị theo những hình thức nào? Có sự
khác biệt về mức độ tham gia giữa các nhóm xã hội khác nhau hay không?
Câu hỏi nghiên cứu 3: Những yếu tố nào ảnh hưởng đến mức độ tham gia
của người dân trong hoạt động quản lý rác thải?
4.2. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết nghiên cứu 1: Hoạt động quản lý rác thải ở quận Hoàn Kiếm và
huyện Ứng Hòa có sự khác nhau về cách thức phân loại, thu gom, xử lý rác thải và
đặc điểm xã hội của thành viên đội thu gom rác do sự khác biệt về điều kiện phát
triển kinh tế - xã hội và các đặc trưng về lối sống và không gian.
Giả thuyết nghiên cứu 2: Người dân tham gia vào quá trình quản lý rác thải
đô thị theo hình thức trực tiếp và gián tiếp, biểu hiện ở các mức độ khác nhau.

Người dân thuộc các nhóm xã hội khác nhau thì khác nhau về mức độ tham gia,
trong đó những cá nhân thuộc các gia đình có người làm quản lý đoàn thể xã hội,
và chính quyền có mức độ tham gia cao hơn các cá nhân khác. Nữ giới và người
nghỉ hưu là những nhóm xã hội có mức độ tham gia cao.
Giả thuyết nghiên cứu 3: Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia của
người dân trong hoạt động quản lý rác thải, trong đó các yếu tố cá nhân như nghề
13


nghiệp, giới tính và các bên liên quan trong hoạt động quản lý rác thải, gồm chính
quyền và nhóm công nhân vệ sinh môi trường có mối quan hệ ảnh hưởng trực tiếp
đến mức độ tham gia của người dân.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp phân tích tài liệu
Trong quá trình xây dựng đề cương luận án và thực hiện phần tổng quan lịch
sử nghiên cứu, tác giả đã tổng hợp những tài liệu có liên quan từ nhiều nguồn khác
nhau. Những tài liệu này tập trung vào 3 chủ đề chính, đó là (i) hoạt động quản lý
rác thải đô thị, (ii) sự tham gia của cộng đồng và (iii) mục tiêu phát triển bền vững
đô thị. Khoa Môi trường (trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà
Nội), Thư viện Quốc gia, đặc biệt là bộ dữ liệu tìm kiếm tài liệu Proquest và thư
viện Đại học Quốc gia Hà Nội là các địa chỉ mà tác giả tìm kiếm và tổng hợp tài
liệu. Bên cạnh đó, để phục vụ đề tài, tác giả còn khai thác thông tin từ các báo cáo
tổng hợp tình hình kinh tế - xã hội của xã/phường, báo cáo tổng kết công tác quản
lý nhà nước (trong đó có công tác vệ sinh môi trường) của các phường, báo cáo xây
dựng đề án Nông thôn mới của UBND huyện Ứng Hòa, và số liệu thống kê mức
sống trên địa bàn dân cư huyện Ứng Hòa.
5.2 Phương pháp phỏng vấn sâu cá nhân
Phương pháp phỏng vấn sâu cá nhân được thực hiện với 3 nhóm đối tượng:
người dân, nhóm chính quyền (tổ trưởng tổ dân phố/trưởng thôn, cán bộ
xã/phường), nhóm công nhân vệ sinh môi trường/ đội thu gom. Kết quả là tác giả

đã tiến hành được 26 phỏng vấn sâu cá nhân, bao gồm: 14 người dân, 3 tổ trưởng tổ
dân phố/trưởng thôn, 5 cán bộ xã/phường, 3 công nhân VSMT/đội thu gom, 1
người thu mua phế liệu. Mỗi nhóm xã hội có nội dung khai thác thông tin khác
nhau.
(i) Đối với nhóm người dân: tìm hiểu những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt
động phân loại, thu gom và xử lý rác thải của người dân và quá trình ra các quyết
định rác thải tại khu vực sinh sống của người dân.
(ii) Đối với nhóm chính quyền, bên cạnh việc tìm hiểu sự tham gia của
chính quyền trong hoạt động quản lý rác với tư cách là một thành viên của cộng
đồng, tác giả còn tìm hiểu quá trình ban hành các quyết định liên quan tới vấn đề
quản lý rác thải (thu phí vệ sinh) và sự tham gia của các thành viên trong chính
14


quyền cấp xã/phường và nhóm tổ trưởng tổ dân phố/trưởng thôn trong quá trình
tuyên truyền, vận động người dân tham gia phân loại, thu gom và xử lý rác thải
người dân.
(iii) Đối với nhóm công nhân VSMT/đội thu gom, từ góc độ của người
cung cấp dịch vụ thu gom rác thải, tác giả tìm hiểu quá trình thực hiện thu gom rác
và đánh giá của nhóm này về mức độ thực hiện đầy đủ các quy định về thu gom rác
thải của người dân.
(iv) Đối với người thu mua phế liệu, tìm hiểu vai trò của người thu mua phế
liệu trong hoạt động phân loại rác thải đô thị hiện nay,và nhận thức của nhóm
người này về thái độ của người dân đô thị đối với nhóm nhập cư khi tham gia quản
lý rác thải đô thị.
5.3. Phương pháp thảo luận nhóm tập trung
Phương pháp thảo luận nhóm tập trung được thực hiện tại phường Hàng Mã,
phường Phan Chu Trình (quận Hoàn Kiếm) và xã Liên Bạt (huyện Ứng Hòa).
Tại xã Liên Bạt, thành phần tham gia thảo luận nhóm là những người dân
trong thôn, có đặc điểm nghề nghiệp chủ yếu là làm ruộng (thôn Lưu Khê là thôn

có tỷ lệ làm nông nghiệp nhiều hơn so với các thôn khác của xã Liên Bạt). Các nội
dung được đưa ra trao đổi trong cuộc thảo luận nhóm gồm: (i) những vấn đề môi
trường trên địa bàn thôn, thực trạng phân loại, thu gom và xử lý rác thải tại thôn,
(ii) hoạt động của đội thu gom rác, quá trình thành lập đội thu gom rác trong thôn,
(iii) đánh giá của người dân về ý thức của cộng đồng trong công tác bảo vệ môi
trường, thực hiện thu gom rác thải đúng quy định, (iv) vai trò của ban lãnh đạo
thôn/chính quyền xã đối với công tác môi trường nói chung và hoạt động thu gom
rác thải nói riêng, và (v) những giải pháp từ phía cộng đồng nhằm nâng cao ý thức
và sự tham gia tích cực của người dân trong hoạt động thu gom rác thải, đảm bảo
giữ gìn vệ sinh môi trường trong thôn.
Tại phường Phan Chu Trinh, tác giả thực hiện thảo luận nhóm đối với nhóm
phụ nữ. Sở dĩ tác giả thực hiện thảo luận nhóm đối với nhóm phụ nữ bởi hai lý do.
Thứ nhất, trong quan niệm của nhiều người, phụ nữ thường có vai trò và sự tham
gia trong các hoạt động về quản lý rác thải nhiều hơn nam giới. Thứ hai, tại phường
Phan Chu Trinh, nơi được thành phố chọn làm phường thí điểm thực hiện dự án
3R, Hội phụ nữ là đoàn thể tham gia từ đầu và tích cực hơn các đoàn thể xã hội
15


khác. Nội dung được đưa ra trong quá trình thảo luận gồm: (i) Quá trình thực hiện
dự án 3R. Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình huy động người dân tham
gia thực hiện dự án. Những nguyên nhân khiến cho tính bền vững của dự án không
cao. Các giải pháp nâng cao hiệu quả của dự án, nếu dự án tiếp tục được triển khai
và nhân rộng, (ii) Ý thức của người dân trong phường đối với hoạt động phân loại
và thu gom rác thải. (iii) Vai trò của các đoàn thể xã hội, đặc biệt là Hội phụ nữ
trong việc tăng cường, vận động sự tham gia của người dân trong các hoạt động
phân loại và thu gom rác thải, giữ gìn vệ sinh môi trường nói chung.
Tại phường Hàng Mã, tác giả thực hiện thảo luận nhóm với nhóm người
dân, tập trung tìm hiểu các vấn đề giữ gìn vệ sinh môi trường của người dân trong
khu dân cư, ý kiến đánh giá của người dân về việc hình thành tổ thu gom rác của

phường, hoạt động của tổ thu gom rác của phường, ý thức của người dân trong khu
dân cư về hoạt động thu gom rác đúng quy định và quá trình người dân tham gia
quyết định việc đóng phí vệ sinh để thuê người quét dọn khu tập thể.
5.4. Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi
Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi được tác giả thực hiện trong khoảng
thời gian từ tháng 4/2013 đến tháng 8/2013.
Những câu hỏi trong bảng hỏi đưa ra nhằm thu thập các số liệu định lượng
tìm hiểu thực trạng tham gia của người dân trong các hoạt động phân loại, thu gom
và xử lý rác thải. Đây sẽ là bộ dữ liệu chính cho các kết quả tác giả trình bày trong
chương 3 của luận án. Nội dung chính được đưa ra trong bảng hỏi bao gồm:
(i) Mô tả thực trạng quản lý rác thải tại địa phương, thông qua các hoạt động
phân loại, thu gom, xử lý rác thải và đóng phí vệ sinh môi trường của người dân;
(ii) Sự tham gia của người dân trong hoạt động quản lý rác thải, thông qua
mức độ tham gia trong hoạt động phân loại, thu gom và xử lý rác thải; mức độ
tham gia đóng góp ra các quyết định liên quan tới vấn đề quản lý rác thải;
(iii) Những yếu tố thúc đẩy và cản trở sự tham gia của người dân trong hoạt
động quản lý rác thải;
Tổng số đơn vị trong mẫu khảo sát: 417, trong đó quận Hoàn Kiếm: 204
đơn vị, và huyện Ứng Hòa: 213 đơn vị.
Cách chọn mẫu: chọn mẫu cụm kết hợp mẫu ngẫu nhiên

16


Bước 1: Tác giả lựa chọn xã Cao Thành và Liên Bạt làm điểm nghiên cứu
trường hợp cho huyện Ứng Hòa, trong đó chọn cụm thôn Cao Lãm (thuộc xã Cao
Thành) và cụm thôn Lưu Khê (thuộc xã Liên Bạt). Đối với quận Hoàn Kiếm, tác
giả chọn phường Hàng Mã (tuyến phố Lý Nam Đế, Hàng Lược) và phường Phan
Chu Trinh (tuyến phố Lê Thánh Tông, Hàm Long).
Bước 2: Thống kê số lượng các hộ gia đình trong từng thôn, và ở các tuyến

phố. Tại từng thôn, tiến hành bước chọn k = N/n. Kích thước mẫu dự kiến là n =
100. Đối với thôn Cao Lãm, kết quả thu được từ điều tra dân số (thời điểm tháng
3/2013) chỉ ra tổng số hộ dân N = 367 hộ, n = 100 hộ -> k = N/n = 3. Đối với thôn
Lưu Khê, N = 336 hộ, n = 100 hộ -> k = N/n = 3. Như vậy, cứ cách 3 hộ, tác giả
lựa chọn 1 hộ, mời đại diện hộ gia đình tham gia trả lời bảng hỏi. Cách làm này
được thực hiện tương tự ở các tuyến phố thuộc phường Hàng Mã (phố Lý Nam Đế
và Hàng Lược) và phường Phan Chu Trinh (phố Lê Thánh Tông và Hàm Long), tác
giả cũng thống kê số lượng các hộ gia đình để tiến hành phỏng vấn ngẫu nhiên. Kết
quả điều tra dân số tại thời điểm (tháng 3/2013) cho thấy, tổng số hộ dân trên tuyến
phố Lý Nam Đế và Hàng Lược N = 644 hộ, n = 100 -> k = N/n = 6, ở phố Lê
Thánh Tông và Hàm Long có N = 393 hộ, n = 100 -> k = N/n = 3. Nhưng, trong
quá trình tiếp cận đối tượng khảo sát, nhiều hộ gia đình đi vắng, hoặc có những hộ
gia đình đăng ký hộ khẩu nhưng không sinh sống ở đó, dẫn đến những khó khăn
cho việc thu thập đủ dung lượng mẫu. Đồng thời, những người không sinh sống
hoặc đi vắng không thể đưa ra các thông tin phản ánh đúng thực tế về hoạt động
phân loại và thu gom rác thải tại khu dân cư. Điều này ảnh hưởng tới chất lượng
của cuộc điều tra. Vì thế, tác giả tiến hành phỏng vấn theo cách lấy mẫu thuận tiện,
lựa chọn các hộ gia đình sinh hoạt và tham gia quản lý rác thải tại các tuyến phố.
Khi tiến hành phỏng vấn, ngoài dung lượng mẫu đã chọn n = 100, người
nghiên cứu bổ sung thêm đơn vị khảo sát trong mẫu. Số đơn vị mẫu dự trữ được bổ
sung để tránh trường hợp những hộ gia đình đã được lựa chọn trong khung chọn
mẫu không thể tham gia điều tra. Vì thế, tổng số dân được điều tra là 213 người
(huyện Ứng Hòa) và 204 người (quận Hoàn Kiếm).

17


Bảng 1: Cơ cấu mẫu của cuộc khảo sát
Q.Hoàn Kiếm
Số

Tỷ lệ
lượng

%

H.Ứng Hòa
Số
Tỷ lệ %
lượng

- Nam

97

47,5

87

40,8

- Nữ
Trình độ học vấn

107

52,5

126

59,2


- Không biết chữ

0

0,5

1

0,5

- Tiểu học

5

2,5

25

11,8

- THCS

16

8,0

89

42


- THPT

49

24,4

66

31,1

- Trung cấp

19

9,5

12

5,7

- Cao đẳng/Đại học

99

49,3

19

9,0


- Trên ĐH
Độ tuổi

12

6,0

0

0,0

- Dưới 30 tuổi

40

20,2

12

5,7

- Từ 30 – 45 tuổi

44

22,2

48


22,7

- Từ 46 – 61 tuổi

69

34,8

99

46,9

- Trên 61 tuổi
Đặc điểm nghề nghiệp chính

45

22,7

52

24,6

61

29,9

20

9,5


10

4,9

4

1,9

5

2,5

0

0

57

27,9

131

62,1

9

4,4

22


10,4

62

30,4

34

16,1

STT Tiêu chí
Giới tính
1

2

3

- Làm theo giờ hành chính
- Làm theo ca
4

- Làm bán thời gian
-Không cố định thời gian làm
việc
- Không có thu nhập
- Nghỉ hưu

6. Khung phân tích

Dưới tác động của quá trình đô thị hóa nhanh, lượng rác thải ngày càng tăng
về số lượng và thành phần trong khi các công cụ, kỹ thuật chưa đáp ứng được công
tác thu gom và xử lý dẫn đến những vấn đề nảy sinh trong hoạt động quản lý rác
thải đô thị. Sự tham gia của người dân là một trong những chiều cạnh của hoạt
18


Quá trình đô thị hóa

động quản lý rác thải, được phân tích dưới hai bình diện. Một là sự tham gia vào
quá trình trực tiếp xử lý rác thải tại khu dân cư. Hai là sự tham gia vào quá trình
gián tiếp xử lý rác thải, gồm: đóng phí vệ sinh, tuyên truyền, vận động, kiểm tra,
giám sát và quá trình người dân thảo luận bàn bạc khi ra các quyết định môi trường
tại khu dân cư. Mức độ tham gia của người dân chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố
chủ quan và khách quan, trong đó các yếu tố chủ quan là nhận thức, tâm lý, nhu
cầu và yếu tố nhân khẩu xã hội của chính người dân. Các yếu tố khách quan là các
thiết chế như chính sách, quy định, truyền thông và các bên liên quan trong hoạt
động quản lý rác thải đô thị.

Nhận thức, tâm lý, n
7. Đóng góp của luận án
Kết quả của luận án là cơ sở dữ liệu mô tả sự tham gia của người dân trong
hoạt động quản lý rác thải đô thị. Những đóng góp mới của luận án được thể hiện ở
những điểm sau:

19


Thứ nhất, so với các công trình nghiên cứu đi trước, luận án không chỉ mô tả
thực trạng người dân thực hiện phân loại, thu gom và xử lý rác, mà còn bổ sung các

bình diện khác của sự tham gia, đó là các hoạt động gián tiếp, như đóng phí vệ
sinh, kiểm tra/giám sát, tuyên truyền, vận động và đóng góp ý kiến trong quá trình
ra quyết định,
Thứ hai, nhận diện các yếu tố tác động đến mức độ tham gia của người dân,
gồm các yếu tố thuộc về chủ quan người dân và các yếu tố khách quan. Phân tích
vai trò của các yếu tố trong quá trình thúc đẩy và hạn chế sự tham gia của người
dân, và mối quan hệ giữa các yếu tố này.
Thứ ba, đánh giá thực trạng và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự tham
gia của người dân trong bối cảnh Việt Nam thực hiện mục tiêu phát triển bền vững.
Các kết quả về sự tham gia của người dân cũng được thảo luận trong các chiều
cạnh phát triển bền vững kinh tế - xã hội và môi trường đô thị.
Thứ tư, các kết quả của luận án sẽ góp phần làm sáng tỏ đối tượng nghiên
cứu của xã hội học môi trường, gồm mối quan hệ con người và môi trường tự
nhiên, và mối quan hệ con người và con người trước các vấn đề môi trường.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị và phụ lục, luận án gồm 4
chương nội dung và 10 tiết. Cụ thể, các chương trong luận án trình bày những nội
dung sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
Chương này trình bày kết quả của những công trình nghiên cứu đi trước trên thế
giới và ở Việt Nam về vấn đề quản lý rác thải đô thị và sự bền vững đô thị. Từ đó,
tác giả phát hiện khoảng cách giữa lý thuyết và thực tiễn mà các công trình nghiên
cứu đi trước chưa giải quyết được, và mở ra các hướng nghiên cứu mới trong lĩnh
vực này.
Chương 2: Cơ sở lý luận về sự tham gia của người dân trong hoạt động
quản lý rác thải đô thị. Chương này trình bày các khái niệm công cụ và lý thuyết
vận dụng trong nghiên cứu quản lý rác thải đô thị. Bên cạnh đó, bối cảnh kinh tế xã hội, đặc biệt tác động của đô thị hóa đến vấn đề quản lý rác thải đô thị cũng
được đề cập trong chương này.

20



Chương 3: Thực trạng tham gia của người dân trong hoạt động quản lý rác
thải đô thị, có hai nội dung chính, gồm (i) giới thiệu khái quát hoạt động quản lý
rác thải đô thị tại quận Hoàn Kiếm và huyện Ứng Hòa, và (ii) mô tả sự tham gia
của người dân vào quá trình trực tiếp và gián tiếp xử lý rác thải tại khu dân cư.
Chương 4: Những yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia của người dân trong
hoạt động quản lý rác thải đảm bảo phát triển bền vững đô thị. Chương này sẽ
nhận diện các nhóm yếu tố ảnh hưởng đến mức độ tham gia của người dân, phân
tích, đánh giá các yếu tố và mối quan hệ của các yếu tố; và thảo luận các phân tích
trong ba chiều cạnh của phát triển bền vững: kinh tế, xã hội và môi trường.

21


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐỀ TÀI
Sự tham gia của người dân vào quá trình quản lý rác thải đô thị là một trong
các chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm phân tích. Thực hiện quản lý rác
thải hiệu quả và đảm bảo sự tham gia bình đẳng giữa các nhóm xã hội trong quá
trình xử lý rác thải là những tiêu chí về bền vững môi trường và xã hội. Trên thế
giới và ở Việt Nam hiện nay, vai trò của người dân và các bên liên quan trong hoạt
động quản lý rác thải được đề cập tới trong nhiều công trình nghiên cứu. Nội dung
chính trong chương này là tổng hợp các công trình nghiên cứu đi trước, liên quan
tới chủ đề về sự tham gia của người dân trong hoạt động quản lý rác thải đảm bảo
phát triển bền vững đô thị. Từ đó, luận án chỉ ra những tồn tại trong lĩnh vực
nghiên cứu về sự tham gia của người dân trong quá trình quản lý rác thải đô thị và
đưa ra hướng nghiên cứu mới trong luận án này. Khi xem xét và tổng hợp các
nghiên cứu đi trước, luận án chia ra 3 nhóm chủ đề, gồm: những nghiên cứu về
hoạt động quản lý rác thải nói chung, các nghiên cứu về sự tham gia của người dân
trong hoạt động quản lý rác thải và nhóm nghiên cứu về phát triển bền vững đô thị.

1.1.Những nghiên cứu về hoạt động quản lý rác thải
Xét trên góc độ lý luận, nhiều công trình nghiên cứu đã phân tích và chỉ ra
các phương diện của khái niệm “quản lý rác thải” và “quản lý rác thải bền vững”.
Những nghiên cứu này đều chỉ ra sự cần thiết của một tiếp cận tổng hợp và có tính
hệ thống đối với hoạt động quản lý rác thải [Hoffman&Muller, 2001], [Seadon,
2010]. Vận dụng các tiếp cận này khi đưa vào phân tích tình hình thực tiễn, nhiều
công trình nghiên cứu đã tập trung mô tả thực trạng phân loại, thu gom, tập kết, vận
chuyển, xử lý rác thải; đồng thời chỉ ra những tồn tại trong công tác quản lý từ các
bên liên quan [Pathak cùng cộng sự, 2012], [Balasubramanian & Birundha, 2011],
[Bai cùng cộng sự, 2011],[Menikpura cùng cộng sự, 2012]. Các nghiên cứu đã
phân tích thực trạng quản lý rác thải chưa hiệu quả tại các nước đang phát triển,
như sự xuất hiện của nhiều bãi rác lộ thiên, lượng rác thải ngày càng tăng do đô thị
hóa và gia tăng dân số nhưng quá trình thực hiện chưa hiệu quả nên không thu gom
được hết số rác thải. Bên cạnh đó, công tác xử lý rác thải còn chưa khoa học, gây
22


ảnh hưởng ô nhiễm môi trường và cộng đồng dân cư. Nhìn chung, các nghiên cứu
đều khẳng định rằng các nước đang phát triển gặp nhiều khó khăn và thách thức
hơn so với các nước phát triển do những vấn đề về thể chế, xây dựng và thực hiện
chính sách, sự tham gia của người dân, mối quan hệ giữa các bên liên quan trong
việc thực hiện quản lý rác thải, và những vấn đề về trang thiết bị công nghệ lạc hậu
hay vấn đề thiếu tài chính ngân sách để triển khai các hoạt động quản lý rác thải
hiệu

quả

[Desmond,

2006],


[Ezeah&Roberts,

2012],

[Ianos,

2012],

[Karani&Jewasikiewitz, 2007].
Dựa trên việc xác định các nguyên nhân, khó khăn và thách thức đối với
hoạt động quản lý rác thải, nhiều tác giả đã đề xuất các giải pháp từ nhiều chiều
cạnh khác nhau như kỹ thuật, kinh tế, cơ chế thể chế và xã hội [Skinner, 1993],
[Price&Joseph, 2000], [Kaosol, 2009], [Ozkan, 2010], [Jalil, 2010], [Ibrahim cùng
cộng sự, 2012]. Các nhóm giải pháp được đưa ra chủ yếu là (1) nhóm giải pháp về
kỹ thuật như tái sử dụng, tái chế rác thải; đồng thời có thể tạo ra năng lượng từ các
hoạt động này hướng tới phát triển bền vững cho vùng đô thị; (2) nhóm giải pháp
kinh tế như giảm thiểu các nhu cầu tiêu thụ của người dân, (3) nhóm giải pháp thể
chế nhằm phát huy vai trò của các cấp chính quyền trong việc thu gom, tập hợp rác,
tạo dựng một trung tâm xử lý rác thải với công nghệ hợp lý và giảm chi phí xử lý
dựa trên lượng rác thải phát ra; (4) nhóm giải pháp từ phía cộng đồng cần giáo dục,
nâng cao nhận thức cộng đồng trong việc chứa đựng và xử lý rác thải. Có những
tác giả nhấn mạnh hơn đến các giải pháp từ cộng đồng và đề cao vai trò của các hộ
gia đình với tư cách là các chủ thể thải rác [Memon, 2010], [Nahman&Godfrey,
2010], trong đó vai trò của người dân là chủ động tham gia chứ không phải bị động
thực hiện do chịu sự quản lý của luật pháp [Ozkan, 2010].
Quản lý rác thải ở Việt Nam cũng là một vấn đề quan tâm của người nghiên
cứu và các nhà quản lý và hoạch định chính sách môi trường. Một mặt, các nghiên
cứu đã mô tả thực trạng quản lý rác thải ở Việt Nam, chủ yếu tập trung vào các vấn
đề cơ sở hạ tầng hay kỹ thuật và công nghệ xử lý. Mặt khác, các nghiên cứu đã chỉ

ra những vấn đề phát sinh trong quá trình quản lý rác thải, do công nghiệp hóa tăng
nhanh và đô thị hóa không có kiểm soát như: rác thải rắn không được phân loại tại
nguồn phát rác, bãi rác như lượng mùi thải ra, ô nhiễm đất và nước quanh khu bãi
rác [Nguyen Phuoc Dan&Nguyen Trung Viet, 2009], [Nguyễn Đức Khiển, 2009],
23


[Nguyen Phuc Thanh cùng cộng sự, 2010). Dựa trên những vấn đề nảy sinh hiện
nay trong quản lý rác thải tại đô thị, một số tác giả đã đề ra các giải pháp khắc
phục, như phân loại rác tại nguồn (chương trình 3R), nâng cao ý thức cộng đồng,
cải thiện các chính sách, thể chế xử phạt đối với các hành vi không thân thiện với
môi trường (Ngo Kim Chi&Pham Quoc Long, 2011], [Nguyễn Đức Khiển và cộng
sự, 2010]; [Nguyễn Đức Khiển, 2009], [Ranjith&Chowdhury, 2007]. Những
nghiên cứu này cũng chỉ ra vai trò quan trọng của cộng đồng trong giảm thiểu
lượng rác thải phát sinh hàng ngày, trong đó nhấn mạnh vai trò của các tổ chức
cộng đồng và nhóm dân cư có trình độ nhận thức và kỹ năng tập huấn. Nhóm này
sẽ tiến hành các hoạt động tuyên truyền cho các nhóm dân cư khác. Bên cạnh đó,
sự xuất hiện của các tổ chức phi chính phủ và tư nhân trong việc phối kết hợp với
nhà nước cũng là một giải pháp cho quá trình quản lý rác thải hiệu quả ở Việt Nam.
Có thể thấy những nghiên cứu về hoạt động quản lý rác thải trên thế giới và
ở Việt Nam đã làm sáng tỏ (1) thực trạng của hoạt động quản lý rác thải; (2) vai trò
của nhóm chủ thể thải rác và sự tham gia của các bên liên quan trong quá trình
quản lý rác thải; và (3) các giải pháp cho quản lý rác thải bền vững.
1.2. Những nghiên cứu về sự tham gia của cộng đồng trong lĩnh vực môi
trường và quản lý rác thải
Về mặt lý luận, các nghiên cứu từ thập niên 60, 70 của thế kỷ XX đã tập
trung phân tích sự tham gia của cộng đồng trong các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của chính cộng đồng đó. Sự tham gia của cộng đồng được xem là quyền lực
của công dân, thể hiện mức độ dân chủ của xã hội [Arnstein, 1969]. Dựa trên các
chương trình xã hội điển hình của nước Mỹ lúc đó, gồm các chương trình: đổi mới
đô thị, chống nghèo đói và các thành phố kiểu mẫu, Arnstein [1969] đã tìm hiểu sự

tham gia của cộng đồng người dân Mỹ, gồm người da đen và người da trắng trong
quá trình xây dựng và ra quyết định các kế hoạch phát triển. Arnstein cho rằng sự
tham gia là quá trình phân phối lại quyền lực của những công dân không có tài sản
hay tiền tài trong xã hội. Quá trình phân phối lại quyền lực sẽ giúp những người
vẫn thường bị loại ra khỏi quá trình phát triển chính trị - kinh tế có khả năng tham
gia vào quá trình phát triển ở tương lai. Bà phân chia sự tham gia thành 8 bậc thang
24


tương ứng với 3 cấp độ, từ vận đông, trị liệu/tâm lý – mức độ không tham gia, qua
cung cấp thông tin, tham vấn, xoa dịu – mức độ có dấu hiệu tham gia đến cộng
tác, ủy quyền, quyền kiểm soát – mức độ tham gia cao nhất. Dựa trên mô hình tham
gia của Arnstein [1969], Wilcox [1996] đã rút gọn các cấp độ tham gia trong 5 bậc
thang, gồm (1) Thông tin (Information), (2) Tham vấn (consultation), (3) Cùng
nhau quyết định (deciding together), (4) Cùng nhau hành động (acting together),
(5) Ủng hộ những hoạt động địa phương (Supporting local initiatives). Tuy nhiên,
Choguil [1996] cho rằng thang đo của Arnstein chỉ sử dụng hiệu quả ở những nước
phát triển và ít phù hợp trong bối cảnh của những nước nghèo và kém phát triển. Vì
thế, trên cơ sở xác định các đặc điểm khác nhau về vai trò, trình độ nhận thức và
nhu cầu của cộng đồng dân cư giữa các nước phát triển và nước kém phát triển,
ông đã đề xuất một thang đo riêng cho nhóm các nước kém phát triển. Sự khác biệt
trong mô hình của Choguill là đã bổ sung thêm cấp độ thấp nhất trong bậc thang,
đó là quá trình “tự quản lý” của chính cộng đồng với sự trợ giúp của các tổ chức
phi chính phủ bất chấp những phản đối của chính quyền. Từ các quan điểm lý luận
về sự tham gia của cộng đồng, nhiều nhà nghiên cứu đã vận dụng lý thuyết này
trong các lĩnh vực của đời sống thực tiễn, như các dự án phát triển kinh tế-xã hội tại
cộng đồng.
Cũng như trong các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, yếu tố tham gia của
cộng đồng cũng được đề cao trong các nghiên cứu thuộc lĩnh vực môi trường.
Phần lớn các nghiên cứu về sự tham gia trong lĩnh vực môi trường đã đề cập đến sự

tham gia của cộng đồng trong việc ra các quyết định môi trường hay triển khai và
thi hành chính sách về môi trường. Trong quá trình thực hiện các dự án phát triển,
rất nhiều công cụ đo lường, đánh giá mức độ ảnh hưởng của các dự án đến môi
trường tự nhiên và sức khỏe của người dân được thực hiện, như đánh giá tác động
môi trường (environmental impact assessment – EIA) và đánh giá chiến lược môi
trường (strategic environmental assessment – SEA) [O’Faircheallaigh, 2010], [Ran,
2012], [Spengler, 2009].
Riêng đối với hoạt động quản lý rác thải, sự tham gia của cộng đồng được
chia ra nhiều nhóm, dựa trên việc xác định các bên liên quan trong quá trình này.
Đó là mối quan hệ của nhà nước và tư nhân trong quá trình quản lý rác thải tại các
đô thị, trong đó nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của các tổ chức tư nhân, đơn lẻ,
25


×