Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Chinh sach doi ngoai cua my tu nam 1945 den nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.88 KB, 24 trang )

1

Mở đầu
Có thể nói rằng chính sách đối ngoại của mỗi quốc gia đều nhằm ba mục tiêu cơ bản là
an ninh, phát triển và phát huy ảnh hưởng của quốc gia trên thế giới. Ba mục tiêu này có
quan hệ chặt chẽ với nhau và thứ bậc ưu tiên của mỗi mục tiêu trong hoạch định và triển
khai chính sách đối ngoại quốc gia phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể trong từng giai
đoạn nhất định. Chẳng hạn trong thời kỳ chiến tranh thì rõ ràng mục tiêu về an ninh quốc
gia phải được đặt lên hàng đầu, tuy nhiên vẫn phải chú trọng đúng mức phát triển và phát
huy ảnh hưởng vì tiềm lực kinh tế mạnh là cơ sở xây dựng lực lượng quốc phòng mạnh.
Chính sách đối ngoại của Mỹ cũng theo đuổi ba mục tiêu trên.


2

1. Khái quát vài nét về chính sách đối ngoại của Mỹ trước năm 1945
Ngay từ ngày lập quốc nước Mỹ đã lựa chọn và trung thành với đường lối ngoại giao
biệt lập của tổng thống G.Oasinhtơn, theo đường lối này người Mỹ tự bó hẹp mình trong
khuôn khổ nước Mỹ và châu Mỹ, không ký bất cứ một hiệp ước nào đối với các nước
phương Tây trên tất cả các lĩnh vực. Nhưng cùng với quá trình mở rộng đất đai về phía
Tây và hoàn thành cuộc cách mạng tư sản ở Mỹ, quốc gia này đã trỗi dậy một cách mạnh
mẽ và đầy tiềm lực, với tính ưu việt của một thể chế nhà nước Cộng hòa, một cơ chế
quyền lực mang tính kiềm chế và đối trọng đã giúp Mỹ trở thành kiểu mẫu của thế giới
lúc đương thời. Với sự vươn lên đó làm cho Mỹ không tự bằng lòng với những gì mình
đã có, tham vọng muốn mở rộng ảnh hưởng của Mỹ ngày càng được biểu hiện rõ nét,
trước hết là khu vực Mỹ - Latinh vào tháng 02/1823 Mỹ đưa ra học thuyết Mơnrô với
khẩu hiệu “Châu Mỹ là của người châu Mỹ”, đây là mốc đánh dấu cho sự chấm dứt hoàn
toàn đường lối ngoại giao “biệt lập” của chính phủ Hoa Kỳ.
Học thuyết Mơn rô được ban hành với mục đích tranh giành quyền thống trị của thực
dân Tây Ban Nha trên các thuộc địa ở khu vực châu Mỹ - Latinh, sự tranh chấp đó đã dẫn
đến cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Tây Ban Nha vào năm 1840, đây là cuộc chiến tranh đế


quốc đầu tiên của Mỹ và cũng là tiếng súng đầu tiên báo hiệu chiến tranh đế quốc chia lại
thế giới, kết thúc chiến tranh Mỹ đã xác lập được quyền thống trị của mình trên các thuộc
địa như Cuba, Puéctô Riccô. Để tiếp tục đặt quyền thống trị lên toàn bộ châu Mỹ - latinh,
năm 1893 Mỹ đặt quyền bảo hộ đối với Hawaii và đưa ra học thuyết liên Mỹ với mục
đích: Tách Panama ra khỏi Côlômbia và thành lập nhà nước cộng hòa Panama, chính phủ
Panama phải cho Mỹ quyền sở hữu vĩnh viễn kênh đào này, cho quyền xây dựng đường
sắt và thiết lập công sự.
Không chỉ dừng lại ở những chính sách đó, Mỹ tiếp tục thực hiên các chính sách ngoại
giao “Cây gậy lớn và củ cà rốt” và “chính sách ngoại giao đồng đôla” đối với các nước
châu Mỹ - latinh và thống trị toàn bộ khu vực tây bán cầu này.


3

Vươn ra khỏi khuôn khổ nước Mỹ và châu Mỹ, tham vọng mở rộng và tranh giành ảnh
hưởng với các nước thực dân già cũng được Mỹ biểu hiện khá rõ nét. Đó là việc Mỹ
muốn đặt chân vào thị trường Trung Quốc, Mỹ đã đưa ra cái gọi là “chính sách mở cửa”
vào năm 1889 nhằm mục đích:
Các nước thừa nhận chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ Trung Quốc, các nước đều
bình đẳng đối với các đặc quyền ở Trung Quốc không xâm phạm vào những khu vực của
nhau. Ở các khu vực ảnh hưởng của các nước thì đều đánh thuế ngang nhau với hàng
hóa nước khác nhập vào. Thực chất của chính sách này là Mỹ muốn hàng hóa của Mỹ có
chân trong thị trường rộng lớn này, với sự tràn ngập hàng hóa của người Mỹ, dần dần Mỹ
sẽ vươn lên trên hết về sự cạnh tranh với các nước khác, từ đó biến Trung Quốc trở thành
đắc địa cho Mỹ.
Có thể nói từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Mỹ đã bộc lộ tham vọng vươn ra thế
giới, nhưng trong giai đoạn này Mỹ mới chỉ là một cường quốc phát triển mạnh về kinh
tế mà chưa thực sự trở thành một đế quốc hùng mạnh về quân sự và vị thế của Mỹ trên
trường quốc tế còn quá mờ nhạt, đặc quyền ấy vẫn còn nằm trong tay các nước thực dân
có nhiều thuộc địa trong khi Mỹ chỉ mới bắt đầu đặt tầm ảnh hưởng của mình lên khu

vực châu Mỹ mà thôi.
Trong giai đoạn đầu của chiến tranh thế giới thứ nhất, xuất phát từ những lợi ích kinh
tế, Hoa Kỳ đã tiếp tục thực hiện chính sách ngoại giao trung lập truyền thốngcủa mình,
đứng bên ngoài cuộc chiến nhằm thu lợi từ hoạt động buôn bán của cả hai phe. Tuy
nhiên, khi Đức leo thang cuộc chiến tàu ngầm gây ra nhiều thiệt hại to lớn cho tàu buôn
Mỹ và tạo cớ cho Hoa Kỳ lập tức nhảy vào cuộc chiến nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi
và thông qua chiến tranh, tìm kiếm nhiều hơn quyền lợi của mình trên thế giới sau chiến
tranh.
Trong chiến tranh thế giới thứ hai, ban đầu Mỹ thực hiện chính sách trung lập, đứng
bên ngoài cuộc chiến và buôn bán vũ khí đề thu lợi nhuận từ hai phe tham chiến. Tuy
nhiên, sau sự kiện phát xít Nhật tấn công Trân Châu Cảng đã buộc Mỹ phải tham gia vào


4

cuộc chiến, Mỹ đã cho ném hai quả bom nguyên tử Hiroshima và Nagasaki để buộc Nhật
Bản phải đầu hàng. Kết quả là phe Đồng minh giành thắng lợi hoàn toàn, sự thắng lợi đó
đã làm cho vị thế uy tín của Mỹ được nâng cao trên trường quốc tế.
2. Chính sách đối ngoại của Mỹ từ năm 1945 đến nay
2.1. Giai đoạn 1945 - 1973:
Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, Mỹ thực hiện đường lối ngoại giao toàn cầu
phản cách mạng với âm mưu thống trị toàn thế giới, tiêu diệt các đối trọng của Mỹ một
cách không thương tiếc đó chính là chủ nghĩa cộng sản và phong trào giải phóng dân tộc:
“Mỹ đề ra ba mục tiêu cho chiến lược toàn cầu, ngăn chặn, đẩy lùi, tiến tới tiêu diệt hệ
thống xã hội chủ nghĩa thế giới, đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, phong trào hòa
bình dân chủ thế giới, nô dịch các nước đồng minh, tập hợp các lực lượng phản động
quốc tế đặt dưới sự lãnh đạo của Mỹ” [11, tr. 290].
Để thực hiện âm mưu trên, Mỹ đã dựa trên các cơ sở chiến tranh và các thế mạnh của
mình để khuất phục các dân tộc khác, đồng thời Mỹ còn chia thế giới ra thành các khu
vực ưu tiên bao gồm:

Châu Âu: Đây là khu vực quan trọng nhất vì vừa có các đồng minh Tây Âu, lại vừa có
Liên Xô, Đông Âu đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, do đó phải tập trung chống phá.
Trung Đông: Được coi là mái nhà của thế giới, với nguồn năng lượng dầu mỏ tập trung
nhiều hơn so với các khu vực khác trên thế giới, do đó nó được coi là trái tim của thế
giới, nếu ai chiếm được Trung Đông thì sẽ làm chủ thế giới.
Đông Bắc Á: Nơi đây điển hình với sự vươn lên một cách thần kỳ của Nhật Bản, một
cường quốc trong thế giới tư bản và là nguy cơ đối trọng gay gắt nhất của Mỹ, là đối thủ
có khả năng nhất trong cuộc chay đua tranh giành ngôi vị đứng đầu thế giới với Mỹ trong
thế kỷ XX, do đó cần phải kiềm chế Nhật Bản.


5

Mỹ - Latinh và Đông Nam Á: cũng được coi là mục tiêu tiêu diệt của Mỹ, đặc biệt
trong chiến tranh lạnh Việt Nam – Đông Dương được xem là nơi đụng đầu của hai phe
chủ nghĩa xã hội và tư bản chủ nghĩa.
Trên cơ sở chiến lược toàn cầu phản cách mạng này, dưới các đời tổng thống Mỹ đã
xây dựng lên các học thuyết mang tên mình để đạt những mục tiêu cụ thể, như Học
thuyết Tru-man và chiến lược Ngăn chặn, Học thuyết Ai-xen-hao và chiến lược Trả đũa ồ
ạt, Học thuyết Ken-nơ-đi và chiến lược Phản ứng linh hoạt, Học thuyết Ních-xơn và
chiến lược Ngăn đe thực tế,…..Mặc dù học thuyết của mỗi Tổng thống có khác nhau
nhiều về các biện pháp, nhưng mục tiêu và bản chất đều hoàn toàn giống nhau – đều phục
vụ cho “chiến lược toàn cầu” phản cách mạng của Mỹ, hay nói một cách chính xác hơn,
cho quyền lợi của giai cấp tư bản lũng đoạn Mỹ.
Để thực hiện các mục tiêu trên, chính sách cơ bản của Mỹ là dựa vào sức mạnh, trước
hết là sức mạnh quân sự và kinh tế:
+ Mĩ đã khởi xướng cuộc chiến tranh lạnh trên phạm vi thế giới, dẫn đến tình trạng đối
đầu căng thẳng và nguy hiểm với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.
+ Mỹ phát triển lực lượng hạt nhân, lập các khối quân sự xâm lược và kí kết với nhiều
nước những hiệp ước quân sự tay đôi, cho phép Mỹ đóng quân và xây dựng các căn cứ

quân sự trên lãnh thổ các nước đó. Các hạm đội Mỹ mạng tên lửa có đầu đạn hạt nhân
tuần tiễu trên khắp các biển và đại dương.
+ Mĩ trực tiếp gây ra hoặc tiếp tay cho nhiều cuộc chiến tranh và bạo loạn, lật đổ ở
nhiều nơi trên thế giới, tiêu biểu là chiến tranh xâm lược Việt Nam (1954 - 1975) và dính
líu vào cuộc chiến tranh ở Trung Đông.
Phong trào đấu tranh của nhân dân Mỹ là một trong những nguyên nhân buộc chính
quyền Mỹ phải có những nhượng bộ có lợi cho quần chúng. Trước thắng lợi của nhân dân
Việt Nam và chịu sức ép của phong trào phản chiến ở Mỹ, chính quyền Ních-xơn phải kí
Hiệp định Pa-ri (1973) chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam và rút hầu hết quân về
nước.


6

Trong giai đoạn này, Mỹ đã tiến hành hòa hoãn với Liên Xô và thỏa hiệp với Trung
Quốc bằng các chuyến thăm của Tổng thống Nich xơn đến Trung Quốc (02/1972) và
Liên Xô (05/1972).
2.2. Giai đoạn 1973 - 1991:
Sau khi thất bại ở chiến tranh Việt Nam (1975), các chính quyền Mỹ vẫn tiếp tục khai
triển chiến lược toàn cầu và theo đuổi chiến tranh lạnh. Đặc biệt với học thuyết Ri-gân và
chiến lược đối đầu trực tiếp, Mĩ tăng cường chạy đua vũ trang, can thiệp vào các công
việc quốc tế ở hầu hết các địa bàn chiến lược và điểm nóng trên thế giới.
Từ giữa những năm 80, Mỹ và Liên Xô đều điều chỉnh chính sách đối ngoại. Xu hướng
đối thoại và hòa hoãn ngày càng chiếm ưu thế trên thế giới.
Tháng 12 - 1989, Mỹ và Liên Xô đã chấm dứt tuyên bố chấm dứt chiến tranh lạnh, mở
ra thời kì mới trên chiến trường quốc tế. Cùng điều đó, Mỹ và các nước phương Tây cũng
ra sức tác động vào quá trình khủng hoảng, dẫn đến sự sụp đổ của CNXH ở các nước
Đông Âu và Liên Xô (1989 - 1990). Mỹ cũng giành được thắng lợi trong cuộc chiến
tranh vùng vịnh chống I-rắc (1990 - 1991).
2.3. Giai đoạn 1991 - 2000:

Trong bối cảnh chiến tranh lạnh kết thúc, trật tự thế giới mới chưa định hình, ở thập
niên 90, Mỹ đã triển khai chiến lược “Cam kết và mở rộng” với ba trụ cột chính là:
+ Bảo đảm an ninh với một lực lượng quân sự mạnh và sẵn sàng chiến đấu cao.
+ Tăng cường khôi phục và phát triển tính năng động và sức mạnh nền kinh tế Mỹ.
+ Sử dụng khẩu hiệu dân chủ ở nhiều nước ngoài như một công cụ can thiệp vào công
việc nội bộ của các nước khác:
• Mỹ vẫn lãnh đạo và chi phối khôi quân sự NATO.
• Mỹ cùng Liên hợp quốc và các cường quốc khác bảo trợ cho tiến trình hòa bình ở
Trung Đông nhưng vẫn có sự thiên vị đối với I-xra-en.


7

• Mỹ ủng hộ việc kí kết Hiệp định hòa bình Pa-ri về Cam-pu-chia (1991).
• Bình thường hóa quan hệ với Việt Nam (07/1995).
• Nhưng Mỹ vẫn duy trì các căn cứ quân sự và quân đội ở Nhật Bản và Hàn Quốc cũng
như ở nhiều nơi khác trên thế giới.
Với sức mạnh kinh tế, quân sự, khoa học - kĩ thuật của mình, trong bối cảnh Liên Xô
tan rã, Mỹ có tham vọng thiết lập một trật tự thế giới mới đơn cực trong đó Mỹ là siêu
cường duy nhất đóng vai trò chi phối lãnh đạo.
2.4. Giai đoạn từ năm 2001 đến nay
2.4.1. Chính sách đối ngoại của Mỹ thời kỳ G. Bush con (2001 – 2008)
2.4.1.1. Nội dung:
Vụ khủng bố ngày 11 - 9 - 2001 cho thấy bản thân nước Mỹ cũng rất dễ bị tổn thương
và chủ nghĩa khủng bố sẽ là một trong những yếu tố dẫn đến những thay đổi quan trọng
trong chính sách đối nội và đối ngoại của Mỹ khi bước vào thế kỉ XXI.
Đầu năm 2001, Tổng thống Bush lên nắm chính quyền, là người đại diện cho Đảng
Cộng hòa, Bush đã thi hành chính sách đối ngoại cứng rắn và đơn phương hơn so với
chính quyền Bill Clinton. Đặc biệt sau sự kiện khủng bố ngày 11/09/2001, tình hình
chính trị thế giới có nhiều thời đổi và buộc nhiều quốc gia phải điều chỉnh chính sách đối

ngoại của mình. Trong khi đó, Mỹ dưới thời kỳ G. Bush con đã đề ra chính sách “an ninh
quốc gia”:
- Tháng 09/2002, Bush đệ trình lên quốc hội chính sách “An ninh quốc gia – một thời
kỳ mới”, được coi là trụ cột cho chính sách đối ngoại của Mỹ hiện nay. Đây là sự điều
chỉnh chính sách lớn nhất của Mỹ kể từ sau khi kết thúc chiến tranh lạnh.
- Tháng 03/2006, Bush lại đưa ra bản chính sách “an ninh quốc gia 2006 của Hợp
chúng quốc Hoa Kỳ”, trong đó nêu ra các mục tiêu, nhiệm vụ của Mỹ nhằm đối phó lại
các thách thức đang gặp phải. Về tư tưởng chủ đạo, nội dung và mục tiêu cụ thể của Mỹ


8

được nêu ra trong này không có gì thay đổi, tuy nhiên, cách trình bày trở nên khéo léo và
mềm mỏng hơn. Nó bao gồm những điểm chính sau:
+ Chống chủ nghĩa khủng bố được đặt lên hàng đầu.
+ Đẩy mạnh sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu thông qua thị trường tự do và thương mại tự
do.
+ Thúc đẩy các giá trị dân chủ, nhân quyền, đấu tranh cho những khát vọng về nhân
phẩm.
+ Xây dựng chương trình nghị sự cho hoạt động, hợp tác với các trung tâm quyền lực
chính của thế giới.
2.4.1.2. Chính sách đối ngoại của Mỹ đối với các nước, khu vực và quốc tế
* Đối với các nước đồng minh ở châu Á – Thái Bình Dương
Những nước được chú ý là đồng minh của Mỹ gồm Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Philippin và Thái Lan. Chính sách đối ngoại chung của Mỹ đối với vùng này là “Dựa vào
Nhật Bản để tiếp tục xây dựng vai trò lãnh đạo trong các quan hệ quốc tế và khu vực.
Phối hợp với Hàn Quốc để tiếp tục cảnh giác với Bắc Triều Tiên. Phát huy quan hệ đồng
minh hơn 50 năm giữa Mỹ – Úc để tiếp tục cùng nhau giải quyết các vấn đề toàn cầu.
* Đối với các nước đồng minh truyền thống ở châu Âu và Canađa
Củng cố và duy trì quan hệ hợp tác đồng minh lâu dài với Canađa và châu Âu, trong

đó trọng tâm chú ý của Mỹ là châu Âu.Do kiên quyết theo đuổi cuộc chiến đó, chính
quyền Bush đã phớt lờ một số đồng minh thân cận như Đức, Pháp. Cuộc chiến Iraq
không chỉ làm rạn nứt quan hệ giữa Mỹ và châu Âu mà còn gây chia rẽ giữa các thành
viên EU. Trong một phản ứng về việc tổng thống Pháp Jacques Chirac và thủ tướng Đức
Gerhard Schroeder cùng liên kết với nhau để phản đối cuộc chiến Iraq, bộ trưởng Quốc
phòng Mỹ lúc đó là Donald Rumsfeld đã gọi Pháp và Đức là ‘châu Âu của quá khứ’ (Old
Europe) trong khi đó coi những nước EU khác ủng hộ cuộc chiến, như Ba lan, là ‘châu
Âu mới’ (New Europe).


9

* Đối với các nước Nga, Ấn Độ, Trung Quốc
- Quan hệ Mỹ - Nga: Sau sự kiện 11/9/2001, Tổng thống V.Putin là nguyên thủ đầu tiên
có điện chia buồn đến tổng thống Bush (con) và hứa Nga sẽ hợp tác với Mỹ trong cuộc
chiến chống khủng bố. Điều đó đã góp phần đưa quan hệ Mỹ - Nga từ tro tàn lạnh giá
đến gần gũi ấm cúng hơn. Đáp lại việc Nga ủng hộ Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố,
Oasinhtơn đã có thái độ ôn hòa và hợp tác hơn với Nga. Trong ba năm từ 2000 đến 2002,
quan hệ Mỹ - Nga như những ngày nắng ấm hiếm hoi giữa mùa đông lạnh giá.
Mọi việc bắt đầu từ cuộc chiến tranh Mỹ xâm lược Irắc để loại bỏ chính quyền S.
Shussein vào tháng 3/2003. Oasinhtơn cho rằng điện Kremli có vai trò lớn trong việc tập
hợp lực lượng, kể cả việc liên hệ với Paris và Berlin, chống Mỹ trong cuộc chiến tranh
xâm lược Irắc. Để trả thù Nga, Mỹ đã phản công lại bằng nhiều hoạt động chống Nga:
(1) Tiến hành các cuộc "Cách mạng màu" ở sân sau của Nga: cách mạng hoa Hồng ở
Grudia năm 2003, Cách mạng Cam ở Ucraina năm 2004, cách mạng hoa Tuylip ở
Cưrơgưxtan năm 2005; (2) Kết nạp các nước Đông Âu và Ban Tích vào NATO; (3) Lôi
kéo các nước Trung Á, sân sau của Nga xa rời Nga, ngả theo Mỹ và Phương Tây; (4) Xây
dựng lá chắn tên lửa ở Ba Lan và hệ thống ra da cảnh báo sớm ở Cộng hòa Séc; (5) Ráo
riết can thiệp vào công việc nội bộ của Nga xuyên tạc và vu cáo Nga vi phạm dân chủ,
nhân quyền...

Tổng thống Nga V. Putin đã khôi phục lại nước Nga từ đống đổ nát do Enxin để lại, và
Nga đã có khả năng đáp trả mạnh mẽ các đòn xấu chơi của Mỹ. Tháng 7/2008 Nga quyết
định triển khai tổ hợp tên lửa chiến thuật Iscander tầm bắn 600 km ở Belarút và
Kaleningrat có khả năng vô hiệu hóa NMD của Mỹ ở Ba Lan và Cộng hòa Séc. Đồng
thời, Nga đưa tổ hợp tên lửa "Topol - M” cơ động đặt dưới tầng hầm vào chế độ trực
chiến. Tên lửa "Topol - M có hai điểm ưa việt: 1) Tốc độ xuất phát cao và 2) Thời gian
lấy đà tăng tốc ngắn. Ngày 8/8/2008 Grudia tấn công Alkhadia. Nga phản công lại Grudia
trong cuộc chiến 5 ngày (8 - 12/8/2008) và sau đó công nhận nền độc lập của Alkhadia và


10

Nam Oxechia. Ngày 28/8/2008,Nga thử tên lửa "Topol-M-RS-12M” có khả năng xuyên
thủng mọi hệ thống phòng thủ tên lửa. Ngày 12/10/2008 Nga thử 3 tên lửa đạn đạo RSM
- 54 - Sineva' mang 10 đần đạn hạt nhân với tầm bắn 11.000 km từ tàu sân bay Admiral
Kuznetsov. Ngày 22/9/2008, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Nga Igor Luckin Frolov
tuyên bố: “ chúng tôi sẽ tăng cường hiện diện tại Mỹ Latinh”. Tháng 11/2008, Nga phối
hợp với Vênêxuêla tập trận hải quân tại sân sau của Mỹ.
- Quan hệ Mỹ – Ấn Độ: Nổi bật nhất là Hiệp định hợp tác hạt nhân Mỹ - Ấn Độ được
Quốc hội Mỹ thông qua.
* Đối với các điểm nóng trên thế giới
- Đối với vấn đề hạt nhân ở bán đảo Triều Tiên: Tưởng như tiến trình phi hạt nhân hóa
trên bán đảo Triều Tiên sẽ là một thành công ngoại giao của chính quyền Bush khi Bình
Nhưỡng phá huỷ tháp làm lạnh của lò phản ứng Yongbyon và công bố hồ sơ hạt nhân.
Tuy nhiên, tiến trình này hiện nay lại rẽ sang hướng khác khi CHDCND Triều Tiên tuyên
bố tái khởi động lại lò phản ứng Yongbyon do Washington không đưa Bình Nhưỡng ra
khỏi danh sách các nước tài trợ khủng bố.
- Đối vấn đề cuộc chiến tại Trung Đông: Lợi dụng sự kiện ngày 11/09/2001, chính quyền
G.W. Bush đã nhanh chóng tiến hành cuộc chiến chống khủng bố ở Ápganixtan và tạo
thế hợp pháp để đưa quân vào Trung Á - một địa bàn chiến lược quan trọng về địa chính

trị, giao thông Âu-Á và dầu lửa. Một nhà bình luận quân sự Mỹ cho rằng: "Sự kiện 11/9"
khiến cho Mỹ chỉ trong một đêm thực hiện được giấc mộng ôm ấp hàng mấy thế kỷ là
tiến vào khu vực Trung Á mà từ trước tới nay toàn thế giới khó tiếp cận nhất và khó hiểu
nhất, Mỹ muốn vào nhất mà vẫn chưa vào được". Nước Mỹ trong 8 năm cầm quyền của
ông Bush sa vào 2 cuộc chiến chưa có hồi kết tại Iraq và Afghanistan. Hiện Mỹ có
khoảng 36.000 quân đồn trú ở Afghanistan, nhưng tàn quân Taliban hiện nay lại hoạt
động mạnh hơn bao giờ hết tại các khu vực miền núi hẻo lánh giáp Pakistan và gia tăng
các vụ tấn công trả đũa. Theo thống kê, từ 2001 - 2008, đã có 519 lính Mỹ tử trận tại
chiến trường Afghanistan. Trong khi đó tại Iraq, Mỹ có khoảng 144.000 quân. Trong


11

vòng 5 năm qua, gần 4.000 lính Mỹ thiệt mạng tại Iraq nhưng tình hình an ninh - chính trị
nước này vẫn trong tình trạng “mong manh”. Bước vào năm 2008, cuộc chiến tranh Iraq
đã tiêu tốn của Mỹ 400 tỷ USD, trung bình 12 tỷ USD/ tháng. Cuộc chiến này cũng gây
ra chia rẽ và bất an trong xã hội Mỹ. Đa số người dân Mỹ cho rằng, cuộc chiến Iraq đang
trở thành gánh nặng ngày càng lớn đối với người đóng thuế Mỹ, nhất là trong bối cảnh
nền kinh tế nước này bị chao đảo và rơi vào thời kỳ suy thoái. Mối quan hệ Mỹ - phương
Tây, do cuộc chiến tại Iraq cũng trở nên xa cách. Kể từ năm 2003 – 2008, khoản nợ quốc
gia của Mỹ mỗi năm tăng thêm hơn 500 tỷ USD. Đến tháng 09/2008, tổng nợ quốc gia
của Mỹ lên tới 9.700 tỷ USD, chia bình quân mỗi người dân Mỹ phải cõng khoản nợ lên
tới 31.700 USD/người.
* Đối với châu Phi
Cùng với ưu tiên đại lục Âu - Á, sau Chiến tranh lạnh, Mỹ đã chú ý tới nguồn dầu lửa
và thị trường châu Phi. Tiếp theo Tổng thống B. Clintơn, Tổng thống G.W. Bush cũng đã
bay tới châu Phi (03-2003). Mục đích của chuyến thăm viếng này không đơn thuần chỉ là
vấn đề nhân đạo, dân chủ và đói nghèo mà còn là vấn đề thị trường, nguyên liệu hiếm và
dầu lửa, hơn nữa, đây lại là vấn đề quan trọng hơn. Cơn khát dầu lửa đang ập tới và các
nền kinh tế lớn trên thế giới đều phải lo lắng.

* Đối với Đông Nam Á
Đông Nam Á cũng là một địa bàn được Mỹ quan tâm hơn sau sự kiện 11/9. Sự kiện
11/9 đã buộc chính quyền G. Bush phải xem xét lại chính sách Đông Nam Á của mình.
Sự hoạt động của các tổ chức Hồi giáo cực đoan, mối liên hệ của chúng với tổ chức Al
Qaeda là đe dọa lớn nhất đối với an ninh của Mỹ. Đông Nam Á đã trở thành một trong
những mặt trận chính trong cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ. Ngoài mục tiêu hợp tác
chống khủng bố, Mỹ còn có những ý đồ to lớn hơn về cạnh tranh chiến lược giữa các
nước lớn, khống chế các đường giao thông quan trọng ở khu vực biển Đông và lợi ích
dầu lửa. Chỉ riêng eo biển Malắcca dài 805 km - nối liền Ấn Độ Dương với Thái Bình
Dương, đã là một tuyến đường hàng hải hết sức quan trọng của thế giới. Mỗi năm có


12

khoảng 50 nghìn lượt tàu biển qua lại eo này, chuyên chở hơn 1/4 khối lượng hàng hoá
buôn bán trên thế giới. Hầu như toàn bộ số xăng dầu nhập khẩu của Nhật Bản và Trung
Quốc đều đi qua eo biển này.
2.4.2. Chính sách đối ngoại của Mỹ thời kỳ Brack Obama (2009 – 2016)
Ngày 20/1/2009, ông Barack Obama chính thức đặt tay lên cuốn kinh thánh tuyên thệ
nhậm chức Tổng thống thứ 44 của nước Mỹ, với lời tuyên bố “bắt đầu làm lại nước Mỹ”.
Ông tiếp quản việc điều hành đất nước Mỹ với những thách thức gay gắt khi đó, mà theo
ông đòi hỏi phải có “một kỷ nguyên mới về trách nhiệm” để có thể vượt qua.
2.4.2.1. Cơ sở đề ra chính sách đối ngọai của Mỹ thời kỳ Brack Obama
* “Tư duy chiến lược nhất quán” trong chính sách đối ngoại của Mỹ
Giống như bất kỳ chính sách đa chiều nào khác, chính sách đối ngoại của Barack bắt
nguồn từ một “tư duy chiến lược nhất quán”:
Một là, khủng bố không phải là thách thức chiến lược duy nhất của Mỹ, do đó, cần
thực hiện “phi khủng bố hóa” chính sách đối ngoại.
Hai là, chính sách đối ngoại không chỉ giới hạn ở khía cạnh quân sự, do đó, cần chấm
dứt việc quân sự hóa quá mức chính sách đối ngoại.

Ba là, nếu như Mỹ không phải luôn là chủ thể tốt nhất để can thiệp về mặt quân sự, thì
họ thường là chủ thể tốt nhất để thức đẩy một giải pháp ngoại giao.
* Chính sách đối ngoại của Mỹ dựa trên nguyên tắc “quyền lực thông minh” và “quyền
lực mềm”
Chính quyền Brack Obama theo đuổi chính sách đối ngoại mới dựa trên “quyền lực
thông minh” trái ngược với chính sách đối ngoại cứng rắn của chính quyền Bush.
Trước hết, chính sách đối ngoại đơn phương, thiên về sử dụng sức mạnh cứng của
chính quyền Bush trước đây đã không đem lại nhiều kết quả trong việc giải quyết các
điểm nóng và các vấn đề an ninh trọng yếu đối với nước Mỹ, kể cả cuộc chiến chống


13

khủng bố. Không những thế, chính sách đó còn để lại những hậu quả nghiêm trọng đối
với Mỹ cả về kinh tế, chính trị và hình ảnh của nước Mỹ trên trường quốc tế.
Thứ hai, trong bối cảnh toàn cầu hóa sâu sắc hiện nay, bất kỳ một quốc gia nào cũng
không tự mình giải quyết được các vấn đề toàn cầu ngày càng nổi cộm và phức tạp như
biến đổi khí hậu, khủng hoảng tài chính toàn cầu, nạn khủng bố và bệnh dịch, mà cần
phải có sự hợp tác của các nước khác.
Thứ ba, thực tiễn triển khai chính sách đối ngoại của Mỹ dựa trên sức mạnh “cứng”
thời gian qua cho thấy, sức mạnh của Mỹ cũng có những hạn chế nhất định. Trong khi đó,
nhiều cường quốc mới nổi đang ngày càng đe dọa vị trí lãnh đạo của Mỹ, ít nhất là trong
phạm vi khu vực. Mỹ thì ngày càng phụ thuộc vào các cường quốc mới nổi này cả về
khía cạnh kinh tế, chính trị và an ninh.
Trong bối cảnh đó, giải pháp chính sách đối ngoại khôn ngoan nhất Mỹ phải chú trọng
hơn đến các thiết chế đa phương, tăng cường hợp tác với các nước khác giải quyết các
vấn đề đối ngoại trên tinh thần hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau. Điều đó đồng nghĩa với
việc Mỹ phải tăng cường sử dụng các công cụ chính sách đối ngoại “mềm” trên cơ sở kết
hợp khéo léo với chiến lược quân sự và an ninh.
Mặc dù chính sách đối ngoại mới của Mỹ dựa trên quyền lực thông minh và quyền lực

mềm, nhưng Mỹ vẫn là một cường quốc hàng đầu với kho vũ khí và ngân sách quân sự
lớn nhất thế giới và Mỹ vẫn sẽ tiếp tục sử dụng sức mạnh cứng trong trường hợp cần thiết
khi đã hết các giải pháp ngoại giao. Hơn nữa, chính sách ngoại giao thông thái của Mỹ là
sự kết hợp một cách thông minh sức mạnh mềm và sức mạnh cứng, điều dư luận quan
tâm hơn là Mỹ sẽ sử dụng liều lượng thế nào 2 nguồn sức mạnh này trong giải quyết các
vấn đề đối ngoại cụ thể.
2.4.2.2. Những nét nổi bật trong chính sách đối ngoại của Mỹ thời Brack Obama
* Thỏa thuận hạt nhân với Iran: vào năm 2013, Tổng thống Obama và năm lãnh đạo
của các quốc gia khác đã tiến hành đàm phán với Iran. Đàm phán dẫn đến thỏa thuận hạt
nhân lịch sử để đổi lại lệnh dỡ bỏ cấm vận tại Iran. Theo đánh giá của chuyên gia Trita


14

Parsi thuộc Hội đồng Mỹ - Iran, thỏa thuận hạt nhân “chắc chắn là thành tựu ngoại giao
lớn nhất của ông Obama”.
* Bình thường hóa quan hệ với Cuba: Mỹ nối lại quan hệ ngoại giao với Cuba sau nửa
thế kỷ thù địch cho thấy chính quyền của Tổng thống Obama đang có những bước đi
nhằm điều chỉnh lại chính sách đơn cực, thích ứng với tình hình thế giới, với những xu
thế mới đầy biến động. Ngày 01/07/2015, Mỹ và Cuba đã tuyên bố đạt thỏa thuận mở lại
đại sứ quán tại thủ đô hai nước, chính thức khôi phục quan hệ ngoại giao. Việc tái thiết
lập đại sứ quán của hai nước trên lãnh thổ của nhau vào ngày 20/7/2015 là bước đột phá
khiến cả thế giới phải chú ý. Mặc dù quốc hội Mỹ vẫn sẽ duy trì lệnh cấm vận kinh tế với
Cuba nhưng chính sách này nhiều khả năng sẽ có thay đổi dần dần trong thời gian sắp tới.
* Rút quân khỏi Iraq và Ápganixtan: Từ khi Mỹ đưa quân vào Iraq và Afghanistan đã
dẫn đến tiêu tốn một lượng lớn chi phí cho hai cuộc chiến tranh này, gây ra sự mâu thuẫn
trong dự luận dân chúng Mỹ, ảnh hưởng đến uy tín của Mỹ đối với các nước đồng minh.
Để khắc phục điều đó, đến thời kỳ cầm quyền của Tổng thống Obama đã cho thấy mình
là một chính khách quyết đoán khi cho rút 190.000 lính Mỹ (trên tổng số 200.000 quân
vào thời điểm đỉnh cao xung đột) khỏi Iraq và Afghanistan. Đây là một sự thành công rất

lớn trong chính sách đối ngoại của Mỹ lúc bấy giờ. Mặc dù chưa rút được toàn bộ quân
khỏi chiến trường Afghanistan, nhưng Tổng thống Obama về cơ bản đã thực hiện được
các cam kết của mình.
* Một trong số các thành tựu của ông Obama là đã tiêu diệt được trùm khủng bố
Osama bin Laden tại Pakistan vào năm 2011.
2.4.2.3. Chính sách đối ngoại của Mỹ đối với các nước, khu vực và tổ chức
* Đối với các điểm nóng trên thế giới
- Vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, việc thỏa thuận phi hạt nhân trên bán đảo
Triều Tiên đi vào bế tắc, một phần rất lớn cũng là do thái độ và cách thức ứng xử của các
nước trong đàm phán 6 bên đối với CHDCND Triều Tiên; trong đó, chính sách thù địch
của Mỹ đối với CHDCND Triều Tiên là nguyên nhân chủ yếu nhất. Tổng thống Mỹ


15

B. Ô-ba-ma tuy tuyên bố thực hiện chính sách "đối ngoại khôn ngoan", sẵn sàng đối thoại
trực tiếp với các nước đối nghịch, kể cả với Bắc Triều Tiên để giải quyết vấn đề hạt
nhân...; nhưng trên thực tế, Mỹ vẫn thực hiện chính sách "kẻ cả, nước lớn" trong quan hệ
với những nước này. Hơn nữa, việc Mỹ và một số nước, trong khuôn khổ đàm phán 6
bên, mà như Bình Nhưỡng tuyên bố, luôn gắn viện trợ kinh tế với tăng cường sức ép với
CHDCND Triều Tiên về vấn đề hạt nhân và tìm cách can thiệp công việc nội bộ, mưu đồ
thay đổi chế độ chính trị của Bắc Triều Tiên, khiến cho Bình Nhưỡng rất bất bình.
- Vấn đề Trung Đông (Libya, Xirya, Israel và Palestin, nhà nước tự xưng IS), trong nội
bộ chính quyên quyền Mỹ có sự mâu thuẫn giữa hai đảng Cộng hòa và Dân chủ cũng tác
động trực tiếp đến việc triển khai một chính sách hiệu quả nhằm ngăn chặn tổ chức “Nhà
nước Hồi giáo” (IS) tự xưng tại Syria và Iraq. Do vậy, cuộc chiến chống khủng bố toàn
cầu vẫn chưa mang lại hiệu quả, Trung Đông vẫn là điểm “nóng” với cuộc khủng hoảng
Syria kéo dài hơn 5 năm qua chưa tìm được lối thoát, tình hình Yemen và tiến trình hòa
bình Israel – Palestine vẫn dậm chân tại chỗ…..
* Đối với Nga, Ấn Độ, Trung Quốc

- Quan hệ Mỹ – Nga: Trong hai nhiệm kỳ của Tổng thống B. Obama, quan hệ Mỹ – Nga
cũng có sự nồng ấm, tốt đẹp trong mối quan hệ giữa hai bên, tuy nhiên, trong thời kỳ này
đã tồn tại sự bất đồng, mâu thuẫn giữa hai bên về các vấn đề quốc tế. Đó là việc nhà lãnh
đạo Libya, Gaddafi bị lật đổ và giết hại. Những động thái gần đây trên chiến trường Syria
đã khiến Nga, Mỹ vốn đã bất đồng nay lại càng thêm nhiều cáo buộc lẫn nhau. Hai sự
kiện này khiến độ tin cậy trong quan hệ Nga - Mỹ ngày càng xuống thấp. Đặc biệt, vụ sáp
nhập Crimea và cuộc khủng hoảng miền đông Ukraine trở thành nguyên nhân cho chính
sách cô lập Nga, trước hết là việc loại Nga ra khỏi nhóm các nước công nghiệp phát triển
G8, sau đó là hàng loạt sự lên án mang tên Nga “gây hấn” ở miền đông Ukraine. Các biện
pháp trừng phạt của Mỹ và phương Tây cùng với sự sụt giảm giá dầu đã khiến nền kinh
tế Nga lao đao.Sự kiện này đánh dấu sự xuống thấp trầm trọng nhất trong quan hệ Nga Mỹ kể từ sau chiến tranh lạnh. Trong các tuyên bố, các chiến lược an ninh cũng như tại
các buổi họp báo, Mỹ đều thẳng thừng lên án và cáo buộc Nga. Trong khi đó, Nga bác bỏ


16

mọi cáo buộc, đồng thời trả đũa bằng các lệnh trừng phạt khác.Trên bình diện quốc tế,
việc hai siêu cường hạt nhân thế giới ngừng hợp tác sẽ khiến nỗ lực quốc tế trong việc
giải giáp vũ khí hạt nhân, đấu tranh với chủ nghĩa khủng bố, chống biến đổi khí hậu cũng
như những thách thức phi truyền thống khác đứng trước nguy cơ đổ vỡ. Quan hệ Nga Mỹ đóng vai trò cực kỳ quan trọng trên thế giới. Nhiệm kỳ của ông Barack Obama đang
sắp kết thúc, nhưng vẫn còn đủ thời gian để tìm cách giảm bớt những căng thẳng với
Nga.
- Quan hệ Mỹ – Trung Quốc: Chính sách đối với một nước Trung Quốc trở nên quyết liệt
và táo bạo hơn. Từ khi Tổng thống Obama lên cầm quyền, Trung Quốc đã 4 lần “thử
gân” chính quyền mới (hay đúng hơn là hai bên đang “thử gân” lẫn nhau), với việc tạo ra
bốn vụ đối đầu giữa tàu thuyền Trung Quốc và các tàu của hải quân Mỹ trên vùng biển
Hoa Đông và biển Đông. Tại Đối thoại quân sự Mỹ-Trung cấp cao lần đầu tiên dưới thời
Tổng thống Obama, tổ chức tại Bắc Kinh trong các ngày 23-24/6/2009, phía Trung Quốc
tuyên bố chống lại các hoạt động do thám của máy bay và tàu hải quân Mỹ ở “vùng đặc
khu kinh tế trên biển” của Trung Quốc. Phía Mỹ “đồng ý hợp tác để tránh các sự cố tái

diễn”. Sự kiện Trung Quốc đặt giàn khoan Hải dương 981 đã đe dọa đến an ninh hàng hải
ở Biển Đông và đe dọa quyền lợi của Mỹ ở khu vực này, chính điều này đã buộc Mỹ phải
có những hành động để đáp lại những hành động hung hăn của Trung Quốc, tăng cường
nhiều hơn sự hiện diện của các máy bay, tàu chiến Mỹ ở khu vực Biển Đông.
- Quan hệ Mỹ – Ấn Độ: Quan hệ phát triển giữa hai nước được coi là thành công trong
chính sách đối ngoại của Tổng thống B. Obama. Đối với Mỹ, chuyến thăm của Thủ tướng
N. Modi sẽ giúp đẩy mạnh hơn nữa những nỗ lực trong chính sách đối ngoại của Tổng
thống B. Obama trong thời gian tới trong bối cảnh Washington nhìn nhận Ấn Độ là một
mắt xích quan trọng trong việc triển khai chính sách tái cân bằng châu Á và là đối trọng
với Trung Quốc. Đặc biệt, khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương hiện đang không
ngừng biến động và đây là khu vực có ý nghĩa quan trọng đối với an ninh quốc gia cũng
như tăng trưởng kinh tế của Mỹ trong tương lai. Washington cho rằng, chuyến công du
lần này của Thủ tướng Ấn Độ N. Modi là thời điểm thích hợp để mở rộng những thành


17

tựu thời gian qua và đưa quan hệ đối tác chiến lược Mỹ - Ấn tiến lên phía trước. Điều này
cũng là lời nhắn nhủ của Tổng thống B. Obama về tầm quan trọng của việc duy trì mối
quan hệ với Ấn Độ, một đồng minh không chính thức của Mỹ tại châu Á và khu vực
Nam Á, cho người đứng đầu Nhà Trắng kế nhiệm khi ông rời nhiệm sở vào đầu năm
2017.
* Đối với châu Âu: Trong hai nhiệm kỳ của ông Obama, mối quan hệ giữa Mỹ và châu
Âu, được hiểu là với EU và NATO, không bị xấu đi, thậm chí vẫn rất tốt đẹp về chính trị,
nhưng không có được bước phát triển với ý nghĩa và tầm vóc chiến lược. Ưu tiên chính
sách khác nhau và biện pháp thực hiện khác nhau khiến giữa Mỹ và châu Âu lỏng lẻo chứ
không gắn bó, ngờ vực lẫn nhau chứ không tin cậy. Châu Âu không còn dựa dẫm được
nhiều vào Mỹ như trước và không hài lòng khi thấy ông Obama chuyển định hướng chiến
lược. Trước những nghi ngại về liên minh giữa Mỹ và châu Âu, Tổng thống Obama nhấn
mạnh về tầm quan trọng của một châu Âu thống nhất và thúc giục khối này không nên

xem thường mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương đã được xây dựng trong nhiều thập niên
qua. Phát biểu trong cuộc gặp gỡ lãnh đạo các nước châu Âu chủ chốt tại Đức vào ngày
18/11/2016, Tổng thống B. Obama cho rằng: “Châu Âu vẫn là một trong những thành
tựu về chính trị và kinh tế lớn của thế giới. Những thành tựu đó không nên bị xem
thường”.
* Đối với châu Á – Thái Bình Dương (CATBD)
Dưới thời của chính quyền Obama tiếp tục kể thừa chính sách đối với khu vực CATBD
của các chính quyền tiền nhiệm với chiến lược “xoay trục” - “Tái cân bằng” đối với khu
vực CATBD bao gồm các mục tiêu, nội dung, biện pháp chiến lược là một tổng thể toàn
diện (cả chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự và ngoại giao), có mối quan hệ biện chứng
với nhau; việc triển khai có mục tiêu rõ ràng, có trọng tâm, trọng điểm. Quá trình triển
khai chiến lược “xoay trục” - “tái cân bằng” của Mỹ đối với châu Á - Thái Bình Dương
bao gồm những nội dung sau:


18

Về quân sự, tăng cường lực lượng hải quân và củng cố các liên minh quân sự song
phương với các nước tại CATBD với việc tham gia Diễn đàn Shangrila -2012 tại
Singapore. Mỹ khẳng định sẽ bố trí lại sức mạnh hải quân theo hướng tăng cường triển
khai tàu sân bay, tàu tuần dương, tàu khu trục, tàu chiến ven bờ và tàu ngầm ở Thái Bình
Dương. Nhằm tái cần bằng sức mạnh quân sự tại khu vực, Bộ Quốc phòng Mỹ đã có
những điều chỉnh nguồn lực nhanh chóng để thích ứng với chiến lược mới của Mỹ tại
CATBD.
Những diễn biến trong thời gian gần đây ở CATBD đã tạo điều kiện cho Mỹ thực hiện
việc tái xác lập lực lượng, kèm theo là không gian ảnh hưởng, trên nền của những căng
thẳng trong khu vực, cụ thể là: ở Đông Nam Á, cuộc tranh chấp giữa Trung Quốc với
Philíppin chung quanh bãi cạn Scarborough nổi lên từ giữa năm 2012 và tiếp tục trong
năm 2013 đã tạo điều kiện để Mỹ có thể tăng cường sự có mặt tại Philíppin, không loại
trừ xác lập lại các căn cứ quân sự tại đây. Tình hình an ninh khu vực Đông Bắc Á năm

2013 là địa bàn giúp Mỹ có thể mạnh dạn triển khai kế hoạch “xoay trục” để “tái cân
bằng” lực lượng ở khu vực CATBD. Tình trạng căng thẳng giữa Cộng hòa dân chủ nhân
dân Triều Tiên và Hàn Quốc được đẩy lên đỉnh điểm vào thời điểm tháng 3-2013 đã giúp
cho Mỹ có cớ thực hiện hàng loạt cuộc tập trận chung Mỹ - Hàn, đồng thời triển khai
thêm các trang thiết bị quân sự hiện đại trên bán đảo Triều Tiên.
Tiếp đó, Mỹ thể hiện lập trường ủng hộ Nhật Bản trong tranh chấp giữa Nhật Bản và
Trung Quốc chung quanh quần đảo Nhật Bản gọi là Senkaku, Trung Quốc gọi là Điếu
Ngư, với việc khẳng định quần đảo Senkaku/Điếu Ngư nằm trong phạm vi của Điều 5
Hiệp ước bảo hộ an ninh Nhật - Mỹ.
Mỹ khẳng định sự cần thiết phải củng cố và phát triển các liên minh quân sự với tất cả
các nước trong khu vực,đặc biệt đối với các nước Đông Nam Á hiện đang có tranh chấp
lãnh thổ với Trung Quốc trên biển Đông. Mỹ sẽ tăng cường hợp tác và làm sâu sắc hơn
các mối quan hệ với Xinhgapo, Inđônêxia, Malaixia và Ấn Độ, thậm chí cả Myanma.


19

Đối với Việt Nam, sau 8 năm đối thoại về quốc phòng, đến năm 2011, hai nước Mỹ Việt Nam đã ký được “Tuyên bố hợp tác sơ khởi về quân y”. Đến năm 2012, trong
chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ tới Việt Nam, người phát ngôn của Lầu
Năm Góc, Georger Little nhấn mạnh: Mỹ củng cố cam kết lâu dài đối với việc thúc đẩy
mối quan hệ quốc phòng song phương mạnh mẽ với Việt Nam dựa trên sự tin cậy và hiểu
biết lẫn nhau.
Về kinh tế, chính quyền Tổng thống Obama theo đuổi chiến lược hai mũi nhọn về kinh
tế tại khu vực. Mỹ xác định TPP là sự tập trung chủ chốt trong chính sách thương mại
của nước này tại CATBD, đồng thời là nền tảng cho chính sách tái cân bằng. Mỹ đang lôi
kéo các nước, nhất là các nước ASEAN tham gia Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)
do Mỹ chủ đạo, thông qua việc tổ chức diễn đàn doanh nghiệp Mỹ - ASEAN và Sáng
kiến đối tác kinh tế mở rộng Mỹ - ASEAN. Mỹ cũng duy trì cơ chế Đối thoại chiến lược
và kinh tế với Trung Quốc, qua đó tăng cường cán cân thương mại hai chiều và thâm
nhập vào thị trường khổng lồ này.

Về ngoại giao, Mỹ đã tăng cường củng cố các liên minh song phương truyền thống và
đẩy mạnh hợp tác sâu rộng hơn với các đối tác đang nổi. Trong nhiệm kỳ đầu của Obama,
chính sách “xoay trục” đã được thúc đẩy rất mạnh mẽ. Thực tế này phần nào được thể
hiện qua thống kê về các chuyến công du tới khu vực CATBD của các lãnh đạo cấp cao
của Mỹ. Tháng 11-2009, Tổng thống Mỹ thăm Xinhgapo, Trung Quốc và Hàn Quốc.
Tháng 11-2010, Tổng thống Mỹ thăm Inđônêxia, Hàn Quốc và Nhật Bản. Tháng 11-2011,
Tổng thống Mỹ thăm Ôxtrâylia và Inđônêxia. Tháng 3-2012, Tổng thống Mỹ thăm Hàn
Quốc và tháng 11 cũng trong năm 2012, thăm Thái Lan, Myanma, Campuchia và dự Hội
nghị cấp cao Đông Á; Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ công du CATBD 2 lần trong năm 2009,
4 lần năm 2010, 3 lần năm 2011 và 3 lần năm 2012. Riêng đối với Ngoại trưởng Mỹ,
chương trình làm việc của Hillary Clintơn kín đặc các chuyến đi tới các nước CATBD: 3
chuyến năm 2009, 5 chuyến năm 2010, 4 chuyến năm 2011, 5 chuyến năm 2012. Đặc
biệt, trong nhiệm kỳ của mình, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clintơn dự đủ cả 4 kỳ ARF cũng
như các cuộc Tham vấn cấp bộ trưởng Ốxtrâylia - Mỹ, Đối thoại chiến lược và kinh tế


20

Mỹ - Trung, Tham vấn an ninh Mỹ - Nhật Bản. Bà Clintơn cũng đề xuất tổ chức Hội nghị
Bộ trưởng Ngoại giao và Quốc phòng Mỹ - Hàn Quốc, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao và
Quốc phòng Mỹ - Philíppin. Bà Clintơn là Ngoại trưởng Mỹ đầu tiên trong lịch sử thăm
Myanma và Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
Tháng 9-2013, sáng kiến về tham vấn chính thức liên quan đến Bộ quy tắc ứng xử các
bên ở Biển Đông (COC) nhằm kiểm soát cách hành xử trên Biển Đông mang lại một cơ
hội để cải thiện và nâng cao năng lực của các đồng minh và đối tác. Bộ Ngoại giao Mỹ
cũng đã công bố gói trợ giúp hàng hải song phương và khu vực trị giá 32,5 triệu USD,
trong đó có 18 triệu USD để cải thiện năng lực cho các đơn vị tuần tra duyên hải của Việt
Nam, sẽ giúp nâng cao thực lực của các đối tác.
Chuyến thăm 4 nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaixia và Philíppin (tháng 4-2014) của
Tổng thống Mỹ được đánh giá là sự tái khẳng định chiến lược xoay trục của Mỹ. Trong

chuyến đi này, Mỹ tuyên bố quần đảo tranh chấp trên biển Hoa Đông “nằm trong phạm vi
bảo vệ của Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật”. Điều đó có nghĩa là các lực lượng Mỹ sẵn sàng
đáp trả bất cứ sự đe dọa nào về quân sự nhằm vào Nhật Bản. Tại Hàn Quốc, vấn đề cốt
lõi là Mỹ đồng ý hoãn việc chuyển giao Quyền chỉ huy thời chiến (OPCON) cho Hàn
Quốc, trước đó được dự kiến vào tháng 12-2015.
Mỹ tăng cường sự can dự vào các thể chế khu vực: tăng thêm một chức vụ Trợ lý
Ngoại trưởng phụ trách các vấn đề đa phương trong Cục Đông Á-TBD, bổ nhiệm Đại sứ
tại ASEAN, ký Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác Đông Nam Á(TAC), cử đại diện cấp nhà
nước tới dự Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS) và ở cấp ngoại trưởng tới dự Diễn đàn
Khu vực ASEAN (ARF). Năm 2012, Ngoại trưởng Hillary Clinton cũng đã tham dự Diễn
đàn các quốc đảo Thái Bình Dương (PIF) và là quan chức cấp cao nhất của Mỹ tham dự
diễn đàn này từ trước tới nay.
Mỹ theo đuổi một loạt các sáng kiến hợp tác với các thể chế đa phương châu Á,trong
đó có các vấn đề năng lượng, y tế thông qua Sáng kiến Hạ lưu sông Mêkông (LMI), đầu
tư và thương mại thông qua APEC, tăng trưởng kinh tế và biến đổi khí hậu thông qua


21

ASEAN, tội phạm xuyên quốc gia và năng lượng sạch thông qua EAS. Mỹ đẩy mạnh và
nhân rộng các sáng kiến mới được đề xuất tại diễn đàn APEC, chẳng hạn như lập quỹ tài
trợ cải thiện tính liên tục của nguồn cung sản phẩm, thành lập Nhóm làm việc về minh
bạch và chống tham nhũng. Bên cạnh đó, Mỹ sẽ tăng cường các nỗ lực hợp tác khu vực
trong lĩnh vực cứu trợ nhân đạo, khắc phục thiên tai và tìm kiếm cứu hộ, chẳng hạn như
trong vụ tìm kiếm máy bay mất tích tại Malaixia mới đây.
Tháng 7-2009, thông qua nhiều kênh khác nhau, phía Mỹ đề nghị tổ chức cuộc gặp
giữa các Bộ trưởng Ngoại giao các nước hạ lưu Mêkông và Mỹ bên lề Hội nghị Bộ
trưởng Ngoại giao các nước ASEAN và ARF. Lần đầu tiên Ngoại trưởng Mỹ công bố
chính thức tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN tại Phuket (Thái Lan) một “Sáng kiến Hạ
lưu sông Mêkông” (US - Lower Mekong Initiative - LMI). Mục tiêu địa - chính trị của

sáng kiến này nằm trong chính sách “quay trở lại Đông Nam Á” của Mỹ, thể hiện vai trò
đối trọng của Mỹ với Trung Quốc tại khu vực sông Mêkông. Đúng như lời khẳng định
của Ngoại trưởng Hillary Clinton: Mỹ đang trở lại Đông Nam Á, và Mỹ hợp tác trọn vẹn
với các đối tác trong khu vực này trong một loạt những thách thức đang đe dọa mọi
người. Còn Thượng nghị sĩ Jim Webb thì khẳng định: “Mỹvà cộng đồng thế giới có một
cam kết chiến lược và nghĩa vụ tinh thần nhằm bảo vệ sức khỏe và an sinh của cư dân
sống phụ thuộc vào con sông Mêkông cùng với nguồn tài nguyên và nếp sống của họ.
Về vấn đề dân chủ - nhân quyền, một mặt, Mỹ khẳng định không thể và không muốn
áp đặt hệ thống giá trị của Mỹ lên các nước khác, mặt khác, Mỹ lại cho rằng, có những
giá trị nhất định mang tính phổ biến mà các nước cần tôn trọng.
Về hợp tác ứng phó biến đổi khí hậu, Mỹ tích cực tham gia vào các hành động đối phó
biến đổi khí hậu nhằm cắt giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Mỹ đi đầu ủng hộ
Tuyên bố Majuro - Hiệp ước mới của khu vực Thái Bình Dương, thành lập Quỹ Thái
Bình Dương - Mỹ nhằm hỗ trợ các quốc đảo Thái Bình Dương dễ bị ảnh hưởng bởi vấn
đề mực nước biển dâng cao.


22

Như vậy, chiến lược của Mỹ đối với CATBD sau Chiến tranh lạnh là bộ phận quan
trọng trong chiến lược toàn cầu của chính quyền Mỹ, mà mục tiêu xuyên suốt, nhất quán
là sử dụng ưu thế về kinh tế, chính trị, quân sự, giành quyền bá chủ khu vực và thế giới.
Đây là một trong những nhân tố quan trọng làm cho quan hệ giữa các nước lớn và cuộc
cạnh tranh chiến lược giữa các nước này ở khu vực càng gay gắt, quyết liệt trên tất cả các
lĩnh vực chiến lược về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
* Đối với Việt Nam, Mỹ khẳng định tầm quan trọng của Việt Nam trong chính sách
“xioay trục” chuyển hướng sang châu Á – Thái Bình Dương. Hai bên đã tiến hành các
cuộc gặp gỡ, viếng thăm để tăng cường sự hợp tác với nhau, đó là chuyến thăm Mỹ của
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định Việt Nam mong muốn tăng cường hợp tác
hơn nữa với Mỹ. Đặc biệt, chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Brack Obama đã nói

lên vị trị của Việt Nam trong chính sách đối ngoại của Mỹ, và việc Tổng thống B. Obama
tuyên bố xóa bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương đối với Việt Nam đã đánh dấu bước tiến
mạnh mẽ kể từ khi hai nước bình thường hóa qun hệ vào năm 1995.
Tóm lại, chính sách đối ngoại của Obama đã bao gồm hoạt động chống khủng bố linh
hoạt và có mục tiêu (giám sát điện tử, sử dụng máy bay do thám không người lái, thực
hiện các cuộc không kích, sử dụng các lực lượng đặc nhiệm), huấn luyện và trang bị vũ
khí cho các tác nhân địa phương đáng tin cậy, xây dựng các quan hệ đối tác về an ninh và
quốc phòng, đưa ra các cam kết ngoại giao, áp đặt các lệnh trừng phạt kinh tế, ký kết các
hiệp định thương mại tự do, thực hiện các chương trình viện trợ phát triển, đấu tranh
chống hoạt động chiêu mộ và hệ tư tưởng của các phần tử cực đoan ở trong nước…..


23

Kết luận
Từ khi mới lập quốc đến nay đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử thăng trầm khác nhau,
và trong mỗi giai đoạn đề ra các chính sách đối ngoại khác nhau và có sự điều chỉnh cho
phù hợp với điều kiện đất nước và tình hình quốc tế, đi từ chính sách đối ngoại biệt lập
đến việc can dự vào các vấn đề quốc tế. Từ năm 1945 cho đến nay, nước đã có nhiều vai
trò to lớn trong các vấn đề quốc tế, gần như các nơi trên thế giới đều có mặt của người
Mỹ. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, Mỹ là nước đứng đầu trong phe Tư bản chủ nghĩa
đối lập với phe Xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu, gây ra sự căng thẳng trong quan
hệ quốc tế.
Sau khi Liên Xô, Đông Âu và các nước Xã hội chủ nghĩa sụp đổ, Mỹ muốn duy trì thế
giới đơn cực do Mỹ chi phối, ảnh hưởng, tuy nhiên, sau sự kiện khủng bố vào nước Mỹ
ngày 11/09/2001, đã đặt ra cho nước Mỹ nhiều thách thức trong bối cảnh chủ nghĩa
khủng bố đang tràn lan, sự vươn lên của các nước Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Âu,
đã buộc Mỹ phải có sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình cho phù hợp. Vì vậy,
việc nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Mỹ từ năm 1945 đến nay mang ý nghĩa lý
luận và thực tiễn sâu sắc, giúp chúng ta có một cái nhìn nhận sâu sắc về chính sách đối

ngoại của Mỹ, đồng thời giúp chúng ta hiểu rõ hơn về những tham vọng của Mỹ ở các
nước trên thế giới hiện nay.


24

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
APEC: Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương
ARF: Diễn đàn Khu vực ASEAN
ASEAN: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
CATBD: Châu Á – Thái Bình Dương
CHDCND: Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
COC: Bộ quy tắc ứng xử các bên ở Biển Đông
EAS: Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á
EU: Liên minh châu Âu
NATO: Khối quân sự Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương
TAC: Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác Đông Nam Á
PIF: Diễn đàn các quốc đảo Thái Bình Dương
IS: Tổ chức Nhà nước Hồi giáo tự xưng
USD: Đồng Đôla Mỹ
TPP: Đối tác xuyên Thái Bình Dương



×