Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các tổ chức khoa học và công nghệ tại tổng cục đo lường chất lượng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (586.72 KB, 109 trang )

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Nhằm tạo sự thúc đẩy hoạt động của các tổ chức khoa học và công
nghệ theo cơ chế thị trường sau một thời gian dài ngủ đông trong cơ chế bao
cấp của Nhà nước. Đảng, Nhà nước và chính phủ đã ban hành nhiều quy định
về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính của tổ chức khoa học và
công nghệ. Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, sau nhiều năm triển khai thực
hiện, các tổ chức khoa học và công nghệ đã từng bước thực hiện được tự chủ
trong thực hiện các nhiệm vụ về tài chính. Tuy nhiên, việc tự chủ trong các
lĩnh vực tài chính, nhân lực, liên kết hợp tác chưa thực sự được như mong
muốn. Các bước khởi động của quá trình tự chủ, tự chịu trách nhiệm vẫn chưa
được thực hiện đầy đủ, chưa thực sự hiệu quả do nhiều nguyên nhân. Trong
đó, vướng mắc lớn nhất chính là nhận thức và ý chí hành động từ người đứng
đầu các tổ chức khoa học và công nghệ đến lãnh đạo một số bộ, ngành, địa
phương chưa đúng đắn, đầy đủ, thiếu quyết liệt, nghiêm túc trong triển khai.
Việc làm khoa học trong cơ chế bao cấp quá lâu khiến cho khi bước vào cơ
chế thị trường, nhiều người đứng đầu các tổ chức khoa học và công nghệ bỡ
ngỡ, thậm chí lo sợ.
Bên cạnh đó chính việc thông tin chưa đầy đủ, chưa rõ ràng khiến tâm
lý lo sợ này tồn tại trong nhiều năm. Rất nhiều người lầm tưởng chuyển sang
cơ chế tự chủ sẽ bị cắt nguồn ngân sách, cắt giảm biên chế. Nhưng thực tế,
chuyển sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm thì ngân sách nhà nước sẽ
được giao theo cơ chế đặt hàng các nhiệm vụ, đề tài dự án, sản phẩm thay vì
giao theo biên chế. Cơ chế mới nhằm bảo đảm ngân sách chi cho khoa học và
công nghệ được sử dụng hiệu quả hơn, tạo được sự gia tăng và góp phần thực
sự cho quá trình phát triển chung. Đồng thời, khuyến khích các nguồn lực đầu
tư ngoài ngân sách cho khoa học và công nghệ, nâng cao thu nhập của người
làm khoa học thực sự.
1



Cùng với vướng mắc từ nhận thức, thì việc xây dựng chính sách, ban
hành các văn bản hướng dẫn còn chậm. Nghị định ban hành từ năm 2005
những mãi đến năm 2014 mới có thông tư hướng dẫn xây dựng, quản lý, sử
dụng và quyết toán kinh phí thực hiện thường xuyên của tổ chức khoa học và
công nghệ, trong khi đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định tính tự chủ của các
đơn vị. Đến nay vẫn chưa có hướng dẫn về định mức và phương thức cấp tiền
lương, tiền công, tiền chi hoạt động bộ máy trong kinh phí thực hiện nhiệm vụ
khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước cũng như hướng dẫn tổ
chức khoa học và công nghệ góp vốn bằng tiền, tài sản giá trị quyền sử dụng
đất và quyền sở hữu trí tuệ để thực hiện các hoạt động khoa học và công
nghệ, hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc thế chấp vay vốn ngân hàng.
Không chỉ do sự chậm trễ của việc ban hành văn bản, các tổ chức khoa học và
công nghệ muốn tự chủ gặp khó khăn còn do sự thiếu đồng bộ, xung đột của
các quy định trong hệ thống văn bản pháp luật hiện hành.
Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng luôn cho rằng một trong
những vấn đề cốt lõi trong đổi mới, phát triển khoa học và công nghệ hiện nay
là phải thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính, yêu cầu các
tổ chức khoa học và công nghệ của tổng cục trước hết phải gỡ bằng được
những vướng mắc liên quan đến việc chậm trễ và chồng chéo trong ban hành
chính sách về cơ chế tài chính, nhân lực và hợp tác liên kết để tạo điều kiện
cho các tổ chức khoa học và công nghệ có thể tự chủ thành công. Tất cả các tổ
chức khoa học và công nghệ không chuyển sang tự chủ, tự chịu trách nhiệm
theo đúng kế hoạch sẽ bị cắt ngân sách. Đồng thời, Bộ Khoa học và Công
nghệ phối hợp với các bộ, ngành khẩn trương xây dựng nghị định mới về tự
chủ trong khoa học và công nghệ kèm theo đầy đủ thông tư hướng dẫn, gỡ bỏ
những rào cản đang cản trở quá trình tự chủ.

2



Để cơ chế tự chủ tài chính của các tổ chức khoa học công nghệ và các
chính sách mới, tiến bộ phát triển khoa học và công nghệ được thực thi đầy
đủ, Tổng cục cần nghiên cứu và thực hiện nghiêm chỉnh các đạo luật mới ban
hành trong thời gian tới.
Khoa học và công nghệ được coi là quốc sách hàng đầu, là động lực
then chốt để phát triển đất nước. Khoa học và công nghệ là bước đệm cơ bản
để đưa nước ta nhanh thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu đưa nước ta sánh vai với
các cường quốc năm châu trên thế giới hiện nay. Hơn bao giờ hết Đảng và
Chính phủ cần tiếp tục hoàn thiện chính sách về tự chủ tài chính, tự chịu trách
nhiệm để các tổ chức khoa học và công nghệ trong cả nước nói chung và các
tổ chức khoa học và công nghệ thuộc Tổng cục Đo lường Chất lượng ngày
càng nâng cao tính năng động, sáng tạo trong công tác hợp tác nghiên cứu và
phát triển khoa học và công nghệ.
Tự chủ tài chính hiện đang là vấn đề bức thiết đối với các tổ chức khoa
học và công nghệ. Việc đổi mới cơ chế tự chủ tài chính cần có sự nghiên cứu
thực tiễn và học hỏi kinh nghiệm các nước. Vì những lý do nêu trên tôi chọn
đề tài: “Hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các tổ chức khoa học và
công nghệ tại Tổng cục Đo lường Chất lượng” làm luận văn cao học chuyên
ngành quản lý hành chính công.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về khoa học và công nghệ đặc biệt là
lĩnh vực tự chủ tài chính đối với các tổ chức khoa học công nghệ. Đề tài luận
văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Ngọc Diệu Linh “Nâng cao năng lực tự chủ
tài chính đối với các tổ chức khoa học và công nghệ trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh trong giai đoạn hiện nay”.

3


Đề tài luận văn thạc sỹ của tác giả Lê Minh Đức về “Giải pháp hoàn

thiện cơ chế tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu tại Viện Khoa
học Thủy lợi”. Luận án tiến sĩ của tác giả Phan Chí Nguyên: “Hoàn thiện cơ
chế tự chủ tài chính chuyển giao công nghệ nước sạch và vệ sinh môi trường
ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Ngoài ra còn rất nhiều đề tài khoa học như: “Tự chủ tài chính các đơn
vị sự nghiệp công lập có thu” của tiến sĩ Nguyễn Thanh Dương.
Tuy nhiên chưa có đề tài nào nghiên cứu: “Hoàn thiện cơ chế tự chủ
tài chính đối với các tổ chức khoa học và công nghệ tại Tổng cục Đo lường
Chất lượng”.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung đối tượng nghiên cứu là: Cơ chế tài chính đối với các
tổ chức khoa học và công nghệ
* Phạm vi nghiên cứu:
- Nội dung: Cơ chế tài chính đối với các tổ chức khoa học và công
nghệ, bao gồm tự chủ về các nguồn thu, nhiệm vụ chi, trích lập và sử dụng
các quỹ theo quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị.
- Không gian: Tại Tổng cục Đo lường Chất lượng.
- Thời gian: Giai đoạn 2009 đến 2014 và định hướng đến năm 2020.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và phân tích thực trạng cơ chế tự chủ tài
chính đối với các tổ chức khoa học công nghệ tại Tổng cục Đo lường Chất
lượng thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ, Luận văn đề xuất các giải pháp pháp
hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính tại Tổng cục, từ đó góp phần nâng cao chất
lượng và hiệu quả hoạt động của Tổng cục nhằm đáp ứng tốt nhất đòi hỏi của
giai đoạn mới.
4



b. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Luận văn tập trung giải quyết các vấn đề sau đây:
- Tổng quan về những lý luận cơ bản về cơ chế tự chủ tài chính đối với
các tổ chức khoa học công nghệ ;
- Phân tích và đánh giá thực trạng triển khai cơ chế tự chủ tài chính đối
với các tổ chức khoa học và công nghệ tại Tổng cục Đo lường Chất lượng;
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện cơ chế tự chủ tài
chính đối với các tổ chức khoa học và công nghệ tại Tổng cục Đo lường Chất
lượng trong thời gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận:
Nghiên cứu vận dụng lý luận Chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, đường lối chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu gồm: Logic, hệ thống,
thống kê, so sánh, phân tích tổng hợp.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số tài liệu các công trình, các viết
trên các sách, báo, tạp chí đã được công bố, đăng tải
6. Đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hóa những lý luận cơ bản về cơ chế tự chủ tài chính đối với
các tổ chức khoa học và công nghệ.
- Phân tích, đánh giá đúng và xác định được nguyên nhân thực trạng cơ
chế tự chủ tài chính đối với các tổ chức khoa học và công nghệ tại Tổng cục Đo
lường Chất lượng thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ trong những năm qua.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản để hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính
đối với các tổ chức khoa học và công nghệ tại Tổng cục Đo lường Chất lượng
trong những năm tới.

5



7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm
ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về cơ chế tự chủ tài chính đối với các tổ
chức khoa học và công nghệ.
Chương 2: Thực trạng cơ chế tự chủ tài chính đối với các tổ chức
khoa học và công nghệ tại Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng.
Chương 3: Quan điểm và một số giải pháp hoàn thiện cơ chế tự chủ
tài chính đối với các tổ chức khoa học và công nghệ tại Tổng cục Tiêu
chuẩn Đo lường Chất lượng.

6


CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI
CÁC TỔ CHỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
1.1. Tổng quan về tổ chức khoa học và công nghệ
1.1.1. Khái niệm và cách phân loại tổ chức khoa học và công nghệ
a) Khái niệm tổ chức khoa học và công nghệ
Theo Luật Khoa học và Công nghệ số 29/2013/QH13 ngày 18 tháng 6
năm 2013 thì tổ chức khoa học và công nghệ là “tổ chức có chức năng chủ
yếu là nghiên cứu khoa học, nghiên cứu triển khai và phát triển công nghệ,
hoạt động dịch vụ khoa học và công nghệ, được thành lập và đăng ký hoạt
động theo quy định của pháp luật” (khoản 11 Điều 3 Luật số 29/2013/QH13).
Trong đó, các thuật ngữ “Khoa học”, “Công nghệ”, “Nghiên cứu khoa
học”, “Phát triển công nghệ”, “Dịch vụ khoa học và công nghệ” được hiểu là:
- Khoa học là hệ thống tri thức về bản chất, quy luật tồn tại và phát
triển của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy;

- Công nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm theo hoặc
không kèm theo công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm;
- Hoạt động khoa học và công nghệ là hoạt động nghiên cứu khoa học,
nghiên cứu và triển khai thực nghiệm, phát triển công nghệ, ứng dụng công
nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ, phát huy sáng kiến và hoạt động sáng
tạo khác nhằm phát triển khoa học và cộng nghệ;
- Nghiên cứu khoa học là hoạt động khám phá, phát hiện, tìm hiểu bản
chất, quy luật của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo giải
pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn;
- Nghiên cứu cơ bản là hoạt động nghiên cứu nhằm khám phá bản chất,
quy luật của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy;

7


- Nghiên cứu ứng dụng là hoạt động nghiên cứu vận dụng kết quả
nghiên cứu khoa học nhằm tạo ra công nghệ mới, đổi mới công nghệ phục vụ
lợi ích của con người;
- Phát triển công nghệ là hoạt động sử dụng kết quả nghiên cứu cơ bản,
nghiên cứu ứng dụng, thông qua việc triển khai thực nghiệm và sản xuất thử
nghiệm để hoàn thiện công nghệ hiện có, tạo ra công nghệ mới;
- Triển khai thực nghiệm là hoạt động ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa
học và phát triển công nghệ để tạo ra sản phẩm công nghệ mới ở dạng mẫu;
- Dịch vụ khoa học và công nghệ là các hoạt động phục vụ, hỗ trợ kỹ
thuật cho việc nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; các hoạt động
liên quan đến sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, tiêu chuẩn, quy chuẩn
kỹ thuật, đo lương, chất lượng sản phẩm, hàng hóa, an toàn bức xạ, hạt nhân
và năng lượng nguyên tử; dịch vụ về thông tin, tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng,
phổ biến, ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ trong các lĩnh vực kinh
tế - xã hội.

b) Cách phân loại tổ chức khoa học và công nghệ
Cũng theo Luật Khoa học và Công nghệ số 29/2013/QH13 ngày 18
tháng 6 năm 2013 thì có ba cách thức phân loại tổ chức khoa học và công
nghệ, cụ thể như sau:
* Theo thẩm quyền thành lập, tổ chức khoa học và công nghệ gồm các loại:
- Tổ chức Khoa học và Công nghệ thuộc Quốc hội, Ủy ban thường vụ
Quốc hội do Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội thành lập;
- Tổ chức khoa học và công nghệ thuộc Chính phủ do Chính phủ thành lập;
- Tổ chức khoa học và công nghệ thuộc Tòa án nhân dân tối cao do Tòa
án nhân dân tối cao thành lập;
- Tổ chức khoa học và công nghệ thuộc Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
do Viện Kiểm sát nhân dân tối cao thành lập;

8


- Tổ chức khoa học và công nghệ thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ do Thủ tướng Chính phủ thành lập hoặc ủy quyền cho Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thành lập;
- Tổ chức khoa học và công nghệ thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ thành lập (trừ trường hợp nêu trên);
- Tổ chức khoa học và công nghệ của địa phương do Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh thành lập theo thẩm quyền;
- Tổ chức khoa học và công nghệ được tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp thành lập theo quy
định của pháp luật và điều lệ;
- Tổ chức khoa học và công nghệ được thành lập bởi doanh nghiệp, tổ
chức khác, cá nhân.
* Theo chức năng, tổ chức khoa học và công nghệ gồm:

- Tổ chức nghiên cứu cơ bản;
- Tổ chức nghiên cứu ứng dụng;
- Tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ.
* Theo hình thức sở hữu, tổ chức khoa học và công nghệ gồm:
- Tổ chức khoa học và công nghệ công lập: là tổ chức khoa học và công
nghệ do cơ quan có thẩm quyền (Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội,
Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) quy định
và do tổ chức chính trị, chính trị - xã hội thành lập và đầu tư;
- Tổ chức khoa học và công nghệ ngoài công lập: là tổ chức khoa học
và công nghệ do doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức Việt Nam (trừ các tổ
chức nêu trên) thành lập ;

9


- Tổ chức khoa học và công nghệ có vốn nước ngoài: là tổ chức khoa
học và công nghệ do tổ chức, cá nhân nước ngoài thành lập hoặc góp vốn hợp
tác với tổ chức cá nhân Việt Nam thành lập tại Việt Nam.
1.1.2. Vai trò của tổ chức khoa học và công nghệ trong nền kinh tế
Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, đặc biệt từ khi tiến
hành công cuộc đổi mới toàn diện, Đảng ta đã sớm có các định hướng và chỉ
đạo đúng đắn về vị trí, vai trò của khoa học và công nghệ đối với phát triển
kinh tế - xã hội. Quan điểm coi khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu,
là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa được khẳng định
và quán triệt trong nhiều văn kiện của Đảng thời kỳ đổi mới. Tại Hội nghị lần
thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) đã ban hành Nghị quyết về
“Định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000”, tạo cơ sở quan trọng cho
sự phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,

hiện đại hoá đất nước.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX tiếp tục khẳng định vai trò của
khoa học và công nghệ trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá; đại hội X nhấn mạnh vai trò động lực của khoa học và công nghệ trong
phát triển kinh tế tri thức và Đại hội XI đề ra đường lối đẩy mạnh toàn diện
công cuộc đổi mới, khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong phát
triển lực lượng sản xuất hiện đại, là động lực then chốt của quá trình phát
triển nhanh và bền vững.
Sau 16 năm Nghị quyết Trung ương 2 đi vào cuộc sống, khoa học và
công nghệ nước ta đã có bước tiến dài trong xây dựng và phát triển tiềm lực,
đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp thiết thực vào sự phát triển
kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, cải thiện an sinh xã hội và chất

10


lượng cuộc sống, đưa nước ta từ một nước kém phát triển gia nhập nhóm
nước có thu nhập trung bình.
Khoa học và công nghệ có vị trí then chốt như vậy, do đó, hoạt động
của các tổ chức khoa học và công nghệ nói chung, của các tổ chức khoa học
và công nghệ công lập nói riêng rất có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với nền
kinh tế. Vai trò của tổ chức khoa học và công nghệ đối với nền kinh tế có thể
khái quát như sau:
- Phát huy lao động sáng tạo của tổ chức, cá nhân;
- Mở rộng khả năng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế;
- Thúc đẩy quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế;
- Tăng sức cạnh tranh của hàng hóa, thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường.
- Xây dựng lý luận về chủ ngĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội của Việt Nam; xây dựng luận cứ khoa học cho việc định ra đường lối,
chính sách, pháp luật về phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an

ninh; góp phần xây dựng nền giáo dục tiến tiến, xây dựng con người mới Việt
Nam; kế thừa và phát huy giá trị truyền thống lịch sử, văn hóa dân tộc, tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại và đóng góp vào kho tàng văn hóa, khoa học
của thế giới;
- Nâng cao năng lực khoa học và công nghệ để làm chủ công nghệ tiên
tiến, công nghệ cao, phương pháp quản lý tiên tiến; sử dụng hợp lý tài nguyên
thiên nhiên, bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe con người; kịp thời dự báo,
phòng, chống, hạn chế và khắc phục hậu quả thiên tai;
- Tiếp thu thành tựu khoa học và công nghệ của thế giới để tạo ra ứng
dụng có hiệu quả công nghệ mới; tạo ra sản phẩm mới có sức cạnh tranh cao;
phát triển nền khoa học và công nghệ Việt Nam đạt trình độ tiến tiến trong
khu vực, tiếp cận với trình độ thế giới, làm cơ sở vững chắc cho việc phát
triển các ngành công nghiệp hiện đại; đẩy mạnh việc phổ biến và ứng dụng
thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống.
11


1.1.3. Hoạt động của tổ chức khoa học và công nghệ
a) Nguyên tắc hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ
Để thực hiện được vai trò của mình, hoạt động của tổ chức khoa học và
công nghệ cần bám sát các nguyên tắc sau:
- Phải xuất phát từ thưc tiễn, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo
đảm quốc phòng, an ninh, phát triển khoa học và công nghệ;
- Xây dựng và phát huy năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ kết
hợp với việc tiếp thu có chọn lọc các thành tựu khoa học và công nghệ của thế
giới, phù hợp với thực tiễn Việt Nam;
- Trung thực, khách quan, đề cao đạo đức nghề nghiệp, tự do sáng tạo,
dân chủ, tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
- Đảm bảo an toàn, tính mạng, sức khỏe con người, bảo vệ môi trường;
- Phát huy khả năng lao động sáng tạo của mọi tổ chức, cá nhân;

- Hoạt động theo nhiệm vụ chính trị, chuyên môn được giao, không vì
mục đích sinh lợi.
b) Hoạt động của tổ chức khoa học và công nghệ
Tổ chức khoa học và công nghệ thực hiện các hoạt động nghiên cứu
khoa học, nghiên cứu triển khai, phát triển công nghệ, hoạt động dịch vụ khoa
học và công nghệ cụ thể như sau:
* Thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng:
Nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng là nhiệm vụ nhằm bảo đảm
hoạt động của đơn vị, được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và giao trực
tiếp phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của tổ chức quy định tại quyết định
thành lập hoặc điều lệ tổ chức và hoạt động (các nhiệm vụ khoa học và công
nghệ cấp cơ sở, cấp bộ, cấp tỉnh; xây dựng kế hoạch; hoạt động thông tin,
tuyên truyền; hoạt động hợp tác quốc tế; hội nghị, hội thảo chuyên ngành; đào
tạo, tập huấn; quản lý cán bộ, tài sản; duy trì hoạt động bộ máy).

12


* Thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ:
Tổ chức khoa học và công nghệ xác định nhiệm vụ khoa học và công
nghệ và biện pháp tổ chức thực hiện. Các nhiệm vụ khoa học và công nghệ
này được xác định căn cứ vào định hướng ưu tiên phát triển khoa học và công
nghệ của Nhà nước, nhu cầu của xã hội, nhu cầu của doanh nghiệp, chức
năng, nhiệm vụ và lĩnh vực hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ.
Các tổ chức khoa học và công nghệ tự quyết định việc tham gia tuyển
chọn, đấu thầu thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ của Nhà nước và
biện pháp tổ chức thực hiện căn cứ vào danh mục các nhiệm vụ khoa học và
công nghệ do Bộ Khoa học và Công nghệ, các Bộ, ngành và địa phương công
bố hàng năm.
Đối với các nhiệm vụ khoa học và công nghệ do cơ quan nhà nước giao

hoặc đặt hàng, các tổ chức khoa học và công nghệ tự quyết định biện pháp tổ
chức thực hiện các nhiệm vụ đảm bảo chất lượng và tiến độ theo yêu cầu
* Nhiệm vụ do các tổ chức, cá nhân đặt hàng:
Tổ chức khoa học và công nghệ chủ động khai thác và ký hợp đồng với
các tổ chức, cá nhân và tự chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Nội
dung hợp đồng nghiên cứu khoa học, hợp đồng chuyển giao công nghệ, hợp
đồng dịch vụ khoa học và công nghệ, hợp đồng cung cấp hàng hóa, và các
loại hợp đồng kinh tế khác do tổ chức khoa học và công nghệ tự thoả thuận
với các đối tác trên cơ sở phù hợp với khả năng, lĩnh vực chuyên môn của tổ
chức khoa học và công nghệ và không trái pháp luật.
* Các tổ chức khoa học và công nghệ được quyền/có thể ký hợp đồng
thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ, dịch vụ khoa học và công
nghệ với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; hợp tác với các tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nước để thực hiện các nhiệm vụ của tổ chức khoa học và
công nghệ.

13


* Các tổ chức khoa học và công nghệ được quyền/có thể trực tiếp quyết
định việc mời chuyên gia, các nhà khoa học nước ngoài vào Việt Nam và cử
cán bộ ra nước ngoài công tác.
* Các tổ chức khoa học và công nghệ được quyền quyết định việc
đầu tư phát triển từ vốn vay, vốn huy động các tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước, từ quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp của tổ chức khoa học và
công nghệ.
* Các tổ chức khoa học và công nghệ được quyền sản xuất, kinh
doanh hàng hoá, thực hiện các dịch vụ thuộc lĩnh vực hoạt động chuyên
môn của tổ chức khoa học và công nghệ và các lĩnh vực khác theo quy định
của pháp luật.

* Các tổ chức khoa học và công nghệ được quyền liên doanh, liên kết
sản xuất với các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước
* Xuất khẩu, nhập khẩu trực tiếp công nghệ và sản phẩm hàng hóa
thuộc lĩnh vực hoạt động chuyên môn của tổ chức khoa học và công nghệ
theo quy định của pháp luật.
* Tham gia đấu thầu thực hiện các hợp đồng sản xuất, cung ứng hàng
hóa, dịch vụ phù hợp với lĩnh vực hoạt động chuyên môn của tổ chức khoa
học và công nghệ
* Điều tra, thống kê, quy hoạch do Nhà nước giao;
* Đào tạo sau đại học;
* Dịch vụ khoa học và công nghệ;
* Hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ khác;
Tổ chức khoa học và công nghệ chủ động khai thác, ký hợp đồng với
các cá nhân và tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Nội dung hợp đồng nghiên cứu
khoa học, chuyển giao công nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ, cung cấp
hàng hóa, và các loại hợp đồng kinh tế khác do tổ chức khoa học và công

14


nghệ tự thoả thuận với đối tác trên cơ sở phù hợp với khả năng, lĩnh vực
chuyên môn của tổ chức khoa học và công nghệ theo quy định của pháp luật.
1.2. Cơ chế tự chủ tài chính tại các tổ khoa học và công nghệ
1.2.1. Khái niệm cơ chế tự chủ tài chính
* Cơ chế tài chính
Từ "cơ chế" được dùng rộng rãi trong lĩnh vực quản lý từ khoảng cuối
những năm 1970, khi chúng ta bắt đầu chú ý nghiên cứu về quản lý và cải tiến
quản lý kinh tế, với nghĩa như là những qui định về quản lý. Về mặt pháp lý
và chính thống thì không có khái niệm “cơ chế”. Tuy nhiên, theo Từ điển
Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học biên soạn và xuất bản năm 2000 thì “cơ

chế là cách thức mà theo đó một quá trình được thực hiện”.
“Tài chính” theo quan niệm phổ biến, tài chính có biểu hiện bên ngoài
là các hiện tượng thu, chi bằng tiền; có nội dung vật chất là các nguồn tài
chính, các quỹ tiền tề; có nội dung kinh tế bên trong là các quan hệ kinh tếquan hệ phân phối dưới hình thức giá trị (gọi tắt là quan hệ tài chính) nảy sinh
trong quá trình tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ. Như vậy, “tài chính”, về
bản chất, là các quan hệ kinh tế trong phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới
hình thức giá trị, thông qua đó tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ, nhằm đáp
ứng yêu cầu tích lũy và tiêu dùng của các chủ thể trong nền kinh tế.
Cơ chế tài chính, theo từ điển Thuật ngữ Kinh tế học, là “tổng thể các
biện pháp, hình thức tổ chức quản lý quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng
các nguồn tài chính trong nền kinh tế quốc dân. Cơ chế quản lý tài chính phải
phù hợp và thích ứng với cơ chế quản lý kinh tế của từng giai đoạn phát triển
xã hội”
• Cơ chế tự chủ tài chính
Trong một hệ thống tổ chức, xét trên góc độ quản lý thì tự chủ là mối
quan hệ giữa quyền và trách nhiệm giữa một bên là cấp quản lý và một bên
15


là cấp bị quản lý. Trên cơ sở pháp luật, cấp quản lý trao quyền cho các chủ
thể bị quản lý. Chủ thể được trao quyền được quyền tự quyết định, tự chịu
trách nhiệm về mọi lĩnh vực hoạt động của đơn vị tự chủ. Trọng tâm của tự
chủ bao gồm:
- Tự chủ về quản lý chuyên môn;
- Tự chủ về quản lý nhân sự và bộ máy;
- Tự chủ về quản lý tài chính.
Về khía cạnh quản lý tài chính, tự chủ về quản lý tài chính nghĩa là chủ
thể được trao quyền được giao khoán kinh phí, được quyền tự quyết định mọi
hoạt động về việc sử dụng nguồn tài chính ra sao, các hình thức huy động và
phân bổ nguồn tài chính để đạt được mục tiêu đề ra và được sử dụng các kết

quả tài chính theo quy định của pháp luật.
Như vậy, “cơ chế tự chủ tài chính trong các tổ chức KH&CN công lập
là tổng thể các biện pháp, hình thức tổ chức quản lý quá trình tạo lập, phân
phối và sử dụng các nguồn tài chính mà trong đó các tổ chức khoa học công
nghệ công lập được giao khoán kinh phí, được quyền tự quyết định mọi hoạt
động về sử dụng nguồn tài chính, các hình thức huy động và phân bổ nguồn
tài chính theo quy định của pháp luật để đạt được mục tiêu đề ra và được chủ
động sử dụng các kết quả tài chính phục vụ sự phát triển của đơn vị”.
Cơ chế tự chủ tài chính trong các tổ chức khoa học và công nghệ công
lập thể hiện quan hệ phân phối lợi ích giữa nhà nước với ngành khoa học và
công nghệ; giữa ngành khoa học và công nghệ với các đơn vị trong ngành nói
chung, với các tổ chức khoa học và công nghệ nói riêng và giữa các tổ chức
khoa học và công nghệ với nhau. Do phải giải quyết các mối quan hệ lợi ích
nên cơ chế tài chính nói chung, cơ chế tự chủ tài chính nói riêng rất nhạy cảm.
Nó liên quan đến phân phối nguồn vốn của xã hội. Việc phân phối đúng sẽ
thúc đẩy nền kinh tế nói chung, hoạt động khoa học và công nghệ nói riêng
phát triển và ngược lại.
16


Bản chất cơ chế tự chủ tài chính trong các tổ chức khoa học và công
nghệ công lập được thể hiện trên những khía cạnh chủ yếu sau đây:
- Thứ nhất, phản ánh mối quan hệ giữa đơn vị dự toán các cấp với cơ
quan chủ quản và cơ quan quản lý nhà nước;
- Thứ hai, nguồn tài chính cho các tổ chức khoa học và công nghệ rất
đa dạng, bao gồm: nguồn từ ngân sách nhà nước; nguồn thu từ các hoạt động
sự nghiệp; vốn tài trợ, viện trợ, quà biếu, tặng của các cá nhân, tổ chức trong
và ngoài nước; nguồn kinh phí khác của tổ chức khoa học và công nghệ;
- Thứ ba, việc tổ chức phân phối sử dụng và sự vận động của các nguồn
tài chính trong tổ chức khoa học và công nghệ công lập do các tổ chức khoa

học và công nghệ đó quyết định.
1.2.2. Sự cần thiết phải thực hiện cơ chế tự chủ tài chính
Tổ chức khoa học và công nghệ có chức năng chủ yếu là nghiên cứu
khoa học, nghiên cứu triển khai và phát triển công nghệ, hoạt động dịch vụ
khoa học và công nghệ…, theo đó nguồn tài chính cho các tổ chức khoa học
và công nghệ này sẽ bao gồm những khoản cấp phát theo chế độ từ ngân sách
nhà nước, một số khoản thu khác có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, các
khoản thu do đơn vị tự khai thác, hoặc từ quyên góp, tặng, biếu không phải
nộp ngân sách nhà nước.
Giữa ngân sách nhà nước, tài chính của các tổ chức khoa học và công
nghệ luôn có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó ngân sách nhà nước có vai
trò quan trọng và chi phối các thành tố khác. Một bộ phận rất lớn của chi ngân
sách nhà nước được các tổ chức khoa học và công nghệ sử dụng trực tiếp, do
đó, hiệu quả tài chính của các khu vực này có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu
quả chi ngân sách nhà nước. Ngược lại, quy mô và hiệu quả của ngân sách
nhà nước cũng sẽ quyết định, chi phối tiềm lực và hiệu quả tài chính các tổ
chức khoa học và công nghệ.

17


Tuy nhiên, việc sử dụng ngân sách nhà nước vẫn còn nhiều bất cập,
chẳng hạn như do chưa xây dựng khuôn khổ tài chính trung hạn nên hạn chế
tính chiến lược của ngân sách và không phù hợp với việc quản lý các dự án tài
chính lớn cần thực hiện trong nhiều năm; bố trí ngân sách còn bị động, co kéo
với các mục tiêu ngắn hạn; cơ cấu chi ngân sách còn bất hợp lý, vẫn còn
những khoản chi mang tính bao cấp; phạm vi chi ngân sách chưa được xác
định rõ nên khó giảm được gánh nặng chi ngân sách trong khi quy mô ngân
sách còn nhỏ… Mặt khác, việc chi bao cấp, bao biện đã tạo tư tưởng ỷ lại,
làm giảm động lực phát triển và cản trở việc thu hút đầu tư xã hội vào việc

cung cấp dịch vụ công. Việc phân bổ, quản lý và sử dụng ngân sách còn kém
hiệu quả, sử dụng lãng phí. Công tác kiểm soát chi vẫn nặng nề về số lượng,
chưa chú ý đúng mức đến chất lượng, hiệu quả khoản chi... Đối với các tổ
chức khoa học và công nghệ, định mức, chế độ chi tiêu lạc hậu, thiếu cụ thể,
không đồng bộ; cơ chế quản lý biên chế, quản lý kinh phí ngân sách còn bất
cập, chưa tạo động lực khuyến khích sử dụng kinh phí tiết kiệm, hiệu quả, dẫn
đến tình trạng lãng phí khá phổ biến…
Do đó, để việc sử dụng nguồn tài chính của Nhà nước hiệu quả, khi tiến
hành nghiên cứu xây dựng chương trình cải cách tổng thể hành chính nhằm
thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, cải cách tài chính công
đã trở thành một trong bốn nội dung quan trọng trong chương trình cải cách
tổng thể nhằm xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh,
chuyên nghiệp, hiện đại hoá, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Cải cách tài chính công tác động tới cải cách hành chính nhà nước cả ở
phạm vi rộng và phạm vi hẹp. Xét trên phạm vi rộng, cải cách tài chính công
là cải cách các hoạt động thu và chi bằng tiền của nhà nước, thông qua đó tác
động đến toàn bộ hoạt động quản lý nhà nước và cung ứng dịch vụ công trên

18


các lĩnh vực. Trên phạm vi hẹp, vai trò của tài chính công đối với cải cách
hành chính được xem xét thông qua các tác động trực tiếp của tài chính công
tới bản thân bộ máy hành chính nhà nước, cụ thể tới cách thức tổ chức bộ
máy, cơ cấu tổ chức, quan hệ phân cấp trong bộ máy, cơ chế tài chính bên
trong bộ máy, tiền lương công chức...
Theo đó, cải cách tài chính công phải đáp ứng các yêu cầu sau:
- Tạo điều kiện tập trung nguồn lực tài chính nhà nước để giải quyết
các nhiệm vụ quan trọng, đúng với chức năng của nhà nước; sử dụng tập

trung nguồn lực cho các ưu tiên chiến lược với chính sách nhất quán, thống
nhất và thực tế.
- Nâng cao được tính chủ động, quyền hạn và trách nhiệm của các đơn vị
trong việc quản lý, sử dụng kinh phí ngân sách và với vấn đề tài chính của mình.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính nhà nước, bao gồm
hiệu quả quản lý, hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước trên bình diện vĩ
mô và hiệu quả sử dụng kinh phí ngân sách ở các đơn vị trực tiếp sử dụng
ngân sách.
- Hướng tới mục tiêu cuả cải cách hành chính nhà nước, đó là: nâng cao
hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước, nâng cao chất lượng các dịch vụ
công được cung cấp.
Cải cách tài chính công và cải cách hành chính nhà nước có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau, những biến động của bộ phận này luôn tác động kéo
theo sự thay đổi của bộ phận kia. Do vậy, cải cách tài chính công phải đặt
trong mối quan hệ tổng thể của chương trình cải cách hành chính nhà nước,
phải đáp ứng được các yêu cầu của cải cách hành chính và hỗ trợ cho quá
trình này.
Để đáp ứng các yêu cầu của cải cách tài chính công đặt ra, một trong
các giải pháp được đưa ra là tăng cường tính chủ động về tài chính của các

19


đơn vị hành chính sự nghiệp trên cơ sở gắn chi tiêu tài chính với việc cải
tiến cơ chế quản lý của các đơn vị này. Việc khoán biên chế và chi phí hành
chính đối với các cơ quan hành chính và quyền tự chủ về tài chính đối với
các đơn vị sự nghiệp có thu cần được hoàn chỉnh và áp dụng mở rộng trong
thời gian tới.
Để thực hiện giải pháp này, về lĩnh vực khoa học và công nghệ, ngày
05/9/2005 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 115/2005/NĐ-CP quy định

chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KH&CN công lập.
1.2.3. Mục tiêu và nội dung cơ chế tự chủ tài chính đối với các tổ chức
khoa học và công nghệ
1.2.3.1. Mục tiêu của việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính
Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm nói chung, tự chủ về tài
chính nói riêng là để:
- Tăng cường trách nhiệm và nâng cao tính tích cực, chủ động, năng
động, sáng tạo của tổ chức khoa học và công nghệ và Thủ trưởng tổ chức
khoa học và công nghệ.
- Tạo điều kiện gắn nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ với
sản xuất, kinh doanh và đào tạo nhân lực, đẩy nhanh quá trình xã hội hóa các
hoạt động khoa học và công nghệ.
- Tạo điều kiện tập trung đầu tư có trọng điểm cho các tổ chức khoa
học và công nghệ.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ,
góp phần tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước.
Như vậy, việc thực hiện tốt tính tự chủ của các đơn vị gắn với sự chủ
động về tài chính; tạo ra cơ chế tài chính khuyến khích các đơn vị chi tiêu có
hiệu quả, hướng vào kết quả đầu ra và tiết kiệm ngân sách, trên cơ sở đó tăng
cường thu nhập cho người lao động. Đó chính là những động lực thúc đẩy các

20


cơ quan trong bộ máy nhà nước đổi mới về tổ chức, phương thức hoạt động
và nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, làm cho bộ máy nhà
nước hoạt động có hiệu lực và hiệu quả hơn. Tự chủ về tài chính không chỉ
mang lại lợi ích cho nhà nước, cho các bộ, ngành, địa phương, đơn vị trực tiếp
sử dụng các nguồn lực tài chính mà còn mang lại lợi ích cho mọi tầng lớp
nhân dân, những người có quyền giám sát việc sử dụng các nguồn lực tài

chính, đồng thời là người thụ hưởng dịch vụ công được cung cấp bởi những
nguồn lực tài chính; góp phần thể hiện vai trò tài chính công xứng đáng với
vai trò, vị trí của nó trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trong thời
kỳ mới.
1.2.3.2. Nội dung của cơ chế tự chủ tài chính
Nội dung tự chủ quản lý tài chính của tổ chức khoa học và công nghệ
công lập gồm: tủ chủ về nguồn thu và tự chủ về việc chi tiêu. Trong đó:
1.2.3.2.1. Về tự chủ nguồn thu
Các nguồn thu của tổ chức khoa học và công nghệ bao gồm:
a) Thu từ ngân sách nhà nước
Nhà nước cấp ngân sách cho các tổ chức khoa học và công nghệ để
thực hiện các nội dung công việc sau:
- Thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ, bao gồm:
+ Nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng: là những nhiệm vụ được cơ
quan có thẩm quyền giao Quyết định thành lập, Điều lệ hoặc Quy chế tổ chức
và hoạt động của đơn vị.
+ Nhiệm vụ khoa học và công nghệ của Nhà nước, bao gồm:
 Nhiệm vụ thông qua tuyển chọn, xét chọn: là những nhiệm vụ khoa
học và công nghệ mà các tổ chức khoa học và công nghệ tham gia tuyển
chọn, xét chọn thực hiện căn cứ vào danh mục các nhiệm vụ khoa học và

21


công nghệ do Bộ Khoa học và Công nghệ, các Bộ, ngành và địa phương công
bố hàng năm.
 Nhiệm vụ do các cơ quan nhà nước giao hoặc đặt hàng trực tiếp: là
những nhiệm vụ cơ quan nhà nước giao hoặc đặt hàng trực tiếp cho tổ chức
khoa học và công nghệ thực hiện.
Ngân sách nhà nước cấp kinh phí cho tổ chức khoa học và công nghệ

thực hiện các nhiệm vụ này theo dự toán ngân sách được cấp có thẩm quyền
giao hàng năm.
- Thực hiện hoạt động thường xuyên: là nhiệm vụ nhằm bảo đảm hoạt
động của đơn vị, được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và giao trực tiếp phù
hợp với chức năng, nhiệm vụ của tổ chức quy định tại quyết định thành lập
hoặc điều lệ tổ chức và hoạt động (xây dựng kế hoạch; hoạt động thông tin,
tuyên truyền; hoạt động hợp tác quốc tế; hội nghị, hội thảo chuyên ngành; đào
tạo, tập huấn; quản lý cán bộ, tài sản; duy trì hoạt động bộ máy).
Kinh phí chi cho hoạt động thường xuyên bao gồm tiền lương, tiền
công và tiền chi hoạt động bộ máy của tổ chức khoa học và công nghệ.
Việc cấp kinh phí hoạt động thường xuyên cho các tổ chức khoa học và
công nghệ được quy định như sau:
+ Đối với tổ chức KH&CN thuộc đối tượng quy định tại khoản 1, Điều
4 Nghị định số 115/2005/NĐ-CP sửa đổi: Ngân sách Nhà nước không cấp
trực tiếp kinh phí hoạt động thường xuyên. Chậm nhất đến ngày 01/01/2014
kinh phí hoạt động thường xuyên được xác định và bố trí trong dự toán kinh
phí thực hiện nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng, nhiệm vụ khoa học và
công nghệ của Nhà nước.
+ Đối với tổ chức khoa học và công nghệ thuộc đối tượng quy định tại
khoản 2, Điều 4 Nghị định số 115/2005/NĐ-CP sửa đổi và các tổ chức khoa
học và công nghệ đã được phê duyệt đề án chuyển đổi theo quy định tại

22


Khoản 1, Điều 4 Nghị định số 115/2005/NĐ-CP sửa đổi nhưng thực tế hiện
nay chưa tự đảm bảo được kinh phí hoạt động thường xuyên:
Ngân sách Nhà nước cấp kinh phí hoạt động thường xuyên theo
phương thức khoán chậm nhất đến hết ngày 31/12/2013. Mức khoán kinh phí
hoạt động thường xuyên không thấp hơn mức ngân sách nhà nước cấp chi

hoạt động thường xuyên của năm trước liền kề hoặc của năm được phê duyệt
Đề án; ngoài ra Nhà nước cấp bổ sung các khoản chi thường xuyên tăng thêm
cho các tổ chức khoa học và công nghệ do mở rộng tổ chức và tăng cường
nhiệm vụ theo quyết định của cấp có thẩm quyền và kinh phí thực hiện chính
sách cải cách tiền lương do Nhà nước quy định.
Cơ quan chủ quản quyết định mức khoán kinh phí hoạt động thường
xuyên căn cứ vào nguồn thu và dự toán chi của tổ chức khoa học và công
nghệ hàng năm. Khuyến khích các tổ chức khoa học và công nghệ tăng cường
các nguồn thu, giảm dần dự toán chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước
hàng năm.
Chậm nhất đến ngày 01/01/2014, nhà nước không cấp trực tiếp kinh phí
hoạt động thường xuyên mà kinh phí hoạt động thường xuyên được xác định
và gắn với kinh phí thực hiện nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng, nhiệm
vụ khoa học và công nghệ của Nhà nước.
+ Đối với tổ chức khoa học và công nghệ hoạt động trong lĩnh vực
nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược, chính sách, nghiên cứu xây
dựng định mức kinh tế - kỹ thuật chuyên ngành, phục vụ quản lý nhà nước
thuộc đối tượng quy định tại khoản 3, Điều 4 Nghị định số 115/2005/NĐCP sửa đổi:
Ngân sách nhà nước cấp kinh phí hoạt động thường xuyên theo hình
thức khoán. Mức khoán kinh phí hoạt động thường xuyên căn cứ vào chức
năng, nhiệm vụ được giao hàng năm của đơn vị không thấp hơn mức kinh phí

23


ngân sách nhà nước cấp chi kinh phí hoạt động thường xuyên của năm trước
liền kề; ngoài ra được tính tăng thêm đối với các khoản chi thực hiện cải cách
tiền lương, mở rộng tổ chức và tăng cường nhiệm vụ theo quyết định của cấp
có thẩm quyền.
Ngoài kinh phí thường xuyên được cấp theo mức khoán nêu trên, chậm

nhất đến ngày 01/01/2014, loại hình tổ chức khoa học và công nghệ này được
giao kinh phí hoạt động thường xuyên trong dự toán chi thực hiện các nhiệm
vụ khoa học và công nghệ của Nhà nước. Với loại hình tổ chức khoa học và
công nghệ này, trong dự toán chi nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng
không có kinh phí hoạt động thường xuyên.
+ Đối với tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, tổ chức
dịch vụ khoa học và công nghệ công lập thành lập sau ngày 05/10/2005:
Kinh phí hoạt động thường xuyên hàng năm được cấp theo phương
thức khoán tối đa trong 04 năm (với các tổ chức thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương tối đa trong 06 năm) kể từ ngày được thành
lập. Định mức kinh phí hoạt động thường xuyên do cơ quan có thẩm quyền
quyết định trên cơ sở Đề án thành lập tổ chức KH&CN đã phê duyệt, tối đa
bằng định mức phân bổ dự toán chi quản lý hành chính áp dụng đối với các
cơ quan hành chính cùng cấp theo quy định tại các Quyết định phân bổ dự
toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước và theo phương thức tính định
mức chi hành chính áp dụng cho năm tài khóa mà tổ chức KH&CN đó được
thành lập.
Sau thời gian thành lập mới nói trên, các tổ chức này sẽ được Nhà nước
giao kinh phí hoạt động thường xuyên trong dự toán kinh phí thực hiện nhiệm vụ
thường xuyên theo chức năng và nhiệm vụ khoa học và công nghệ của Nhà nước.

24


- Kinh phí đầu tư xây dựng cơ bản; vốn đối ứng dự án; kinh phí mua
sắm trang thiết bị và sửa chữa lớn tài sản cố định bố trí trong phạm vi dự toán
chi ngân sách được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Các nguồn kinh phí khác (nếu có).
b) Nguồn thu từ các hoạt động sự nghiệp, bao gồm: thu từ phí và lệ phí
theo quy định; thu từ hoạt động cung ứng dịch vụ; thu từ hợp đồng nghiên

cứu khoa học và phát triển công nghệ, hợp đồng chuyển giao công nghệ; thu
từ hoạt động sản xuất, kinh doanh; thu sự nghiệp khác (nếu có).
Các tổ chức khoa học và công nghệ công lập được mở tài khoản riêng
(kể cả tài khoản ngoại tệ) tại Kho bạc hoặc Ngân hàng để thực hiện các giao
dịch đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh theo quy định.
Tổ chức khoa học và công nghệ chủ động khai thác, ký hợp đồng với
các tổ chức, cá nhân và tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Nội dung hợp đồng
nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ,
cung cấp hàng hóa, và các loại hợp đồng kinh tế khác do tổ chức khoa học và
công nghệ tự thoả thuận với đối tác trên cơ sở phù hợp với khả năng, lĩnh vực
chuyên môn của tổ chức khoa học và công nghệ theo quy định của pháp luật.
c) Tài trợ, viện trợ, quà biếu, tặng của các cá nhân, tổ chức trong và
ngoài nước.
d) Nguồn kinh phí khác của tổ chức khoa học và công nghệ, bao gồm:
vốn khấu hao tài sản cố định; thu thanh lý tài sản được để lại theo quy định;
vốn huy động của các cá nhân, vốn vay các tổ chức tín dụng; vốn tài trợ, viện
trợ, quà biếu, tặng của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước; các nguồn
kinh phí hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
Nhà nước khuyến khích các tổ chức khoa học và công nghệ khai thác
nguồn thu từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phù hợp với lĩnh
vực chuyên môn của tổ chức khoa học và công nghệ và các nguồn thu hợp

25


×