Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

“ các phương tiện ngôn ngữ biểu thị thời gian trong thơ văn cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.3 KB, 64 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất của con người, ngôn
ngữ đồng thời cũng là công cụ để tư duy và tri nhận về thế giới hiện thực
khách quan. Trong giao tiếp ngoài các yếu tố chính làm nên nội dung trao đổi
thông tin thì còn có nhiều yếu tố khác được phản ánh qua ngôn ngữ trong đó
có thời gian. Nhờ yếu tố thời gian mà ta biết sự tình diễn ra vào lúc nào, diễn
ra vào thời điểm nào so với hiện tại.
Thời gian được biểu hiện bằng các phương tiện ngôn ngữ là những chi
dẫn quan trọng trong tác phẩm văn học vì nó có thể cho ta những hướng giải
mã ngôn ngữ khi đi vào loại hình giao tiếp đặc biệt – giao tiếp nghệ thuật.
1.2 Văn Cao là một nghệ sĩ đa tài, ông không chi được biết đến như một
nhạc sĩ, một họa sĩ mà còn là một nhà thơ. Văn Cao để lại cho đời không
nhiều thi phẩm nhưng thơ chính là phần tinh túy cốt lõi trong tâm hồn ông.
Trong hầu hết các sáng tác của mình, ý niệm về thời gian luôn trở đi trở lại
trở thành nỗi ám ảnh trong thơ Văn Cao. Dưới góc nhìn của ngôn ngữ, nghiên
cứu các phương tiện ngôn ngữ biểu thị thời gian trong thơ Văn Cao cho phép
ta có được cái nhìn toàn vẹn hơn khi giải mã những tín hiệu biểu thị thời gian
trong thơ ông.
Xuất phát từ những lí do trên, người viết mạnh dạn lựa chọn đề tài “ Các
phương tiện ngôn ngữ biểu thị thời gian trong thơ Văn Cao” làm khóa luận
tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử vấn đề
2.1 Lịch sử vấn đề nghiên cứu các phương tiện ngôn ngữ biểu thị ý nghĩa
thời gian
Các phương tiện ngôn ngữ biểu thị thời gian trong tiếng Việt đã được
các nhà ngôn ngữ học nghiên cứu từ lâu. Trong những thế ki trước, các
phương tiện ngôn ngữ biểu thị thời gian trong tiếng Việt được các nhà ngữ
1



pháp học quan tâm, sang đến những thập niên gần đây các phương tiện ngôn
ngữ biểu thị thời gian trong tiếng Việt không chi được nhìn nhận ở góc độ
ngữ pháp mà còn được nhìn nhận ở góc độ từ vựng – ngữ nghĩa và mở rộng ra
với ánh sáng của lý thuyết ngôn ngữ học tri nhận.
- Ở góc độ ngữ pháp có thể kể đến các công trình nghiên cứu về ý nghĩa thời
gian và các phương tiện ngôn ngữ biểu thị thời gian như sau.
+ Đinh Văn Đức (1985) Ngữ pháp tiếng việt, từ loại, NXB ĐHQGHN.
+ Nguyễn Anh Quế (1989) Hư từ trong tiếng việt hiện đại.
+ Nguyễn Văn Thành (1992) Hệ thống các từ chỉ thời thể và phạm tru
ngữ pháp của các cấu trúc thời thể của động từ tiếng việt.
+ Nguyễn Minh Thuyết (1995) Các tiền phó từ chỉ thời, thể trong
tiếng Việt.
+ Nguyễn Thị Quy (1995) Vị từ hành động tiếng việt và các tham tố của
nó (so sánh với tiếng Nga và tiếng Anh).
+ Trần Kim Phượng, Ngữ pháp tiếng việt những vấn đề về thời và thể
(2008), NXB Giáo dục.
Tuy vẫn còn có nhiều ý kiến trái chiều về các phương tiện ngôn ngữ biểu
thị thời gian trong tiếng việt đặc biệt là phạm trù thời - phạm trù vẫn còn có
những ý kiến nhận định chưa thống nhất, nhưng có thể khẳng định tiếng
Việt có một hệ thống các phương tiện ngôn ngữ phong phú biểu thị ý
nghĩa thời gian.
Tiếp cận các phương tiện ngôn ngữ biểu thị ý nghĩa thời gian từ góc độ
logic từ vựng – ngữ nghĩa Nguyễn Đức Dân, trong Biểu hiện và nhận diện
thời gian trong tiếng việt (NXB Giáo dục 1996) tác giả đã tìm ra ý nghĩa thời
gian được biểu hiện qua một từ (đã, sẽ, đang, rồi, xong, còn, vẫn..) Cấu trúc
ngữ pháp (bị/ được), đánh dấu qua hành vi ngôn ngữ… Luận văn thạc sĩ của
Trịnh Thị Thanh Hải (2005) Đại học sư phạm Hà Nội với đề tài “Một số
phương tiện biểu thị ý nghĩa thời gian trong tiếng Việt” đã chi ra một số
phương tiện biểu thị ý nghĩa thời gian trong tiếng Việt trên các bình diện: kết
học, nghĩa học và dụng học.

2


Ngoài ra còn có các khóa luận, luận văn đề cập đến vấn đề thời gian và
các phương tiện ngôn ngữ biểu thị thời gian trong tác phẩm văn học cụ thể
như sau:
- Khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Thị Thơm (1981-1985) trường Đại
học Sư phạm Hà Nội với đề tài “Khảo sát yếu tố chỉ thời gian và không gian
trong một số tác phẩm của Tô Hoài”, khóa luận đã khảo sát một số yếu tố chi
thời gian và không gian trong tác phẩm của Tô Hoài, chi ra giá trị sử dụng của
các yếu tố này trong việc thiết lập nên thế giới nghệ thuật trong tác phẩm của
Tô Hoài.
- Khóa luận tốt nghiệp của Phạm Thị Mai Sương (2003) đề cập đến vấn
đề này với đề tài “Mạch lạc trong quan hệ thời gian trong truyện Kiều”, khóa
luận khảo sát các phương tiện tạo nên mạch lạc trong quan hệ thời gian với
nguồn ngữ liệu Truyện Kiều.
- Khóa luận tốt nghiệp của Đoàn Văn Dũng (2003) “Tìm hiểu cách biểu
hiện thời gian trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.”, khóa luận đã bước đầu
tìm hiểu cách biểu hiện thời gian trong Truyện Kiều và chi ra những hiệu quả
nghệ thuật của cách biểu hiện thời gian này trong Truyện Kiều.
- Luận văn thạc sĩ Lại Thị Hương Giang (2011) Phương tiện ngôn ngữ
biểu hiện thời gian trong thơ Hoàng Cầm, luận văn đã bước đầu khảo sát các
phương tiện ngôn ngữ biểu hiện thời gian trong thơ Hoàng Cầm và đưa ra
những nhận xét về giá trị của các phương tiện ngôn ngữ biểu thị thời gian
trong thơ ông.
Sang đến thế ki XX, lý thuyết ngôn ngữ học tri nhận ra đời mà đơn vị
trung tâm nghiên cứu là ẩn dụ ý niệm đã mở ra hướng nghiên cứu mới mẻ và
thu được những thành tựu đáng kể trong nghiên cứu ngôn ngữ học, trong đó
các phương tiện ngôn ngữ biểu thị thời gian cũng là một trong đối tượng
nghiên cứu tiềm năng, gợi mở những kết quả thú vị. Các bài nghiên cứu của

Nguyễn Đức Dân “Tri nhận thời gian trong tiếng việt” Tạp chí Ngôn ngữ số
12/ 2009 đã chi ra người Việt đã tận dụng các lớp từ ngữ không gian và một
3


số lớp từ ngữ khác để tạo ra từ ngữ mới chi thời gian. Luận án Phan Thế
Hưng (2009) Ẩn dụ dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận (trên cứ liệu tiếng
Việt và tiếng Anh) đã phân tích cụ thể các cấu trúc định vị thời gian trong
tiếng việt, luận án đã đưa ra một cách hệ thống công phu và ti mi những cấu
trúc định vị thời gian trong tiếng việt và ẩn dụ ý niệm về thời gian trong tri
nhận của người Việt và người Anh.
- Luận văn thạc sĩ của Vũ Hồng Tiệp (2011) “Ý niệm thời gian trong các
phương tiện ngôn ngữ biểu thị ý nghĩa thời gian trong tiếng việt” Luận văn đã
chi ra các phương tiện ngôn ngữ biểu thị thời gian trong tiếng việt và chi rõ
những ý niệm của người Việt về phạm trù thời gian qua các phương tiện ngôn
ngữ đó. Có thể nói đây là công trình đã giải mã được cơ chế ánh xạ từ miền
nguồn đến miền đích của ý niệm về phạm trù thời gian.
Các công trình nghiên cứu kể trên đã hệ thống các phương tiện ngôn ngữ biểu
thị thời gian trên các góc độ ngữ pháp, logic ngữ nghĩa, ngôn ngữ học tri
nhận. Các phương tiện ngôn ngữ biểu thị thời gian này còn phản ánh đặc
trưng tư duy văn hóa dân tộc người Việt. Sự vận dụng các phương tiện ngôn
ngữ biểu thị thời gian trong tác phẩm văn học, là phương tiện góp phần tạo
nên thế giới nghệ thuật đặc biệt là không – thời gian trong tác phẩm nghệ
thuật.
Những kết quả từ các công trình nghiên cứu này là cơ sở để chúng tôi tiếp
thu và định hướng phát triển cho khóa luận của mình.
2.2 Lịch sử vấn đề nghiên cứu thơ Văn Cao
Văn Cao để lại cho đời với số lượng không nhiều thi phẩm nhưng thơ
ông chịu nhiều số phận thăng trầm như chính số phận ông. Xoay quanh hiện
tượng thơ Văn Cao có nhiều ý kiến nhận xét trái chiều, trong đó nổi lên hai

luồng ý kiến, đánh giá. Thứ nhất: Luồng ý kiến coi thơ Văn Cao là sản phẩm
của một thứ “chủ nghĩa cá nhân tuyệt đối”, là “một mớ bèo nhèo bùng nhùng
4


những quan điểm nghệ thuật tư sản” đại diện cho luồng ý kiến đánh giá khắt
khe này là Xuân Diệu in trong Những tư tưởng nghệ thuật của Văn Cao trong
Dao mài mới sắc. Thứ hai: Ý kiến khẳng định giá trị thơ Văn Cao trên hành
trình thơ ca Việt Nam hiện đại tiêu biểu như những đánh giá của Nguyễn
Thụy Kha, Tạ Tỵ. Nguyễn Thụy Kha cho rằng: “ Đến hôm nay có thể khẳng
định tài năng thơ Văn Cao đã hoàn toàn lộ sáng anh là một thi sĩ thứ thiệt.”
Trinh Đường khẳng định “Không thể nói khác, Văn Cao là một nhà thơ lớn
của thể kỉ này và lớn nhất trong mọi thế hệ thơ từ cách mạng”. Những tác
phẩm nghệ thuật có giá trị là những tác phẩm có thể đứng vững sau cơn bão
táp phong ba với sự đánh giá khắc nghiệt bởi thời gian. Các sáng tác của Văn
Cao là những tác phẩm nghệ thuật như thế, càng về sau Thơ Văn Cao đã
khẳng định vị trí của mình trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Thơ Văn Cao
dần trở thành đối tượng quan tâm nghiên cứu của các học giả, nhà nghiên cứu,
học viên cao học, sinh viên. Các công trình nghiên cứu về thơ Văn Cao có thể
kể đến như:
- Lữ Huy Nguyên (tuyển chọn) (1996) Văn Cao – cuộc đời và tác phẩm,
công trình tổng hợp các tác phẩm và bài viết bình luận về cuộc đời, tác phẩm
thơ, nhạc, họa Văn Cao
- Khóa luận tốt nghiệp của Trần Ngọc Hiếu (2003) Cái nhìn nghệ thuật
trong thơ Văn Cao, tác giả đã đưa ra nhận định về cái nhìn nghệ thuật trong
thơ Văn Cao qua các phương diện : Con người, không gian, thời gian nghệ
thuật…từ đó khẳng định vị trí văn học sử thơ Văn Cao trên nền thơ ca Việt
Nam hiện đại.
- Khóa luận tốt nghiệp Cái tôi trữ tình trong thơ Văn Cao của Đỗ Thị
Hoan (2005) đưa ra các dạng thức cái tôi trữ tình trong thơ Văn Cao, trong

phương diện nghệ thuật nhận định về giọng điệu, hình ảnh và thể thơ Văn
Cao.

5


- Các công trình nghiên cứu về Thế giới nghệ thuật thơ Văn Cao của
Nguyễn Thị Việt Hương (2008), Chất nhạc và họa trong thơ Văn Cao, luận
văn thạc sĩ Đỗ Thu Hà (2008).
Các công trình kể trên đã tiếp cận thơ Văn Cao dưới góc độ nghiên cứu văn
học, tiếp cận thơ Văn Cao dưới góc độ ngôn ngữ học có công trình (2008)
“Mối quan hệ giữa hệ thống biểu tượng trong thơ và họa Văn Cao” luận văn
Thạc sĩ của Đỗ Thị Mỹ Hà. Công trình nghiên cứu các biểu tượng trong thơ
và họa Văn Cao bao gồm các biểu tượng có trong thơ và họa, các biểu tượng
chi có trong thơ mà không có trong họa: tác giả miêu tả các biểu tượng: khuôn
mặt, màu sắc, khoảng trống, đêm…trong thơ Văn Cao một cách hệ thống và ti
mi và phân tích các hướng nghĩa biểu trưng của các biểu tượng này trong thơ
và họa.
Chúng tôi chia sẻ cách tiếp cận khách quan khi nghiên cứu về thơ Văn Cao,
chúng tôi sẽ khai thác hướng tiếp cận từ ngôn ngữ học, tìm hiểu chất liệu của
văn học và lý giải những giá trị thẩm mĩ khi sử dụng các hệ thống phương
tiện ngôn ngữ đó trong thơ Văn Cao.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khóa luận
- Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu các phương tiện ngôn ngữ biểu thị các phương diện
khác nhau của thời gian trong thơ Văn Cao.
- Phạm vi nghiên cứu
Tư liệu khảo sát của khóa luận là Tuyển tập Văn Cao thơ, NXB Văn học,
Hà Nội 1994 gồm 59 bài thơ và 1 trường ca Những người đi tới biển. Tuyển
tập Văn Cao thơ là cuốn tuyển tập hầu hết các thi phẩm sáng tác trong những

giai đoạn thơ Văn Cao chịu nhiều luồng ý kiến đánh giá trái chiều, cùng với
những thi phẩm trước đó chưa được in. Tuy chi với số lượng không nhiều tác
phẩm, nhưng đây là văn bản phản ánh được đời sống tinh thần, tư tưởng cũng
như phong cách thơ độc đáo của Văn Cao.
4. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu
6


- Nhiệm vụ của đề tài
+ Trước hết khảo sát, thống kê và phân loại các phương tiện ngôn ngữ
biểu thị thời gian trong thơ Văn Cao.
+ Miêu tả các phương tiện biểu thị thời gian ở các phương diện: Cấu
tạo, ý nghĩa và giá trị sử dụng của các phương tiện ngôn ngữ biểu thị thời gian
trong thơ Văn Cao.
- Mục đích nghiên cứu
Bước đầu tiếp cận thơ Văn Cao từ góc độ ngôn ngữ với các phương
tiện ngôn ngữ biểu thị thời gian.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp thống kê phân loại
Thống kê, phân loại các phương tiện ngôn ngữ biểu thị ý nghĩa thời
gian trong thơ Văn Cao.
5.2 Phương pháp phân tích miêu tả ngôn ngữ
Phương pháp này được vận dụng trong khi miêu tả các phương tiện ngôn
ngữ biểu thị thời gian trong thơ Văn Cao, chi ra đặc điểm về các dạng mô
hình kết hợp và miêu tả chúng.
5.3 Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Nghiên cứu các phương tiện biểu thị ý nghĩa thời gian trong thi ca với
phương pháp liên ngành ngôn ngữ – văn học – văn hóa.
6.Cấu trúc của khóa luận
Khóa luận ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung của khóa

luận chia thành ba chương
Chương 1. Các phương tiện ngôn ngữ biểu thị thời gian trong thơ
Văn Cao trên bình diện cấu tạo
Chương 2. Các phương tiện ngôn ngữ biểu thị thời gian trong thơ
Văn Cao trên bình diện ý nghĩa
Chương 3. Các phương tiện ngôn ngữ biểu thị thời gian trong thơ
Văn Cao trên bình diện giá trị sử dụng.
7


CHƯƠNG 1. CÁC PHƯƠNG TIỆN NGÔN NGỮ BIỂU THỊ
THỜI GIAN TRONG THƠ VĂN CAO TRÊN BÌNH DIỆN CẤU TẠO
1. Dẫn nhập
1.1 Lý thuyết ba bình diện của ngôn ngữ
Khi cho rằng ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt F. Saussure
đã chi ra cái biểu đạt và cái được biểu đạt trong ngôn ngữ. Trên cơ sở những
thành tựu về bản chất tín hiệu của ngôn ngữ, cùng với thời gian hướng nghiên
cứu tổng hợp ngôn ngữ trên ba bình diện: kết học; nghĩa học; dụng học đã ra
đời. Hướng nghiên cứu tổng hợp này đã mang đến cho ngôn ngữ học một
hướng nghiên cứu toàn diện, mới mẻ cho các tín hiệu ngôn ngữ.
Thuật ngữ tín hiệu được Ch.S.Peirce và Ch.U Morris nêu ra với quá
trình tín hiệu hóa có chung một cấu trúc gồm ba phần:
- Phương tiện tín hiệu (cái biểu đạt) là những sự vật hoặc hiện tượng có
tư cách tín hiệu.
- Cái được biểu đạt là cái được tín hiệu chi ra hoặc biểu thị.
- Người tạo lập hoặc người sử dụng là người dùng tín hiệu.
Tín hiệu học đã phân biệt ba loại quan hệ là kết học (quan hệ giữa tín hiệu
với tín hiệu), nghĩa học (quan hệ của tín hiệu với cái được biểu đạt) và dụng
học (quan hệ của tín hiệu với người dùng). Ba loại quan hệ của tín hiệu kể
trên gắn với ba bình diện trong nghiên cứu ngôn ngữ: bình diện kết học; bình

diện nghĩa học và bình diện dụng học.
8


1.1.1. Bình diện kết học
Đỗ Hữu Châu cho rằng: Kết học là “lĩnh vực của các quy tắc hình thức
kết hợp tín hiệu thành một thông điệp. Nói vắn tắt kết học là lĩnh vực nghiên
cứu mối quan hệ giữa tín hiệu với tín hiệu trong thông điệp.” [7; 3]. Nghiên
cứu bình diện kết học của tín hiệu tương ứng với bình diện ngữ pháp của
ngôn ngữ thường gắn với các phân ngành :
- Từ pháp học: đối tượng nghiên cứu là các từ, với mục đích xác định các
quy tắc cấu tạo từ, quy tắc biến đổi từ, đặc điểm ngữ pháp của các từ loại.
- Cú pháp học: nghiên cứu quy tắc cấu tạo cụm từ và câu (kết hợp các từ
thành cụm từ, kết hợp các từ, cụm từ thành câu, tổ chức các thành phần câu và
các kiểu câu).
Trong khóa luận chúng tôi dựa vào lý thuyết về bình diện kết học hay
bình diện ngữ pháp để xem xét cấu tạo của các phương tiện ngôn ngữ biểu thị
thời gian trong thơ Văn Cao.
1.1.2. Bình diện nghĩa học
Theo Đỗ Hữu Châu, “Nghĩa học” là phương diện của những quan hệ
giữa tín hiệu với hiện thực được nói tới trong thông điệp, nói đúng hơn là
giữa tín hiệu với vật được quy chiếu trong thông điệp. Đây là lĩnh vực có
chức năng miêu tả, của những thông tin miêu tả, thông tin sự vật.” [7;10].
Như vậy bình diện nghĩa học nghiên cứu ý nghĩa với tư cách là cái ở giữa các
biểu thức ngôn ngữ và cái mà biểu thức này miêu tả.
1.1.3. Bình diện dụng học
Dụng học là một trong ba lĩnh vực của tín hiệu học. Dụng học
(Pragmatics) là nghiên cứu mối quan hệ giữa tín hiệu với người dùng, giữa tín
hiệu với việc sử dụng tín hiệu trong các tình huống cụ thể. Bình diện dụng
học được tiếp cận muộn hơn, nhưng sức ảnh hưởng của nó rất lớn.

Ch.W.Morris định nghĩa: “dụng học nghiên cứu quan hệ giữa tín hiệu với
người lí giải chúng” và A.G Smith nói rõ hơn “Kết học nghiên cứu quan hệ
9


giữa các tín hiệu, nghĩa học nghiên cứu quan hệ giữa tín hiệu với sự vật và
dụng học nghiên cứu quan hệ giữa tín hiệu với người dung.”[7; 11]. Như vậy
dụng học chính là phần ngôn ngữ khi gắn với người sử dụng tức là phần ngôn
ngữ đi vào đời sống, gắn với hoàn cảnh giao tiếp và phát ngôn cụ thể mà
không còn hình thức cái vỏ vật chất âm thanh và ngữ nghĩa mang tính tĩnh.
Giữa ba bình diện kết học, nghĩa học, dụng học có mối quan hệ chặt chẽ,
vì vậy khi nghiên cứu đơn vị ngôn ngữ không thể tiến hành tiếp cận độc lập
riêng rẽ từng bình diện này, sự thỏa đáng kết quả nghiên cứu ngôn ngữ chi khi
soi chiếu các đơn vị ngôn ngữ trên cả ba bình diện, từ đó chức năng của nó
mới được tái hiện đầy đủ và toàn diện.
Lý thuyết về ba bình diện ngôn ngữ sẽ là hệ cơ sở lý thuyết để chúng
tôi tiếp cận các phương tiện ngôn ngữ biểu thị thời gian, tiến hành khảo sát
các phương tiện này trên bình diện cấu tạo đồng thời chi ra những ý nghĩa mà
các phương tiện ngôn ngữ biểu thị gắn liền với ngữ cảnh sử dụng và dụng ý
của chủ thể sáng tạo khi vận dụng các phương tiện ngôn ngữ biểu thị thời
gian.
1.2 Các yếu tố ngôn ngữ có thể biểu thị thời gian
Thời gian có thể được phản ánh vào trong ngôn ngữ bằng nhiều hình thức
đa dạng như: từ; cụm từ; câu; tổ chức phát ngôn; tổ chức diễn ngôn; phạm trù
thể; phạm trù thời. Dễ nhận biết nhưng không kém quan trọng hơn khi thời
gian được biểu hiện bằng các phương tiện từ vựng và một số cấu trúc ngữ
pháp. Các phương tiện ngôn ngữ biểu thị thời gian là từ có thể là những danh
từ chi thời gian như: năm, tháng, ngày…; hoặc có thể là các cụm từ như:
nhiều năm; hàng năm; chục năm… Theo Đào Thản [3; 40] trong tiếng Việt
các từ chi thời gian vô cùng phong phú và đa dạng, chúng được chia thành ba

nhóm là:
(1) Nhóm những đơn vị từ vựng thuộc danh từ:
- Thế ki, giờ, phút, giây, chốc, lát…
- Dạo, thuở, độ, hồi, lúc…
10


(2)

Chiều, sáng, trưa, buổi, ban…
Dịp, hạn, cũ, tuổi, đời…
Nay, nãy, mai, rày…
Nhóm những đơn vị từ vựng thuộc động từ: chờ, đợi, giục, hoãn,

khuất…
(3) Nhóm những đơn vị từ vựng thuộc tính từ: nhanh; chậm; gấp; sớm;
muộn; mới; già…
Việc biểu thị ý nghĩa thời gian trong tiếng việt còn được thể hiện theo
cách gián tiếp nghĩa là không sử dụng các phương tiện ngôn ngữ biểu thị thời
gian bằng chính các từ hoặc cụm từ chi đơn vị thời gian mà sử dụng các hình
ảnh, qua hình ảnh mà nhận biết được ý nghĩa về thời gian. Chẳng hạn “Trông
qua khung cửa trời vàng úa” phương tiện ngôn ngữ biểu thị thời gian trong
câu này là “trời vàng úa” có cấu tạo là cụm từ, là tín hiệu biểu thị thời gian
mùa thu trong ngữ cảnh nghệ thuật.
2. Kết quả khảo sát
Trên phương diện cấu tạo, chúng tôi sẽ dựa trên sự thể hiện của các
phương tiện ngôn ngữ trong các câu thơ theo trục cú đoạn, sự kết hợp chặt/
lỏng với các đơn vị khác trong câu để xác định đặc điểm cấu tạo của chúng.
Chẳng hạn:
VD1. Giữa buổi chiều không cơm cháo

(Những người trên biển)
VD2. Đưa võng đời tôi những buổi chiều dĩ vãng
( Những người trên biển)
Trong VD1 “buổi chiều” được xét là danh từ, trong VD2 “những buổi
chiều dĩ vãng” được xét là cụm danh từ. Như vậy 2 PTNN xét ở trên sẽ được
xếp theo cấp độ từ và cụm từ. Một vấn đề đặt ra là: đối với những PTNN là từ
thực mang ý nghĩa thời gian được biểu thị trực tiếp trong danh từ; tính từ; đại
từ và không được biểu thị trực tiếp trong một số loại số từ và động từ trong
những kết hợp cụm từ, chúng tôi khảo sát những kết hợp với danh từ, tính từ,
đại từ đồng thời các kết hợp với số từ và động từ không có ý nghĩa thời gian
11


nhưng khi kết hợp với các danh từ mang nghĩa thời gian, sự kết hợp đó chúng
tôi cũng xếp vào cụm từ, chẳng hạn : quên một ban ngày; trôi hết mua xuân…

12


Kết quả khảo sát như sau:
STT
1
2
3

Kiểu cấu tạo
Từ
Cụm từ
Tổng


Tần số xuất hiện
293
122
415

Ti lệ
70.6%
29.4%
100%

Bảng 1. Kiểu cấu tạo của các PTNN biểu thị thời gian trong thơ Văn Cao
Qua bảng khảo sát có thể thấy, các phương tiện ngôn ngữ biểu thị thời
gian trong thơ Văn Cao có tần số xuất hiện nhiều hơn cả là từ với tần số xuất
hiện 293/ 415 chiếm 70.6%; các PTNN biểu thị thời gian là cụm từ có tần số
xuất hiện ít hơn, 122/415 chiếm 29.4%. Các PTNN biểu thị thời gian là từ
thường là các danh từ, phó từ…chi thời gian : Ngày; mua; khi; lúc…Các
PTNN biểu thị thời gian này tham gia vào tạo giá trị ý nghĩa thời gian nghệ
thuật trong tác phẩm. Các PTNN biểu thị thời gian là cụm từ tuy có tần số
xuất hiện ít hơn các từ nhưng giá trị biểu đạt lớn“những buổi chiều dĩ vãng”,
“nghe thời gian”, “những buổi chiều mộng mơ”..
2.1 PTNN biểu thị ý nghĩa thời gian là tư
Trong các PTNN biểu thị ý nghĩa thời gian là từ; các phương tiện ngôn
ngữ này chủ yếu là các danh từ chi thời gian: ngày; mua; khi; lúc .. Các phó
từ chi thời gian: đã, sẽ, đang…hoặc chi từ: bao giờ, bây giờ…
STT
1
2
3
4
5


Loại từ
Danh từ
Phó từ
Chi từ
Tính từ
Tổng

Tần số xuất hiện
244
29
5
15
293

Tỷ lệ
83.3%
9.9%
1.7%
5.1%
100%

Bảng 2. Phân loại PTNN biểu thị thời gian theo loại từ
Qua bảng phân loại có thể thấy các PTNN biểu thị thời gian là danh từ có
tần số xuất hiện lớn, chiếm 244/293 với tỷ lệ 83.3%, sử dụng các danh từ chi
thời gian với tần số dày đặc, sức gợi các phương tiện ngôn ngữ biểu thị thời
13


gian thể hiện giá trị nội dung trong quan điểm nghệ thuật về thời gian trong

thơ ông.
Các danh từ biểu thị thời gian:
- Có lúc ban ngày nghe lá rụng sao hoảng hốt
(Trên đường)
- Có bao giờ tôi thật sống với mua xuân đời tôi
(Mua xuân không nở)
Các phó từ như: Đã qua cuộc chiến tranh tàn khốc
(Trong mua xuân đời tôi)
Các chi từ như: Bây giờ, bao giờ…
Bao giờ nghe được bản tình ca
Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật
( Anh có nghe thấy không)
Các tính từ chi đặc điểm thời gian: dài, gầy, xanh, thong thả, dằng dặc..
Xưa nghe thời gian thong thả trôi nhay nhứt
(Những người đi tới biển)
Các PTNN biểu thị thời gian xét từ góc độ cấu tạo có thể là từ đơn : mùa,
khi, lúc..cũng có thể có cấu tạo là từ ghép, chẳng hạn : Ngày đêm, đêm
ngày…hoặc cũng có thể có cấu tạo là từ láy như: đêm đêm, ngày ngày…
STT

Kiểu cấu

Tần số xuất hiện

Tỷ lệ

tạo
1
2
3


Từ đơn
Từ ghép
Từ láy

198
79
16

67.6%
26.9%
5.5%

4

Tổng

293

100%

Bảng 3. Phân loại PTNN biểu thị thời gian theo cấu tạo từ
Các từ đơn chiếm số lượng lớn trong các PTNN biểu thị thời gian, chủ
yếu là danh từ chi thời gian: ngày; mùa; khi; lúc…các từ đơn có tần số xuất
hiện là 198/293 chiếm 67.6%, các từ ghép có tần số xuất hiện là 79/293 chiếm
ti lệ 26.9%. Các PTNN biểu thị thời gian có cấu tạo là từ láy có tần số xuất
hiện chiếm ti lệ nhỏ. Sử dụng các từ ghép hay láy chi thời gian, Văn Cao
thường để chi tần suất hay thời gian phiếm chi cho sự tình được nhắc đến, chủ
14



yếu là cuộc cách mạng kháng chiến của ta “Ngày đêm tiếng chuyển động Hải
Phòng”, “Lửa đỏ đêm đêm trên bãi biển bập bung” con người phải gồng
mình lên cùng với tháng ngày sục sôi cùng dân tộc.
Các từ láy: ngày ngày; đêm đêm..
“ Đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày”
(Những người trên biển)
“Lửa đỏ đêm đêm trên bãi biển bập bung”
(Những người trên biển)
“Ngày đêm tiếng chuyển động Hải Phòng”
(Những người trên biển)
2.2 Các PTNN biểu thị ý nghĩa thời gian là cụm tư
Ngoài các PTNN biểu thị thời gian là từ, còn có các PTNN biểu thị
thời gian có cấu tạo là cụm từ. “Cụm từ là tổ hợp các từ theo một quan hệ ý
nghĩa và quan hệ ngữ pháp nhất định, nằm trong giới hạn của một câu, đảm
nhiệm chức năng một thành phần cú pháp trong câu” [1; 63] Trong thơ Văn
Cao, các PTNN biểu thị ý nghĩa thời gian với cấu tạo là cụm từ xuất hiện với
tần số 122/415, chiếm ti lệ 29.4%. Các PTNN biểu thị ý thời gian có cấu tạo
là cụm từ được phân loại theo quan hệ kết hợp giữa các yếu tố trong đó có sự
xuất hiện của đơn vị ngôn ngữ chi thời gian,cụ thể gồm: Cụm từ chính phụ,
cụm từ đẳng lập và cụm chủ vị. Kết quả thống kê được cụ thể hóa như sau:
ST

Cụm từ

Tần số xuất hiện

Tỷ lệ

T

1

Cụm

từ

Cụm DT

116

95.1%

Cụm ĐT
Cụm TT

5
0

4.1%
0%

0

0%

chính
phụ
2

Cụm đẳng lập


15


3
4

Cụm chủ vị
1
0.8%
Tổng
122
100%
Bảng 4. Các PTNN biểu thị thời gian là cụm từ

Qua bảng phân loại các PTNN biểu thị thời gian là cụm từ, cụm danh từ
có tần số xuất hiện lớn nhất 116/122 chiếm ti lệ 95.1%, cụm động từ có tần số
xuất hiện 5/122. Các cụm danh từ biểu thị thời gian thể hiện sự tri nhận về
thời gian thể hiện trong thơ ông, các PTNN là cụm động từ có chiếm ti lệ
4.1% tuy vậy các kết hợp của các cụm động từ này lại phản ánh cái nhìn về
thời gian trong thơ ông. Trong bảng phân loại không có sự xuất hiện của các
cụm từ đẳng lập và cụm tính từ, thơ Văn Cao ưa dùng các cụm danh từ, cụm
động từ để biểu thị thời gian. Cụm chủ vị thể hiện trong kết hợp “ gà đầu ô
kêu” tín hiệu âm thanh báo thời gian. Các cụm danh từ, cụm động từ được
miêu tả dưới đây:
2.2.1 Các PTNN biểu thị thời gian có kiểu cấu tạo là cụm động tư
Các PTNN biểu thị thời gian có kiểu cấu tạo là cụm động từ trong thơ
Văn Cao thường được cấu tạo theo mô hình:
Động tư trạng thái + Danh tư chỉ thời gian


Quên/ nghe/tiễn …các động từ này khi kết hợp với các danh từ chi thời
gian, tạo cho thời điểm, thời gian mang tính động, trong sự tương tác giữa chủ
thể và thời gian.
Quên một ban ngày đã qua nhọc nhằn chịu đựng
( Quên)
Nghe thời gian đã nhạt khúc ân tình
(Ngoại ô mua đông 1946)
Khép đui xếp phách tiễn đêm đi
(Những người trên biển)
Xưa nghe thời gian thong thả trôi nhay nhứt
(Những người trên biển)
Các cụm động từ được cấu tạo theo mô hình như trên, tạo cho thời gian
như một khách thể mà chủ thể sáng tạo có thể cảm nhận, lắng nghe, đưa
16


tiễn…thời gian như một người bạn tâm tình đối với chủ thể sáng tạo. Thời
gian đau khổ, nhọc nhằn của “một ban ngày” con người có thể quên đi. Con
người tiễn đưa thời gian đêm tối. Thời gian có thể làm “nhạt” đi “khúc ân
tình”. Thời gian có thể nghe được như thanh âm trong trẻo, thời gian thong
thả trôi.
Mô hình kết hợp của cụm động từ biểu thị thời gian trong thơ Văn Cao,
tuy chi có tần số xuất hiện chiếm ti lệ rất nhỏ nhưng những cụm động từ này
đã mang đến màu sắc mới đối với cái nhìn về thời gian, thời gian như một
khách thể mang tính động, con người có thể cảm nhận, gần gũi và tâm tình
với thời gian. Các kết hợp của cụm động từ biểu thị thời gian với kết hợp
động từ trạng thái phía trước kết hợp với danh từ chi thời gian đã thể hiện cái
nhìn về thời gian của chủ thể trữ tình với tâm hồn nhạy cảm, trải nghiệm với
thời gian trong cuộc đời mình.
2.2.2 Các PTNN biểu thị thời gian có kiểu cấu tạo là cụm danh tư

Trong số các PTNN biểu thị thời gian có cấu tạo là cụm từ, cụm danh từ
có tần suất xuất hiện nhiều hơn cả. Cụm danh từ biểu thị thời gian có thể biểu
hiện ý nghĩa thời gian gắn với các định tố miêu tả, các cụm danh từ trong thơ
Văn Cao thường có các mô hình sau:

17


Mô hình 1:
Những + danh tư chỉ thời gian + định tố miêu tả

Các cụm danh từ có mô hình kết hợp này thường biểu đạt một sự tình
và đặc điểm tính chất của thời điểm, nhưng gợi lên chút dư vị khó quên của
“buổi chiều” bởi sự kết hợp “mộng mơ/ buổi chiều” + Dĩ vãng tạo nên sức
dư ba trong ý nghĩa thời gian được nhắc đến:
Sâu những mơ mộng buổi chiều là từng tiếng xe xa
(Trong mua xuân đời tôi)
Đưa võng đời tôi những buổi chiều dĩ vãng
(Những người trên biển)
Mô hình 2:
Danh tư chỉ đơn vị tự nhiên + danh tư chỉ sự vật + danh
tư chỉ thời gian
Trong các kết hợp trong cụm danh từ, Văn Cao còn có cách kết hợp thật
đặc biệt, với cách kết hợp theo mô hình: Danh từ chi đơn vị tự nhiên + Danh
từ chi sự vật + Danh từ chi thời gian. Chẳng hạn như: mảnh mắt đêm, mảnh
mắt ngày; vũng sao khuya…. Các danh từ chi đơn vị tự nhiên: mảnh, vũng…
kết hợp với các danh từ chi sự vật và danh từ chi thời gian đem lại sự phân
tách thời gian, thời gian có thể phân tách thành các khối và chủ thể trữ tình
nương theo một điểm nào đó để bao quát toàn bộ không gian, thời gian.
Những mảnh mắt đêm, những mảnh mắt ngày

(Phố mắt)
Vũng sao khuya sóng sánh
(Một đêm Hà Nội)
Mô hình 3:

18


Danh tư chỉ sự vật (thiên nhiên, thời tiết) + tính tư

Mô hình kết hợp của cụm danh từ này thường là các PTNN biểu thị thời
gian theo cách gián tiếp. Các PTNN biểu thị thời gian gián tiếp thông qua
miêu tả các dấu hiệu biểu hiện của thiên nhiên. Chẳng hạn: Mua trăng dài;
trời vàng úa; lá me vàng… Các danh từ chi sự vật đều là những sự vật (thiên
nhiên, thời tiết) đặc trưng cho khoảng thời gian nhất định. Các tính từ chi tính
chất tiêu biểu nhất của sự vật để có thể làm “tín hiệu” báo thời gian. Chẳng
hạn: “Lá me” chưa phải dấu hiệu báo mùa thu nhưng kết hợp “Lá me vàng”
có sự kết hợp của tính từ chi tính chất tiêu biểu nhất của sự vật trong khoảng
thời gian, “lá me vàng” trở thành “tín hiệu” báo mùa thu.
Trong kết hợp “trời vàng úa”, kết hợp danh từ chi sự vật với tính từ
“vàng úa” cũng trở thành tín hiệu báo mùa thu.
Thềm ngày lăn tăn rơi
Lá me vàng
(Mua thu,)
Sương mu chìm lẫn lá vàng thưa
(Ai về Kinh Bắc)
Trông qua song cửa trời vàng úa
(Ai về Kinh Bắc)
Mô hình 4:
Danh tư chỉ thời gian + phụ sau hạn định (thường là các đại

tư sở hữu)
Các cụm danh từ chi thời gian với mô hình Danh từ chi thời gian + phụ
sau hạn định (thường là các đại từ sở hữu) thường có danh từ chi thời gian
đóng vai trò trung tâm là “mùa xuân” với các cụm danh từ như: “Mua xuân
của tôi” “Mua xuân đời tôi”, “Cả mua xuân đời tôi” …Với các kết hợp gắn
19


với danh từ trung tâm là mùa xuân kết hợp với phần phụ sau hạn định (thường
là các đại từ sở hữu) thể hiện sự tri nhận về mùa xuân của chủ thể trữ tình,
mùa xuân với cuộc đời con người, mùa xuân đời người.
Có bao giờ tôi thật sống mùa xuân của tôi
(Mua xuân không nở)
Trong cả mùa xuân đời tôi
(Trong mua xuân đời tôi)
Mùa xuân là phần thời gian đầu tiên trong bốn phần của một năm với khí
hậu ấm áp, vạn vật sinh sôi, nảy nở. Xuân và các kết hợp với mô hình này là
loại cụm danh từ có tần số xuất hiện khá nhiều trong tác phẩm. Xuân thường
được xem là khởi đầu của năm mới. Năm dùng để tính thời gian con người đã
thấy trôi qua hay tuổi con người. Xuân còn có nghĩa là thuộc về tuổi trẻ, coi
là tươi đẹp, đầy tràn sức sống. Nói đến xuân là nói đến sự sung sức, sự no
đầy, của tuổi trẻ, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Trong thơ Văn Cao các
PTNN biểu thị thời gian “mùa xuân” kết hợp với phần phụ sau hạn định
(thường là sở hữu) cho thấy một cảm quan về thời gian gắn với cái tôi, cái
cá nhân đặc sắc.
2.2.3 Một số kết hợp khác
Trong thơ Văn Cao còn xuất hiện một số kết hợp tiêu biểu như:
“Hà Nội một ngày xưa còn lại”
(Mua thu)
“Hà Nội còn lại một ngày xưa”

(Mua thu)
Kết hợp đảo trật tự giữa “một ngày xưa” và động từ trạng thái “còn” tạo
nên hiệu quả biểu thị ý nghĩa thời gian quá khứ vẫn hiện hữu trong chủ thể
phát ngôn. Cách kết hợp Danh từ chỉ sự vật + danh từ chỉ thời gian quá khứ,
chẳng hạn như “Thềm nhà cũ”; “Huế xưa”; “Phố xưa”; “Hương xưa”… thể
hiện ý nghĩa thời gian quá khứ trong điểm nhìn của chủ thể.
20


Như vậy có thể thấy những cấu trúc trong các PTNN biểu thị thời gian
trong thơ Văn Cao, từ có tần số xuất hiện nhiều nhất trong đó là các danh từ
chi thời gian, các phó từ, chi từ…Trong cấu tạo từ, các PTNN biểu thị thời
gian có cấu tạo từ đơn có tần số xuất hiện lớn nhất. Trong cấu tạo cụm từ,
cụm danh từ xuất hiện với tần số lớn nhất, cụm danh từ được cấu tạo theo các
mô hình tiêu biểu : Mô hình 1: Những + danh từ chỉ thời gian + định tô
miêu tả; Mô hình 2: Danh từ chỉ đơn vị tự nhiên + danh từ chỉ sự vật +
danh từ chỉ thời gian; Mô hình 3: Danh từ chỉ sự vật (thiên nhiên, thời
tiết) + tính từ; Mô hình 4: Danh từ chỉ thời gian + phụ sau hạn định
(thường là các đại từ sở hữu).
Trên đây chi là những mô hình cấu trúc phổ biến biểu thị thời gian trong
thơ Văn Cao, trong thơ Văn Cao còn có các cách kết hợp khác như:
- Kết hợp với “mua” : Mua thay lá; mua cảm xúc, mua nhạn bay ra
biển…
- Kết hợp với “sương”: Buổi sương; đêm sương….
- Kết hợp với “sao”: Chòm sao Bắc Đẩu; chum sao huyền diệu;
khoảng trời sao…
- Kết hợp với “trăng” :“trăng bông”; “trăng ngàn”..
Các kết hợp này tham gia vào việc tạp nên thế giới nghệ thuật thơ đặc
biệt là tạo thời gian nghệ thuật với các giá trị ý nghĩa riêng, tạo môi trường
giao tiếp nghệ thuật thẩm mĩ cho các sáng tác thơ


21


Tiểu kết chương 1
Qua khảo sát thống kê phân loại chúng tôi đã đưa ra một số mô hình cấu
trúc của các PTNN biểu thị ý nghĩa về thời gian trong thơ Văn Cao. Các
PTNN này bao gồm kiểu cấu tạo là từ và cụm từ. Trong cấu trúc cụm từ có
một số mô hình mà Văn Cao thường sử dụng như “Những + danh từ chỉ thời
gian” hoặc “Động từ + danh từ chỉ thời gian”… tất cả tạo nên các PTNN
biểu thị ý nghĩa thời gian một cách cụ thể, chi tiết…thể hiện cái nhìn của chủ
thể đối với thế giới khách quan, đời sống lịch sử xã hội quanh mình. Thời
gian là một phạm trù trừu tượng, con người cảm nhận thời gian theo cảm nhận
chủ quan. Mô tả các cấu trúc mô hình về các phương tiện ngôn ngữ về thời
gian trong thơ Văn Cao bước đầu có thể nhận diện được cảm quan về thời
gian trong ông. Những mô hình cấu trúc trên chi là mô hình phổ biến, sự kết
hợp giữa các phương tiện ngôn ngữ biểu thị ý nghĩa thời gian còn là dụng ý
nghệ thuật khi sử dụng các phương tiện này biểu thị ý nghĩa thời gian mà
không dùng các phương tiện khác như: “Gà đầu ô kêu” mà không sử dụng
“Gà gáy” hay “tiếng gà”sử dụng kết hợp giữa “thềm ngày”,“hai thời gian” ?
Những kết hợp này sẽ được chúng tôi lý giải thêm ở các chương sau.

22


CHƯƠNG 2. CÁC PHƯƠNG TIỆN NGÔN NGỮ BIỂU THI
THỜI GIAN TRONG THƠ VĂN CAO TRÊN BÌNH DIỆN Y
NGHĨA
1. Khái quát
Ý nghĩa thời gian được biểu hiện thông qua ý nghĩa các từ và kết hợp từ

theo hai cách: trực tiếp và gián tiếp. Cách sử dụng thời gian trực tiếp sử dụng
những đơn vị ngữ pháp có các từ chi thời gian (danh từ: giờ, phút, giây, trưa,
chiều, tối….tính từ: xưa, khuya, sớm, lâu, mau… đại từ: bao giờ, bây giờ, bấy
giờ, bấy nay..). Trong tiếng Việt, ý nghĩa thời gian chi được biểu thị trực tiếp
trong các từ loại danh từ, tính từ, đại từ và không được biểu thị trực tiếp trong
một số loại số từ và động từ. Các đơn vị ngữ pháp biểu thị ý nghĩa thời gian
trực tiếp: ở cấp độ từ như: “Bẽ bàng mây sớm đèn khuya, ở cấp độ cụm từ
như:“Mười lăm năm ấy bây giờ là đây” (Nguyễn Du). Cách biểu thị thời
gian gián tiếp là cách không sử dụng các đơn vị ngữ pháp có sử dụng các từ
chi ý nghĩa thời gian mà dùng các hình ảnh âm thanh cuộc sống, của thế giới
khách quan có ý nghĩa biểu thị thời gian, chẳng hạn: Sen tàn cúc lại nở hoa
(Nguyễn Du) “Sen”: biểu thị ý nghĩa thời gian mùa hạ; “Cúc” biểu thị ý nghĩa thời
gian mùa thu. Việc miêu tả các hình ảnh, âm thanh có ý nghĩa biểu thị ý nghĩa thời
gian này do các đơn vị như từ, cụm từ và các đơn vị lớn hơn đảm nhiệm.
2. Các PTNN biểu thị

thời gian trực tiếp và gián tiếp

trong thơ Văn Cao.
Qua khảo sát, các PTNN biểu thị thời gian trực tiếp và gián tiếp trong thơ
Văn Cao có tần số xuất hiện như sau:
ST
T

Các PTNN biểu thị thời

Tần số

Tỷ lệ


1

gian
xuất hiện
Các PTNN biểu thị thời
347

83.6 %

2

gian trực tiếp
Các PTNN biểu thị thời

68

16.4%

3

gian gián tiếp
Tổng

415

100%

23



Bảng 5. Tần số xuất hiện các PTNN biểu thị thời gian trực tiếp và gián
tiếp trong thơ Văn Cao
Các phương tiện ngôn ngữ biểu thị ý nghĩa thời gian trực tiếp có tần
số xuất hiện lớn với 347/415 chiếm ti lệ 83.6%, các PTNN biểu thị ý nghĩa
thời gian gián tiếp xuất hiện với tần số 68/415 chiếm ti lệ 16.4%. Các PTNN
biểu thị ý nghĩa thời gian gián tiếp tuy chiếm tần số nhỏ nhưng là những
PTNN chuyên chở những hiệu quả giao tiếp thẩm mĩ đặc biệt.
2.1 Các PTNN biểu thị ý nghĩa thời gian trực tiếp
Sự phân loại giúp ta có cái nhìn hệ thống về đối tượng. Ý nghĩa thời
gian mà từ biểu thị rất đa dạng, sự phân loại về các ý nghĩa này giúp ta có
được cái nhìn hệ thống về ý nghĩa thời gian. Theo cách phân loại của [33; 43]
dựa vào sự kết hợp của số từ và các danh từ chi đơn vị thời gian mà ý nghĩa
thời gian có thể phân thành bốn loại ý nghĩa : ý nghĩa thời gian cụ thể, ý nghĩa
thời gian tổng thể, ý nghĩa thời gian phiếm định, ý nghĩa thời gian vĩnh hằng.
Nhưng trong mối quan hệ với con người, ý nghĩa thời gian được hình thành
[24, 115]; dựa vào quan hệ chiết đoạn, định danh mà hình thành nên ý nghĩa
định vị; dựa trên mối quan hệ giữa cảm nhận, tâm lí mà mang ý nghĩa định
tính; định thái. Chúng tôi dựa vào cách phân chia này để phân chia các loại ý
nghĩa thời gian của các phương tiện ngôn ngữ biểu thị thời gian trong thơ Văn
Cao. Trong mối quan hệ với con người có thể phân loại theo ý nghĩa thời gian
gắn với quan hệ định vị; quan hệ định lượng và quan hệ định tính, cụ thể có
thể chia thành các loại như sau:
- Các PTNN biểu thị ý nghĩa thời điểm
- Các PTNN biểu thị ý nghĩa thời lượng và tần suất
- Các PTNN biểu thị đặc điểm thời gian
Trong khảo sát ngoài các PTNN biểu thị ý nghĩa thời điểm, thời lượng, tần
suất và đặc điểm thời gian còn có các PTNN biểu thị phạm trù thời. Các
24



PTNN này thường là các phó từ. Sự thể hiện của các PTNN biểu thị ý nghĩa
thời gian được cụ thể hóa qua bảng sau:
STT

Các PTNN biểu thị thời gian

Tần số xuất hiện

Tỷ lệ

1

trực tiếp
Các PTNN biểu thị phạm trù

29

8.4%

2

thời
Các PTNN biểu thị ý nghĩa

250

72%

3


thời điểm
Các PTNN biểu thị thời

53

15.3%

4

lượng và tần suất
Các PTNN biểu thị đặc điểm

15

4.3%

347

100%

thời gian
5

Tổng

Bảng 6. Các PTNN biểu thị thời gian trực tiếp
Xét các PTNN biểu thị thời gian trực tiếp, các PTNN biểu thị ý nghĩa
thời có tần số xuất hiện là 29 chiếm tỷ lệ 8.4%, các PTNN biểu thị ý nghĩa
thời điểm có tần số xuất hiện là 250 chiếm ti lệ 72%; các PTNN biểu thị ý
nghĩa thời lượng và tần suất có tần số xuất hiện là 53 chiếm 15.3%; các

PTNN biểu thị đặc điểm thời gian có tần số xuất hiện 15 chiếm 4.3%.
2.1.1 Các PTNN biểu thị ý nghĩa thời điểm
Từ điển Tiếng Việt [31; 1229] định nghĩa thời điểm : 1- Khoàng thời gian
cực ngắn được xác định một cách chính xác, coi như điểm trên trục thời gian;
2- Khoảng thời gian ngắn được hạn định một cách tương đối chính xác về mặt
nào đó. Trong thơ Văn Cao, xét các PTNN biểu thị thời điểm với các đơn vị
thời gian có tần số xuất hiện:
STT

Đơn vị thời gian
Mù
Mùa xuân

1
a

Mùa hạ
25

Tần số xuất hiện
30

Tỷ lệ
12%

0

0%



×