Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NỘI DUNG CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG, VẬN DỤNG CÔNG TÁC XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG THEO TINH THẦN NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 4 KHÓA XI HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.39 KB, 20 trang )

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
BỘ MÔN KINH TẾ


BÀI TẬP LỚN
Đề Tài:
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NỘI DUNG CÔNG
TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG, VẬN DỤNG CÔNG TÁC XÂY
DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG THEO TINH THẦN NGHỊ
QUYẾT TRUNG ƯƠNG 4 KHÓA XI HIỆN NAY
Giảng viên hướng dẫn : Phan Văn Toản
Danh sách sinh viên thực hiện
1. Nguyễn Bảo Ngọc

MSV: 18A4040157

2. Nguyễn Thị Lệ Thanh

MSV: 18A4020487

3. Hoàng Cẩm Tú

MSV: 18A4030500

4. Đỗ Thị Uyên

MSV: 18A4040223

Tên học phần: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Mã: PLT04A
Lớp tín chỉ: Ca 1 Thứ 2 phòng D5.202


Nhóm tín chỉ: 21

Hà Nội - 31/10/2016


MỤC LỤC
Phần A: MỞ ĐẦU
Phần B: NỘI DUNG CÔNG TÁC XÂY DỰNG VÀ CHỈNH ĐỐN
ĐẢNG
Phần C: QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ NỘI DUNG CÔNG
TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG GẮN VỚI NGHỊ QUYẾT TRUNG
ƯƠNG 4 KHÓA XI
Phần D: KẾT LUẬN

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân giữ vai trò
lãnh đạo toàn dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đảng là
kim chỉ nam đưa đất nước ta lên Chủ nghĩa Cộng sản, vạch ra con đường đi
đúng đắn cho tổ quốc ta. Do đó sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là
không thể thiếu đối với toàn dân tộc. Vì vậy nhóm chúng em quyết định chọn
đề tài: tư tưởng Hồ chí Minh về công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng nhằm
nâng cao hiểu biết về Đảng.
2. Khái quát sự ra đời của Đảng
Giữa lúc cách mạng Việt Nam lâm vào cuộc khủng hoảng về đường lối cứu
nước vào năm 1911 Người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (Nguyễn
Ái Quốc, Hồ Chí Minh) ra đi tìm đường cứu nước Người đã qua nhiều nơi
trên thế giới vừa lao động, vừa học tập, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm
các cuộc cách mạng và khi cuộc cách mạng tháng Mười Nga diễn ra đã ảnh
hưởng sâu sắc tới tư tưởng của Người với lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin.

Từ đó Người đã tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc.
Chủ nghĩa Mác - Lênin và các tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc được
giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như ''người đi đường
đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn''. Nó lôi cuốn những
người yêu nước Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản; làm dấy lên
cao trào đấu tranh mạnh mẽ, sôi nổi khắp cả nước, trong đó giai cấp công


nhân ngày càng trở thành một lực lượng chính trị độc lập. Sự truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin vào phong trào quần chúng và phong trào công nhân, làm
cho phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân
phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có tổ chức đảng chính trị lãnh đạo. Vì vậy,
các tổ chức cộng sản lần lượt được thành lập:
- Ngày 17-6-1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc Kỳ.
- Mùa Thu năm 1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ.
- Ngày l-l-1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung
Kỳ.
Đến ngày 3-2-1930, ba đảng đã hợp lại thành một đảng thống nhất là Đảng
Cộng sản Việt Nam. Đó là kết quả của sự chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng, chính
trị và tổ chức; của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
vào điều kiện cụ thể nước ta; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Sự ra đời của Đảng
đáp ứng nhu cầu lịch sử của đất nước ta; phù hợp với xu thế phát triển của
thời đại.
A. NỘI DUNG CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM
1. Xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận
Để đạt mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh chỉ rõ: phải dựa vào lý luận cách
mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Khi huấn luyện cho cán bộ
cách mạng từ năm 1925- 1927, Hồ Chí Minh khẳng định: "Đảng muốn vững
thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải

theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí
khôn, tàu không có bàn chỉ nam" (Hồ chí Minh: Toàn tập, t.2, tr.268); “chủ nghĩa”
ấy là chủ nghĩa Mác- Lênin như trí khôn của con người, như bàn tay chỉ nam
định hướng cho con tàu đi là nói đến vai trò cực kỳ quan trọng của lý luận ấy
trong tất cả thời kỳ cách mạng. Người viết: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là
chủ nghĩa Lê-nin” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 02, tr. 268). Với ý nghĩa đó,
theo Người, chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành "cốt", trở thành nền tảng tư


tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong bài Chủ nghĩa Lê-nin và công cuộc giải phóng các dân tộc bị áp bức
(tháng 4-1955), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Lê-nin đã để lại cho
chúng tôi một kho tàng quý báu vô ngần: học thuyết của Người về cơ sở tư
tưởng, về những nguyên tắc tổ chức, về lý luận và sách lược của đảng cách
mạng. Chủ nghĩa Lê-nin là lực lượng tư tưởng hùng mạnh chỉ đạo Đảng
chúng tôi, làm cho Đảng chúng tôi có thể trở thành hình thức tổ chức cao
nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm
của dân tộc chúng tôi” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 07, tr. 517).
Trong việc tiếp nhận và vận dụng chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí Minh lưu ý
những điểm sau đây:
Một là, việc học tập, nghiên cứu, tuyên truyền chủ nghĩa Mác- Lênin phải
luôn phù hợp với từng đối tượng.
Hai là, việc vận dụng chủ nghĩa Mác- Lênin phải luôn phù hợp với từng hoàn
cảnh. Theo Hồ Chí Minh, vận dụng chủ nghĩa Mác- Lênin phải tránh giáo
điều, đồng thời tránh việc xa rời các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa MácLênin. Điều này hoàn toàn đúng với căn dặn của C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin đối với những người cộng sản trên thế giới khi ông cho rằng, những
quan điểm của các ông chỉ là phương pháp chỉ dẫn hành động trong thực tế.
Ba là, trong quá trình hoạt động, Đảng ta phải chú ý học tập, kế thừa những
kinh nghiệm tốt của các đảng cộng sản khác, đồng thời Đảng ta phải tổng kết

kinh nghiệm của mình để bổ sung vào chủ nghĩa Mác- Lênin. Chủ nghĩa MácLênin là học thuyết nêu lên những vấn đề cơ bản nhất, trên cơ sở đó mỗi đảng
vận dụng vào hoàn cảnh, điều kiện riêng của mình. Trong quá trình vận dụng
đó, mỗi đảng lại giải quyết thành công những vấn đề mới, tổng kết thành
những vấn đề lý luận bổ sung và làm giàu thêm nội dung lý luận Mác- Lênin.
Đây là thái độ và trách nhiệm thường xuyên của Đảng ta.
Bốn là, Đảng ta phải tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của chủ
nghĩa mác- Lênin. Chú ý chống giáo điều, cơ hội, xét lại chủ nghĩa MácLênin; chống lại những luận điểm sai trái, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa
Mác- Lênin.
2. Xây dựng Đảng về chính trị


Tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng Đảng về chính trị có nhiều nội
dung, bao gồm: xây dựng đường lối chính trị, bảo vệ chính trị, xây dựng và
thực hiện nghị quyết, xây dựng và phát triển hệ tư tưởng chính trị, củng cố lập
trường chính trị, nâng cao bản lĩnh chính trị… Trong đó, theo hồ Chí Minh,
đường lối chính trị là một vấn đề cốt tử trong sự tồn tại và phát triển của
Đảng. Xây dựng đường lối chính trị trở thành một trong những vấn đề cực kỳ
quan trọng trong xây dựng Đảng ta.
Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền có vai trò định hướng phát triển cho
toàn xã hội. Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo chính trị của mình chủ yếu bằng
việc đề ra cương lĩnh, đường lối chiến lược, phương hướng phát triển kinh tếxã hội cũng như sách lược và quy định những mục tiêu phát triển của xã hội
theo hướng lâu dài cũng như của từng giai đoạn. Đảng muốn xây dựng đường
lối chính trị đúng đắn cần phải coi trọng những vấn đề: đường lối chính trị
phải dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng nó vào hoàn
cảnh cụ thể của nước ta trong từng thời kỳ; trong xây dựng đường lối chính
trị. Phải học tập kinh nghiệm của các đảng cộng sản anh em, nhưng phải tính
đến những điều kiện cụ thể của đất nước và của thời đại trong từng giai đoạn
hoặc cả thời kỳ dài: để có đường lối chính trị đúng, Đảng phải thực sự là đội
tiên phong dũng cảm, là bộ tham mưu sáng suốt của giai cấp công nhân, của
nhân dân lao động, và của cả dân tộc.

Hồ Chí Minh lưu ý cần phải giáo dục đường lối, chính sách của Đảng, thông
tin thời sự cho cán bộ, đảng viên để họ luôn luôn kiên định lập trường, giữ
vững bản lĩnh chính trị trong mọi hoàn cảnh. Đồng thời Người cũng cảnh báo
nguy cơ sai lầm về đường lối chính trị sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng đối với
vận mệnh của Tổ quốc, sính mệnh chính trị của hàng triệu đảng viên cũng
như của hàng triệu nhân dân lao động.
3. Xây dựng Đảng về tổ chức, bộ máy, công tác cán bộ
 Hệ thống tổ chức của Đảng
Hồ Chí Minh khẳng định sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ tổ chức, một tổ
chức tiên phong chiến đấu của giai cấp công nhân. Hệ thống tổ chức của
Đảng từ trung ương đến cơ sở phải chặt chẽ, có tính kỷ luật cao. Mỗi cấp độ
tổ chức có chức năng, nhiệm vụ riêng.


Trong hệ thống tổ chức Đảng. Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của chi bộ.
Bởi lẽ, đối với bản thân Đảng, chi bộ là tổ chức hạt nhân, quyết định chất
lượng lãnh đạo của Đảng; là môi trường tu dưỡng, rèn luyện và cũng là nơi
giám sát đảng viên: chi bộ có vai trò quan trọng trong việc gắn kết giữa Đảng
và quần chúng nhân dân.
 Các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng
• Tập trung dân chủ
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Đảng tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập
trung. Nghĩa là: có đảng chương thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ quan lãnh
đạo thống nhất. Cá nhân phải phục tùng đoàn thể, số ít phải phục tùng số
nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung
ương. Trong Đảng, bất kỳ cấp trên hoặc cấp dưới, đảng viên cũ hoặc đảng
viên mới, đều nhất định phải giữ kỷ luật của giai cấp vô sản” (Hồ Chí
Minh: Toàn tập, Sđd, t. 07, tr. 229). Đây là nguyên tắc rường cột, quan trọng nhất
để xây dựng Đảng chặt chẽ, vững chắc, phát huy được sức mạnh tổng hợp
Đây là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Đảng. Giữa "tập trung" và"dân chủ"

có mối quan hệ khăng khít với nhau, đó là hai vế của một nguyên tắc. Hồ Chí
Minh viết về mối quan hệ đó như sau: Tập trung trên nền tảng của dân chủ:
dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung hoặc. Người viết "Chế độ ta là chế độ dân
chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề mọi
người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền
lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người.
Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư
tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý (Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8, tr.216).
• Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
Hồ Chí Minh giải thích về tập thể lãnh đạo như sau: "Vì sao cần phải có tập
thể lãnh đạo? Vì một người dù khôn ngoan, tài giỏi mấy, dù nhiều kinh
nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt
của một vấn đề, không thể trông thấy xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề.
Vì vậy, cần phải có nhiều người, nhiều người thì nhiều kinh nghiệm. Người
thì thấy rõ mặt này, người thì trông thấy rõ mặt khác của vấn đề đó.


Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người, thì vấn đề đó được thấy rõ
khắp mọi mặt. Mà có thấy rõ khắp mọi mặt, thì vấn đề ấy mới được giải quyết
chu đáo, khỏi sai lầm” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, tr.504-505).
Về cá nhân phụ trách, Hồ Chí Minh cho rằng: "Việc ai đã được đông người
bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định rõ ràng rồi, thì cần phải giao cho một
người hoặc một nhóm người phụ trách theo kế hoạch đó mà thi hành. Như thế
mới có chuyên trách, công việc mới chạy. Nếu không có cá nhân phụ trách thì
sẽ sinh ra cái tệ người này ủy cho người kia, người kia ủy cho người nọ, kết
quả là không ai thi hành. Như thế thì việc gì cũng không xong” (Hồ Chí Minh:
Toàn tập, t.8, tr.504-505).
Thực hiện nguyên tắc này trong công tác xây dựng Đảng phải chú ý khắc
phục tệ độc đoán chuyên quyền, đồng thời phải chống lại cả tình trạng dựa
dẫm tập thể, không dám quyết đoán, không dám chịu trách nhiệm.

• Tự phê bình và phê bình
Mục đích của tự phê bình và phê bình là để làm cho phần tốt trong mỗi con
người nảy nở như hoa mùa xuân, làm cho mỗi tổ chức tốt lên, phần xấu bị mất
dần đi, tức là nói đến sự vươn tới chân, thiện, mỹ. Mục đích này được quy
định bởi tính tất yếu trong quá trình hoạt động của Đảng ta. Bởi vì, Đảng là
một thực thể của xã hội. Đảng bao gồm các tầng lớp xã hội. đội ngũ của Đảng
bao gồm những người ưu tú, những trong Đảng cũng không tránh khỏi những
khuyết điểm, không phải mọi người đều tốt, mọi việc đều hay, mỗi con người
đều có cái thiện và cái ác ở trong lòng. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh cho rằng,
thang thuốc tốt nhất là tự phê bình và phê bình. Người nói: “Một Đảng mà
giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa
nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm
đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa
chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn,
chân chính” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 05, tr. 261)
Thái độ, phương pháp tự phê bình và phê bình được Hồ Chí Minh nêu rõ ở
những điểm như: phải tiến hành thường xuyên như người ta mà mặt hằng
ngày: phải thẳng thắn, chân thành, trung thực, không nể nang, không giấu


giếm mà cũng không thêm bớt khuyết điểm; "phải có tình thương yêu lẫn
nhau".
• Kỷ luật nghiêm minh, tự giác
Sức mạnh của một tổ chức cộng sản và của mỗi đảng viên bắt nguồn từ ý thức
tổ chức kỷ luật nghiêm minh, tự giác. Tính nghiêm minh của kỹ luật Đảng đòi
hòi tất cả mọi tổ chức đảng, tất cả mọi đảng viên đều phải bình đẳng trước
Điều lệ Đảng, trước pháp luật của Nhà nước, trước mọi quyết định của Đảng.
Đồng thời Đảng ta là một tổ chức gồm những người tự nguyện phấn đấu cho
lý tưởng cộng sản chủ nghĩa cho nên tự giác là một yêu cầu bắt buộc đối với
mọi tổ chức Đảng và đảng viên. Tính nghiêm minh, tự giác đòi hỏi đảng viên

phải gương mẫu trong cuộc sống, công tác. Uy tín của Đảng bắt nguồn từ sự
gương mẫu của mỗi đảng viên trong việc tự giác tuân thủ kỷ luật của Đảng,
của Nhà nước, của đoàn thể nhân dân.
• Đoàn kết thống nhất trong Đảng
Người khẳng định: “Với sự đoàn kết nhất trí và lòng cương quyết quật
cường của Đảng, của Chính phủ và của toàn dân, chúng ta nhất định khắc
phục được mọi khó khăn để đi đến hoàn toàn thắng lợi” (Hồ Chí Minh: Toàn
tập, Sđd, t. 06, tr. 175).
Sự đoàn kết thống nhất của Đảng phải dựa trên cơ sở lý luận của Đảng là chủ
nghĩa Mác - Lênin: cương lĩnh, điều lệ Đảng; đường lối, quan điểm của Đảng;
nghị quyết của tổ chức đảng các cấp Đồng thời, muốn đoàn kết thống nhất
trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi ở trong Đảng, thường xuyên và
nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình, thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách
mạng, chống chủ nghĩa cá nhân và các biểu hiện tiêu cực khác, phải "sống với
nhau có tình, có nghĩa", có đoàn kết tốt thì mới tạo ra cơ sở vững chắc để
thống nhất ý chí và hành động, làm cho "Đảng ta tuy đông người nhưng khi
tiến đánh chỉ như là một người"
 Cán bộ, công tác cán bộ của Đảng
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ vị trí, vai trò của người cán bộ trong
sự nghiệp cách mạng. Theo Người, “Cán bộ là những người đem chính sách
của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành, đồng
thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ,


để đặt ra chính sách đúng. Vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì
vậy, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t. 05, tr. 269).
Do đó, theo Người, Đảng ta cần quan tâm tới việc xây dựng, phát hiện và sử
dụng cán bộ: “Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém.
Vì vậy, Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây

cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích
cho công việc chung của chúng ta” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 05, tr. 273).
Tuy nhiên, Người cũng yêu cầu: “Khi cất nhắc một cán bộ, cần phải xét rõ
người đó có gần gụi quần chúng, có được quần chúng tin cậy và mến phục
không. Lại phải xem người ấy xứng với công việc gì. Nếu người có tài mà
dùng không đúng tài của họ, cũng không được việc. Nếu cất nhắc không cẩn
thận, không khỏi đem người bô bô la la, chỉ nói mà không biết làm, vào
những địa vị lãnh đạo. Như thế rất có hại” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 05, tr.
274).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra tiêu chí của một người cán bộ tốt, đó là người
cán bộ đó phải vừa có đức, vừa có tài. Trong đó, đạo đức là gốc, Người viết:
“Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây
phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,
không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”
(Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 05, tr. 252 - 253).
Hồ Chí Minh đề ra một hệ thống các quan điểm về cán bộ và công tác cán bộ.
Người nhận thức rất rõ vị trí, vai trò của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng.
Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy, là mất khẩu trung gian nối liền giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân. Muốn việc thành công hay thất bại là do cán
bộ tốt hay kém. Người cán bộ phải có đủ đức và tài, phẩm chất và năng lực,
trong đó, đức, phẩm chất là gốc.
Hồ Chí Minh cho rằng, công tác cán bộ là công tác gốc của Đảng. Nội dung
của nó bao hàm các mật khẩu liên hoàn, có quan hệ chặt chẽ với nhau: tuyển
chọn cán bộ, đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ; đánh giá đúng cán bộ,
tuyển dụng, sắp xếp, bố trí cán bộ; thực hiện các chính sách đối với cán bộ.
4. Xây dựng Đảng về đạo đức


Hồ Chí Minh khẳng định: Một Đảng chân chính cách mạng phải có đạo đức.
Đạo đức tạo nên uy tín, sức mạnh của Đảng, giúp Đảng đủ tư cách lãnh đạo,

hướng dẫn quần chúng nhân dân.
“Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải
giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người
đầy tớ thật trung thành của nhân dân” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 510)
Xét về thực chất, đạo đức của Đảng ta là đạo đức mới, đạo đức cách mạng
“Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ
đại, nó không phải là vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của
Đảng, của dân tộc, của loài người” (Sđd, tập 5, tr. 252). Đạo đức đó mang bản
chất của giai cấp công nhân, cũng là đạo đức Mác – Lênin, đạo đức cộng sản
chủ nghĩa mà nội dung cốt lõi là chủ nghĩa nhân đạo chiến đấu. Vì thế, Hồ
Chí Minh chỉ rõ: Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ
phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư. Có đạo đức cách mạng trong sáng. Đảng ta mới lãnh đạo nhân
đân đấu tranh giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung
sướng. Đó là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và cũnglà tư cách số một của Đảng
cầm quyền.
Giáo dục đạo đức cách mạng là một nội dung quan trọng trong việc tu dưỡng
rèn luyện của cán bộ, đảng viên. Nó gắn chặt với cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa cá nhân dưới mọi hình thức nhằm làm cho Đảng luôn luôn thật sự trong
sạch.
Đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức, gắn đạo đức với tư cách của một Đảng
chân chính cách mạng, Hồ Chí Minh đã góp phần bổ sung, mở rộng, phát
triển quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về nội dung công tác xây dựng
Đảng phù hợp với truyền thống văn hóa, lịch sử của các nước phương Đông,
trong đó có Việt Nam.
B. QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ NỘI DUNG CÔNG TÁC XÂY
DỰNG ĐẢNG GẮN VỚI VIỆC THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT
TRUNG ƯƠNG 4 KHÓA XI
1. Tính tất yếu của công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng



 Một là, xuất phát từ vị trí, vai trò và phương thức tồn tại của Đảng
Hồ Chí Minh nêu rõ: Cách mạng trước hết phải có đảng cách mệnh, để
trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị
áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành
công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Sự lãnh đạo của
Đảng là tất yếu và có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Vai trò lãnh đạo của Đảng, yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng
đối với Đảng đặt ra yêu cầu phải xây dựng, chỉnh đốn Đảng, vừa để bảo
đảm giữ vững vai trò lãnh đạo, vừa giúp cho việc thực hiện vai trò đó một
cách hiệu quả nhất. Không xây dựng và chỉnh đốn Đảng, đồng nghĩa với
việc Đảng từ bỏ vai trò lãnh đạo của mình. Khi ấy Đảng cũng không tồn
tại được. Còn Đảng, còn hoạt động, còn phải thường xuyên xây dựng và
chỉnh đốn, để Đảng vững mạnh.
 Hai là, xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp cách mạng
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy, cách mạng luôn chuyển biến theo hướng
đặt ra yêu cầu và nội dung ngày càng cao, nhiệm vụ ngày càng nặng nề,
phức tạp, quy mô ngày càng rộng, phạm vi tác động ngày càng sâu sắc.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là để Đảng không bị tụt hậu trước những
chuyển biến đó, trái lại, còn “bồi bổ” thêm phẩm chất và năng lực để Đảng
xứng tầm, thậm chí chủ động trước thời cuộc. Vai trò lãnh đạo của Đảng
vì thế được giữ vững. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng còn là nhu cầu tự hoàn
thiện của cán bộ, đảng viên, giúp cho Đảng tránh được “cái chết” từ bên
trong, bởi cán bộ là vốn quý của Đảng. Xây dựng và chỉnh đốn giúp cho
Đảng củng cố và phát triển đội ngũ, tránh được việc cán bộ bị suy thoái,
biến chất, góp phần làm cho Đảng mạnh hơn.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng không chỉ là nhiệm vụ mà còn là nghĩa cử
thiêng liêng của những người đi sau đối với thế hệ trước. Bởi máu đào của
các liệt sĩ, các thế hệ đi trước đã làm cho lá cờ Đảng thêm đỏ chói, sự hy

sinh anh dũng của họ đã chuẩn bị cho đất nước đơm hoa kết trái, nở hoa
độc lập, tự do.
 Ba là, xuất phát từ yêu cầu về văn hóa, đạo đức đối với Đảng và sự
nghiệp cách mạng


Chủ tịch Hồ Chí Minh xem văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
Đảng, của sự nghiệp cách mạng. Vai trò động lực của văn hóa thể hiện qua
các chức năng: Chức năng định hướng, lãnh đạo “văn hóa soi đường cho
quốc dân đi… phải đem văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập,
tự cường, tự chủ”; chức năng cải tạo “văn hóa có tác dụng sửa đổi tham
nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, sửa xã hội cũ, xây xã hội mới”. Con
người là chủ thể của cách mạng. Xây dựng Đảng là xây dựng con người
hợp thành Đảng. Xây dựng con người hợp thành Đảng không có gì khác
hơn là xây dựng văn hóa ở tầm cao - văn hóa Đảng.
Trong các thành tố hợp thành văn hóa, thì đạo đức đóng vai trò quan trọng.
Hồ Chí Minh coi đạo đức là gốc, là nền tảng của người cán bộ cách mạng.
Đạo đức cách mạng giúp người cán bộ khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại
cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước; gặp thuận lợi, thành công cũng vẫn giữ
vững tinh thần, khiêm tốn; lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ; không kèn
cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, không kiêu
ngạo, không hủ hóa. Đạo đức cách mạng là gốc của Đảng cách mạng. Gốc
có vững bền, nền mới chắc. Không có đạo đức cách mạng, Đảng không có
sức mạnh, không hoàn thành được sứ mệnh lịch sử trước giai cấp và dân
tộc.
Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta thường xuyên xây dựng,
chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nhờ đó đưa cách mạng
Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Cũng với tinh thần ấy, trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, Hội
nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ra Nghị

quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, nhằm khắc
phục những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, vạch ra tư
tưởng chiến lược của công tác xây dựng Đảng trong tình hình mới, cũng
như đề ra nhiều biện pháp để khắc phục những khuyết điểm, yếu kém,
nhằm nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng, đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp cách mạng.
2. Nội dung cơ bản của Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI


Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI)
"Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" được ban hành ngày
16/1/2012 do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành.
Nghị quyết Trung ương 4 với tiêu đề ""Một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay" chỉ tập trung vào ba vấn đề thực sự cấp bách, cần làm ngay,
đó là:
 Ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ
lãnh đạo, quản lý các cấp;
 Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là ở cấp Trung ương,
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội
nhập quốc tế;
 Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân người đứng đầu cấp ủy,
chính quyền và mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị.
Ba vấn đề này có mối quan hệ biện chứng với nhau, nhưng vấn đề thứ nhất là
cốt lõi, xuyên suốt và cấp bách nhất.
Nghị quyết TW 4 có viết "một bộ phận không nhỏ" đảng viên hư hỏng, thoái
hóa, biến chất. Cụ thể: "trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản
lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ
nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa

địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc..."
Ông Trương Tấn Sang phát biểu: "Dứt khoát phải tiến hành thành công. Ðó
là mệnh lệnh của nhân dân. Không thể để Nghị quyết Trung ương 4 không
thành công, là phụ lòng tin của dân, của Ðảng, là không vì lợi ích của nhân
dân, của Tổ quốc. Chúng ta không có con đường nào khác, chỉ có một lựa
chọn duy nhất là phải thành công. Cho dù phải chấp nhận những biện pháp
đau đớn cũng phải làm, vì đó là sự sống còn của Ðảng, của chế độ và tương
lai tươi sáng của đất nước này”
Bốn nhóm giải pháp thực hiện:
 Nhóm giải pháp về tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong
gương mẫu của cấp trên


 Nhóm giải pháp về tổ chức, cán bộ và sinh hoạt đảng
 Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách
 Nhóm giải pháp về công tác giáo dục chính trị tư tưởng.
3. Những tồn tồn tại trong công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng theo tinh
thần nghị quyết Trung ương 4 khóa XI
Đại hội XII của Đảng nhận định, bên cạnh những kết quả đạt được, trong thực
hiện Nghị quyết Trung ương 4 “một số việc chưa đạt mục tiêu Nghị quyết đề
ra” và còn có “một số hạn chế, khuyết điểm”. Cụ thể là:
 Thứ nhất, một số nội dung Nghị quyết đề ra nhưng chưa thực hiện một
số quy định, quy chế cần ban hành theo Kế hoạch số 08-KH/TW của
Bộ Chính trị về thực hiện Nghị quyết nhưng vẫn chưa được ban hành,
như: Quy chế dân chủ trong Đảng; Quy chế thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình trong Đảng; Quy định
thẩm quyền và trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng,
cơ quan, đơn vị trong công tác cán bộ; quy định về xử lý trách nhiệm cá
nhân người đứng đầu trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được
giao;...Một số nội dung về công tác cán bộ nêu trong Nghị quyết,

nhưng chưa thực hiện được. Như công tác đánh giá cán bộ, việc xây
dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ và tiêu chí đánh giá theo chức danh
cán bộ. Việc xây dựng cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng
người tài để tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ,
nhất là cán bộ tham mưu, chuyên gia cấp chiến lược. Việc thực hiện
chủ trương bố trí một số chức danh cán bộ chủ chốt cấp tỉnh, cấp huyện
không phải người địa phương. Cải cách chế độ tiền lương, nhà ở, chống
bình quân, cào bằng, đồng thời chống đặc quyền, đặc lợi; chủ động
thay thế những cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ, tín nhiệm thấp
không chờ đến hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác….
 Thứ hai, trong kiểm điểm tự phê bình và phê bình tình trạng nể nang,
né tránh, ngại va chạm còn khá phổ biến ở các cấp; còn có biểu hiện
chủ quan, làm lướt. Trên một số vấn đề, qua kiểm điểm từ Trung ương
đến cơ sở vẫn chưa làm rõ được thực chất, mức độ nghiêm trọng của
tình hình; chưa chỉ ra được địa chỉ cụ thể và trách nhiệm của tập thể, cá


nhân, như: tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống;
tình trạng chạy chức, chạy tuổi, chạy bằng cấp, chạy luân chuyển,…
Sau kiểm điểm, một số cấp ủy, tổ chức đảng vẫn chậm xây dựng kế
hoạch sửa chữa, khắc phục khuyết điểm hoặc xây dựng kế hoạch còn
chung chung, chưa gắn việc khắc phục hạn chế, khuyết điểm của tập
thể với các cá nhân. Việc chỉ đạo sửa chữa, khắc phục khuyết điểm ở
một số nơi chưa đồng bộ, thiếu kiên quyết; việc xem xét, xử lý đối với
một số trường hợp vi phạm chưa kịp thời, nghiêm minh. Một số vụ việc
gây bức xúc trong Đảng và trong xã hội, nhưng việc xử lý, giải quyết
còn chậm so với yêu cầu.
 Thứ ba, việc thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí vẫn chưa
đạt yêu cầu, chưa có những giải pháp mạnh mẽ, toàn diện, quyết liệt,
nên hiệu quả chưa cao. Việc tự phát hiện tham nhũng, lãng phí của các

địa phương, cơ quan, đơn vị còn rất hạn chế; cá biệt có trường hợp còn
bao che cho đối tượng sai phạm; một số trường hợp vi phạm xử lý chưa
nghiêm, thiếu tính giáo dục, răn đe. Tình trạng tham nhũng, lãng phí
vẫn còn nghiêm trọng với những biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp,
gây bức xúc trong dư luận. Việc thu hồi, xử lý tài sản tham nhũng còn
rất ít, chưa đạt yêu cầu.
 Thứ tư, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống và
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên vẫn đang tồn tại, chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn
diễn biến dưới những hình thức mới, tinh vi, phức tạp hơn. Một số ít
cán bộ, đảng viên bị các phần tử xấu lợi dụng lôi kéo, kích động, xúi
giục, mua chuộc đã có tư tưởng, hành động, việc làm chống đối Đảng,
Nhà nước.
 Thứ năm, việc kê khai tài sản, công khai tài sản, thu nhập của cán bộ
còn hình thức và không đúng thực chất. Kết quả kiểm soát, xác minh
việc kê khai và công khai tài sản, thu nhập còn rất hạn chế, chưa phát
hiện và xử lý được nhiều trường hợp vi phạm trong việc kê khai tài sản,
thu nhập (Năm 2012 có 113.436 người kê khai, phát hiện 3 người kê
khai không trung thực; năm 2013, có gần 1 triệu người kê khai, chỉ phát
hiện 5 người kê khai không trung thực).


 Thứ sáu, chất lượng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
lãnh đạo, quản lý còn bất cập, chưa kết hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa
nguồn cán bộ quy hoạch của các bộ, ngành Trung ương với các địa
phương. Công tác đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu nhất qua nhiều
nhiệm kỳ nhưng chưa có giải pháp cụ thể để khắc phục; tình trạng nể
nang, né tránh trách nhiệm hoặc ngại va chạm trong đánh giá cán bộ
vẫn còn khá phổ biến.
 Thứ bảy, việc sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế chưa có

chuyển biến rõ; tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức
trong hệ thống chính trị còn cồng kềnh, chưa hợp lý; bộ máy và biên
chế của nhiều cơ quan, đơn vị chưa tinh gọn; chức năng, nhiệm vụ, mối
quan hệ công tác còn chồng chéo, trách nhiệm cá nhân không rõ; việc
thi tuyển cán bộ, công chức còn hình thức, chất lượng thấp, thậm chí
còn xảy ra tiêu cực.
4. Một số giải pháp nhằm làm tốt công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng
hiện nay
Đất nước ta đang đứng trước thời cơ lớn và thách thức lớn của sự phát triển.
Để lãnh đạo đất nước trong điều kiện mới, Đảng phải tiếp tục tự đổi mới, tự
chỉnh đốn, nâng cao được năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, nắm bắt thời
cơ, chấp nhận và vượt qua thách thức, nguy cơ, nâng cao tầm trí tuệ. Mỗi cán
bộ, đảng viên, mỗi tổ chức đảng, cấp ủy đảng phải quán triệt tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng Đảng, chung tay xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch,
vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh”.
Với nhận thức chung đó, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh trong công tác xây dựng Đảng hiện nay cần tập trung vào những nội
dung, công việc chính sau đây.
1. Nâng cao phẩm chất trí tuệ của Đảng, xây dựng, hoàn thiện đường lối đổi
mới, đề ra các chủ trương, giải pháp phù hợp cho giai đoạn phát triển mới
Muốn đề ra đường lối, chủ trương, quyết sách phù hợp, Đảng phải nâng cao
tầm trí tuệ, nắm chắc yêu cầu thực tiễn, tình hình trong nước và quốc tế để
tiếp tục hoàn thiện đường lối đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.


Trong hoạch định đường lối phải tránh bảo thủ, trì trệ, đồng thời phải tránh
hấp tấp, vội vàng, làm tốt công tác dự báo, chú ý đến những vấn đề mới nảy
sinh để kịp thời nghiên cứu, tổng kết, bổ sung, phát triển cương lĩnh, đường
lối, chủ trương của Đảng.

Việc xây dựng, hoàn thiện đường lối đổi mới phải quán triệt tư tưởng Hồ
Chí Minh “Đảng… phải có chủ nghĩa làm cốt”. Đảng phải kiên định nền tảng
tư tưởng là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm kim
chỉ nam cho hành động, cơ sở quy tụ, xây dựng và phát huy sức mạnh đoàn
kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân tộc.
2. Quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, thực sự coi xây đựng Đảng lả
nhiệm vụ then chốt ở tất cả các cấp, các ngành
– Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, sự suy yếu thoái hóa, biến chất của tổ
chức Đảng, làm cho vai trò cầm quyền của Đảng bị suy giảm, dẫn đến mất ổn
định chính trị – xã hội là một nguy cơ lớn. Chăm lo xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh là điều kiện tối cần thiết và là điều kiện tiên quyết để giữ
vững ổn định chính trị – xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
– Toàn Đảng phải quán triệt đầy đủ quan điểm xây dựng Đảng là nhiệm vụ
then chốt. Tính chất then chốt của nhiệm vụ xây dựng Đảng thể hiện trong các
điểm sau:
Một là, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn, thu hút và phát huy tiềm năng trí tuệ của toàn dân tộc.
Hai là, cần đặc biệt coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong
điều kiện cơ chế kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay, xây dựng đội
ngũ cán bộ, đảng viên có đủ đức và tài, đầy tinh thần trách nhiệm trước Đảng,
trước dân tộc, năng động, dám nghĩ dám làm,… không chỉ là sự quan tâm,
phát huy nhân tố con người trong Đảng, mà còn để phát huy sức mạnh của
toàn dán tộc, vấn đề có ý nghĩa quyết định đến thành bại của cả sự nghiệp
cách mạng.
Ba là, kiên quyết đấu tranh, khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các tiêu cực
khác ở trong Đảng và ngoài xã hội. Những tiêu cực trong xã hội đã xâm nhập



vào cơ thể Đảng, vào bộ máy Nhà nước, thách thức nghiêm trọng uy tín của
Đảng, Nhà nước trong nhân dân, ảnh hưởng đến việc cầm quyền của Đảng, sự
tồn vong của chế độ và con đường phát triển của đất nước. Do vậy, toàn Đảng
và mỗi tổ chức Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên cần có nhận thức đúng đắn tư
tưởng, tấm gương Hồ Chí Minh về nhiệm vụ xây dựng Đảng, để tham gia đấu
tranh khắc phục tình trạng trên, xây dựng Đảng ta thực sự “là đạo đức, là văn
minh”.
3. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
– Phương thức lãnh đạo của Đảng có vai trò quan trọng để đưa đường lối, chủ
trương của Đảng vào thực tiễn cuộc sống. Đó cũng chính là yêu cầu mà Chủ
tịch
Hồ Chí Minh đã đề ra trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc.
– Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh trước
hết và đặt trọng tâm đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước. Đường lối xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam xác định Hiến pháp và pháp luật là quyền lực tối thượng, điều chỉnh mọi
quan hệ xã hội. Trong điều kiện đó, việc đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước có vai trò rất quan trọng, thể hiện năng lực cầm quyền
của Đảng.
– Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng hiện nay phải tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị –
xã hội. Ngày nay, vai trò của các tổ chức chính trị – xã hội ngày càng mở
rộng. Đảng tiếp thu những ý kiến của các tổ chức đoàn thể để bổ sung, phát
triển, điều chỉnh đường lối, chủ trương; để đổi mới phương thức lãnh đạo đối
với hệ thống chính trị và toàn xã hội.
4. Giải quyết tốt mối quan hệ với dân
– Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ trương tập hợp tất thảy những người yêu
nước vào sự nghiệp cách mạng, xây dựng mối quan hệ máu thịt giữa Đảng
với dân có ý nghĩa lớn về lý luận và thực tiễn trong công tác xây dựng Đảng,
cần được quán triệt và tổ chức thực hiện tốt ở tất cả các cấp, các ngành.

– Giải quyết mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân hiện nay đang
trở thành vấn đề cấp thiết, là bài học lớn rút ra từ hơn 20 năm đổi mới. Sự


phản ứng, đôi khi gay gắt của nhân dân ở một số nơi đối với đội ngũ cán bộ,
đảng viên, chính quyền các cấp, rõ nhất là cấp cơ sở; các “điểm nóng” liên
quan đến nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề nhà, đất, quyền dân chủ, dân sinh,
… liên tiếp xuất hiện ở nhiều địa phương đã phản ánh sự không bình thường
trong mối quan hệ máu thịt này.
– Trong thời gian qua Đảng và Nhà nước đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy
định, quy chế,… để giải quyết mối quan hệ này, nhưng nói chung hiệu quả
vẫn còn rất thấp. Điều đó phản ánh sự cố gắng, quyết tâm chính trị nhưng vấn
đề cơ bản hiện nay là tổ chức thực hiện tích cực, kiên quyết, đồng bộ, có hiệu
quả ở các cấp, các ngành. Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, của mỗi tổ chức
đảng, mỗi cán bộ, đảng viên của. Đảng, trước hết là các cấp ủy đảng.
– Để giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng với dân, điều quan trọng là mọi
hoạt động của tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể phải thực sự lấy dân làm
gốc.
5. Tổ chức tốt đại hội đảng bộ các cấp theo quy định của Điều lệ Đảng
– Nâng cao tinh thần phê bình và tự phê bình, đánh giá đúng mức ưu điểm,
khuyết điểm, kết quả lãnh đạo của cấp ủy và đảng bộ trong thực hiện nhiệm
vụ chính trị; chỉ rõ nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan, của những
yếu kém, khuyết điểm và đề ra những biện pháp khắc phục.
Vận dụng tốt tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh” trong tổ chức đại hội đảng
các cấp tiến tới Đại hội XI có ý nghĩa rất thiết thực trong công tác xây dựng
Đảng, trong thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh” hiện nay; đáp ứng được yêu cầu thang của công cuộc đổi
mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; sự mong đợi của đông đảo cán
bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân.

KẾT LUẬN
Đảng Cộng sản Việt Nam là một đảng của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và toàn thể dân tộc Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và là kim chỉ nam trong hành động. Vì
vậy để Đảng thật sự trong sạch và vững mạnh thì chúng ta cần làm tốt công
tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Loại bỏ những con sâu mọt- kẻ thù nguy


hiểm đang âm ỉ tấn công phá hoại làm hạn chế sự phát triển của đất nước
trong thời kì mới hội nhập và phát triển. Tích cực đấu tranh với các tư tưởng
bè cánh, che giấu từ trong nội bộ đơn vị, cơ quan để phát hiệ xử lý các đối
tượng có hành vi, hành động làm ảnh hưởng đến sự trong sạch và vững mạnh
của Đảng. Với đề tài “ Quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung công tác xây
dựng Đảng, vận dụng vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần
Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI hiện nay” đã giúp chúng em nâng cao nhận
thức về vấn đề này. Đồng thời cũng làm cho em hiểu thêm phần nào bản chất
và mục tiêu của Đảng và đề ra những phương hướng hành động mới phù hợp
với tình hình mới. Tuy nhiên đây là một đề tài lớn mà khả năng nhận thức của
chúng em còn nhiều hạn chế nên không thể không tránh khỏi những sai sót vì
vậy mong thầy, cô chỉ bảo thêm cho chúng em để chúng em hoàn thành tốt
bài tập lớn này. Chúng em xin chân thành cảm ơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
 Giáo trình “Tư tưởng Hồ Chí Minh”, NXB Chính trị Quốc gia, Bộ Giáo
dục và Đào tạo.
 Tài liệu hướng dẫn sinh viên tự học môn “Tư tưởng Hồ Chí Minh”,
Khoa Lý luận Chính trị Học viện Ngân hàng.
 Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia.
Nguồn tài liệu tham khảo:








×