Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Một số biện pháp để dạy nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về nghĩa cho học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.55 KB, 38 trang )

Mục lục
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14

TÊN MỤC
I. Phần mở đầu
1. Ly do chọn sáng kiến kinh nghiệm
2. Mục đích nghiên cứu
3.Thới gian và địa điểm
4. Đóng góp về mặt thực tiễn
II. Phần nội dung
1. Chương 1. Tổng quan
1.1. Cơ sở ly luận
1.2 Cơ sở thực tiễn
2. Chương 2. Nội dung vẫn đề nghiên cứu
2.1. Thực trạng
2.2. Các biện pháp
Biện pháp 1. Các biện pháp nghĩa từ


Biện pháp 2. Các biện pháp tìm hiểu ý nghĩa của một số từ có giá trị

TRANG
2
2
3
4
4
5
5
5
6
7
7
10
11
19

15
16
17
18
19

nghệ thuật trong văn bản tập đọc.
Biện pháp 3. Dạy các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa
2.3. Kết quả nghiên cứu
2.4. Bài học kinh nghiệm
III. Phần kết luận, kiến nghị
IV. Tài liệu tham khảo


21
33
35
35
38

I. Phần mở đầu :
1. L‎ý do chọn sáng kiến kinh nghiệm :
1.1. Tính lịch sử của vấn đề nghiên cứu :
Trường Tiểu học là nơi đầu tiên trẻ em được học tập Tiếng Việt, chữ viết
với phương pháp nhà trường, phương pháp học tập tiếng mẹ đẻ một cách khoa
học. Học sinh tiểu học chỉ có thể học tập các môn khác khi có kiến thức Tiếng
1


Việt. Bởi đối với người Việt, tiếng Việt là phương tiện giao tiếp, là công cụ trao
đổi thông tin và chiếm lĩnh tri thức. Hơn nữa, con người muốn tư duy phải có
ngôn ngữ. Cả những lúc chúng ta nghĩ thầm trong bụng, chúng ta cũng “bụng
bảo dạ” cũng nói thầm, tức là cũng sử dụng ngôn ngữ, một hình thức ngôn ngữ
mà các nhà chuyên môn gọi là ngôn ngữ bên trong. Còn thông thường thì chúng
ta thể hiện ra ngoài kết quả của hoạt động tư duy, những ý nghĩ tư tuởng của
chúng ta thành những lời nói, những thực thể ngôn ngữ nhất định. Ngôn ngữ là
công cụ, là hiện thực của tư duy. Bởi lẽ đó, tư duy và ngôn ngữ có quan hệ chặt
chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Người có tư duy tốt sẽ nói năng mạch
lạc, trôi chảy và nếu trau dồi ngôn ngữ được tỉ mỉ, chu đáo thì sẽ tạo điều kiện
cho tư duy phát triển tốt. Môn Tiếng Việt trong trường tiểu học không thể là bản
sao từ chương trình khoa học Tiếng Việt vì trường có nhiệm vụ riêng của mình.
Nhưng với tư cách là một môn học độc lập, Tiếng Việt có nhiệm vụ cung cấp
cho HS những tri thức về hệ thống Tiếng Việt (hệ thống âm thanh, cấu tạo từ,

cấu trúc ngữ pháp, khả năng biểu cảm của ngôn ngữ, quy tắc hoạt động của
ngôn ngữ). Đồng thời, kiến thức môn Tiếng Việt hình thành cho HS kĩ năng
giao tiếp (nghe, nói, đọc, viết). Ngoài ra, Tiếng Việt còn là công cụ giao tiếp và
tư duy cho nên nó còn có chức năng kép mà các môn học khác không có được,
đó là: trang bị cho HS một số công cụ để tiếp nhận và diễn đạt mọi kiến thức
khoa học trong nhà trường, là công cụ để học các môn học khác; kĩ năng nghe,
nói, đọc, viết là phương tiện là điều kiện thiết yếu của quá trình học tập. Bên
cạnh chức năng giao tiếp, tư duy ngôn ngữ còn có chức năng quan trọng nữa đó
là thẩm mĩ, ngôn ngữ là phương tiện để tạo nên cái đẹp, hình tượng nghệ thuật.
Trong văn học, HS phải thấy được vẻ đẹp của ngôn ngữ. Vì thế ở trường tiểu
học, Tiếng Việt và văn học được tích hợp với nhau, văn học giúp HS có thẩm mĩ
lành mạnh, nhận thức đúng đắn, có tình cảm thái độ hành vi của con người Việt
Nam hiện đại, có khả năng hòa nhập và phát triển cộng đồng nên hiểu được các
văn bản văn học hoặc hiểu được ngôn ngữ trong giao tiếp thì HS cần phải hiểu
được nghĩa của từ và các lớp nghĩa của từ.
1.2. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu :
2


Từ có vai trò rất quan trọng trong hệ thống ngôn ngữ. Con người muốn tư
duy phải có ngôn ngữ. Không có vốn từ đầy đủ, con người không thể sử dụng
ngôn ngữ như một phương tiện giao tiếp. Việc dạy từ ngữ ở tiểu học sẽ tạo cho
học sinh có năng lực từ ngữ, giúp cho học sinh nắm được tiếng mẹ đẻ, có
phương tiện giao tiếp để phát triển toàn diện. Vốn từ của học sinh càng giàu bao
nhiêu thì khả năng sử dụng từ càng lớn, càng chính xác, hoạt động giao tiếp sẽ
thể hiện rõ ràng và nhạy bén hơn.
Với mục tiêu được quy định thì môn Tiếng Việt có vai trò hết sức quan
trọng, giúp trẻ chiếm lĩnh tri thức mới, hình thành và phát triển năng lực sử dụng
tiếng Việt trong học tập và trong giao tiếp. Ngay từ bậc tiểu học, học sinh được
chú trọng dạy từ, trong đó dạy giải nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ

nghĩa là nhiệm vụ vô cùng quan trọng.
2. Mục đích nghiên cứu :
Sáng kiến kinh nghiệm này nhằm mục đích tìm ra biện pháp tốt nhất để
triển khai có hiệu quả các tiết dạy phân môn Tiếng việt cho học sinh lớp 5 theo
chương trình hiện hành.
- Giới hạn nghiên cứu của đề tài:
+ Nội dung:
Một số biện pháp để dạy nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về
nghĩa cho học sinh lớp 5.
+ Phạm vi:
Môn Tiếng Việt lớp 5 (về nội dung chương trình, phương pháp dạy học
và tâm lí của học sinh tiểu học).
3. Thời gian và địa điểm :
Từ tháng 8/2013 đến tháng 3/2014.
Học sinh lớp 5 - Trường Tiểu học Quyết Thắng.
4. Đóng góp mới về mặt thực tiễn :
Trong các tiết học, giáo viên muốn phát huy được tính tích cực của học
sinh, cho các em phát hiện từ khó nhưng chưa cho học sinh hiểu nghĩa từ bằng
cách diễn đạt dễ hiểu, gây ấn tượng để các em nhớ lâu, Khi tìm hiểu nghĩa của
3


từ có giá trị nghệ thuật trong văn bản tập đọc không có định hướng rõ ràng, cụ
thể học sinh lan man, không có trọng tâm. Hoặc một số giáo viên khi dạy khái
niệm các lớp từ có quan hệ ngữ nghĩa giáo viên hướng dẫn học sinh phân biệt từ
đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm chưa rõ ràng, cụ thể khiến nhiều em còn
lúng túng khi được hỏi đến....Tất cả những thực tế trên đều làm giảm hiệu quả
của tiết dạy Tiếng việt ở lớp 5 hiện nay.

II. Phần nội dung :

1. Chương 1. Tổng quan.
1.1.

Cơ sở ly luận :

Ngôn ngữ văn học còn là biểu hiện bậc cao của nghệ thuật ngôn từ nên
khi dạy văn là cách bồi dưỡng năng lực ngôn ngữ tối ưu cho người học. Dạy
Tiếng Việt là đưa các em hoà nhập vào một môi trường sống của thời kì hội
nhập. Còn hiểu sâu sắc về Tiếng Việt là tác động đến kĩ năng cảm thụ thơ văn
của HS. Kết hợp giữa dạy văn và dạy tiếng sẽ tạo được hiệu quả cao giữa hai
4


môn văn - Tiếng Việt để HS lớn lên trở thành những con người hiện đại, được
giáo dục toàn diện. Về bản chất giáo dục là sự chuyển giao các giá trị văn hoá
đông - tây, kim - cổ, một sự giao tiếp mà phương tiện chủ yếu là lời nói của cha
mẹ, thầy cô là sách báo các loại. Trong giáo dục, việc nắm vững tiếng nói (trước
hết là tiếng mẹ đẻ) có ý nghĩa quyết định. Nếu học sinh yếu kém về ngôn ngữ,
nghe nói chỉ hiểu lơ mơ, nói viết không chính xác, không thể hiện được ý mình
cho suôn sẻ, thì không thể nào khai thác đầy đủ các thông tin tiếp nhận từ người
thầy, từ sách vở được. Bởi vậy, trong nội dung giáo dục, chúng ta cần phải hết
sức coi trọng việc đào tạo về mặt ngôn ngữ, xem đó là điều kiện không thể thiếu
để bảo đảm thành công trong thực hiện sứ mệnh trong đại của mình.
Nhận thức của trẻ từ 6 đến 11 tuổi còn mang tính cụ thể, gắn với các hình
ảnh và hiện tượng cụ thể. Trong khi đó kiến thức về nghĩa của từ và các lớp từ
có quan hệ về ngữ nghĩa có tính trừu tượng và khái quát cao. Do vậy, các em
thường không thích học, ngại suy nghĩ dẫn đến tiết học kém hiệu quả, học sinh
nắm kiến thức hời hợt. Mặt khác, học sinh lớp 5 được tiếp xúc với những từ mới
có những bước nhảy vọt về kiến thức nên các em thường có hiện tượng lười học,
sợ giải nghĩa từ, sợ học các bài về các lớp từ. Chính vì lẽ đó, người giáo viên là

người dạy phải biết khơi dậy niềm say mê học, óc tư duy, sáng tạo của mỗi học
sinh. Làm thế nào để đạt được điều đó?
Do đặc điểm của môn học và đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 5 mau
nhớ nhưng lại nhanh quên, không thích những hoạt động kéo dài, thích những
hình ảnh trực quan sinh động..., người giáo viên cần lựa chọn phương pháp, hình
thức tổ chức dạy học phù hợp với các đối tượng học sinh trong lớp để học sinh
nào cũng nắm chắc kiến thức về từ, củng cố tri thức mới, rèn luyện các kỹ năng
cơ sở, phát triển tư duy, ngôn ngữ... giúp học sinh tự tin hơn khi giao tiếp.
1. 2. Cơ sở thực tiễn :
Chương trình các môn học ở trường tiểu học hiện nay đã được sắp xếp
một cách khoa học hệ thống song đối với học sinh tiểu học là bậc học nền tảng,
đến trường là một bước ngoặt lớn của các em trong đó hoạt động học là hoạt
động chủ đạo, kiến thức các môn học về tự nhiên và xã hội chưa được bao
5


nhiêu, vốn từ sử dụng vào trong cuộc sống để diễn đạt trình bày tư tưởng, tình
cảm của mình còn quá ít. Mặc dù vấn đề nghĩa của từ, các lớp từ có quan hệ về
ngữ nghĩa và việc dạy vấn đề này ở trường tiểu học không gây nhiều tranh cãi
như việc dạy nội dung cấu tạo từ nhưng đây lại là công việc không mấy dễ dàng
bởi vì nghĩa của từ là một vấn đề phức tạp, trừu tượng, khó nắm bắt trong khi đó
tư duy của học sinh tiểu học chủ yếu thiên về cụ thể tư duy trừu tượng phát triển
nhưng ở mức độ thấp. Các em thường lẫn lộn giữa từ nhiều nghĩa - từ đồng
nghĩa - từ đồng âm, giải nghĩa từ còn mang tính chung chung, không chính xác.
Hơn thế nữa, các em chưa ý thức được vai trò xã hội của ngôn ngữ, chưa nắm
được các phương tiện kết cấu và quy luật cũng như họat động chức năng của nó.
Mặt khác, HS cần hiểu rõ người ta nói và viết không chỉ cho riêng mình mà cho
người khác nên ngôn ngữ cần chính xác, dễ hiểu, tránh làm cho người khác hiểu
sai nội dung câu, từ, ý nghĩa diễn đạt. Chính vì vậy việc dạy nghĩa của từ và các
lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa có rất nhiều giáo viên trong trường quan tâm

song chưa có ai nghiên cứu nên tôi đã chọn vấn đề này giúp học sinh tháo gỡ
những khó khăn, vướng mắc khi học mảng kiến thức này của môn TV.

2. Chương 2. Nội dung vấn đề nghiên cứu :
Qua thực tế giảng dạy, dự giờ đồng nghiệp ở trường sở tại, trường bạn, tôi
nhận thấy việc dạy và học tốt về nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ
nghĩa cho học sinh lớp 5 là một công việc rất cần thiết.
Để khắc phục được những vấn đề đã nêu ở trên, tôi tìm hiểu kĩ nội dung
và hiểu được nội dung các tiết học trong chương trình, nghiên cứu cách tổ chức
các trò chơi có thể áp dụng để hoàn thành bài học một cách nhẹ nhàng mà hiệu
quả cao nhất; giúp học sinh thư giãn, mạnh dạn nói lên suy nghĩ của mình, nêu
vấn đề để cùng giải quyết; gợi cho học sinh thấy được mối liên hệ giữa các bài
6


học, phân môn trong Tiếng Việt để vừa nắm chắc bài, vừa củng cố được kiến
thức đã học; kiểm tra kết quả, liên hệ thực tế… Làm tốt được điều đó, giáo viên
dạy phải tâm huyết với nghề, với học sinh, phải chuẩn bị kĩ cho mỗi bài dạy,
mỗi tiết dạy và nhất là phải nghiên cứu để tìm ra giải pháp hữu hiệu nhất giúp
học sinh học tốt hơn.
Vậy đóng góp của đề tài này chính là tạo cho học sinh có hứng thú khi
học Tiếng Việt nói chung và phần nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ
nghĩa, giúp những học sinh còn ngại nói, ngại phát biểu trong học Tiếng Việt để
nâng cao chất lượng học cho học sinh trong các trường tiểu học.
2.1. Thực trạng :
2.1.1 Tìm hiểu thực tế của trường:
Năm học 2013 - 2014, trường Tiểu học Quyết Thắng có ba lớp 5 với 105
học sinh. Tôi được phân công dạy và chủ nhiệm lớp 5A. Lớp tôi chủ nhiệm có
35 học sinh trong đó có 23 nữ, 12 nam. Trong quá trình nghiên cứu đề tài của
mình, tôi gặp một số khó khăn và thuận lợi như sau:

*Thuận lợi :
+ Về phía Nhà trường:
- Luôn quan tâm đến chất lượng dạy của GV và chất lượng học của HS.
- Đầu tư đầy đủ cơ sơ vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác dạy và học.
- Hàng tuần có các buổi sinh hoạt chuyên môn để GV trao đổi kinh
nghiệm,
thảo luận bài để tìm ra phương pháp, hình thức dạy học tối ưu trong quá trình
dạy.
- Tổ chức thao giảng các cấp để giáo viên được cọ sát, học hỏi kinh
nghiệm của đồng nghiệp.
+ Về phía giáo viên:
- Phần lớn giáo viên của trường có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đạt và
vượt chuẩn, nhiều giáo viên đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi các cấp.
- Giáo viên trong các tổ, khối chuyên môn luôn tự học hỏi để bổ sung,
cập nhật kiến thức phục vụ cho công tác giảng dạy của mình.
7


- Giáo viên quan tâm đến các đối tượng học sinh, nhiệt tình trong công tác
giảng dạy.
+ Về phía học sinh:
- Phần nhiều học sinh ngoan, tích cực trong học tập và rèn luyện.
- Các em có đầy đủ đồ dùng học tập, sách giáo khoa, vở viết đúng quy
định.
- Phụ huynh học sinh luôn quan tâm đến việc rèn luyện học tập HS, có sự
kết hợp giữa phụ huynh, giáo viên và các lực lượng giáo dục trong, ngoài Nhà
trường.
* Khó khăn:
+ Về phía giáo viên:
- Đôi khi ở một số tiết giáo viên chuẩn bị đồ dùng dạy học còn sơ sài chưa

kích thích được sự hứng thú, tìm tòi, sáng tạo của học sinh.
- Một vài giáo viên chưa nhanh nhạy trong việc đổi mới phương pháp dạy
học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, lấy học sinh làm trung tâm.
+ Về phía học sinh:
- Một số ít học sinh còn lười học, làm bài còn cẩu thả, làm các bài toán dưới
hình thức qua loa cho xong.
- Một số gia đình chưa thực sự quan tâm đến việc học của con mình, còn giao
phó việc rèn luyện và học tập của học sinh cho Nhà trường.
2.1.2. Khảo sát :
* Dự giờ :
Ngay từ những ngày đầu năm học, tôi dự giờ thăm lớp của giáo viên cùng
khối.
Qua dự giờ, tôi thấy tiết dạy đạt được một số ưu nhược điểm chính sau:
Ưu điểm:
- GV giảng dạy kiến thức cơ bản chính xác, có hệ thống.
- Dạy đúng đặc trưng bộ môn, đúng loại bài.
- Lời giảng mạch lạc, truyền cảm, quan tâm đến các đối tượng học sinh trong
lớp.
8


- Hoạt động giữa giáo viên và học sinh diễn ra nhẹ nhàng, tự nhiên.
- Phân bố thời gian một cách hợp lý.
- HS hiểu bài, làm bài tương đối chính xác.
Khuyết điểm:
- Một số học sinh nắm bài chưa chắc nên khi giáo viên yêu cầu tìm từ đồng
nghĩa con tìm được ít.
- GV chưa khắc sâu kiến thức cho HS.
- Phần mở rộng kiến thức cho học sinh giỏi chưa có.
* Chất lượng :

Sau tiết dạy ở lớp 5B tôi tiến hành kiểm tra kỹ năng thực hành của các học
sinh sau tiết dạy bằng bài tập :
Bài 1: Tìm từ đồng nghĩa với mỗi từ sau đây: đẹp; to lớn; học tập.
Bài 2. Xếp các từ dưới đây thành các nhóm từ đồng nghĩa : bao la, lung linh,
vắng vẻ, hiu quạnh, long lanh, lóng lánh, mênh mông, vắng teo, vắng ngắt, bát
ngát, lấp loáng, lóng lánh, hiu hắt, thênh thang.
Kết quả của cả lớp đạt được như sau:
THỜI GIAN
ĐẦU NĂM

LỚP 5B (LỚP ĐỐI CHỨNG)
G
K
TB
Y
10 HS 15HS 8HS
2HS

LỚP 5A (LỚP THỰC NGHIỆM)
G
K
TB
Y
18 HS 15 HS 2 HS

28,6% 42,8% 22,9% 5,7% 51,4% 42,9% 5,7%
Qua kết quả khảo sát, tôi thấy chất lượng làm bài ở lớp 5A cao hơn lớp 5B
một chút. Do vậy, để dạy và học phần nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về
ngữ nghĩa đạt hiểu quả cao, cần chú trọng đến hình thức truyền thụ kiến thức để
gây hứng thú nâng cao chất lượng học cho học sinh. Qua tìm hiểu và áp dụng

một vài biện pháp dạy - học về vấn đề “Dạy nghĩa của từ và các lớp từ có quan
hệ về ngữ nghĩa cho học sinh lớp 5” trong năm học 2013 – 2014, tôi nhận thấy
hiệu quả giờ học cao hơn, học sinh hứng thú học, giờ học thật vui, thật nhẹ
nhàng, sôi nổi đặc biệt mỗi học sinh đều được bộc lộ suy nghĩ về vốn sống, vốn
từ của mình
2.2. Các giải pháp :
Biện pháp dạy nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa:
9


Nghĩa của từ được hiểu là nội dung đối tượng vật chất, là sự phản ánh đối
tượng của hiện thực (một hiện tượng, một quan hệ, một tính chất, hay một quá
trình) trong nhận thức, được ghi lại bằng một tổ hợp âm thanh xác định. Để tăng
vốn từ cho học sinh, ngoài việc hệ thống hóa vốn từ, công việc quan trọng là làm
cho học sinh hiểu nghĩa từ, phân biệt được các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa.
Đây là nhiệm vụ quan trọng trong sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em. Việc dạy
nghĩa của từ được tiến hành trong tất cả các giờ học, bất cứ ở đâu có cung cấp từ
ngữ, thuật ngữ, khái niệm, thì ở đó có dạy nghĩa từ. Bài tập giải nghĩa từ xuất
hiện trong phân môn LTVC không nhiều nhưng việc giải nghĩa từ lại chiếm vị
trí rất quan trọng trong các bài học MRVT. Việc cho các em hiểu nghĩa các từ
chủ điểm, từ trung tâm của mỗi trường nghĩa là vô cùng cần thiết.
Trong quá trình nghiên cứu tôi đã cụ thể bằng những biện pháp sau:
a. Biện pháp dạy nghĩa của từ cho học sinh lớp 5.
- Các biện pháp giải nghĩa từ.
- Các biện pháp tìm hiểu ý nghĩa của một số từ ngữ có giá trị nghệ thuật
trong văn bản tập đọc.
b. Biện pháp dạy các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa.
Dạy nghĩa của từ cho học sinh lớp 5
Để giải nghĩa từ, trước hết giáo viên phải hiểu nghĩa từ và biết giải nghĩa
phù hợp với mục đích dạy học, phù hợp với đối tượng học sinh. Đối với học sinh

lớp 5 việc giải nghĩa từ không thể giống với học sinh lớp 1-2. Mặt khác hoạt
động giải nghĩa từ nói chung cũng sẽ có điểm khác với việc giải nghĩa từ ngữ
được dùng có tính nghệ thuật. Theo định hướng vừa nêu, tôi cố gắng tìm ra các
biện pháp giải nghĩa từ thích hợp với lượng từ ngữ cần cung cấp cho học sinh
lớp 5 và các biện pháp tìm hiể

u từ ngữ nghệ thuật trong các văn bản Tập đọc

của khối lớp 5.
Biện pháp 1: Giải nghĩa từ cho học sinh lớp 5.
Qua 16 tiết MRVT và 69 văn bản tập đọc, tôi thống kê được hơn 200 từ
học sinh cần hiểu nghĩa. Đây là số lượng từ khá lớn so với khả năng giải nghĩa
của học sinh độ tuổi 11,12. Trong một số công trình nghiên cứu về PPDH TV và
10


một số tài liệu hướng dẫn giáo viên tiểu học dạy từ ngữ đã nêu một số cách giải
nghĩa sau:
“Giải nghĩa bằng trực quan; giải nghĩa bằng cách đối chiếu so sánh với
các từ khác; giải nghĩa bằng các từ đồng nghĩa, trái nghĩa; giải nghĩa từ bằng
cách phân tích từ các thành tố và giải nghĩa từng thành tố này; giải nghĩa bằng
định nghĩa....
Tôi đã chia các từ mà sách giáo khoa TV5 yêu cầu học sinh hiểu nghĩa
thành các nhóm và xác định biện pháp giải nghĩa từ tương ứng với mỗi nhóm.
A. Giải nghĩa bằng định nghĩa
Giải nghĩa bằng định nghĩa là biện pháp giải nghĩa bằng cách nêu nội dung
nghĩa, gồm tập hợp các nét nghĩa bằng một định nghĩa. Tập hợp nét nghĩa được
liệt kê theo sự sắp xếp nét nghĩa khái quát, cũng là nét nghĩa từ loại lên trước hết
và các nét nghĩa càng hẹp, càng riêng thì càng ở sau. Tôi đã hướng dẫn HS:
- Nhận dạng được ý nghĩa phạm trù của từ.

- Xác định tiểu loại của từ.
Tạm thời phân biệt cách giải nghĩa các nhóm từ như sau:
a. Nhóm các từ thuộc từ loại danh từ
* Danh từ trừu tượng
Khi giải nghĩa các danh từ trừu tượng, tôi hướng dẫn HS làm như sau:
- Chọn được các từ gọi tên các nét nghĩa khái quát.
- Xác định rõ phạm trù nghĩa của các từ cần giải nghĩa.
- Tùy đặc điểm riêng từng từ mà có thể chọn một trong các từ sau: sự,
cuộc, những, phạm vi, lĩnh vực, nơi.... làm từ công cụ để mở đầu nét nghĩa khái
quát cho mỗi từ.
Ví dụ:
Tôi hướng dẫn HS giải nghĩa từ: “Tư tưởng”:
- Chọn được các từ gọi tên các nét nghĩa khái quát: suy nghĩ hoặc ý
nghĩ ( tập trung tư tưởng).

11


- Xác định rõ phạm trù nghĩa của các từ cần giải nghĩa: quan điểm và ý
nghĩa chung của người đối với hiện thực khách quan (tư tưởng tiến bộ, tư tưởng
phong kiến...)
- Chọn từ công cụ để mở đầu cho nét nghĩa “sự”.
Vậy, “tư tưởng” là sự suy nghĩ hoặc ý nghĩ ( tập trung tư tưởng), quan
điểm và ý nghĩa chung của người đối với hiện thực khách quan (tư tưởng tiến
bộ,
tư tưởng phong kiến...)
* Danh từ chỉ sự vật cụ thể.
Tên gọi các sự vật tồn tại trong thực tế khách quan có rất nhiều nhưng có
thể quy về các phạm trù sau:
- Từ chỉ đồ vật, từ chỉ người và con vật, từ chỉ cây cối, chỉ các hiện tượng

tự nhiên... Vì thế nét nghĩa khái quát mở đầu cho cách giải nghĩa bằng định
nghĩa.
Khi dạy bài Cửa sông (TV5- T2 - Tr 75), tôi đã hướng dẫn HS giải nghĩa
từ “Tôm rảo” : một loại tôm (nghĩa khái quát) sống ở vùng nước lợ, thân nhỏ
và dài.
Với các từ chỉ đồ vật, dụng cụ, đồ dùng hoặc phương tiện sản xuất, sau
nét nghĩa phạm trù là nét nghĩa hình dáng, kích thước, cấu tạo và cuối cùng là
nét nghĩa chức năng.
Ví dụ:
+ (cái) Bay (TV5- T1- Tr 148): đồ vật (nét nghĩa phạm trù), dụng cụ của
thợ nề, gồm một miếng thép mỏng hình lá lắp vào cán (nét nghĩa hình dáng,
kích thước, cấu tạo) , dùng để xây, trát, láng ( nét nghĩa chức năng).
Khi giải nghĩa các từ bàn, ghế, sập, các em sẽ miêu tả cấu tạo các đồ vật
này na ná như nhau, nhưng nhất thiết các em phải nói được bàn dùng để kê viết
hoặc đặt đồ đạc, ghế dùng để ngồi, sập dùng để nằm. Các đồ vật này khác nhau
về chức năng. Thực tế ở tiểu học, rất nhiều trường hợp học sinh thậm chí cả giáo
viên chỉ nêu được nét nghĩa chức năng khi giải nghĩa danh từ chỉ đồ vật dụng cụ.
Ví dụ:
12


+ men:(TV 5 - T1 – Tr118) chất được dùng trong quá trình làm bia , rượu;
chất gây say.
- Cách giải nghĩa các từ chỉ động, thực vật.
Khi giải nghĩa các từ thuộc loại này, giáo viên có thể nêu đây là một loại
động vật, thực vật, thuộc họ.... Tuy nhiên để giảng nghĩa ngắn gọn, giáo viên
nên nêu trực tiếp nghĩa khái quát của từng loại, tiếp đến là các nét nghĩa hình
dáng, kích thước, môi trường sống hoặc tính năng của loài động vật, thực vật đó.
Ví dụ:
+ Con mang (con hoẵng) (TV5- T1- Tr 75): Loài thú rừng(nghĩa khái

quát ), cùng họ với hươu (thuộc họ), sừng bé có hai nhánh và lông vàng đỏ (hình
dáng, kích thước).
Danh từ có nhiều tiểu loại, với mỗi tiểu loại, cách giải nghĩa bằng định
nghĩa cũng tương tự nghĩa là đưa nét nghĩa chỉ loại lên trước hết, sau đó mới cụ
thể hóa.
Ví dụ:
+ Thanh ray: (TV5 – T2 - Tr136) Thanh sắt hoặc thép (nét nghĩa chỉ loại )
ghép nối với nhau thành hai đường song song để tạo thành đường cho tàu hoả,
tàu điện hay xe goòng chạy (cụ thể hóa).
b. Nhóm các từ thuộc loại động từ
Chia động từ thành ba loại: động từ chỉ hành động, động từ chỉ trạng
thái và động từ chỉ quá trình.... nghĩa chỉ ở loại vừa nêu chính là nét nghĩa khái
quát, mở đầu cho lời giải nghĩa động từ theo cách định nghĩa. Việc xác định các
nét nghĩa tiếp theo cũng căn cứ vào nét nghĩa khái quát này. Chẳng hạn khi giải
nghĩa một động từ hành động, người giải nghĩa phải nêu được các nét nghĩa
hành động tự thân hay hành động tác động, cách thức hành động và kết quả hành
động.
Ví dụ:
+ Trình (TV5- T2 – Tr84): hoạt động, đưa ra để người trên xem xét và
giải quyết.

13


Đối với các động từ chỉ ý nghĩa quá trình, sau nét nghĩa phạm trù cần nêu
được nét nghĩa chỉ diễn biến hoặc kết quả của quá trình biến đổi.
Ví dụ:
+ Hóa thân: quá trình biến đi và hiện ra lại thành một người hoặc một vật
cụ thể khác nào đó (hóa thân vào nhân vật).
Riêng đối với các động từ chỉ trạng thái, việc lựa chọn từ ngữ để giải

nghĩa cần chú ý sao cho các đặc điểm trạng thái của đối tượng được miêu tả rõ
nét, nhưng không lẫn với cách giải nghĩa các tính từ. Đặc biệt là các động từ chỉ
trạng thái tâm lí, tình cảm của con người.
Khi giải nghĩa các động từ chỉ trạng thái, nêu trạng thái của đối tượng
trong một tình trạng cụ thể như trạng thái tâm lí: xao xuyến, bồi hồi, băn khoăn,
bối rối. Hoặc trạng thái vật lí của sự vật: nứt, vỡ, mẻ, sứt... cũng có thể là các
trạng thái, tình trạng xã hội: náo loạn, nháo nhác, hỗn loạn, xôn xao. Còn khi
giải nghĩa các tính từ chỉ tính chất tâm lí, đặc điểm của người cần nêu rõ nét
nghĩa thường biểu thị các đặc điểm của đối tượng và kèm theo thang độ đánh
giá.
Ví dụ:
+ Ác: tính chất gây hại, đau khổ, tai họa cho người khác.
c. Nhóm từ thuộc loại tính từ
Tính từ thường được chia làm hai loại:
- Tính từ không mức độ: Để thể hiện được mức độ đặc điểm, tính chất mà
chúng biểu thị, những tính từ này có thể kết hợp với các từ: rất, quá, lắm...
Ví dụ: trắng, vàng, xanh, đỏ, tròn... .
- Tính từ có mức độ: các tính từ này đã hàm chứa ý nghĩa mức độ nên
chúng không kết hợp được với các từ rất, quá, lắm ... Vì vậy khi dạy các em giải
nghĩa các từ thuộc từ loại tính từ, nét nghĩa phạm trù cần nêu trước hết chính là
nét nghĩa tính chất, đặc điểm. Các nét nghĩa cần trình bày theo lối miêu tả.
Ví dụ:
+ Lan man: nhiều ( nói, viết, suy nghĩ) hết cái này đến cái kia một cách
mạch lạc, không hệ thống.
14


Giải nghĩa bằng tập hợp các nét nghĩa là cách dạy đầy đủ nhất nhưng là
một yêu cầu khó đối với học sinh tiểu học, vì vậy các bài tập giải nghĩa trong
môn LTVC thường xây dựng dưới dạng cho sẵn từ và nghĩa của từ, các định

nghĩa về từ yêu cầu học sinh xác lập sự tương ứng.
Loại này có 2 tiểu dạng.
+ Dạng 1: Cho sẵn các từ yêu cầu học sinh tìm trong các nghĩa đã cho
nghĩa phù hợp với từ.
Ví dụ: * Bài tập 1(TV5- T1- Tr 47) Dòng nào dưới đây nêu đúng nghĩa
của từ hoà bình:
a, Trạng thái bình thản.
b, Trạng thái không có chiến tranh.
c, Trạng thái hiền hoà, yên ả.
+ Dạng 2: Cho từ và nghĩa của từ, yêu cầu học sinh xác lập sự tương ứng.
Ví dụ:
* Bài tập 1(TV5- T1- Tr116). Mỗi từ ở cột A dưới đây ứng với nghĩa nào
ở cột B?
A
Sinh vật

B
Quan hệ giữa sinh vật(kể cả người) với môi trường

Sinh thái

xung quanh.
Tên gọi chung các vật sống, bao gồm động vật, thực

hình thái

vật và vi sinh vật, có cinh ra, lớn lên và chết.
Hình thức biểu hiện ra bên ngoài của sự vật, có thể
quan sát được


B. Giải nghĩa theo lối so sánh từ đồng nghĩa, gần nghĩa hoặc trái nghĩa
Đây là cách giải nghĩa một từ bằng cách quy nó về những từ đã biết, các
từ dùng để quy chiếu đó phải được giảng kĩ.
Ví dụ: Khi dạy bài “ Tranh Làng Hồ”, tôi hướng dẫn HS giải nghĩa từ
thuần phác như sau:
+ Thuần phác (TV5- T2- Tr 88): chất phác, mộc mạc.

15


Vì từ đồng nghĩa thường khác nhau về sắc thái cho nên cách giảng theo
lối so sánh từ đồng nghĩa nên kết hợp với cách giảng định nghĩa hoặc với cách
giảng theo lối miêu tả. Bên cạnh việc đưa ra các từ đồng nghĩa, gần nghĩa để đối
chiếu, cần bổ sung thêm những nét nghĩa riêng cho từng từ nên khi giải nghĩa
chúng ta có thể chỉ cần làm rõ nghĩa một từ nhưng việc xác định loạt đồng nghĩa
sẽ giúp chúng ta hiểu rõ nghĩa của từ cần giải nghĩa hơn.
Ví dụ:
Khi giải nghĩa từ lốc (cơn lốc), chúng ta đưa từ này về loạt đồng nghĩa:
lốc, gió, bão, giông, giông tố,..... Trong loạt từ trên, chúng ta chọn từ gió làm từ
trung tâm rồi giảng nghĩa từ thật kĩ, rồi bổ sung những nghĩa đặc thù cho các từ
lốc, bão, giông...
+ gió: là hiện tượng không khí trong khí quyển chuyển động thành luồng
từ vùng có áp suất cao đến vùng có áp suất thấp.
+ lốc: gió xoáy mạnh trong phạm vi nhỏ.
+ giông: biến động mạnh của thời tiết, thường có gió to giật mạnh và có
sấm sét, mưa rào.
+ giông tố: cơn giông có gió rất to và mạnh (thường dùng để ví cảnh gian
nan đầy thử thách)
Đối với các từ ghép đồng nghĩa cần chú ý đến nghĩa của các hình vị. Chính
ý nghĩa của hình vị cấu tạo góp phần phân biệt nghĩa của từ này với từ kia.

Ví dụ:
Để giải nghĩa từ vàng xuộm, hoặc vàng xọng và vàng lịm. Trước hết chúng
ta quy chiếu chúng với từ vàng (chỉ màu sắc vàng), rồi đưa thêm các nghĩa riêng
của hình vị xuộm, xọng, lịm vào từng từ. Cụ thể:
+ vàng xuộm: màu vàng đậm trên diện rộng.
+ vàng xọng: màu vàng gợi cảm giác mọng nước.
+ vàng lịm: màu vàng gợi cảm giác rất ngọt.
Hoạt động giải nghĩa các từ ghép chính phụ cùng hình vị chính, khác nhau
về hình vị phân nghĩa sắc thái hóa, cũng thực hiện theo cách thức nêu trên.
Giải nghĩa từ bằng cách so sánh với từ trái nghĩa, giáo viên cần chú ý bản
16


chất của từ trái nghĩa là những từ có nghĩa trái ngược, đối lập nhau xét theo một
phạm trù nhất định. Tuy nhiên cần phân biệt, có những cặp từ trái ngược nhau
tạo thành hai cực mâu thuẫn, phủ định cực này tất yếu phải chấp nhận cực kia.
Ví dụ:
+ trắng – đen; trên- dưới... Khi nói trên có nghĩa là không phải ở dưới.
Có những từ trái nghĩa phương hướng là các từ chỉ hướng đối lập nhau
trong không gian hoặc thời gian.
Ví dụ:
nam- bắc; đông – tây; lên – xuống; ra – vào....
Lại có những từ trái nghĩa thang độ, tức là những cặp từ có nghĩa trái
ngược nhau tạo thành hai cực có điểm trung gian, phủ định cực này chưa hẳn đã
tất yếu chấp nhận cực kia.
Ví dụ:
+ nóng – lạnh, ở giữa có mát, ấm; già – trẻ, ở giữa có trung niên.... Vì thế
khi giải nghĩa từ bằng cách so sánh với các từ trái nghĩa, có trường hợp ta nói:
sao nhãng (TV5- T2- Tr153) là không nhớ ( cặp quên – nhớ). Nhưng không thể
giải nghĩa rủi (TV5- T2- Tr126) là không may mắn. Vì cặp rủi – may còn có

nghĩa từ bình thường (cuộc đời rủi ro, cuộc đời bình thường, cuộc đời may
mắn). Trong thực tế, học sinh thường quen giải nghĩa theo kiểu đối lập có –
không. Như vậy, giáo viên cần chú ý giải thích rõ hơn cho các em hiểu.
C. Giải nghĩa theo cách miêu tả
* Cách này có hai dạng:
- Thứ nhất là dạng dẫn tính chất (hiện tượng thường gặp) để giúp cho học
sinh hiểu ý nghĩa của từ.
Ví dụ:
+ màu ngọc lam(TV5 - T1-Tr12): chỉ màu sắc có màu xanh đậm.
- Thứ hai là đối với các từ có chức năng biểu hiện cao như các từ láy sắc
thái hóa, hoặc từ ghép phân nghĩa sắc thái hóa, một mặt vừa phải kết hợp cách
giảng theo định nghĩa, mặt khác phải dùng lối miêu tả. Để miêu tả, chúng ta có

17


thể lấy một sự vật, hoạt động cụ thể làm chỗ dựa rồi miêu tả sự vật, hoạt động
đó sao cho nổi bật lên các nét nghĩa chứa đựng trong từ.
Ví dụ:
+ vật vờ: lay động nhẹ, yếu ớt, như không có sức mạnh chống đỡ từ bên
trong, mặc cho sức mạnh bên ngoài kéo đi, lôi lại như cây cỏ dài lay động trong
làn nước nhẹ.
Nếu như cách giải nghĩa theo định nghĩa bắt đầu từ các ý nghĩa biểu niệm
thì giảng nghĩa theo cách miêu tả về cơ bản là bắt đầu bằng một ý nghĩa biểu vật
tiêu biểu nhất để giúp học sinh lĩnh hội được nghĩa biểu vật. Điều này cho phép
giáo viên chấp nhận những lời giải nghĩa của học sinh như sau:
* Bài tập đọc: Quang cảnh làng mạc ngày mùa (TV5- T1- Tr10).
+ Vàng ối: là màu vàng của lá mít.
+ Vàng xuộm: là màu của cánh đồng lúa chín đều.
+ Vàng giòn: là màu vàng của rơm, rạ phơi rất khô.

D. Giải nghĩa theo cách phân tích từ ra từng tiếng và giải nghĩa từng
tiếng
Cách giải nghĩa này có ưu thế đặc biệt khi giải nghĩa từ Hán việt. Việc giải
nghĩa từng tiếng rồi khái quát nêu ý nghĩa chung của cả từ sẽ giúp học sinh cơ
sở nắm vững nghĩa từ.
Ví dụ: + Nhân quyền: (TV5- T2- Tr 147) : nhân: người; những điều được
hưởng, được làm, được yêu cầu theo quy ước chung trong cộng đồng và theo
quy ước của pháp luật.
Nhân quyền: những điều mà con người được hưởng, được làm, được yêu
cầu, theo quy ước chung trong cộng đồng và theo quy ước của pháp luật.
Biện pháp 2. Các biện pháp tìm hiểu ý nghĩa của một số từ ngữ có giá
trị nghệ thuật trong văn bản Tập đọc
Tác phẩm văn học vốn hàm súc và có nhiều tầng ý nghĩa. Việc đọc hiểu
văn bản nghệ thuật thực chất là khai thác hàm ý ẩn sâu trong câu chữ, hình ảnh,
hình tượng của tác phẩm. Đối với học sinh tiểu học, yêu cầu này là khó đối với
các em. Giáo viên cần có biện pháp giúp các em huy động vốn hiểu biết của
18


mình từ các môn học khác và từ trong cuộc sống để hiểu nghĩa của từ ngữ có giá
trị nghệ thuật. Nhưng làm thế nào để giúp học sinh nhận ra các từ ngữ được
dùng một cách nghệ thuật. Điều này đòi hỏi giáo viên không chỉ hướng dẫn mà
cần có các bài tập cụ thể để học sinh thực hành nhận diện và phân tích. Việc tìm
hiểu ý nghĩa của một số từ ngữ có giá trị nghệ thuật trong văn bản tập đọc nên
thực hiện như sau:
A. Nhận diện các từ ngữ nghệ thuật
Trước khi tìm ra các biện pháp phân tích từ ngữ nghệ thuật, giáo viên
cần giúp học sinh nhanh chóng tìm ra các từ dùng hay trong văn bản.
Chưa phân tích làm sao biết được từ ngữ đó dùng hay như thế nào nhưng
bằng sự hiểu biết về tính cụ thể, tính trừu tượng trong nghĩa của từ, về hiện

tượng nhiều nghĩa và các quan hệ ngữ nghĩa giáo viên có thể đặt ra các câu hỏi
định hướng để học sinh xác định từ ngữ nghệ thuật.
Ví dụ : Khi dạy bài tập đọc Quang cảnh làng mạc ngày mùa SGK yêu cầu
trả lời câu hỏi sau: hãy chọn một từ chỉ màu sắc trong bài Quang cảnh làng mạc
ngày mùa mà em thích nhất ?
Với bài tập như trên, học sinh sẽ biết cách chỉ ra các từ ngữ mà các em
thích, hoặc được gợi ý là từ ngữ đó được dùng độc đáo, sáng tạo. Yêu cầu các
em tìm từ ngữ thể các biện pháp tu từ. Thực hiện bài tập trên các em sẽ tìm ra
được các từ dùng đắt trong văn bản nghệ thuật. Còn các từ đó được dùng nghệ
thuật ra sao, giáo viên cần phải hướng dẫn cụ thể.
B. Đặt từ cần tìm hiểu trong hệ thống để phân tích
Một nguyên tắc của việc phân tích từ ngữ trong tác phẩm văn học, là chú
ý để phát hiện ra tính thống nhất cũng tức là tính hệ thống giữa các từ ngữ với
chủ đề của tác phẩm. Nghĩa là từ ngữ mà giáo viên và học sinh đang xem xét đã
cùng với các từ ngữ khác trong hệ thống bộc lộ ý chủ đạo của văn bản ra sao và
giá trị riêng của từ ngữ đó là gì. Với học sinh tiểu học chúng ta không nên hoặc
hạn chế dùng khái niệm hệ thống khi hướng dẫn học sinh phân tích từ ngữ mà
chỉ lên dùng cách nói: tìm điểm chung, điểm riêng giữa từ đang tìm hiểu với các
từ khác.
19


Ví dụ 1: Có thể dùng từ nào thay thế cho từ đẫm trong câu:
Với đôi cánh đẫm nắng trời
Bầy ong bay đến trọn đời tìm hoa.
Đối với bài tập trên, hình thức giống bài tập thay thế, tích cực hóa vốn từ
nhưng thực chất là dạng bài tập gợi ý phân tích từ ngữ theo lối so sánh đồng
nhất và đối lập. Khi làm bài tập này chắc chắn học sinh phải tìm từ đồng nghĩa
với từ đẫm như: sũng, thấm đẫm, ngập,vv... và phân tích đối chiếu để khẳng
định từ đẫm dùng trong ngữ cảnh này là hợp lí nhất, có tác dụng gợi hình ảnh và

biểu cảm rõ rệt.
Ngôn ngữ trong các tác phẩm văn học thường có tính nhiều nghĩa. Các từ
ngữ được dùng độc đáo, sáng tạo thường hàm ý gợi sự liên tưởng phong phú.
Làm thế nào để học sinh tiểu học vốn quen với tư duy cụ thể có thể hiểu được
các nghĩa khác nhau trong từ nhiều nghĩa, từ nghĩa trực tiếp, cụ thể đến nghĩa
gián tiếp, trừu tượng. Giáo viên cần hiểu hiện tượng nhiều nghĩa trong ngôn ngữ
nghệ thuật tuy khác nhưng vẫn bị chi phối bởi những quy tắc chi phối hiện
tượng nhiều nghĩa trong ngôn ngữ. Vì thế biện pháp giải nghĩa các từ nhiều
nghĩa được dùng có giá trị nghệ thuật cần phải bám chắc vào các quan hệ ngữ
nghĩa mà tìm ra những giá trị nội dung và nghệ thuật của từ cần phân tích.
C.. Phân tích mối quan hệ giữa nghĩa chính và nghĩa chuyển của từ
nhiều nghĩa.
Theo GS. Đỗ Hữu Châu: từ ngữ và các hình ảnh ngôn ngữ trong tác phẩm
thường nằm trong các trường hợp ngữ nghĩa sau:
a, Từ ngữ được dùng trong nghĩa chính hay nghĩa phụ ngôn ngữ và chỉ
dùng trong nghĩa đó mà thôi.
b, Từ ngữ được dùng trong nghĩa tu từ và chỉ có nghĩa tu từ mà thôi.
c, Từ ngữ vừa dùng trong nghĩa chính vừa dùng trong nghĩa bóng tu từ.
Đối với trường hợp từ chỉ dùng trong nghĩa chính, giáo viên có thể hướng
dẫn học sinh so sánh với các từ cùng trường nghĩa, đồng nghĩa hay trái nghĩa,
nhờ biện pháp tái hiện giả định quá trình lựa chọn của tác giả mà học sinh phát
hiện ra cái hay, cái đẹp của việc dùng từ.
20


Còn những trường hợp từ được dùng trong nghĩa phụ ngôn ngữ hay nghĩa
bóng tu từ, tức là từ được dùng với nghĩa chuyển. Nguyên tắc để phân tích hiện
tượng nhiều nghĩa trong tác phẩm là phải bám chắc lấy nghĩa chính, hiểu thật
chính xác nó, dựa vào cơ chế chuyển nghĩa mà tìm ra sự sáng tạo trong cách
dùng từ của tác giả.

Ví dụ:
Trong bài thơ ‘‘Hạt gạo làng ta’’, câu thơ cuối Trần Đăng Khoa viết: Em
vui em hát, hạt vàng làng ta. Để học sinh hiểu được giá trị của từ hạt vàng trong
câu, giáo viên phải giúp học sinh hiểu nghĩa của từ: hạt vàng là kim loại hiếm có
màu vàng và có giá trị cao (quí như vàng). Nhưng trong câu thơ được tác giả sử
dụng gọi thay thế cho hạt gạo, tác giả đã dùng phép so sánh để nói nên mồ hôi
công sức một nắng hai sương của bố mẹ làm ra hạt gạo và hạt gạo đó đã góp
công vào chiến thắng chung của dân tộc. Do vậy hình ảnh hạt gạo trong bài thơ
được tác giả so sánh nâng cao tầm giá trị như hạt vàng nhưng nó lại mang sắc
thái gần gũi tạo nên vẻ đẹp có giá trị nghệ thuật cao.
Biện pháp 3. Dạy các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa
Bài học về các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa: từ đồng nghĩa và trái nghĩa,
nhiều nghĩa được bố trí trong môn Luyện từ và câu lớp 5 với thời lượng 9 tiết,
thành hai dạng bài. Dạng lí thuyết được xếp trong tiết học đầu tiên của mỗi lớp
từ. Dạng bài thực hành được xếp ngay sau tiết học lí thuyết. Cụ thể từ đồng
nghĩa 4 tiết (1 tiết lí thuyết, 3 tiết luyện tập) từ trái nghĩa 2 tiết (1 tiết lí thuyết, 1
tiết luyện tập), Từ nhiều nghĩa 3 tiết (1 tiết lí thuyết, 2 tiết luyện tập) Cấu trúc
nội dung bài học của mỗi dạng bài được biên soạn theo cách khác nhau.
A. Cấu trúc nội dung bài học các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa trong
sách giáo khoa.
A.1. Cấu trúc nội dung bài học lý thuyết.
Giống như cấu trúc nội dung bài học lí thuyết Luyện từ và câu nói chung,
bài học lí thuyết về từ đồng nghĩa, trái nghĩa, từ nhiều nghĩa ...được biên soạn
theo cấu trúc ba phần : Phần I. Nhận xét
Phần II. Ghi nhớ
21


Phần III. Luyện tập.
Nhiệm vụ của phần I và phần II là hình thành khái niệm, vì thế trong

phần nhận xét, SGK đưa ra các ngữ liệu và hệ thống bài tập để học sinh tìm ra
được các dấu hiệu của khái niệm. Kết quả của quá trình hình thành khái niệm
được chốt ở mục II, phần ghi nhớ.
Khi học khái niệm từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm, giáo viên
cần hướng dẫn học sinh phân biệt từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm:
*Từ đồng nghĩa:
a) Bản chất từ đồng nghĩa
Từ đồng nghĩa là những từ đồng nhất với nhau về nghĩa nhưng có một số
từ có sự khác biệt nhất định về sắc thái nghĩa. Khi phân tích từ đồng nghĩa có
hai thao tác , đó là chỉ ra sự giống nhau và khác nhau nhưng quan trọng là phải
chỉ ra được sự khác nhau về sắc thái .
Ví dụ 1: Quả, trái
Giống nhau: Sản phẩm của cây trong một thời kì sinh trưởng nhất định
(quả mít/ trái mít)
Khác nhau: Quả gợi tính hình khối, tròn, treo lủng lẳng, trái toát ra sắc
thái tình cảm, trân trọng, nâng niu, yêu thương,...( quả tim/ trái tim; quả
trứng/trái trứng)
b) Các từ đồng nghĩa khác nhau về sắc thái biểu cảm
Ví dụ 1: Cho, biếu, tặng: Cho có sắc thái trung hòa, biếu có sắc thái kính
trọng, tặng có sắc thái thân mật .
c) Do có sự khác nhau về sắc thái nghĩa và sắc thái biểu cảm nên cách
dùng các từ cũng khác nhau nên các từ đồng nghĩa không phải bao giờ cũng
thay thế cho nhau được.
Ví dụ : Hoài sơn/ củ mài ; trần bì/ vỏ quýt: Các từ Hán Việt dùng trong
khoa học còn các từ thuần Việt dùng trong đời sống .
d) Hiện tượng đồng nghĩa không tách rời hiện tượng đa nghĩa, đó là
nguyên nhân của tính mức độ. Các từ đồng nghĩa với nhau không phải đồng

22



nghĩa về toàn bộ dung lượng nghĩa của nó mà chỉ đồng nghĩa ở một một nghĩa
nào đó mà thôi.
Ví dụ : Trông có ba nghĩa : - hướng mắt quan sát
- giữ, chăm sóc
- nương vào, nhờ vào
Dựa có ba nghĩa :

- theo, căn cứ theo
- tựa vào, nhờ vào
- nương vào, nhờ vào

Trông và dựa đồng nghĩa với nhau ở nghĩa thứ ba
*Một từ nếu là từ đa nghĩa, với các nghĩa gốc khác của nó, nó có thể đồng
nghĩa với nhiều từ khác nhau
Ví dụ : Ăn

-thắng (Đội tớ ăn rồi, đội cậu thua )
-hợp (ăn cánh, ăn ảnh, ăn hình )
-hưởng, nhận ( tàu ăn than
-hao, tốn ( xe ăn xăng)

*Từ nhiều nghĩa
Các từ lúc mới xuất hiện đều chỉ có một nghĩa, trải quan thời gian có thêm
nhiều nghĩa mới ( nghĩa phái sinh, nghĩa bóng) được tạo ra từ nghĩa cơ sớ (nghĩa
gốc, nghĩa đen) đó, trên cơ sở những biểu tượng nhất định.
Biểu tượng làm hình ảnh về hình dáng, kích thước, đặc điểm, tính chất
của sự vật được phản ánh trong ngôn ngữ trong nghĩa gốc của từ dưới dạng các
nét nghĩa trở thành cơ sở để tự phát triển thêm nghĩa mới.Nhờ vào quan hệ liên
tưởng tương đồng (ẩn dụ) và tương cận ( hoán dụ ) người ta liên tưởng từ sự vật

này đến sự vật kia trên những đặc điểm, hình dáng , tính chất giống nhau hay
gần nhau giữa các sự vật ấy.Từ chỗ gọi tên sự vật, tính chất, hành động này
(nghĩa 1) chuyển sang gọi tên sự vật, tính chất, hành động khác nghĩa ( nghĩa 2),
quan hệ đa nghĩa của từ nảy sinh từ đó .
Ví dụ: Khi tìm hiểu nghĩa của từ Chín, tôi hướng dẫn HS tìm được những
nghĩa sau:

23


(1) Chỉ quả đã qua một quá trình phát triển, đạt đến độ phát triển cao nhất, hoàn
thiện nhất, độ mềm nhất định, màu sắc đặc trưng.
(2)Chỉ quá trình vận động, quá trinh rèn luyện từ đó, khi đạt đến sự phát triển
cao
nhất ( Suy nghĩ chín, tình thế cách mạng đã chín)
(3)Sự thay đổi màu sắc nước da ( ngượng chín cả mặt )
(4)Trải qua một quá trình đã đạt đến độ mềm (cam chín).
Như vậy muốn phân tích được nghĩa của từ đa nghĩa, trước hết phải miêu
tả thật đầy đủ các nét nghĩa của nghĩa gốc để làm cơ sở cho sự phân tích nghĩa.
Nghĩa của từ phát triển thường dựa trên hai cơ sở :
+ Theo cơ chế ẩn dụ nghĩa của từ thường có hai dạng sau :
-Dạng 1: Nghĩa của từ phát triển dựa vào sự giống nhau về hình thức giữa
các sự vật, hiện tượng hay là dựa vào kiểu tương quan về hình dáng.
Ví dụ : Mũi1 ( mũi người) và Mũi2( mũi thuyền) :Miệng1 ( miệng xinh) và
miệng2( miệng bát)
Dạng 2 : Nghĩa của từ phát triển trên cơ sở ẩn dụ về cách thức hay chức
năng, của các sự vật, đối tượng .
Ví dụ : cắt1 ( cắt cỏ) với cắt2 ( cắt quan hệ )
Dạng 3 : Nghĩa của từ phát triển trên cơ sở ẩn dụ kết quả do tác động của
các sự vật đối với con người.

Ví dụ: đau1 (đau vết mổ ) và đau2 (đau lòng )
+Theo cơ chế hoán dụ có tác dụng.
Nghĩa của từ phát triển trên cơ sở quan hệ giữa bộ phận và toàn thể.
Ví dụ: Chân1, Tay1, mặt1 là những tên gọi chỉ bộ phận được chuyển sang
chỉ cái toàn thể ( anh ấy có chân2 trong đội bóng Tay2 bảo vệ của nhà máy số ba
có Mặt2 trong hội nghị)
Nghĩa của từ phát triển trên quan hệ giữa vật chứa với cái được chứa.
Ví dụ : Nhà1 Là công trình xâu dựng (Anh trai tôi đang làm nhà)
Nhà2 là gia đình ( Cả nhà có mặt)

24


Dạng 4 : Nghĩa của từ phát triển dựa trên nguyên liệu hay công cụ với
sản
phẩm được làm ra từ nguyên liệu hay công cụ đó hoặc hành động dùng nguyên
liệu hay công cụ đó .
Ví dụ : Muối1 : Nguyên liệu ( Một kg muối) ; muối2: hành động làm cho
thức ăn chín hoặc lên men (Chị ấy muối dưa ngon lắm)
Sau khi học sinh đã được cung cấp các hiểu biết lí thuyết về các lớp từ cần
học, SGK đưa ra các bài tập luyện tập ứng với hai nhiệm vụ: củng cố khái niệm
và vận dụng khái niệm vào nói và viết. Các bài tập nhận diện tìm từ đồng nghĩa,
trái nghĩa là bài tập củng cố kiến thức lí thuyết. Các bài tập đặt câu, viết đoạn
trong đó có sử dụng từ đồng nghĩa, trái nghĩa ... là bài tập vận dụng sáng tạo,
tích cực hóa hoạt động học các lớp từ.
* Từ trái nghĩa:
Từ trái nghĩa là những từ có nghĩa trái ngược nhau.
Ví dụ : cao - thấp, phải – trái...
Việc đặt các từ trái nghĩa bên cạnh nhau có tác dụng làm nổi bật những sự
vật, sự việc, hoạt động, trạng thái... đối lập nhau.

Ví dụ : Cây cau thì cao còn cây lúa thì thấp.
A.2. Cấu trúc nội dung bài học luyện tập về các lớp từ.
Những bài Luyện từ và câu nói chung được cấu thành từ một tổ hợp bài
tập được gọi là bài luyện tập. Các bài tập trong bài học thực hành này không
phải được sắp đặt tùy ý mà phải theo một tổ chức, trật tự nhất định. Thường thì
trong mỗi bài học Luyện tập về các lớp từ, các bài tập được sắp xếp theo trình tự
nhiệm vụ như sau:
a, Bài tập tự nhận diện.
b, Bài tập phân loại.
c, Bài tập đặt câu, viết đoạn, lựa chọn từ ngữ thích hợp để hoàn chỉnh
đoạn văn.

25


×