Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Đề cương cao học môn chính sách công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.85 KB, 30 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN THI CAO HỌC
Môn: Chính sách công
VĐ 1: Khái niệm, các loại và phạm vi bản chất và lịch sử của
CSC?
Hiện nay trên thế giới các cuộc tranh luận về định nghĩa CSC vẫn còn
là một chủ đề sôi động và kháo đạt được sự nhất trí rộng rãi. Có thể dẫn
chứng một định nghĩa gần đây nhất của một học giả đã được chấp nhận
tương đối rộng rãi trên thế giới, Wiliam Jenkin “ CSC là một tập hợp các
quyết định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm nhà
chính trị gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt
được các mục tiêu đó”
Tuy nhiên đối với Việt Nam nhiều học giả trong nước đã tổng kết phân
tích một cách cụ thể để chỉ rõ rằng CSC chính là kết quả của các quyết định
của chính phủ các quyết định này nhằm duy trì tình trạng của xã hội hoặc
giải quyết các VĐ xã hội trong đó là VĐ kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội
theo mục tiêu tổng quát của Đảng đã vạch ra từ trước. Như vậy, có thể nói
trong trường hợp của Việt Nam có thể định nghĩa CSC như sau:
1. khái niệm CSC của nước ta hiện nay:
CSC là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của nhà nước
nhằm lựa chon mục tiêu cụ thể và các giải pháp, công cụ thực hiện giải
quyết các VĐ của xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định.
Như vậy có thể thấy:
Thứ nhất, chủ thể ban hành CSC là nhà nước, phản ánh mối quan hệ
NN – XH – CD đây là CS của nhà nước và được hiểu là CS của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước bao gồm Quốc hội, các Bộ,
chính quyền địa phương các cấp. Ở nước ta Đảng cộng sản là lực lượng


chính trị duy nhất lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo XH “điều 4 Hiến pháp”
Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội thông qua việc vạch ra các cương lĩnh,
chiến lược các định hướng CS đây là căn cứ chỉ đạo để nhà nước ban hành


các CSC. Như vậy CSC là CS của nhà nước và CS này cụ thể hóa đường lối,
chiến lược của đảng nhằm phục vụ lợi ích cho nhân dân.
Thứ hai, CSC phản ánh và thể hiện hoạt động cũng như quản lý đối
với khu vực công phản ánh việc đảm bảo hàng hóa, dịch vụ công cộng.
Thứ ba, là một công cụ quản lý của nhà nước được nhà nước sử dụng
để: (i) Khuyến khích khai thác, SX đảm bảo hàng hóa dịch vụ công, khuyến
khích cả với khu vực công và khu vực tư; (ii) Quản lý nguồn lực công một
cách hiệu quả, hiệu lực, thiết thực đối với cả kinh tế, chính trị, xã hội, môi
trường cả trong ngắn hạn lẫn dài hạn.
2. Bản chất của CSC
Thực tế chúng ta thấy rằng các CSC có thể được đề ra và thực hiện ở
những tầng nấc khác nhau: CS của liên hợp quốc, CS của một đảng, CS của
chính phủ, CS của chính quyền địa phương, CS của một bộ, Cs của một tổ
chức đoàn thể, hiệp hội, Cs của một doanh nghiệp, Những CSC do các cơ
quan hay các cấp chính quyền ban hành nhằm giải quyết những VĐ có tính
cộng đồng được gọi là CSC nghiên cứu CSC nhằm nâng cao hiệu lực và
hiệu quả quản lý của nhà nước do chủ thể ban hành CSC là nhà nước nên có
thể coi CSC là CS của nhà nước.
CSC không phải là CS của Đảng, vị trí lãnh đạo của đảng là lực lượng
chính trị duy nhất lãnh đạo nhà nước lãnh đạo xã hội mà thôi bản chất không
phải là CS của đảng. Đảng chỉ vạch ra cương lĩnh, chiến lược, các định
hướng mục tiêu CS đó chính là những căn cứ chỉ đạo để nhà nước ban hành
các CSC cụ thể hóa đường lối chiến lược và các định hướng CS của Đảng
cộng sản Việt Nam nhằm phục vụ lợi ích của toàn thể nhân dân nói chung.


Nhà nước là chủ thể đại diện cho quyền lực của nhân dân ban hành
CSC để mưu cầu lợi ích cho xã hội. CSC là do chính phủ đề xuất xây dựng
và ban hành, bản chất của CSC là công cụ định hướng của nhà nước và công
dân cho mọi hành vi XH với các quy trình phát triển. Sự hiện diện của CSC

trong đời sống xã hội rõ ràng CSC là công cụ quản lý có liên quan mật thiết
đến sự vận động có định hướng của cả hệ thống. CSC có thể củng cố mối
quan hệ và niềm tin của nhân dân với NN và thống nhất nguyện vọng của
các tầng lớp nhân dân với ý chí quản lý của nhà nước thể hiện qua quá trình
hình thành mục tiêu CS. Bản chất của CSC là chính trị của đảng cầm quyền
thiết lập mối quan hệ giữa người dân với nhà nước. CSC tác động đến các
mối quan hệ xã hội một cách toàn diện hơn so với pháp luật. cụ thể là tác
động mang tính cộng đồng, là tác động có mục tiêu mang tính hệ thống liên
tục, ổn định và phù hợp với quan điểm chính trị của nhà hoạch định CS.
Vì vậy CS là công cụ thể hiện thái độ chính trị của đảng cầm quyền,
thông qua Cs Đảng cầm quyền dẫn dắt các quan hệ trong xã hội diễn ra theo
định hướng, các cá nhân trong xã hội là những đối tượng trực tiếp tiếp nhận
và thực hiện CS. Vì vậy CS chỉ có hiệu lực thực sự khi các cá nhân trong xã
hội chịu tiếp nhận và thực hiện và để đạt được điều đó thì điều kiện tối thiểu
là CSC cần minh bạch dễ hiểu và ổn định kèm theo đó vai trò chủ thể để
thực hiện CSC phải là của công chúng mặc dù người khởi xướng hành động
là nhà nước.
Ví dụ: như CS giáo dục nhà nước ta tuân theo Hiến pháp” Giáo dục và
đào tạo là quốc sách hàng đầu xây dựng hệ thống pháp luật và các CS pháp
luật các chương trình dự án các biện pháp mô hình kinh nghiệm của nhà
nước phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí đào tạo nhân lực bồi dưỡng
nhân tài, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của
công dân đào tạo những người lành nghề năng động, sáng tạo, có niềm tự


hào dân tộc, có đạo đức có ý chý vươn lên góp phần làm cho dân giàu nước
mạnh đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
CSC định hướng những hành động do chủ thể CS lựa chọn để giải
quyết những VĐ phát sinh trong thực tế cho phù hợp với ĐK, hoàn cảnh ở
mỗi giai đoạn. từ góc độ quản lý của nhà nước. CS là những cách thức tác

động của nhà nước vào các lĩnh vực của đời sống xã hội để đạt dược nhiều
định hướng.CSC có tác động toàn diện đến VĐ KTXH, đặc biệt CS điều
chỉnh động cơ tạo động lực cho hành vi hoạt động của các cá nhân và từng
đối tượng cụ thể. CS có vai trò định hướng cho các hoạt động KTXH
khuyến khích các hoạt động KTXH theo dịnh hướng Phát huy những mặt tốt
của nền kinh tế thị trường và hạn chế những mặt tiêu cực của nó; tạo lập sự
cân đối trong phát triển kiểm soát và phân phối các nguồn lực cho quá trình
phát triển; tạo lập môi trường thích hợp cho các hoạt động KTXH giúp cho
các thực thể vận động phát triển theo đúng quy luật; phối hợp hoạt động
giữa các cấp độ, các bộ phận để tạo nên tính thống nhất chặt chẽ trong quá
trình vận động của thực thể.
Tóm lại bản chất của CSC đó là: Là mối quan hệ nhà nước – công
dân không phải CS của đảng. bản chất CSC là chính trị, là thái độ của đảng
cẩm quyền quyết định mQH trên như thế nào. CSC định hướng, điều chỉnh
hành vi công chúng.
VĐ 2: Vai trò, mục đích và quy trình xây dựng CSC
1. Vai trò của CSC
- Vai trò nhà nước trong nền kinh tế thị trường: Nhà Nước làm nhiệm
vụ định hướng phát triển cho XH tạo một sân chơi công bằng, và khuyến
khích các lực lượng, các thành phần kinh tế cùng với nhà nước sử dụng phân
bổ các nguồn lực vào các hướng phát triển toàn diện, hợp lý, vai trò nhà
nước trước hết là chính phủ là chủ đạo trong việc xây dựng CSC. Phát huy


vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay chính là góp phần bảo đảm công bằng xã hội, vì sự
phát triển dân chủ văn minh của đất nước song vẫn giữ được bản sắc chính
trị - xã hội của dân tộc.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một
trong những VĐ căn bản của triết lý phát triển ở Việt Nam hiện nay. Tại đại

hội 10, Đảng ta nhấn mạnh sự cần thiết phải Bảo đảm vai trò quản lý, điều
tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền XHCN, NN có cơ chế, CS để đảm
bảo sự ưu tiên đó thể hiện ở ba lĩnh vực kinh tế cơ bản sau:
Trên lĩnh vực sở hữu: sự tồn tại của ba chế độ sở hữu ( sở hữu toàn dân,
sở hữu tập thể, sở hữu tưu nhân) là một đòi hỏi khách quan của nền KTTT ở
VN hiện nay.
Trên lĩnh vực quản lý: NN xây dựng CSC tạo điều kiện thuận lợi cho
người lao động trực tiếp hay thông qua các khâu trung gian nhất định tham
gia quá trình hoạch định, tổ chức giám sát, kiểm tra việc thực hiện các kế
hoạch phát triển của doanh nghiệp.
Trên lĩnh vực phân phối: NN vừa thông qua hệ thống CSC về kinh tế qua
hoạch định vừa sử dụng các nguồn lực trực tiếp là bộ phận kinh tế nhà nước
để định hướng, can thiệp vào lĩnh vực phân phối và phân phối lại theo hướng
ưu tiên phân phối theo lao động và qua phúc lợi xã hội kết hợp tăng trưởng
kinh tế với thực hiện công bằng xã hội, hoạch định các CS xóa đói, giảm
nghèo, đền ơn đáp nghĩa..
NN có vai trò to lớn trong việc bảo đảm sự ổn định vĩ mô cho phát triển
và tăng trưởng kinh tế “ ổn định” ở đây thể hiện sự cân đối, hài hòa, các
quan hệ nhu cầu, lợi ích giữu người với người tạo ra sự đồng thuận xã hội
trong hành động vì mục tiêu phát triển của đất nước. Tính đúng đắn hợp lý
và kịp thời của việc hoạch định và năng lực tổ chức thực hiện các CSC về


phát triển vĩ mô do nhà nước đảm nhiệm là điều kiện tiên quyết nhất hình
thành sự đồng thuận đó. Là những công cụ tạo ra sự đồng thuận XH từ đó
mà có ổn định XH cho phát triển và tăng trưởng kinh tế các CS, pl của nhà
nước một mặt phải phản ánh đúng những nhu cầu chung của xã hội, của mọi
chủ thể kinh tế mặt khác phải tôn trọng tính đa dạng về nhu cầu lợi ích cụ
thể của các chủ thể đó.
NN ta cũng có vai trò quan to lớn trong việc bảo đảm gia tăng phúc lợi

XH. bởi mục tiêu căn bản của nền KTTT định hướng XHCN ở VIệt Nam là
góp phần thực hiện “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
Có CSC về XH hợp lý; bảo đảm phúc lợi ngày một gia tăng nhờ hiệu quả tác
động của CSC về sự tiến bộ do nhà nước hoạch định và tổ chức thực hiện
bằng những nỗ lực của nhiều chủ thể kinh tế khác nhau là nhân tố có vai trò
quyết định việc gia tăng phúc lợi.
Công bằng Xh là một động lực của sự phát triển Xh nói chung của sự
phát triển và tăng trưởng kinh tế bền vững nói riêng. Một trong những mục
tiêu của quá trình phát triển nền KTTT định hướng XHCN mà NN hướng tới
là xóa bỏ tình trạng mất công bằng xã hội. đây là một nhiệm vụ lâu dài mà
trong đó CSC đóng vai trò chủ đạo mang lại công bằng xã hội. Xây dựng mô
hình kinh tế cho phép giải phóng con người; ngăn chặn các xu hướng phát
triển kinh tế không có lợi cho quảng đại người lao động. Đê thực hiện các
mục tiêu đó điều quan trọng nhất là NN có được CSC hiệu quả cụ thể là tạo
lập khuôn khổ qua CS. Pháp luật cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra
hiệu quả. Chỉ duy nhất nhà nước có được chức năng này. Năng lực điều
hành kinh tế bằng CS pháp luật là một thước đo đánh giá sự trưởng thành và
vai trò của nhà nước trong kinh tế.
Vai trò của nhà nước đối với sự phát triển KTTT định hướng XHCN thể
hiện ở việc nhà nước xây dựng CSC tốt góp phần đắc lực vào việc tạo môi


trường cho thị trường phát triển; như tạo lập kết cấu hạ tầng kinh tế cho sản
xuất, lưu thông hàng hóa, tạo lập sự phân công lao động theo ngành nghề,
vùng kinh tế qua việc NN tiến hành quy hoạch phát triển kinh tế theo lợi thế
từng vùng, nghành và nhu cầu chung của Xh.
Bên cạnh đó, NN còn có vai trò khuyến khích phát triển qua việc hoạch
định CSC. Qua việc hoạch định CSC nhà nước chủ động dùng nguồn lực của
quốc gia để khuyến khích. Tạo lực đầy cho việc phát triển theo định hướng
mà NN cho là đúng(XHCN). CSC còn đóng vai trò thúc đẩy tham gia hội

nhập quốc tế. Nn có vai trò kiểm soát và phân phối nguồn lực: CSC về hỗ
trợ đặc biệt những hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn, CSC về khoa học
công nghệ, khuyến khích cán bộ khoa học đến công tác ở vùng sâu, vùng xa.
Thông qua CSC NN tạo lập môi trường thích hợp cho các hoạt động KTXH.
CSC nhằm phát triển nền kinh tế nhiều thành phần các thành phần KT cùng
phát triển, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. CSC đóng góp cho cải thiện
môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút vốn đầu tư. Trong xu thế toàn cầu
hóa hiện nay, sự giao lưu kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế của mọi quốc gia
chỉ có hiệu quả cao khi có sự hỗ trợ từ phía nhà nước sẽ giúp cho hội nhập
kinh tế thuận lợi hơn bằng CSC thúc đẩy hội nhập đúng đắn và năng lực tổ
chức thực hiện có hiệu quả CS về tăng cường hội nhập, NN góp phần chủ
động dùng các nguồn lực quốc gia tác động tích cực vào quá trình phát triển.
Thông qua CSC, NN còn đóng vai trò kiềm chế hạn chế các mặt tiêu cực
trong đời sống KTXH như chống độc quyền, bảo hộ sản xuất trong nước,
chống gian lận thương mại chống tệ nạn Xh, NN chủ động tạo lập các cân
đối trong phát triển: CSC về khuyến khích đầu tư ở vùng sâu, vùng xa, vùng
kém phát triển, CSC về cân đối cán cân thương mại, CS điều chỉnh tốc độ
tăng dân số để cân đối với tốc độ tăng trưởng kinh tế.


Thông qua CSC, NN cần có vai trò điều chỉnh bằng cách dùng quyền lực
NN để răn đe, ngăn chặn, cưỡng chế phòng ngừa các hiện tượng có thể ảnh
hưởng xấu đến lợi ích công cộng duy trì trật tự an toàn xã hội, an ninh quốc
gia bảo đảm quyền và nghĩa vụ của công dân; duy trì sự công bằng về quyền
lợi giữa các công dân và nhóm công dân và giữa các thành phần kinh tế.
Thông qua CSC, NN đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển khu vực
tư nhân năng động với năng suất lao động ngày một cao trong bối cảnh toàn
cầu hóa mở rộng thị trường, tiếp thu khoa học công nghệ , quản lý, Vốn làm
cho CSC có vai trò thúc đẩy sự phát triển này đem lại lợi ích cho khu vực tư
nhân và xã hội. Bằng CSC về các VĐ XH, NN có vai trò điều tiết phối hợp

hoạt động trong đó NN phải đảm bảo công bằng xã hội thông qua các CS
phân phối ( phân phối thu nhập, phân phối cho người nghèo) nhằm điều tiết
sự mất cân bằng, phân hóa giàu nghèo, bất công của xã hội.
Nhấn mạnh vai trò của NN trong việc định hướng sự phát triển của nền
KTTT ở nước ta là nhấn mạnh vai trò hoạch định CSC không mâu thuẫn với
VĐ có tính nguyên tắc: sự vận hành của nền KTTT nào cũng trước hết và
chủ yếu do các quy luật thị trường quyết định. Dựa trên việc nhận thức đúng
đắn những yêu cầu của các quy luật trong nền KTTT, bằng “CSC có sự
tham gia của người dân và doanh nghiệp” NN cụ thể hóa những yêu cầu đó
thành CS phát triển kinh tế - XH xác định đúng bước đi để hiện thực hóa
chúng. Đây là nhân tố có tác động trực tiếp thúc đẩy nền KTTT vận động
phù hợp với quy luật nội tại.
NN ta là NN của dân, do dân, vì dân lấy lợi ích của dân tộc đáp ứng
đúng nhu cầu phát triển khách quan của Xh làm mục tiêu hoạt động của
mình. Hệ tư tưởng cách mạng về khoa học là chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư
tưởng HCM làm một trong những cơ sở xuất phát quan trọng trong phát
triển kinh tế - xã hội hội tụ hai yếu tố này Phát triển KTTT định hướng


XHCN chính là việc hoạch định CSC có sự tham gia của người dân và
doanh nghiệp.
2. Mục đích của CSC:
Là vừa đảm bảo quyền lợi của đại đa số cá nhân trong xã hội và thể
hiện được quyền lực của NN, trong XH có nhiều nhóm lợi ích khác nhau và
có thể mâu thuẫn lẫn nhau. Vì vậy CSC phải đảm bảo hài hòa lợi ích giữa
các nhóm hoặc mang lại lợi ích cho đại đa số nhân dân trong XH.
NN rất cần xem xét và giải quyết các MQH có tính phổ biến và bản chất
trong đời sống xã hội để đảm bảo tính hiệu quả và hiệu lực Của CSC, vì
mang tính chất công vì lợi ích công nên CSC hầu hết có tính bắt buộc thi
hành. CSC bằng cách thức này hay cách thức khác buộc các bên tham gia

trong đó có người dân, doanh nghiệp phải làm điều này, không được làm
điều kia hoặc chỉ định một bộ phận định được làm còn bộ phận khác thì
không. Để đảm bảo thực hiện một CSC bao giờ cũng bao hàm trong nó bằng
văn bản hướng dẫn cần thiết việc thi hành, điều chỉnh, sửa đổi và công cụ
phương tiện để thực hiện. Trong đó biện pháp thường khuyến khích hay phạt
là một biện pháp cần thiết.
CSC phải phục vụ nhân dân vì quyền lợi của nhân dân vì vậy để đảm
bảo cho mục đích này NN phải chấp nhận cả những việc khó làm những việc
bất lợi cho nhà nước.
Như vậy CSC phải có ít nhất 3 mục đích:
- CSC ( do NN, CP đưa ra) là một bộ phận thuộc CS KT và CS nói chung
của mỗi nước.
- Về mặt KT, CSC phản ánh và thể hiện hoạt động cũng như quản lý đối
với khu vực công phản ánh việc đảm bảo hàng hóa dịch vụ công cộng cho
nền kinh tế.


- CSC là công cụ quản lý của NN, được NN sử dụng để Khuyến khích
việc Sx đảm bảo hàng hóa dịch vụ công cho nền kinh tế khuyến khích cả với
khu vực công và khu vực tư. Quản lý nguồn lực công một cách hiệu quả,
hiệu lực, thiết thực đối với cả kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường cả trong
ngắn hạn lẫn dài hạn.
NN thường tránh tham gia vào việc trực tiếp sản suất kinh doanh kể cả
các hàng hóa dịch vụ được coi là quốc cấm như vũ khí, bảo vệ an ninh, nhà
tù, Đối với các dịch vụ công thì nhà nước cũng chỉ thu hẹp lại trong một số
lĩnh vực đảm bảo công bằng xã hội hoặc do tư nhân không chịu làm như
diện công cộng, cảnh sát. Đối với các dịch vụ công có thể thu phí hoặc tư
nhân sẵn sàng tham gia như y tế, giáo dục, vệ sinh môi trường, giao thông
nghiên cứu và chuyển giao thì NN thường để cho tư nhân và các tổ chức phi
lợi nhuận làm.

CSC là một trong những căn cứ đo lường năng lực hoạch định CSC, xác
định mục tiêu căn cứ kiểm tra, đánh giá xác định trách nhiệm trong việc sử
dụng nguồn lực công như ngân sách nhà nước, tài sản công.tài nguyên đất
nước. Mục đích CSC còn được nhìn nhận dưới giác độ NN dân chủ, NN đại
diện cho lợi ích của toàn thể nhân dân.
VĐ 3. XÁc định VĐ và giải pháp CSC ( Quy trình xây dựng và triển
khai CS)
Các bước xây dựng và triển khai CS bao gồm 4 bước: Xác định VĐ CS;
xây dựng CS; ban hành CS, Đánh giá CS có thể nói khâu xác định VĐ luôn
là mấu chốt quan trọng trong việc xây dựng CSC.
1. Xác định VĐ của CSC
Xác định VĐ CSC là giai đoạn khởi đầu nằm trong chu trình CS bao gồm
từ bước khởi đầu phát hiện ra những mâu thuẫn này sinh trong ĐSXH cần
được giải quyết bằng CS cho đến khi hoàn thành những mục tiêu của CSC


->< và VĐ CS: những mâu thuẫn XH nảy sinh phải được NN giải
quyết bằng CSC mâu thuẫn được giải quyết thì khoảng cách được lấp đầy
theo cách giải thích này thì những mâu thuẫn XH nảy sinh. Những VĐ kinh
tế - XH hôm nay không được giải quyết sẽ sớm trở thành VĐ chính trị các
trở ngại khó khăn vướng mắc trong XH cần được giải quyết bằng CS hoặc
các bất hợp lý gây mâu thuẫn mất cân bằng, mất ổn định về kinh tế xã hội,
ngăn cản tăng trưởng kinh tế hoặc những nhu cầu trong tương lai cần đạt
được bằng CS.
Liên hệ thực tế tỉnh Quảng nam tại đại hội lần thứ XX, Đảng bộ tỉnh
đã xác định kinh tế của tỉnh đã có chuyển biến tích cực. tốc độ tăng tổng sản
phẩm trên địa bàn 5 năm đạt bình quân GDP năm 2010 tăng gấp 1,8 lần so
với năm 2005, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, GDP bình
quân đầu người đạt khoảng 17,66 triệu đồng / người/năm, vượt chỉ tiêu đề
ra. Tỷ trọng LĐ khu vực công nghiệp và dịch vụ tăng từ 28,74 % năm 2005

lên đến 40% năm 2010 tuy nhiên đến nay Quảng Nam vẫn còn là tỉnh nghèo,
kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ nền kinh tế có quy mô nhỏ, tăng trưởng chưa
tương xứng với tiềm năng thiếu bền vững, cạnh tranh một số vẫn đề môi
trường còn nhiều bức xúc thu nhập bình quân đầu người còn thấp, đời sống
bộ phận nhân dân khó khăn .. Người dân là do một phần sự điều hành, quản
lý của chính quyền từ tỉnh đến địa phương còn hạn chế thiếu tập trung, thiếu
năng động, sáng tạo, chưa kịp thời dự báo tình hình để điều chỉnh cơ chế CS
cho phù hợp …
- Xác định VĐ CSC: Xác định VĐ và đề xuất CS được thực hiện
theo các bước sau:
Thứ nhất, Tổng quan VĐ: TỔng quan rõ ràng về các trở ngại, khó
khăn, vướng mắc trong xã hội cần được giải quyết bằng CS hoặc các bất hợp
lý gây ><, mất cân bằng, ổn định về KTXH, ngăn cản tăng trưởng hoặc


những nhu cầu trong tương lai cần đạt được bằng CS, VĐ CS có mối quan
hệ biện chứng với môi trường xã hội, VĐ chỉ có thể giải quyết bằng CSC thì
mới có thể phát triển. Theo quy luật vận động VĐ CSC của xã hội mang cả
tính hiện thực và tương lai, các hiện tượng đang tồn tại thực tế sẽ làm nảy
sinh những VĐ trong tương lai.
Thứ hai, Xác định quy mô, mức độ nghiêm trọng của VĐ từ tổng
quan vấn đề của xã hội đã xác định được cần tiến hành nghiên cứu thực tiễn
để xác định quy mô mức độ nghiêm trọng của vấn đề trong đời sống KTXH. Việc lựa chọn VĐ CS dựa vào tính bức xúc của VĐ CS so với nhu cầu
xã hội, ý nguyện người dân và doanh nghiệp, đồng thời căn cứ vào yêu cầu
quản lý nhà nước đối với VĐ CS, năng lực tổ chức VĐ CS của nhà nước.
Thứ ba, Trình bày VĐ: Sau khi nghiên cứu vấn đề CS cần được trình
bày một cách rõ ràng, nội dung dầy đủ các phần( mô tả vấn đề, nguyên nhân
gây ra, phân tích bản chất vấn đề .
Thứ tư, Đề xuất phương án CSC: dựa trên kết quả phân tích nguyên
nhân, bản chất vấn đề để đề xuất phương án CSC nhằm giải quyết được vấn

đề.
Thứ năm, Phân tích CS phân tích cụ thể các phương án CS xem xét
ưu, nhược điểm của mỗi phương án làm cơ sở cho việc lựa chọn CSC phù
hợp nhất.
Thứ sáu, Đề xuất CS: Hoàn thiện phương án tối ưu và đề xuất việc
ban hành CS.
Chẩn đoán VĐ CSC, đúng bản chất, đúng thời điểm, đúng đối tượng
đóng vai trò cực kì quan trọng trong hoạch định CSC thành công. Nếu xác
định VĐ của Xã hội sai thì xử lý VĐ CS sẽ bị sai. Việc chẩn đoán CSC phải
xác định đúng những bất hợp lý gây mâu thuẫn tạo mất cân bằng, mất ổn
định ngăn cản tăng trưởng, tạo khoảng cách giữa tiềm năng và thực tế.


Do đó phải đi vào bản chất của VĐ của XH như các vấn đề về kinh tế
- XH- CT, XH không đưa ra những VĐ CSC có tính mơ hồ, không khả thi,
không có giải pháp xử lý. Xác định rõ quy mô và mức độ nghiêm trọng của
VĐ của XH để xác định rõ phạm vi và mức độ can thiệp của CSC xem xét
thông qua các chỉ số tin cậy và biện pháp đo lường khoa học để nhận biết rõ:
tên gọi VĐ của XH, bằng chứng VĐ, quy mô và mức độ nghiêm trọng của
VĐ, khung thời gian dự định áp dụng CSC.
Chẩn đoán đúng bản chất của VĐ CS cần đặt nó trong mối tương tác
với các VĐ khác. chính là cách thức để xác định rõ nguyên nhân cốt lõi của
VĐ CS. Các nguyên nhân gây ra VĐ có thể theo dạng chuỗi, theo thứu tự có
tính tổng hợp của nhiều nguyên nhân hoặc có thể là tác động qua lại giữa
VĐ và nguyên nhân.
MQH nhân quả của các yếu tố tác động tới VĐ CS để xác định đúng
bản chất của VĐ. Giả thuyết về các mqh và xác minh các giả thuyết đó lên
thành danh mục các mqh (còn được gọi là cây VĐ). Việc xác minh một cách
khoa học các mqh này sẽ giúp xác định đâu là VĐ chính và cốt lõi đâu là
VĐ phụ và VĐ nhánh, đồng thời cũng đưa ra danh mục các VĐ cần giải

quyết và VĐ có thể giải quyết.
2. Xác định giải pháp CSC
Xác định giải pháp CSC là việc tìm giải pháp cho các nguyên nhân của
VĐ CS mang tính đồng bộ việc đầu tiên phải tính tới là thiết lập danh mục
các VĐ ưu tiên cần xử lý sau khi xác định VĐ CSC một cách minh bạch,
dựa trên nguyên nhân cốt lõi, mức độ nghiêm trọng, tần xuất hiện, quy mô,
mục tiêu xử lý, cách thức tác động, nguồn lực sẵn có tùy theo hoàn cảnh cụ
thể.
Khi đưa ra giải pháp cần xem xét cách thức tác động phù hợp để đạt được
mục tiêu CSC. Cách thức tác động phải tác động được tới tâm lý, tư tưởng


để từ đó đối tượng bị tác động có hành động để xử lý chính VĐ đó. Đôi khi
nhận thức đúng đắn sự vật hiện tượng của các chủ thể tham gia CSC lại
đóng vai trò quyết định sự thành công của một CSC đó. Can thiệp CS tới đối
tượng bị tác động có thể thông qua việc huy động lợi ích kinh tế, quan hệ
cộng đồng, giá trị xã hội và tâm lý đám đông.
Giải pháp CSC dẫn tới việc lựa chọn công cụ để can thiệp tùy thuộc vào
đặc điểm, năng lực của CP cũng như Đk, hoàn cảnh tính chất kinh tế xã hội
của mỗi nhóm đối tượng CS cụ thể.
Can thiệp thông qua lợi ích kinh tế: chỉ áp dụng cho đối tượng (i) có đầu
óc tự lập cao, riêng lẻ,(ii) có tư duy kinh doanh, đầu óc rất nhạy với thị
trường, đồng thời công cụ này chỉ hoạt động hiệu quả trong môi trường thị
trường cạnh tranh hoàn hảo với các điều kiện như: (i) cạnh tranh bình đẳng,
không có độc quyền nặng nề, (ii) thị trường thông thoáng, thông tin thị
trường dầy đủ không có dào cản gia nhập và rời bỏ thị trường, chi phí giao
dịch thấp.
Can thiệp thông qua quan hệ cộng đồng: Chỉ áp dụng được đối tượng bị
ràng buộc bởi quan hệ cộng đồng chẳng hạn như thành viên của các cộng
đồng nông các tổ chức Xh - dân sự, các nhóm sở thích, các nhóm dân tộc, họ

hàng, bạn bè, công cụ này chỉ hoạt động hiệu quả nếu các quy định thể chế
cộng đồng được thi hành.
Can thiệp thông qua giá trị xã hội: tạo nên niềm tin, hệ giá trị được mọi
người tôn trọng và yêu thích. Công cụ này đặc biệt có tác dụng đối với các
tôn giáo và lý tưởng chính trị điều đó có nghĩa là cần tạo ra sự đồng thuận về
các giá trị mà các đối tượng bị tác động theo đuổi.
Can thiệp thông qua tâm lý đám đông: Chỉ áp dụng cho các đối tượng
đang có nhu cầu về VĐ cần xử lý mà không có tác dụng đối với các nhu cầu
bình thường căn bản. Công cụ này có hiệu lực trong môi trường thiếu thông


tin đối chiều, đối tượng bị tác động không thể xác định được hành động dựa
trên thông tin hiện có mà phải dựa vào người khác.
Liên hệ tại Việt Nam về vai trò của thông tin và minh bạch nhằm thúc
đẩy nền KTTT: VN đã tiến hành thúc đẩy công khai dữ liệu và thông tin
kinh t, tuy nhiên tiến độ đã chậm hơn dự kiến do thiếu một luật tổng quát về
khả năng tiếp cận thông tin. Tác động của minh bạch yếu kém đã làm cho sự
phát triển của việt nam trở nên tốn kém. Một nghiên cứu về tham nhũng
trong năm 2011 trong quản lý đất đai đã định sự thiếu minh bạch là một
trong những nguyên nhân cơ bản gây ra tham nhũng tại Việt Nam có thể nói
minh bạch tài chính đóng vai trò đặc biệt trong quan trọng trong quá trình
chuyển đổi kinh tế của VN. Trong bối cảnh vai trò tương đối lớn của khu
vực công trong nền kinh tế. Quản lý tài chính tại Việt Nam trở nên phức tạp
chính phủ dã có một khởi đầu tốt đẹp trong việc thiết lập khuôn khổ pháp lý
và thể chế về minh bạch tài chính. thông tin về ngân sách NN được đăng tải
trên các trang Web của các cơ quan nhà nước đã được cải thiện, Ngân sách
NN chưa công bố thông tin một cách có hệ thống, ngân sách công bố ra dân
chúng một cách tương đối tổng hợp tuy nhiên với việc phân cấp ngày càng
tăng trong những năm gần đây, tính minh bạch của các quan hệ tài chính
giữa các cấp chính quyền đã từng bước được tăng cường theo hướng tuân

thủ tốt nguyên tắc minh bạch tài chính, cải thiện hơn công tác quản lý và
phân tích tài chính.
VĐ 4. Các nguyên tắc định hướng và xây dựng CSC
Với nền KT tăng trưởng mạnh và triển vọng tăng trưởng tích cực, VN
đang trên đà đạt được các mục tiêu chủ chốt dặt ra trong kế hoạch phát triển
KT – XH giai đoạn tiếp theo. Sự chuyển đổi từ một quốc gia có mức thu
nhập thấp sang mức thu nhập trung bình sẽ mang lại một số thách thức mới
đòi hỏi phải có sự can thiệp của NN thông qua CSC với một nhóm giải pháp


khác. Trong giai đoạn chuyển đổi này, Vn cần phải học hỏi kinh nghiệm từ
những bài học tích cực và cả những bài học tiêu cực của những nước đã đi
trên con đường phát triển Các mục tiêu can thiệp của NN cụ thể như sau:
1. Mục tiêu can thiệp của NN
- Phục vụ tăng trưởng: sửa chữa khiếm khuyết của thị trường như phân
bổ nguồn lực không hiệu quả, kết quả không như mong muốn. Thúc đẩy
tăng trưởng, phát triển KT-XH bền vững. CSC phải bảo đảm thúc đẩy tăng
trưởng KT là sự gia tăng của GDP hoặc GNP hoặc thu nhập bình quân đầu
người trong một thời gian nhất định.
- Đảm bảo ổn định xã hội: Bù đắp, bảo đảm công bằng XH; làm nhiệm
vụ nhân đạo tạo ổn định xã hội bảo vệ môi trường, phát triển bền vững.
không nên chỉ tập chung vào tăng trưởng kinh tế mà còn cần tiếp tục củng cố
thể chế, trách nhiệm, giải trình tính minh bạch, thực thi luật pháp và sự tham
gia tích cực của XH dân sự (người dân và doanh nghiệp)
- Phục vụ mục tiêu chính trị:
Đáp ứng mục tiêu chính trị của đảng cầm quyền, đem lại uy tín chính trị
cho đảng cầm quyền, ổn định chính trị, xã hội.
CSC phải đóng góp thực hiện mục tiêu của Đảng cộng sản VN: Độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội cũng là mục tiêu lý tưởng của đảng từ trước đến
nay, đặc biệt trong bối cảnh phức tạp của tình hình KT và CT thế giới, cũng

như quá trình phát triển KTTT, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế như hiện
nay ở nước ta.
- Phục vụ mục tiêu XHCN: An sinh xã hội, công bằng, dân chủ, văn
minh. Bằng sự tiếp cận thực tiễn CSC phải đóng góp cho việc bảo đảm an
sinh xã hội được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm.
2. Các nguyên tắc xây dựng CSC


Nguyên tắc vì lợi ích cộng đồng người dân vì NN là đại diện cho toàn
dân. CSC phải hướng về phục vụ cho cộng đồng người dân, ít nhất là phục
vụ cho một bộ phận cộng đồng người dân. Người làm CS phải luôn kiểm tra
lại mục tiêu và các phương pháp hay công cụ CS. Tức là tự trả lời câu hỏi
CSC naỳ phục vụ cho ai, CSC này có mang lại lợi ích phục vụ cho cộng
đồng người dân hay không?
- Nguyên tắc quản lý và bắt buộc: Nguyên tắc này bảo đảm việc thực
hiện CSCđạt được mục tiêu CS đã đề ra Tuy nhiên hình thức và mức độ chế
tài để đảm bảo thực hiện phải được cân nhắc. Biện pháp quá mạnh hay quá
yếu đều ảnh hưởng đến hiệu quả CS.
- Nguyên tắc hệ thống: CSC bao giờ cũng là một tập hợp các quyết định
kèm theo hành động của các bên NN, người dân, doanh nghiệp mà không là
một quyết định đơn lẻ. Hệ thống này bao gồm (i) xuất hiện nhu cầu của cộng
đồng về CSC (ii) Quyết định CS (iii) Công bố CS (iv) Triển khai thực hiện
CSC (v) Đánh giá xác định hiệu quả CSC.
- Nguyên tắc tập hợp các quyết định: CSC là tập hợp các quyết định, VĐ
cần phân biệt quá trình làm CS với làm quyết định của chính quyền một
khâu quan trọng trong quá trình làm CS là làm quyết định – là một hành vi
lựa chọn phương án phù hợp trong số nhiều phương án có thể. Điều quan
trọng nhất của làm quyết định là làm thế nào để chọn đúng. Trong khi đó
làm CS có nhiều công đoạn gồm các hoạt động trải ra trong một khoảng thời
gian dài. Hiếm khi có một CS nào gói gọn trong một quyết định.

- Nguyên tắc liên đới: Một CSC thường liên quan đến những CS khác
cùng VĐ hay cùng nhóm V, hoặc liên quan đến những CS trước đó, CS sau
là bổ sung, diễn giải, khắc phục nhược điểm của CS trước thể hiện tinh thần
cải cách đổi mới. Xây dựng CSC cần tránh trùng lặp hoặc tạo ra mâu thuẫn
với CS khác.


- Nguyên tắc kế thừa lịch sử: Kế thừa lịch sử là nguyên tắc xây dựng
CSC mới dựa trên nền tảng CSC đã dược triển khai trước đây, thông qua
việc đúc rút kinh nghiệm và cải tiến phương pháp thực hiện. Nguyên tắc này
bảo đảm cho CS được ban hành phù với với các ĐK hiện có làm cho CS có
tính khả thi cao và bảo đảm được tính kế thừa, liên tục trong hệ thống.
- Nguyên tắc quyết định đa số: CSC được làm cho đa số, có tác động đến
đa số và tất nhiên CSC được quyết định bởi đa số. Đây là nguyên tắc quan
trọng trong hoạch định CSC.
- Nguyên tắc xây dựng CSC theo cơ chế thị trường: Trong bối cảnh một
nền KTTT trong khi xây dựng hoạch định CSC cần tránh cơ chế xin cho;
việc đem tiền cho không đối tượng thụ hưởng dẫn đến bóp méo hành vi,
người nhận tiền hỗ trợ dễ sinh ra tâm lý ỷ nại, trong khi đó NN và các nhân
viên thành người ban phát, từ đó hình thành quan hệ xin cho.
- Nguyên tắc phân phối công bằng: CSC phải mang lại sự công bằng cho
mọi người trong xã hội Xác định đúng đối tượng cần bù đắp. Bổ sung co đối
tượng yếu kém để đạt được tiêu chuẩn hoặc các mức cân bằng cơ bản. phát
huy nội lực, phát huy chủ động của nhóm đối tượng cần hỗ trợ tạo cơ hội
cho nhóm yếu thế. Lấy mạnh hướng dẫn yếu; tạo động lực cho nhóm yếu thế
vươn lên, tránh tâm lý ỷ nại, tránh kìm hãm năng lực của nhóm mạnh.
3. Các định hướng của CSC
- Định hướng tài nguyên:
CS không chỉ bảo vệ tài nguyên mà còn hướng tới việc sử dụng tài
nguyên hiệu quả. Các tài nguyên cần tính tới bao gồm: Tài nguyên con

người nhân tài, LĐ, vốn đầu tư, thị trường tiền tệ tài nguyên tự nhiên, đất
đai, khoáng sản nước. vv
- Định hướng bù đắp công bằng xã hội:


Để giải quyết VĐ ngoại ứng, nhằm giảm, tăng phí tổn (lợi ich) cho xã hội
mặc dù ngoại ứng không tạo ra phí tổn lợi ích cho các cá nhân riêng lẻ vì
vậy CS còn tính tới việc bù đắp cho các nhóm đối tượng bị thua thiệt như:
Bù đắp thiệt hại môi trường; Bù đắp khác biệt xã hội; Bù đắp nhiệm vụ công
ích; Bù đắp đóng góp xã hội; Bù đắp méo mó hoặc thất bại của môi trường.
- Định hướng bảo vệ thị trường, khắc phục những thất bại của thị
trường:
Để xử lý các trục trặc thị trường mặc dù vẫn công nhận sức mạnh thị
trường các CS cần tính tới là: Đảm bảo môi trường cạnh tranh; tạo cơ hội
giao dịch thông thoáng; Xử lý tranh chấp, phòng chống gian lận, xúc tiến
thương mại, mở rộng thị trường; Chống rủi ro, bình ổn thị trường, vận động
công chúng xây dựng.
- “ Công chúng” trước hết là những cộng đồng người chịu tác động trực
tiếp của CSC, kể cả người bị thiệt hại hoặc hưởng lợi từ CSC; và tiếp theo
đó là những người có quyền lợi về vật chất hoặc tinh thần, hoặc những quan
hệ khác đối với CSC.
Vận động CS có vai trò bổ sung, tác động mạnh mẽ tới các bước của quá
trình ra quyết định. Vận động CS được coi là chiến lược nhằm kết nối tích
cực giữa các bên liên quan. Kết quả của vận động CS là mong muốn đạt
được mục tiêu vì công bằng, dân chủ và phát triển của XH. Vận động CSC
ngày càng trở thành công cụ trong tiến trình dân chủ hóa, từng bước tiếp cận
với những người ra quyết định và cải thiện quá trình ra quyết định.
Nâng cao nhận thức về vai trò của người dân đối với sự nghiệp xây dựng,
phát triển đất nước; Tăng cường tính công khai minh bạch, khả năng tiếp cận
thông tin về các CSC; Tăng cường sự tham gia của người dân trong quá

trình xây dựng và thực hiện CSC; Tạo ra khả năng “ dân biết”, “dân bàn”,


“dân làm”, “dân kiểm tra”, trong quá trình ra các quyết định về CSC; Góp
phần xây dựng mối quan hệ hài hòa giữa NN – Doanh nghiệp – Người dân.
4. Các phương pháp xây dựng CSC
Trong bối cảnh các nước đang phát triển và của VN, cần có định
hướng CSC trên quan điểm phát triển cụ thể:
Định hướng tài nguyên: CSC không chỉ bảo vệ tài nguyên mà còn
phải hướng tới việc sử dụng tài nguyên hiệu quả như: Con người, vốn đầu
tư, thị trường tiền tệ, tài nguyên tự nhiên…..
Định hướng bù đắp công bằng XH: Để giải quyết VĐ ngoại ứng, nằm
giảm (tăng) phí tổn (lợi ích) cho XH mặc dù ngoại ứng không tạo ra phí tổn/
lợi ích cho các cá nhân riêng lẻ. Vì vậy CS cần tính tới việc bù đắp cho các
nhóm đối tượng bị thua thiệt như: Thiệt hại môi trường, bù đắp khác biệt
XH, nhiệm vụ công ích. Đóng góp XH, bù đắp méo mó hoặc thất bại của thị
trường …..
Định hướng bảo vệ thị trường, khắc phục những thất bại của thị
trường: để xử lý các trục trặc thị trường mặc dù vẫn công nhận sức mạnh thị
trường, các CS cần tính tới là: Đảm bảo môi trường cạnh tranh; tạo cơ hội
giao dịch thông thoáng; xử lý tranh chấp, phòng chống gian lận; Xúc tiến
thương mại, mở rộng thị trường; Chống rủi ro, bình ổn thị trường….
Trong quá trình hoạch định CSC phù hợp để triển khai việc hoàn
thành mục tiêu của Đảng và NN, cần nắm bắt các phương pháp xây dựng CS
sau:
- Vận động công chúng xây dựng CS: Công chúng trước hết là
những cộng đồng người chịu tác động trực tiếp của CSC, kể cả người bị thiệt
hại hoặc hưởng lợi từ CSC; và tiếp theo là những người có quyền lợi về vật
chất hoặc tinh thần, hoặc những mối quan hệ khác đối với CSC. Sự tham gia
của cộng đồng có thể tạo những ảnh hưởng của mình đóng góp vào quá trình



ra quyết định khi lập kế hoạch, CSC hay quy hoạch ở quy mô quốc gia, khu
vực. Sự tham gia của cộng đồng là một phương tiện nhằm thu hút các bên có
quyền lợi tham gia vào việc quyết định về loại hình và quá trình phát triển.
Nhằm thu thập thông tin, phổ biến thông tin, tư vấn, tham gia cho các nhóm
đối tượng…Các CSC được ban hành và thực thi đều có ảnh hưởng tới XH,
mọi người và cuộc sống của người dân. Thông qua việc thực thi các CSC đã
ban hành trong thực tế, nếu có những ý kiến và cần thiết phải thay đổi CS
hiện hành để tạo nên những tác động tích cực cho cộng đồng và thực hiện
công bằng XH tốt hơn thì chúng ta cần phải tham gia vào quá trình vận động
CS.
Vận động CS là những nỗ lực có tính hệ thống nhằm tác động đến
những người ra quyết định nhằm tạo ra những CS phù hợp hơn với ĐK thực
tiễn. Vận động CS có vai trò bổ sung, tác động mạnh mẽ tới các bước của
quá trình; nó được coi là chiến lược nhằm kết nối tích cực giữa các bên liên
quan; kết quả của vận động CS là mong muốn đạt được mục tiêu vì công
bằng, dân chủ và p.trào của XH. Vận động CSC ngày càng trở thành công cụ
trong tiến trình dân chủ hóa, từng bước tiếp cận với những người ra quyết
định và cải thiện quá trình ra quyết định.
Vận động CS mang ý nghĩa hết sức quan trọng, nó nâng cao nhận thức về
vai trò của người đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước; Tăng
cường tính công khai minh bạch, khả năng tiếp cận thông tin về các CSC, sự
tham gia của người dân trong quá trình xây dựng và thực hiện CSC; tạo ra
khả năng “dân biết”, “dân bàn”, “dân làm”, “dân kiểm tra”, trong quá trình
ra các quyết định về CSC, góp phần xây dựng mối quan hệ hài hòa giữa NN
- Doanh nghiệp - Người dân.
Tạo động lực định hướng cho CS: Tạo khung pháp lý để chỉ hướng đi
thông qua các mức độ khác nhau. Cách can thiệp mạnh mẽ nhất là tạo sức ép



để buộc mọi người phải đi theo định hướng CS đã định. Cách can thiệp nhẹ
hơn là hướng dẫn, hỗ trợ, đẩy mọi người đi theo định hướng đã định. Cách
can thiệp nhẹ nhất là trao phần thưởng hoặc đưa ra lợi ích cụ thể để kéo mọi
người đi theo định hướng đã định.
- CS ngăn chặn hạn chế: Nhằm ngăn cản người dân đi vào hướng mình
không mong muốn thông qua các mức độ can thiệp khác nhau: Thông báo
đó không phải con đường tốt mà là con đường nguy hiểm, bất lợi, gây thiệt
hại. Tạo ra các rào cản với nhiều lớp khác nhau để đủ sức ngăn chặn. Sử
dụng lợi ích vật chất để kéo mọi người ngược lại với con đường nguy hiểm.
Việc cấm đoán chỉ được coi là biện pháp cuối cùng khi các biện pháp trên
không phát huy tác dụng.
- Phương pháp tạo động lực từ CS: phải có thưởng phạt rõ ràng (hơnthưởng hoặc kém - phạt), không có CS mềm mà mọi người có thể bàn cãi và
mặc cả với nhau. Phải bù đắp thiệt hại, chênh lệch cho đối tượng bị tác động
xấu. Hỗ trợ xử phạt trực tiếp đối với đối tượng bị tác động, tránh mập mờ
giữa các nhóm đối tượng. Tránh can thiệp CS nếu không có khả năng kiểm
soát và quản lý, phải đúng mục tiêu không tác động tràn lan.
- Phương pháp tạo hiệu quả cao cho CS: NN không cho hết, làm hết,
mà các đối tượng m.tiêu phải tham gia làm cùng. NN không nên cho trước
mà đối tượng làm trước, NN hỗ trợ sau. NN không nên cho thêm mà chỉ
giảm lấy đi. NN không nên cấm, hủy mà chỉ nên ngăn chặn, hạn chế. CS
phải đảm bảo đồng bộ với chiến lược, quy hoạch,chương trình, đề án. CS
phải đúng hướng tránh mâu thuẫn giữa các CS trong cùng thời điểm.
VĐ 5:


5.1: Khái niệm: Tiêu chí CSC là tiêu chuẩn đo lường khuôn khổ
m.tiêu CSC. Các tiêu chuẩn CSC được xác định thông qua các tiêu chí
sau đây.
1. CSC phải hướng tới mục tiêu phát tiển chung;

2. CSC phải tạo động lực phát triển;
3. CSC phải phù hợp với tình hình thực tế;
4. CSC phải có tính khả thi cao;
5. CSC phải đảm bảo tính hợp lý;
6. CSC phải mang lại hiệu quả cao cho đời sống XH

5.2: Các loại tiêu chí CSC: * CSC phải hướng đến mục tiêu phát triển
chung:
- Dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, DCVM là mục tiêu xuyên suốt cả
thời kỳ đi lên CNXH ở nước ta.
- Mục tiêu CS phản ảnh mong muốn của NN về giá trị K.tế, XH cần đạt
được trong tương lai phù hợp với yêu cầu phát triển chung của toàn XH.
- Mục tiêu chug và mục tiêu CS luôn có sự gắn bó mật thiết với nhau,
những mục tiêu CS phải cụ thể, rõ ràng và hướng đến mục tiêu chung.
* CSC phải tạo động lực cho phát triển:
- Tác động của CSC với đối tượng CS và các nhóm chịu ảnh hưởng.
- Lựa chọn công cụ CS và các nguồn lực CSC tạo động lực CSC;


- Đồng thuận, CSC mới được người dân và doanh nghiệp hưởng ứng thực
hiện, công cụ CS được lựa chọn phù hợp thì sẽ có tác động tích cực đến
việc hoàn thành mục tiêu CSC;
- Mục tiêu ngắn hạn có thể sự dụng các công cụ huy động sự tham gia
cung ứng can thiệp trực tiếp;
- Trong dài hạn nguồn lực hạn chế thì cần có các công cụ CS khuyến khích
tổng hợp thiên về giáo dục cộng đồng thuyết phục.
* CSC phải phù hợp với tình hình thực tế
- Quá trình phát triển về KT - XH luôn vận động không ngừng, quá trình
toàn cần hóa diễn ra nhanh chóng thúc đẩy vận động K.tế - XH - Văn hóa,
chính trị m.tiêu và công cụ của CSC cũng thường xuên thay đổi;

- CS không phù hợp với thực tế thường có thể phát sinh những hệ lụy và
trở thành VĐ k.tế - XH, c.trị mới.
* CSC phải có tính khả thi cao và kịp thời gian
- CSC phải có tính khả thi cao để đảm bảo quá trình thực hiện CSC.
- Tính khả thi của CSC được xem xét trên nhiều phương diện: KT - XH,
năng lực thực hiện, kỹ thuật công nghệ.
- CSC phải được xâ dựng kịp thời để giải quyết các VĐ KT - XH để tránh
VĐ trầm trọng chuyển sang trạng thái mới đòi hỏi các giải pháp phức tạp
và tốn kém hơn.
* CSC đảm bảo tính hợp lý


- Tính hợp lý của CS đảm bảo cho CS đi vào đời sống KT - XH được
thuận lợi
- Mục tiêu CSC quá cao trong khi nguồn lực có hạn là không hợp lý.
- Hài hòa giữa mục tiêu CS với nguyện vọng của đối tượng thụ hưởng
trong hiện tại và tương lai.
- Nhu cầu của đa số cộng động người dân và doanh nghiệp chứ không phải
là toàn bộ người dân và doanh nghiệp.
- Tính hợp lý của CS thường nằm ở việc lựa chọn các công cụ CS đúng
đắn phù hợp.
* CSC phải mang lại hiệu quả cao cho đời sống xã hội
- Hiệu quả của CSC được hiểu là sự đóng góp của CSC đối với phát triển
KT-XH và mục tiêu dài hạn;
+ Thứ nhất, CSC đề ra có giải quyết được VĐ Ktế - XH trong thực tế
không?
+ Thứ hai, CSC có sử dụng chi phí XH hợp lý để đạt được mục tiêu CS?
* CSC tốt là phải phản ánh ý nguyện của nhân dân
- Mục tiêu và công cụ CSC thống nhất với ý nguyện người dân và doanh
nghiệp sẽ thu hút được đông đảo người dân và DN ủng hộ tham gia tích cực

vào quá trình CS tạo ra động lực lớn để hoàn thành mục tiêu CSC;
- Sự tham gia của cộng đồng người dân và doanh nghiệp vào quá trình CS
giúp cho việc lựa chọn đúng đắn các công cụ CS, để từ đó các nhà lập CS có
thể lựa chọn được công cụ CS tối ưu nhất.
- Thông tin tham vấn người dân và doanh nghiệp thảo luận CS được tham
gia giám sát việc thực hiện CSC, giúp cho việc hoàn thành mục tiêu CS, cuối
cùng quyết định sự thành công của CS. Sự tham gia này tạo ra một xu thế


×