BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ QUANG TIẾN
HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG ĐIỀU KIỆN CẢI CÁCH TƯ PHÁP
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
Mã số: 60 38 01 02.
ĐẮK LẮK – NĂM 2016
Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Quốc Sửu
Phản biện 1:……………………………………………………………….
………………………………………………………………..
Phản biện 2:……………………………………………………………….
………………………………………………………………..
Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, Học viện Hành
chính Quốc gia
Địa điểm: Phòng ………., Nhà A - Hội trường bảo vệ luận văn thạc
sĩ, Học viện Hành chính
Số:… - Đường…………… - Quận……………… - TP………………
Thời gian: vào hồi …… giờ …… tháng …… năm 201...
Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia hoặc
trên trang Web của Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tổ chức và hoạt động, trong đó có hoạt động điều tra của VKSND là một
trong những đối tượng của chiến lược cải cách tư pháp của nước ta giai đoạn hiện
nay.
Như chúng ta thấy, ở nước ta, cùng với các cơ quan Nhà nước như Quốc
hội, Chính phủ và Toà án, VKSND được thành lập và tổ chức thành hệ thống, là
bộ phận cấu thành quan trọng trong bộ máy Nhà nước để thực hiện quyền lực Nhà
nước và bảo vệ quyền lợi của Nhà nước. Viện kiểm sát được thành lập để đại diện
cho Nhà nước trong lĩnh vực duy trì và bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật trên
cả hai khía cạnh: Một là, bảo đảm cho các quy định của pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất; hai là, bảo đảm cho các quyền của công dân do pháp
luật quy định phải được tôn trọng. Như vậy, Viện kiểm sát vừa là cơ quan đại diện
cho quyền lực Nhà nước (ở đây là quyền công tố Nhà nước), vừa là cơ quan đại
diện cho quyền và lợi ích của công dân.
Thực hiện cải cách nền tư pháp nói chung, trong đó có hoạt động điều tra
của VKSND, Đảng ta đã nghiên cứu và ban hành hai Nghị quyết quan trọng: Nghị
quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng
tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Hai
Nghị quyết này thể hiện tư tưởng chủ đạo của chiến lược cải cách tư pháp ở nước
ta trong giai đoạn hiện nay; đã xác định, hoạt động thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp phải bảo đảm không bỏ
lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội; nâng cao chất lượng
công tố của Kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư,
người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. Cụ thể hóa quan điểm lãnh
đạo của Đảng, Quốc hội nước ta đã ban hành Hiến pháp 2013, Luật Tổ chức
VKSND năm 2014 với nhiều quy định mới về VKSND.
Theo Điều 2 Luật Tổ chức VKSND năm 2014, hai chức năng của VKSND
là thực hành quyền công tố và KSHĐTP của nước cộng hòa XHCN Việt Nam, để
thực hiện các nhiệm vụ là: bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Để thực hiện có hiệu quả hai chức năng
có mối quan hệ hữu cơ nói trên, cũng để tránh sự lạm quyền, thiếu trách nhiệm,
vi phạm pháp luật từ phía cơ quan điều tra, bên cạnh quyền giám sát các hoạt động
điều tra, Luật còn trao cho VKSND quyền trực tiếp điều tra vụ án hình sự trong
những điều kiện cụ thể.
Về nguyên tắc, VKSND có vai trò rất lớn – vai trò chỉ đạo điều tra trong
giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau mà trên thực
tế việc thực hiện vai trò này của VKSND thời gian qua còn chưa tương xứng với
kỳ vọng; việc sử dụng quyền trực tiếp điều tra vụ án hình sự là rất ít và chưa hiệu
quả. Viện kiểm sát thường chỉ “gián tiếp điều tra” thông qua việc kiểm sát hoạt
động điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, nên còn bị động trong việc nắm hồ sơ
vụ án, dẫn tới những hạn chế trong truy tố và tranh luận tại phiên tòa của Kiểm
sát viên. Đây cũng là một trong những nguyên nhân sâu xa của tình trạng án oan
sai, bản án bị hủy do vi phạm hoạt động tố tụng những năm gần đây.
Đắk Lắk là một tỉnh trọng điểm của khu vực Tây Nguyên và cả nước.
Những năm qua, công tác kiểm sát của Viện kiểm sát đã được quan tâm nâng cao
chất lượng, nhằm bảo đảm quyền công dân, cũng như góp phần phát hiện và xử
lý nghiêm minh những vi phạm pháp luật, góp phần ổn định trật tự xã hội, nâng
cao văn hóa pháp lý nói chung. Tuy nhiên, trước bối cảnh đổi mới cơ quan Kiểm
sát, đổi mới bộ máy nhà nước theo nguyên tắc pháp quyền, việc nâng cao vai trò
của Viện kiểm sát ở luôn là đòi hỏi thường trực, hơn nữa, thời gian qua, công tác
kiểm sát đối với hoạt động điều tra các vụ án hình sự ở tỉnh Đắk Lắk xuất hiện
những hạn chế về hiệu quả hoạt động, ảnh hưởng không nhỏ tới niềm tin của
người dân vào sự công bằng của pháp luật.
Để tìm hiểu rõ hơn về vai trò, quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền
hạn của VKSND trong giai đoạn điều tra nói chung, quyền trực tiếp điều tra vụ
án hình sự nói riêng, từ đó đánh giá thực trạng hoạt động điều tra vụ án hình sự
của VKSND trong thực tiễn tỉnh Đắk Lắk, xuất phát từ những yêu cầu khách quan
của đấu tranh phòng, chống tội phạm, của cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam XHCN, tác giả chọn vấn đề “Hoạt động điều tra vụ án
hình sự của Viện kiểm sát nhân dân trong điều kiện cải cách tư pháp – từ thực
tiễn tỉnh Đắk Lắk” làm đề tài luận văn thạc sỹ luật học, chuyên ngành Luật Hiến
pháp – Luật Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những công trình nghiên cứu tiêu biểu đã được công bố có liên quan đến
đề tài, có thể kể tới như:
+ Về các công trình nghiên cứu lớn như đề tài khoa học cấp bộ: Kỷ yếu đề
tài khoa học cấp bộ, Viện khoa học kiểm sát VKSND tối cao, của tập thể các tác
giả, Hà Nội, năm 1999; THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai
đoạn điều tra của Lê Hữu Thể và các tác giả, năm 2008; Tăng cường trách nhiệm
của công tố trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài khoa
học cấp bộ, Hà Nội, năm 2008; Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi
mới thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài khoa học
cấp bộ, năm 2011; Một số vấn đề về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt
động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp
của Nguyễn Hải Phong và các tác giả.
+ Bài viết tiêu biểu được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành: Lý Văn
Chính, “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra”, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp, số 6/2005; Đỗ Văn Đương, “Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải
cách tư pháp ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 7/2006; Lê
Văn Cảm, "Bàn về hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng và thi hành án trong
chiến lược cải cách tư pháp", Tạp chí Kiểm sát số 01/2009; Trần Công Phàn, "Một
số vấn đề về chủ trương tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra,
gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp", Tạp chí Kiểm
sát 03/2012; Lê Thị Tuyết Hoa, "Một số nội dung trọng tâm để thực hiện chủ
trương tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải
cách tư pháp", Tạp chí Kiểm sát số 16/2012; Nguyễn Hòa Bình, "Một số định
hướng nghiên cứu sửa đổi, bổ sung BLTTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp",
Tạp chí Kiểm sát 16/2012 và Tạp chí Kiểm sát số 21/2012; Nguyễn Thị Thủy,
"Sửa đổi bổ sung BLTTHS nhằm thực hiện chủ trương của Đảng - Tăng cường
trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế gắn công tố với
điều tra”, Tạp chí Kiểm sát số 21/2012; Nguyễn Thái Phúc, "Sửa đổi nguyên tắc
tập trung thống nhất trong ngành Kiểm sát nhân dân", Tạp chí Kiểm sát số
17/2012; Trần Đình Nhã, "Chế định điều tra tội phạm trong BLTTHS", Tạp chí
Kiểm sát số 21/2012; Đỗ Văn Đương, "Phân định rõ thẩm quyển quản lý hành
chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp và sửa đổi, bổ sung chế định chứng cứ
trong BLTTHS", Tạp chí Kiểm sát số 16/2012; Đào Trí Úc, "Đề xuất đổi mới
Viện kiểm sát ở Việt Nam từ kinh nghiệm một số nước trên thế giới", Tạp chí
Kiểm sát số 12/2013; Lê Đức Xuân, Phạm Lan Phương, "Vai trò cơ quan Công tố
các nước trên thế giới trong việc KSĐT các vụ án hình sự", Tạp chí Kiểm sát số
13/2013; Lê Thị Tuyết Hoa, "Thực trạng và một số kiến nghị nhằm tăng cường
trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra",
Tạp chí Kiểm sát số 08/2014;…
+ Báo cáo tổng kết chuyên đề trong ngành Kiểm sát: Tổng kết một số vấn
đề lý luận và thực tiễn về các công tác của ngành KSND qua 50 tổ chức và hoạt
động, Hà Nội, năm 2010; Báo cáo kết quả tổng kết 8 năm thi hành BLTTHS năm
2003, Hà Nội, năm 2012.
+ Luận án tiến sĩ, điển hình có: Nguyễn Thị Mai Nga, "Cơ sở lý luận và
thực trạng của điều tra và truy tố các tội phạm về ma túy", Nhà xuất bản thông tin
và truyền thông, năm 2012; Đào Hữu Dân, “Mối quan hệ giữa cơ quan cảnh sát
điều tra với Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự”, Luận án tiến sĩ luật học
trường Đại học cảnh sát nhân dân, năm 2006;…
+ Luận văn thạc sĩ luật học, điển hình có: Vũ Thị Xuân Nhuệ, "Một số hoạt
động KSĐT án kinh tế tại Tp. Hồ Chí Minh 1991-1996"; Đoàn Tạ Cửu Long,
"Công tác KSĐT án trị an tại Tp. Hồ Chí Minh từ 1996 - 2000 - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn"; Võ Phước Long, "Chức năng của VKSND trong tố tụng hình
sự" năm 2007; Đoàn Tấn Minh, "Hoạt động của Viện kiểm sát trong giai đoạn
điều tra các vụ án hình sự mà bị can là người chưa thành niên trên địa bàn tỉnh
Tiền Giang" năm 2008; Nguyễn Văn Tấn, "Hoạt động KSĐT các tội phạm về ma
túy tại Tp. Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay" năm 2008;…
Qua khảo sát, nhiều công trình đã làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về
các chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự, có đánh giá việc
thực hiện chức năng nào đó của hoạt động kiểm sát trong tố tụng hình sự nói
chung, hay trong một lĩnh vực phòng chống tội phạm cụ thể. Các công trình chủ
yếu nghiên cứu về phương diện thực hiện vai trò công tố và KSHĐTP, chưa có
công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về quy định và việc thực hiện quyền
điều tra vụ án hình sự của VKSND nói chung, của VKSND ở địa phương cụ thể
nói riêng. Do vậy, tên đề tài được tác giả chọn nghiên cứu “Hoạt động điều tra
vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân trong điều kiện cải cách tư pháp –
từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk” không bị trùng lắp với đề tài được nghiên cứu trước
đó. Vấn đề được nghiên cứu có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong bối cảnh tích
cực thực hiện cải cách tư pháp theo Chiến lược của Đảng, Hiến pháp 2013 và Luật
Tổ chức VKSND năm 2014.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những quy định pháp luật nói chung và việc thực hiện quyền
điều tra vụ án hình sự của VKSND ở tỉnh Đắk Lắk thời gian qua, đánh giá thực
trạng, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động này
trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và pháp lý về VKSND; hoạt động điều
tra vụ án hình sự của VKSND;
- Nêu rõ mục đích, yêu cầu, nội dung của công cuộc cải cách tư pháp đối
với nền tư pháp nói chung và đối với Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
nói riêng.
- Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật của VKSND ở tỉnh Đắk Lắk trong
điều tra vụ án hình sự thời gian qua.
- Đề xuất những quan điểm, phương hướng giải pháp nâng cao hiệu quả
hoạt động điều tra vụ án hình sự của VKSND theo yêu cầu cải cách tư pháp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động điều tra vụ án hình sự của VKSND tỉnh,
VKSND cấp huyện ở tỉnh Đắk Lắk theo quy định của BLTTHS năm 2003 và các
quy định mới của BLTTHS năm 2015. Đây là hoạt động nhằm thực hiện chức
năng THQCT, KSHĐTP trong giai đoạn điều tra được tiến hành bởi người tiến
hành tố tụng là Kiểm sát viên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu hoạt động điều tra của VKSND
tỉnh, VKSND cấp huyện ở tỉnh Đắk Lắk chủ yếu trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự, tức là từ lúc khởi tố vụ án đến khi truy tố bị can ra trước tòa. Một số hoạt
động điều tra vi phạm pháp luật để phục vụ hoạt động kiểm sát việc khởi tố vụ án,
bị can cũng được xem xét trong cả quá trình tố tụng vụ án hình sự theo nghĩa rộng
của từ “điều tra”.
Về không gian, luận văn nghiên cứu hoạt động của Viện kiểm sát trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk, nhưng có chú trọng ở một số địa bàn trọng điểm, có số lượng
các vụ án hình sự thụ lý hàng năm lớn.
Về thời gian, luận văn khảo sát giai đoạn từ năm 2011 đến hết năm 2015.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Phương pháp luận thực hiện đề tài dựa trên nền tảng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng; quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng,
chống tội phạm, về vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong bộ máy nhà nước và
trong tố tụng hình sự; và các chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, cải cách tư pháp, bảo đảm quyền con
người, quyền tự do, dân chủ của công dân.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống trong nghiên
cứu khoa học xã hội là: Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, kết
hợp quan sát thực tiễn (qua quá trình công tác) với khát quát hóa.
6. Ý nghĩa của Luận văn
Luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về hoạt động điều tra của Viện kiểm
sát trong điều tra vụ án hình sự.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy và nghiên cứu
của cán bộ giảng dạy, sinh viên trong các trường đại học luật, các cơ sở đào tạo,
bồi dưỡng các chức danh tư pháp như Học Viện tư pháp, Trường đào tạo, bồi
dưỡng nghiệp vụ kiểm sát hoặc sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho những người
quan tâm, nghiên cứu chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong điều tra vụ án hình
sự.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo. Phần nội
dung kết quả nghiên cứu được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về Viện kiểm sát nhân dân và hoạt
động điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.
Chương 2: Thực trạng hoạt động điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân ở tỉnh Đắk Lắk
Chương 3: Phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra
vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân trong điều kiện cải cách tư pháp.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA VỤ ÁN
HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. KHÁI QUÁT VỀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ HOẠT
ĐỘNG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1.1. Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước
1.1.1.1. Vị trí, vai trò và tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân
- Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân:
Cơ quan Viện kiểm sát ở nước ta thuộc hệ thống các cơ quan tư pháp, do
đó, việc xác định vị trí của hệ thống cơ quan này phải trên cơ sở bảo đảm sự độc
lập của hệ thống cơ quan tư pháp. Với chức năng THQCT và KSHĐTP thì cần tổ
chức Viện kiểm sát thành một hệ thống cơ quan Nhà nước độc lập.
Theo Luật Tổ chức VKSND năm 2014, VKSND Việt Nam là một hệ thống
độc lập và được được tổ chức ở 4 cấp, gồm: VKSND tối cao; VKSND cấp cao;
VKSND cấp tỉnh; VKSND cấp huyện; Viện kiểm sát quân sự.
1.1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân
a. Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân
Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định về chức năng của VKSND là:
“Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”.
b. Nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân
Trong phạm vi chức năng của mình, VKSND có nhiệm vụ: “bảo vệ pháp
luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.
1.1.2. Hoạt động điều tra vụ án hình sự
1.1.2.1. Quan niệm về hoạt động điều tra vụ án hình sự
Quy định của BLTTHS về thẩm quyền thu thập chứng cứ là thẩm quyền
thực hiện các hoạt động điều tra của CQĐT, Viện kiểm sát và Tòa án. Ba cơ quan
này được tiến hành tất cả các hoạt động điều tra đã đuợc quy định trong BLTTHS.
1.1.2.2. Đặc điểm của hoạt động điều tra vụ án hình sự
- Hoạt động điều tra vụ án hình sự là hoạt động thực hiện công khai theo
trình tự, thủ tục tố tụng hình sự.
- Khi thực hiện hoạt động điều tra vụ án hình sự thường phải áp dụng các
biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự.
- Hoạt động điều tra vụ án hình sự là hoạt động thu thập chứng cứ phục vụ
cho hoạt động buộc tội.
- Hoạt động điều tra vụ án hình sự đòi hỏi phải tuân thủ yêu cầu về pháp
luật, chính trị, nghiệp vụ.
1.1.2.3. Nội dung hoạt động điều tra vụ án hình sự
Điều tra theo nghĩa chung nhất là thu thập thông tin, nhưng trong tố tụng
hình sự, điều tra là các hoạt động thu thập chứng cứ, tài liệu nhằm làm rõ vụ án.
1.2. HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN
1.2.1. Khái niệm hoạt động điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân
dân
Hoạt động điều tra vụ án hình sự của VKSND là một loại hoạt động tố tụng
hình sự, trong đó VKSND (thông qua Kiểm sát viên), thông qua những biện pháp,
điều kiện điều tra được quy định nhằm thu thập thông tin, chứng cứ, tài liệu nhằm
làm rõ về tội phạm và người phạm tội, đảm bảo vụ án được giải quyết khách quan
theo nguyên tắc pháp chế, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
1.2.2. Điều chỉnh pháp luật về hoạt động điều tra vụ án hình sự của Viện
kiểm sát nhân dân
1.2.2.1. Hoạt động điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân theo
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
Thẩm quyền điều tra vụ án hình sự của VKSND theo quy định của BLTTHS
năm 2003 chưa được quy định rõ ràng, cụ thể như trong Luật Tổ chức VKSND
năm 2014 và BLTTHS năm 2015.
1.2.2.2. Hoạt động điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân theo
quy định của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014
Hoạt động điều tra vụ án hình sự của VKSND theo quy định của Luật Tổ
chức VKSND năm 2014 được quy định ở nhiều giai đoạn: Giai đoạn điều tra xác
minh tố giác, tin báo về tội phạm; giai đoạn điều tra; giai đoạn truy tố.
1.2.2.3. Hoạt động điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân theo
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
Hoạt động điều tra vụ án hình sự của VKSND theo BLTTHS năm 2015 quy
định rõ ràng, cụ thể như trong Luật Tổ chức VKSND năm 2014.
1.2.3. Biện pháp điều tra hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
Nhiệm vụ chính của hoạt động điều tra là xác định sự thật khách quan của
vụ án một cách đầy đủ, toàn diện, làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án. Hay nói
cách khác, nhiệm vụ chính đó là chứng minh tội phạm và người phạm tội.
1.3. YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐIỀU
TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
1.3.1. Tình hình tội phạm trong bối cảnh đổi mới nền kinh tế, xã hội và quan
điểm cải cách tư pháp đối với Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
1.3.1.1. Tình hình tội phạm trong bối cảnh đổi mới nền kinh tế, xã hội
Sự phát triển nhanh chóng, sôi động của kinh tế thị trường đã và đang mang
lại những thay đổi lớn về kinh tế, nâng cao điều kiện sống cho Nhân dân, nhưng
cũng đặt ra nhiều vấn đề nhức nhối làm cho xã hội bức xúc cần được giải quyết.
1.3.1.2. Quan điểm cải cách tư pháp đối với Viện kiểm sát trong điều tra
vụ án hình sự
Về quan điểm cải cách tư pháp của Nhà nước ta được thể hiện qua các Nghị
quyết của Đảng về cải cách tư pháp như Nghị quyết Trung ương 8 khóa VII (tháng
01/1995), Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII (tháng 6-1997), Nghị quyết Trung
ương 7 khóa VIII (tháng 8/1999), Nghị quyết Đại hội IX, Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2002, Nghị quyết
số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005...
1.3.2. Hoạt động của Viện công tố - Viện kiểm sát điều tra vụ án hình sự
ở một số nước trên thế giới và kinh nghiệm đối với Việt Nam
Tùy theo truyền thống pháp luật và đặc điểm của từng quốc gia mà việc tổ
chức và hoạt động THQCT của cơ quan Công tố có những đặc điểm, tính chất
khác nhau.
Chương 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN Ở TỈNH ĐẮK LẮK
2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỈNH ĐẮK LẮK VÀ HỆ THỐNG VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN Ở TỈNH ĐẮK LẮK
2.1.1. Khái quát về tỉnh Đắk Lắk
Đắk Lắk là một tỉnh nằm ở trung tâm Tây Nguyên, phía bắc giáp Gia Lai,
phía nam giáp Lâm Đồng, phía tây nam giáp Đắk Nông, phía đông giáp Phú Yên
và Khánh Hoà, phía tây giáp Vương quốc Campuchia. Đắk Lắk có diện tích tự
nhiên 13.085 km². Tổng dân số cuối năm 2011 ước có 1.771.800 người, có 47 dân
tộc cùng sinh sống.
2.1.2. Khái quát về tổ chức hệ thống Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk
- Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk:
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh có Ủy ban kiểm sát, Văn phòng, các phòng
nghiệp vụ và tương đương.
- Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện ở tỉnh Đắk Lắk:
Ở tỉnh Đắk Lắk có 15 VKSND huyện, thị xã Buôn Hồ và Tp. Buôn Ma Thuột.
2.2. TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK
NHỮNG NĂM QUA
2.2.1. Tội phạm về an ninh
Những năm qua, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk được giữ vững; tuy nhiên, tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm còn
diễn biến phức tạp và biến động ở một số loại tội sau mỗi năm, tính chất, mức độ
của tội phạm ngày càng nghiêm trọng; đối tượng phạm tội ngày càng đa dạng.
Trong năm 2012, Cơ quan an ninh điều tra đã phát hiện, khởi tố 02 vụ, 07 bị can
về tội Phá hoại chính sách đoàn kết (tăng 01 vụ, 04 bị can so với cùng kỳ năm
2011).
2.2.2. Tội phạm khác
Bảng tổng hợp tình hình tội phạm bị khởi tố ở tỉnh Đắk Lắk
giai đoạn 2011-2015
(Đơn vị tính: số vụ, số bị can bị khởi tố)
NĂM
TP về ma
túy
Vụ
2011
2012
2013
2014
2015
92
151
154
152
130
Bị
can
123
90
81
184
155
TP về
tham
nhũng
và chức
vụ
Bị
Vụ
can
10 21
05 07
04 04
03 05
04 04
TP kinh
tế và
môi
trường
V
ụ
17
40
45
44
35
Bị
can
16
99
66
52
67
TP xâm
phạm sở
hữu
TP về trật tự
an toàn xã hội
Vụ
Bị can
Vụ
564
587
555
556
614
939
1.070
997
913
930
767
758
814
769
699
Bị can
1.325
1.580
1.617
1.632
1.408
TP xâm
phạm hoạt
động tư
pháp
Vụ
09
12
06
06
03
Bị
can
09
14
06
06
02
(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác hàng năm của Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Đắk Lắk)
2.3. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH
SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN Ở ĐẮK LẮK NHỮNG NĂM QUA
2.3.1. Hoạt động điều tra của Viện kiểm sát trong giai đoạn giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
Qua công tác kiểm sát tốt việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm trong 5
năm qua, Viện kiểm sát đã yêu cầu CQĐT khởi tố 132 vụ án, 110 bị can; trực tiếp
khởi tố 03 vụ án, 01 bị can; ban hành 153 kiến nghị yêu cầu CQĐT khắc phục vi
phạm.
2.3.2. Hoạt động điều tra của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án
hình sự, khởi tố bị can, điều tra vụ án
Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát hai
cấp đã không phê quyết định khởi tố 07 bị can, huỷ bỏ 19 quyết định không khởi
tố vụ án, 08 quyết định khởi tố vụ án, 21 quyết định khởi tố bị can của CQĐT,
không phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp 04 trường hợp, hủy bỏ quyết định tạm giữ 01
trường hợp, không phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ 01 trường hợp, không
phê chuẩn lệnh bắt bị can để tạm giam 22 bị can, không phê chuẩn quyết định gia
hạn tạm giam 03 bị can, hủy bỏ quyết định tạm giam 01 bị can, không phê chuẩn
lệnh tạm giam 47 bị can của CQĐT, yêu cầu CQĐT bắt tạm giam 10 bị can; ban
hành 92 kiến nghị yêu cầu CQĐT khắc phục các vi phạm trong hoạt động điều
tra.
2.3.3. Hoạt động điều tra của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố, xét
xử
Thông qua công tác THQCT và KSXX án hình sự, Viện kiểm sát hai cấp đã
ban hành kháng nghị 291 vụ án; Tòa án đã xét xử 234 vụ, chấp nhận 225 vụ, đạt
96,1%.
2.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH
SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN Ở TỈNH ĐẮK LẮK NHỮNG NĂM
QUA
2.4.1. Những thành tựu và nguyên nhân
Thực hiện chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp, thực hiện các quy định
của pháp luật và của Ngành về thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
VKSND. Trong những năm qua, ngành Kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã đạt
được những kết quả nội bất trên tất cả các lĩnh vực công tác, góp phần quan trọng
kiềm chế sự gia tăng tội phạm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,
bảo vệ pháp chế XHCN, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế - xã
hội, bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân trên địa bàn tỉnh.
2.4.1.1. Trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
2.4.1.2. Trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ
án hình sự
2.4.1.3. Trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp trong giai đoạn truy tố
2.4.1.4. Trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử các vụ án
hình sự
2.4.2. Những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân
2.4.2.1. Hạn chế, vướng mắc
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của Viện kiểm sát trong giai
đoạn điều tra cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém. Nhìn chung, Viện kiểm sát các
cấp chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm trong thực thi chức năng, nhiệm vụ như
pháp luật quy định.
2.4.2.2. Nguyên nhân
* Nguyên nhân khách quan:
Sự phát triển của kinh tế thị trường, của khoa học công nghệ, sự phát triển
mở rộng về qui mô và phạm vi của tội phạm; do sự chưa hợp lý trong quy định
của pháp luật;
* Nguyên nhân chủ quan:
Do Kiểm sát viên còn thiếu trách nhiệm, trình độ nghiệp vụ kiểm sát còn
yếu, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; cơ cấu tổ chức bộ máy, năng lực cán bộ,
Kiểm sát viên ở Viện kiểm sát các cấp còn chậm đổi mới; công tác quản lý, chỉ
đạo, điều hành của lãnh đạo Viện kiểm sát các cấp còn bất cập...
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG
ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG ĐIỀU KIỆN CẢI CÁCH TƯ PHÁP
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG
ĐIỀU KIỆN CẢI CÁCH TƯ PHÁP
3.1.1. Thống nhất nhận thức trách nhiệm của Viện kiểm sát trong hoạt
động điều tra là quyết định việc buộc tội trên cơ sở kết quả hoạt động điều tra
Trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát và CQĐT có vị trí, trách nhiệm
khác nhau. CQĐT có trách nhiệm chứng minh sự thật vụ án, thu thập cả chứng
cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội.
3.1.2. Nhận thức và thực hiện đúng đắn các biện pháp công tố trên cơ sở
thực hiện tốt hoạt động kiểm sát điều tra
Mỗi hành vi, quyết định công tố đều phải có cơ sở, có căn cứ vững chắc và
hợp pháp.
3.1.3. Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, Kiểm sát viên
phải có tinh thần trách nhiệm cao trước Đảng, Nhà nước, xã hội, trước số phận
con người để giải quyết tốt vụ việc
Kiểm sát viên phải trung thành với đường lối, chủ trương của Đảng, bảo vệ
chế độ Nhà nước và định hướng hoạt động công tố vì lợi ích của nhân dân.
3.1.4. Kiểm sát viên phải nắm vững bản chất pháp lý của vụ việc đang
điều tra, về việc buộc tội, nâng cao phẩm chất nghề nghiệp thực hành quyền
công tố trong hoạt động điều tra
Sự nhạy cảm và phẩm chất nghề nghiệp của Kiểm sát viên trước hết thể
hiện qua việc hiểu rõ chức trách, nhiệm vụ của mình khi THQCT, đề xuất các
quyết định tố tụng thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát một cách chính xác, kịp
thời, đúng bản chất sự việc.
3.1.5. Xây dựng các thủ tục tố tụng phù hợp với tổ chức hệ thống cơ quan
xét xử và Viện kiểm sát bốn cấp
Phải xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn
trọng và bảo vệ quyền con người…
3.1.6. Tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát trong hoạt động điều
tra; thực hiện cơ chế gắn công tố với điều tra
Tăng cường vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra
nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp
thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.
3.1.7. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm sát về trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp
Đáp ứng đòi hỏi của công cuộc cải cách tư pháp đối với công tác của ngành
Kiểm sát, mục tiêu, yêu cầu được đặt ra là phải đổi mới mạnh mẽ công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ để xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng,
trung thành với Đảng, tận tụy.
3.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA
VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG ĐIỀU KIỆN
CẢI CÁCH TƯ PHÁP
3.2.1. Đảm bảo tính đồng bộ, hiệu quả giữa Hiến pháp, Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân trong cải cách tư
pháp
Để có được sự đồng bộ này, đòi hỏi có sự thống nhất về nguyên tắc và quan
điểm chỉ đạo đối với việc cải cách tư pháp trong từng cơ quan tư pháp và của cả
hệ thống Cơ quan tư pháp nhằm đảm bảo tính thống nhất cả trong sự chỉ đạo và
thực hiện cải cách.
3.2.2. Hoàn thiện pháp luật về tố tụng hình sự theo Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2015 và văn bản khác có liên quan đến nhiệm vụ nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
3.2.3. Kiến nghị đảm bảo điều kiện vật chất, nguồn nhân lực cho hoạt
động của Viện kiểm sát
3.2.4. Kiến nghị tăng cường sự giám sát đối với các hoạt động tư pháp
hình sự
KẾT LUẬN
Trên cơ sở nghiên cứu về hoạt động điều tra vụ án hình sự của VKSND
qua trường hợp ở tỉnh Đắk Lắk, chúng tôi đưa ra một số kết luận sau:
1. Hoạt động điều tra không phải là chức năng chính của VKSND, nhưng
có tác dụng hỗ trợ, nhằm thực hành có hiệu quả quyền công tố của Viện kiểm
sát.
2. Qua thực tiễn thực hiện quyền điều tra vụ án hình sự của VKSND ở
tỉnh Đắk Lắk thời gian qua cho thấy rằng, việc thực hiện quyền này còn hạn chế,
tuy nhiên, đang vận động theo chiều hướng tích cực. Việc thực hiện quyền này
có hiệu quả hay không, bên cạnh yếu tố quy định pháp luật, yếu tố lãnh đạo, chỉ
đạo, kiểm tra sát sao của lãnh đạo Viện kiểm sát là rất cần thiết.
3. Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức VKSND năm 2014 có nhiều nội
dung mới nhằm tăng cường chức năng của Viện kiểm sát. Vấn đề đặt ra là cần
hoàn thiện quy định pháp luật tố tụng hình sự cho phù hợp. Bên cạnh đó cũng
cần nâng cao năng lực, trình độ, điều kiện làm việc cho Kiểm sát viên; cần tăng
cường giám sát xã hội đối với các hoạt động tư pháp hình sự.