Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

“ tỷ suất giới tính khi sinh và một số yếu tố liên quan tại quận đống đa, hà nội từ 2008 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (821.82 KB, 53 trang )

LỜI CẢM ƠN
Với một sinh viên năm thứ sáu chuyên ngành Bác sĩ đa khoa, lần đầu
tiên tiến hành một nghiên cứu khoa học là một thử thách lớn. Tôi xin cảm ơn
những người đã giúp đỡ tôi trên suốt chặng đường làm nghiên cứu này.
Đầu tiên, tôi xin cảm ơn các thầy cô trong Bộ môn Y học gia đình đã
hướng dẫn, giúp đỡ tôi có những kiến thức và kĩ năng cơ bản để làm một
nghiên cứu khoa học.
Tôi xin cảm ơn ThS. Nguyễn Thị Tuyết Nhung, người đã dẫn dắt tôi từ
lúc chuẩn bị đề cương nghiên cứu, cho tới tận khi khóa luận được in thành
quyển. Tôi sẽ luôn ghi nhớ sự kiên nhẫn và nhiệt tình của cô Nhung và thầy
Trần Khánh Toàn trong quá trình tìm kiếm tài liệu tham khảo, xử lí số liệu và
giải thích tỷ mỉ những thông tin mà tôi cần tham khảo.
Tôi cũng luôn biết ơn những điều tra viên, giám sát viên làm việc tại cở
sở thực địa DoDaLab, những người đã làm việc tận tụy giúp tôi có bộ số liệu
của đề tài này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn bố mẹ cũng như bạn bè đã luôn ủng hộ
tôi trong quá trình làm nghiên cứu. Sự ủng hộ bằng cả vật chất và tinh thần đó
là nguồn động lực lớn nhất để tôi bất chấp mọi khó khăn đi tới cùng trong đề
tài này.
Nguyễn Lan Phương


MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ..............................................................................................................1
TỔNG QUAN..............................................................................................................3
1. Khái niệm về TSGTKS............................................................................................3
2. Tỷ số giới tính khi sinh ở châu Á và ở Việt Nam....................................................3
2.1 Thực trạng………..................................................................................................3
2.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến TSGTKS.....................................................................6
3. Hệ lụy của mất cân bằng giới tính khi sinh...........................................................10


4. Đặc điểm của Hà Nội.............................................................................................11
4.1 Đặc điểm tình hình...............................................................................................11
4.2 Tình hình mất cân bằng giới tính.........................................................................12
5. Đặc điểm của quận Đống Đa.................................................................................13
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU...............................................15
1. Thiết kế nghiên cứu và địa điểm............................................................................15
2. Đối tượng nghiên cứu và kĩ thuật thu thập thông tin.............................................15
3. Người thu thập số liệu............................................................................................16
4. Sai số nghiên cứu và kĩ thuật khống chế sai số.....................................................16
4.1 Sai số thu thập thông tin......................................................................................16
4.2 Sai số bỏ cuộc

..................................................................................................17

5. Xử lí số liệu............................................................................................................17
6. Khía cạnh đạo đức của đề tài.................................................................................17
KẾT QUẢ...................................................................................................................19
1. Các thông tin chung về đối tượng nghiên cứu.......................................................19
2. Tỷ số giới tính khi sinh và một số yếu tố liên quan..............................................22
2.1 Thực trạng TSGTKS tại quận Đống Đa..............................................................22
2.2 Các yếu tố liên quan.............................................................................................23
BÀN LUẬN................................................................................................................30


1.Tỷ số giới tính khi sinh tại quận Đống Đa từ 2008-2011.......................................30
2.TSGTKS và các yếu tố liên quan............................................................................32
2.1 TSGTKS và thứ tự sinh........................................................................................32
2.2.TSGTKS và tuổi của mẹ......................................................................................33
2.3 TSGTKS và trình độ văn hóa, nghề nghiệp, mức sống......................................34
2.4 TSGTKS và các đặc điểm nhân khẩu học khác của người mẹ...........................35

3. Những vấn đề trong nghiên cứu.............................................................................36
KẾT LUẬN................................................................................................................38
KHUYẾN NGHỊ.......................................................................................................40
LỜI CAM ĐOAN......................................................................................................41
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................42
PHỤ LỤC...................................................................................................................45


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ĐTV: Điều tra viên
GSV: Giám sát viên
KHHGĐ: Kế hoạch hóa gia đình
TSGTKS: Tỷ số giới tính khi sinh
TSGTTE: Tỷ số giới tính trẻ em
UNFPA: Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc
TCTK: Tổng cục thống kê


DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH VẼ

Bảng 1. TSGTKS ở Việt Nam thời kì 1999-2011 .....Error: Reference source
not found
Bảng 2. Phân bố tuổi của mẹ...........................................................................20
Hình 1. Bản đồ quận Đống Đa...................Error: Reference source not found


DANH MỤC BIỂU ĐỒ

LỜI CẢM ƠN..................................................................................1
MỤC LỤC........................................................................................2

DANH MỤC BIỂU ĐỒ...................................................................6
ĐẶT VẤN ĐỀ...................................................................................1
TỔNG QUAN...................................................................................3
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.................15
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU............................................................19
BÀN LUẬN.....................................................................................30
KẾT LUẬN.....................................................................................38
KHUYẾN NGHỊ............................................................................40
LỜI CAM ĐOAN...........................................................................41
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................42
PHỤ LỤC.......................................................................................45
.........................................................................................................46
...........................................................................................................1


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tỷ số giới tính khi sinh (TSGTKS) là một trong những chỉ số phản ánh
sự cân bằng về giới của cấu trúc dân số, được xác định bằng số trẻ trai được
sinh ra trên 100 trẻ gái. Tỷ số này tương đối ổn định với mức chuẩn sinh học
là 104-106/100 .
Nhiều nghiên cứu trong lĩnh vực này cho thấy có tình trạng gia tăng liên
tục TSGTKS từ những năm 1980 của thế kỷ trước ở một số quốc gia châu Á
như: Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc .
Nguyên nhân của tình trạng này là khả năng tiếp cận dễ dàng với công
nghệ siêu âm chẩn đoán giới tính và nạo phá thai, nguyên nhân sâu xa là tâm
lí ưa thích con trai trong điều kiện các chính sách hạn chế sinh đẻ được áp
dụng. Mất cân bằng giới tính khi sinh gây ra những hệ lụy khó lường về mặt
xã hội, thậm chí cả về an ninh chính trị .

Những quan ngại về khả năng Việt Nam cũng sẽ đối mặt với nguy cơ
gia tăng TSGTKS đã được đề cập lần đầu tiên trong những năm đầu thế kỉ 21,
sau khi kết quả của cuộc Tổng điều tra Dân số và nhà ở năm 1999 được công
bố. Nhất là từ khi các phân tích số liệu của cuộc Điều tra biến động dân số
năm 2006 cung cấp các bằng chứng về sự gia tăng bất thường của TSGTKS ở
Việt Nam với 110 trẻ em trai trên 100 trẻ em gái, thì vấn đề TSGTKS đã thu
hút sự quan tâm của các nhà nhân khẩu học, các nhà lập chính sách và các cơ
quan truyền thông đại chúng .
Các nghiên cứu về vấn đề giới tính khi sinh ở Việt Nam chủ yếu dựa
vào các cuộc điều tra cắt ngang về dân số hoặc dựa vào số liệu báo cáo của
Tổng cục thống kê (TCTK). Được tiến hành trên cỡ mẫu lớn, các nghiên cứu


2

này cho phép đưa ra ước đoán chính xác về TSGTKS ở cấp quốc gia nhưng
không phản ánh được thực tế vốn rất khác nhau ở các địa phương . Một số
nghiên cứu đã được tiến hành tại một số địa phương ở miền Bắc nhưng chưa
có nghiên cứu nào thực hiện tại khu vực nội thành Hà Nội, vì vậy chúng tôi
thực hiện nghiên cứu tại quận Đống Đa, thành phố Hà Nội với đề tài: “ Tỷ

suất giới tính khi sinh và một số yếu tố liên quan tại quận Đống
Đa, Hà Nội từ 2008-2011”.
Mục tiêu nghiên cứu là:
1. Mô tả TSGTKS tại quận Đống Đa, Hà Nội từ năm 2008 đến năm
2011.
2. Mô tả một số yếu tố có liên quan đến tỷ số giới tính khi sinh tại
quận Đống Đa, Hà Nội.



3

TỔNG QUAN
1. Khái niệm về TSGTKS
TSGTKS được xác định bằng số trẻ em trai được sinh ra trên 100 trẻ em
gái. TSGTKS ở mức chuẩn sinh học là 105, nhưng số liệu thống kê trên phạm
vi toàn cầu cho thấy thực tế chỉ số này dao động trong khoảng 104-106/100 .
Những dao động nhỏ quan sát được này là do tác động của yếu tố sinh
học, tuổi, thứ tự sinh và các yếu tố khác chưa rõ .
Giá trị của tỷ số này rất ổn định qua thời gian và không gian, giữa các
châu lục, quốc gia, khu vực và chủng tộc người. Bất kì một sự thay đổi đáng
kể nào của tỷ số này chệch khỏi mức sinh học bình thường đều phản ánh
những can thiệp có chủ đích, ở các mức độ khác nhau đến sự cân bằng tự
nhiên này .
2. Tỷ số giới tính khi sinh ở châu Á và ở Việt Nam
2.1. Thực trạng
Hiện tượng nam hóa trong dân số châu Á lần đầu tiên được biết đến
thông qua sự gia tăng tỷ số giới tính trong các quần thể trẻ em. Là chỉ báo về
sự mất cân bằng giới tính, tỷ số giới tính trẻ em (TSGTTE) là kết quả của sự
phân biệt đối xử về giới trước và sau khi sinh. Khi không có sự phân biệt về
giới, TSGTTE thấp hơn tỷ số giới tính khi sinh chuẩn trung bình ở mức
105/100 do tỷ lệ tử vong ở trẻ em trai cao hơn trẻ em gái. Nhưng khi xem xét
dân số châu Á một cách tổng thể, TSGTTE tăng lên trong nửa thế kỉ trở lại
đây, từ 105/100 vào giữa những năm 1950 lên đến 108/100 vào năm 2005.
TSGTTE của năm 2005 rõ ràng cao hơn mức chuẩn ghi nhận được tại bất kì
nơi nào trên thế giới .


4


Nhiều số liệu chi tiết hơn cho thấy sự gia tăng của tỷ lệ trẻ em trai trong
tổng số trẻ ở châu Á chủ yếu là do sự gia tăng TSGTKS tại Đông Á, trong khi
đó tỷ số này tại khu vực Đông Nam Á và Tây Á lại bình thường .
Năm 1950, ba trong số bốn khu vực ở châu Á có tỷ số giới tính khi sinh
bình thường: 105/100 ở Tây Á và Đông Nam Á, 106/100 ở Nam Trung Á.
Riêng ở Đông Á, TSGTKS đã đạt 109/100. Tình hình ở bốn khu vực này vẫn
không thay đổi cho đến những năm 1980. Sau đó, đã có sự gia tăng TSGTKS
tại Đông Á từ năm 1980-1985 và ở Nam Trung Á từ năm 1985-1990, trong
khi ở các nơi khác chỉ số này vẫn bình thường. Đến những năm 1990, tình
trạng trở nên xấu đi một cách rõ rệt.Trong giai đoạn 2000-2005, TSGTKS đã
lên tới 114/100 tại khu vực Đông Á do ảnh hưởng của Trung Quốc và một
chút của Hàn Quốc. Tại Nam Trung Á, xu hướng này bị chi phối bởi Ấn Độ,
TSGTKS ở quốc gia này đạt 107/100 . Đáng chú ý nhất là các vùng phía
Đông Bắc Trung Quốc hay Tây Bắc Ấn Độ, có TSGTKS tăng liên tục từ
những năm cuối thập kỉ 80 và đạt mức cao trên 120 từ năm 2000 đến nay .
Những quan ngại về khả năng Việt Nam cũng sẽ đối mặt với nguy cơ
gia tăng TSGTKS đã được đề cập lần đầu tiên trong những năm đầu của thế kỉ
21, sau khi kết quả của cuộc Tổng điều tra Dân số và nhà ở năm 1999 được
công bố .
Sự gia tăng bất thường của TSGTKS ở Việt Nam trong những năm gần
đây đang là mối quan tâm hàng đầu của các nhà lập chính sách, các cơ quan
thông tin đại chúng cũng như các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước .
Trong giai đoạn từ năm 1999 đến năm 2005, xu hướng biến động
TSGTKS ở Việt Nam không rõ ràng và dường như dao động trong khoảng
104-109/100. Tuy nhiên, theo các phân tích của Tổng cục thống kê dựa trên


5

kết quả của các cuộc Điều tra biến động dân số hàng năm và kết quả của Tổng

điều tra Dân số và nhà ở năm 2009 thì từ năm 2006 đến năm 2011 TSGTKS
của Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu tăng đáng kể .
Bảng 1. TSGTKS ở Việt Nam thời kì 1999-2011
Năm

TSGTKS

Năm

TSGTKS

1999

107,0

2006

109,8

2001

109,0

2007

111,6

2002

107,0


2008

112,1

2003

104,0

2009

110,5

2004

108,0

2010

111,2

2005

106,0

2011

111,9

Nguồn: Sách Điều tra biến động dân số và KHHGĐ 1/4/2011:các kết quả chủ yếu, trang 54.


Năm 2011, TSGTKS ở mức khá cao 111,9/100. Đặc biệt từ năm 2009
đến nay, mặc dù đã có nhiều cảnh báo về hệ lụy của sự mất cân bằng giới tính
nhưng tình trạng này dường như chưa được khắc phục . So sánh với các nước
khác trong khu vực như Trung Quốc, Hàn Quốc và Ấn Độ thì thấy TSGTKS ở
Việt Nam diễn ra muộn hơn nhưng tăng nhanh .


6

Kinh nghiệm của các quốc gia có sự gia tăng TSGTKS trong 2 thập kỉ
qua cho thấy mức độ chịu ảnh hưởng của tỷ số này không giống nhau giữa
các khu vực. Một trong những khía cạnh quan trọng trong sự khác biệt của
TSGTKS là sự thay đổi theo vùng đã được chỉ ra từ phân tích số liệu của
Trung Quốc và Ấn Độ. Các phân tích TSGTKS theo vùng địa lí ở Việt Nam
cũng cho kết quả tương tự .
Theo số liệu điều tra mẫu 15% của cuộc Tổng điều tra Dân số và nhà ở
2009, Tây Nguyên có mật độ dân số và trình độ phát triển thấp hơn các vùng
khác, có TSGTKS thấp nhất trong cả nước (105,6/100) tương đương với mức
sinh học bình thường quan sát được trên thế giới.Trong khi đó,vùng Đồng
bằng sông Hồng có TSGTKS vào khoảng 115,4 cao hơn hẳn so với cả nước .
2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến TSGTKS
Nguồn gốc của sự gia tăng TSGTKS liên quan đến hiện tượng phá thai
chọn lọc giới tính, hiện đang phổ biến ở nhiều quốc gia châu Á. Ở các nước
công nghiệp, có những phương pháp khác làm thay đổi TSGTKS (chẳng hạn
kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm), nhưng tình trạng phá thai khi biết giới
tính thai nhi là gái vẫn là phổ biến nhất và là nguyên nhân chính gây ra sự mất
cân bằng giới tính quan sát được ở châu Á ; ; .
Khởi đầu của tình trạng này liên quan mật thiết đến sự xuất hiện của
siêu âm và kĩ thuật chọc ối từ cuối những năm 1970, kỹ thuật này giúp cho

các cặp vợ chồng biết trước giới tính của thai nhi. Siêu âm là kĩ thuật đầu tiên
được sử dụng để xác định giới tính thai nhi và đã trở nên thông dụng, kỹ thuật
này được sử dụng phổ biến ở các bệnh viện công và các cơ sở y tế tư nhân do
giá thành lắp đặt và sử dụng của thiết bị này giảm đi nhanh chóng. Kết hợp
với những đạo luật cho phép phá thai theo yêu cầu, các kĩ thuật xác định giới


7

tính thai nhi đã cho phép các bậc cha mẹ tránh sinh ra những trẻ có giới tính
không mong muốn và ngay lập tức việc thay đổi hành vi này đã được phản
ánh qua những con số thống kê về TSGTKS .
Các yếu tố cung cấp dịch vụ như áp dụng một kĩ thuật mới, chỉ nói lên
một phần của câu chuyện. Đằng sau tất cả là sự khao khát có con trai của các
cặp vợ chồng vẫn còn tồn tại nhiều ở khu vực châu Á. Điều này thôi thúc họ
sử dụng tất cả các biện pháp như: bỏ rơi trẻ sơ sinh, nhận con nuôi, thậm chí
là giết chết trẻ sơ sinh gái để chắc chắn có con trai .
Để hiểu được những lí do đằng sau tâm lí ưa thích con trai và nhu cầu
lựa chọn giới tính trước sinh đòi hỏi xác định ba điều kiện cần: tâm lí ưa thích
con trai, sự sẵn có của các dịch vụ y tế hiện đại cần thiết cho việc xác định và
lựa chọn giới tính trước sinh và mức sinh thấp .
Điều kiện thứ nhất và là điều kiện tiên quyết là tâm lí ưa thích con trai
trong xã hội. Hiện tượng này xuất phát từ những đặc trưng về văn hóa-xã hội
và kinh tế của các nước châu Á.Trong khi ở Trung Quốc và Hàn Quốc với
việc thờ cúng tổ tiên và nối dõi tông đường, Nho giáo được coi là hệ thống có
giá trị quyết định ; . Con trai thường trợ giúp cha mẹ, kể cả khi đã lập gia
đình, là chỗ dựa của gia đình khi về già và được thừa kế tài sản. Xã hội Việt
Nam cũng bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi Nho giáo, đặc biệt là ở miền Bắc do đó
tâm lí ưa thích con trai trở lên mãnh liệt. Câu tục ngữ “nhất nam viết hữu,
thập nữ viết vô” đã phản ánh điều này . Tâm lí ưa thích con trai ảnh hưởng

mạnh mẽ đến việc sinh nở. Giá trị của người vợ trong mắt gia đình và xã hội
phụ thuộc vào việc có sinh con trai hay không, do đó phụ nữ Việt Nam sử
dụng một loạt các biện pháp để có con trai, bao gồm các phương pháp dân
gian truyền thống để tránh mang thai gái, loại bỏ thai gái, tiếp tục mang thai
cho đến khi có con trai .


8

Ở Ấn Độ sự ưa thích con trai không bắt nguồn từ việc thờ cúng tổ tiên
nhưng lại nằm trong cội rễ của hệ thống gia trưởng, hôn nhân và thừa kế . Các
giá trị truyền thống từ lâu đã coi trọng con trai hơn con gái trong hầu hết các
gia đình thuộc hệ thống phụ hệ. Các giá trị này được củng cố dưới tác động
của quá trình phát triển kinh tế, những thay đổi xã hội mà qua đó lợi ích kinh
tế và chi phí nuôi dạy con cái trở thành mối quan tâm hàng đầu của các bậc
cha mẹ .
Điều kiện cần thứ hai là sự sẵn có của các dịch vụ y tế hiện đại, cần
thiết cho việc xác định và lựa chọn giới tính trước sinh. Ở tất cả các khu vực
khác nhau, có rất nhiều ý kiến ủng hộ quan điểm cho rằng việc ngày càng có
nhiều và dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ lựa chọn giới tính hiện đại và phá
thai vì mục đích lựa chọn giới tính chính là lí do làm gia tăng TSGTKS . Hàn
Quốc là một ví dụ điển hình của hiện tượng này. Đây là quốc gia đầu tiên có
báo cáo về TSGTKS rất cao do có sử dụng rộng rãi các công nghệ lựa chọn
giới tính ở nước này sớm hơn các nước châu Á khác .
Ở Việt Nam, dịch vụ siêu âm được cung cấp như một phần của chương
trình sức khỏe sinh sản, phát hiện các bất thường của thai nhi. Siêu âm đã
được áp dụng rộng rãi trên cả nước và trong hầu hết các cơ sở y tế. Tuy nhiên,
do có khả năng phát hiện giới tính thai nhi, kết hợp với chi phí dịch vụ mà
phần lớn phụ nữ mang thai có thể chi trả nên siêu âm đã bị lợi dụng để xác
định giới tính thai nhi trước sinh . Kết quả là phần lớn phụ nữ biết được giới

tính thai nhi trước sinh. Điều tra biến động dân số năm 2011 chỉ ra rằng
76,9% phụ nữ mang thai biết giới tính thai nhi trước sinh, trong số đó 98,8%
biết qua siêu âm .
Giống như ở các quốc gia khác trong khu vực, tư nhân hóa và thương
mại hóa hệ thống chăm sóc y tế ở Việt Nam đã dẫn đến việc sử dụng quá mức


9

các thiết bị công nghệ để sàng lọc giới tính.Việc này kết hợp với thực tế rằng
việc phá thai ba tháng giữa là hợp pháp, đã tạo ra áp lực cho phụ nữ phải đạt
được đầu ra “đúng” cho việc mang thai của mình là có con trai .
Điều kiện thứ ba liên quan đến mức sinh thấp và các chính sách liên
quan. Ở các vùng của Hàn Quốc, đặc biệt là ở Trung Quốc, việc ban hành
chính sách hạn chế nghiêm ngặt quy mô gia đình đã có ảnh hưởng mạnh mẽ
tới việc giảm sinh nhưng cũng ảnh hưởng tới quá trình quyết định sử dụng
việc lựa chọn giới tính như một công cụ để có được kết quả mong muốn của
gia đình .
Việt Nam đã thực hiện chính sách dân số mạnh mẽ trong những thập kỷ
qua dựa trên “niềm tin” rằng việc giảm tốc độ tăng trưởng dân số sẽ tăng tổng
sản phẩm quốc nội (GDP) . Trong những năm 1990, chương trình dân số đẩy
mạnh gia đình một đến hai con, một chính sách được soạn thảo bởi Ủy ban
Quốc gia dân số và KHHGĐ đã được thực hiện có hiệu quả và Việt Nam đã
được trao giải thưởng Dân số của Liên hợp quốc vào năm 1999 .
Các nghiên cứu cho thấy rằng trong khi trên cả nước các cặp vợ chồng
được khuyến khích là chỉ có tối đa là hai con thì chính sách này lại được áp
dụng nghiêm ngặt hơn với Đảng viên và cán bộ nhà nước ; . Vì có học vấn
cao hơn và điều kiện kinh tế tốt hơn, những người trong nhóm này dường như
đã rơi vào tình huống dẫn họ đến sử dụng các dịch vụ để lựa chọn giới tính:
tiếp cận dễ dàng với dịch vụ sức khỏe sinh sản kể cả những dịch vụ mà có thể

được sử dụng để lựa chọn giới tính đồng thời với việc phải thực hiện các quy
định nghiêm ngặt về quy mô gia đình .


10

Ngoài ra các tài liệu cũng cho thấy các khoảng trống trong chính sách xã
hội, chẳng hạn như thiếu chính sách an sinh cho người già và chính sách bình
đẳng giới đã gây ra các tác động tiêu cực với TSGTKS .
Sự tồn tại của các cơ sở siêu âm và nạo phá thai, thậm chí là bất hợp
pháp, tâm lí ưa thích con trai và mức sinh thấp đã dẫn tới nhiều ca phá thai
lựa chọn giới tính. Tuy nhiên, cũng ngay chính trong các quốc gia đang bị ảnh
hưởng như Trung Quốc hay Ấn Độ vẫn có những nơi dường như không bị tác
động bởi xu hướng nam hóa này. Tại các khu vực này, nữ giới thường được
ưa thích hơn và việc không có con trai không bị xem là một thảm họa với gia
đình .
3. Hệ lụy của mất cân bằng giới tính khi sinh
Một khía cạnh quan trọng của những thay đổi về phân bố giới tính và
tuổi gắn liền với tình trạng bất bình đẳng giới trong tương lai và những hậu
quả tới thị trường hôn nhân. Tình trạng thiếu phụ nữ trong độ tuổi kết hôn đã
diễn ra trên thực tế ở một vài khu vực của Trung Quốc và Ấn Độ . Nếu điều
này xảy ra ở Việt Nam sau năm 2020, nó sẽ tác động đến xu hướng kết hôn
theo nhiều cách khác nhau .
Đầu tiên, thiếu phụ nữ có nghĩa là một bộ phận nam giới sẽ phải trì hoãn
kết hôn, đây là sự điều chỉnh đầu tiên cần thiết, đáp ứng với tình trạng mất
cân bằng tỷ số giới tính. Do kết hôn muộn, nam giới có thể sẽ hướng đến
nhóm những phụ nữ trẻ hơn. Tuy nhiên, nút thắt này không thể gỡ được hoàn
toàn bằng cách trì hoãn hôn nhân, bởi vì tác động tích lũy của mất cân bằng
TSGTKS kéo dài trên vài thế hệ. Kết cục là một tỷ lệ nam giới sẽ không thể
kết hôn. Điều đó có nghĩa là không chỉ một tỷ lệ lớn đàn ông không thể kết

hôn trước 30 tuổi mà còn nhiều người trong số họ hoàn toàn không có khả


11

năng lập gia đình . Theo dự báo của Unfpa, nếu Việt Nam không có các biện
pháp can thiệp thì tới năm 2050 sẽ có khoảng 4,3 triệu nam giới không thể
kết hôn .
Kết hôn với người nước ngoài (nhập khẩu cô dâu) dường như cũng
không giải quyết được vấn đề này. Việt Nam hiện đang chứng kiến dòng chảy
ngược khi số lượng lớn phụ nữ kết hôn với người nước ngoài và định cư ở
nước ngoài ; . Hơn nữa, độ tuổi kết hôn của phụ nữ Việt Nam đang tăng lên có
thể làm giảm số cô dâu trong tương lai. Cùng với sự gia tăng số phụ nữ chọn
lối sống độc thân như đã quan sát thấy ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore,
các xu hướng trong tương lai có thể còn trầm trọng hơn, thay vì giảm bớt đi
sự căng thẳng xã hội bởi dư thừa nam giới trong độ tuổi kết hôn sau 20 năm
nữa .
Ngay đối với phụ nữ, tình trạng thiếu hụt cũng không cải thiện được vị
thế của họ. Sự khan hiếm này cũng không mở rộng được vị thế xã hội của họ,
mà chỉ gây thêm áp lực đối với việc kết hôn, gia tăng các nguy cơ bạo hành
giới, gia tăng nhu cầu mua dâm, phát triển mạng lưới buôn bán phụ nữ .
4. Đặc điểm của Hà Nội
4.1 Đặc điểm tình hình
4.1.1. Về quy mô dân số
Thực hiện nghị quyết của Quốc hội về mở rộng địa giới hành chính Thủ
đô, Hà Nội được mở rộng với diện tích trên 3.344 km 2, dân số 6,32 triệu
người chiếm 7,51% dân số cả nước với 29 quận, huyện và 577 xã, phường, thị
trấn, là thành phố đông dân thứ hai toàn quốc sau thành phố Hồ Chí Minh,
cuối năm 2010 quy mô dân số toàn thành phố là 6,9 triệu người .



12

Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên toàn thành phố ổn định ở mức: 1,20 %
(năm 2001) và đạt tỷ lệ 1,19 % vào năm 2010; tỷ lệ tăng dân số bình quân đạt
2,0%/năm . Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên đạt tỷ lệ chung là 7,87% năm 2010 .
4.1.2. Về cơ cấu dân số
Cơ cấu dân số về tuổi, cùng với thành tựu chung của cả nước về ổn định
quy mô dân số, giai đoạn 2001 – 2010 Hà Nội cùng với cả nước bước vào
thời kỳ cơ cấu “ dân số vàng ” và đang đi vào giai đoạn ổn định, tạo điều kiện
thuận lợi về nguồn nhân lực để phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô .
Tỷ số giới tính chung toàn thành phố giảm từ 97,7% (năm 1999) xuống
97% (năm 2009) thấp hơn 1,1% so với tỷ số giới tính của cả nước (98,1%).
TSGTKS giai đoạn 2000-2005 chưa vượt ngưỡng trung bình (107/100) .
4.1.3. Về chất lượng dân số
Chất lượng dân số Thủ đô từng bước được nâng cao, các hoạt động, mô
hình can thiệp được triển khai đa dạng, nhiều loại hình, tác động vào nhiều
nhóm đối tượng nhằm cải thiện về thể chất, trí tuệ và tinh thần của các tầng
lớp nhân dân Thủ đô.
Tỷ lệ bà mẹ mang thai được sàng lọc trước sinh và trẻ sơ sinh được sang
lọc một số bệnh tật, dị tật bẩm sinh; trẻ dưới 5 tuổi được sàng lọc khiếm thính
hàng năm được tăng cao.
Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi giảm xuống còn 13,5% (năm
2010). Tuổi thọ bình quân đạt 74,9 tuổi vào năm 2009 (cả nước 72,8 tuổi).
Chỉ số HDI (chỉ số phát triển con người) là 0,80 năm 2010 cao hơn 0,07 điểm
so với chỉ số HDI của cả nước .


13


4.2. Tình hình mất cân bằng giới tính
Tại Hà Nội, trong hơn 10 năm qua vấn đề mất cân bằng giới tính khi
sinh diễn ra với tốc độ tăng nhanh, ngày càng lan rộng và đã đến mức báo
động.
Giai đoạn 2001-2005, tỷ số này vẫn nằm ở ngưỡng bình thường. Từ năm
2006 đến nay tỷ lệ này có tốc độ gia tăng đáng kể. Theo kết quả Tổng điều tra
Dân số và nhà ở ngày 01/4/2009: TSGTKS của Hà Nội là 113/100. Năm 2010
là 117/100, năm 2011 là 116/100.
Theo báo cáo của 29 quận, huyện 9 tháng năm 2012, TSGTKS của toàn
thành phố là 116.Trong đó các quận, huyện có biểu hiện mất cân bằng cao
gồm: Đông Anh, Thường Tín, Mỹ Đức, Hà Đông, Sơn Tây, Ba Vì, Mê Linh,
Phúc Thọ, Gia Lâm, Thanh Oai .
5. Đặc điểm của quận Đống Đa
Quận Đống Đa là một quận nội thành có khoảng 352.000 dân sinh sống
tại 21 phường trên một diện tích khoảng 10km2, trong đó 50,6% là nữ giới.
Tỷ suất sinh thô là 2,2%, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi là 7,2% trên toàn quận.
Người dân chủ yếu là công chức, người kinh doanh hay làm việc trong các
ngành dịch vụ.
Mạng lưới y tế tại đây rất phát triển. Trong đó, nhiệm vụ chăm sóc sức
khoẻ cho nhân dân do Trung tâm Y tế Đống Đa đảm nhiệm. Ngoài ra, trên
mỗi phường đều có một trạm y tế phụ trách công tác chăm sóc sức khỏe ban
đầu cho người dân. Ở đây có các bệnh viện đa khoa và chuyên khoa và nhiều
phòng khám tư nhân. Do mạng lưới y tế phát triển và vị trí thuận lợi nên
người dân dễ dàng tiếp xúc với các dịch vụ y tế.


14

Hình 1. Bản đồ quận Đống Đa



15

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Thiết kế nghiên cứu và địa điểm
Nghiên cứu theo dõi dọc được tiến hành tại cơ sở thực địa dịch tễ học
DoDaLab, thuộc quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
DoDaLab được thành lập năm 2007 với mục tiêu là cơ sở giúp các sinh
viên và học viên sau đại học đi thực tập và tiến hành nghiên cứu.
Quận Đống Đa được chọn làm địa điểm xây dựng cơ sở thực địa vì đây
là một quận nội thành đông dân có đầy đủ các đặc điểm của dân cư đô thị với
sự ổn định tương đối, có hệ thống cơ sở y tế phong phú đa dạng, được sự
thống nhất, ủng hộ của chính quyền và ngành y tế địa phương.
Các phường được phân chia thành 3 nhóm theo điều kiện kinh tế: giàu,
trung bình, nghèo và từ mỗi nhóm sẽ chọn ngẫu nhiên một phường vào mẫu
điều tra của cơ sở thực địa. Ba phường được chọn là Kim Liên, Quang Trung
và Trung Phụng tương ứng với 3 nhóm giàu, trung bình và nghèo với khoảng
11.500 hộ gia đình và 40.000 nhân khẩu. Toàn bộ người dân thuộc các hộ gia
đình của 3 phường sẽ nằm trong khung mẫu điều tra theo dõi của cơ sở thực
địa DoDaLab. Một năm có 4 đợt điều tra định kì và cứ 2 năm một lần có một
cuộc điều tra cơ bản được tiến hành tại DoDaLab.
1. Đối tượng nghiên cứu và kĩ thuật thu thập thông tin
Đối tượng của nghiên cứu là toàn bộ 2125 trẻ sinh sống được phát hiện
và quản lí tại cơ sở thực địa DoDaLab trong vòng 4 năm từ 2008-2011.
Thông tin cá nhân của trẻ (ngày, tháng, năm sinh, giới, con thứ mấy
trong gia đình) và của bà mẹ (tuổi, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, tình trạng


16


hôn nhân) được thu thập cập nhật dựa trên bảng câu hỏi sau đó được nhập và
lưu giữ trong hệ thống cơ sở dữ liệu chung của cơ sở thực địa DoDaLab.
2. Người thu thập số liệu
Việc điều tra thu thập thông tin tại DoDaLab được thực hiện bởi 60
điều tra viên (ĐTV), hầu hết là nữ. Phần lớn các ĐTV là cộng tác viên của
Chương trình dân số kế hoạch hóa gia đình tại mỗi cụm dân cư. Các ĐTV
được chia thành 8 nhóm do 8 giám sát viên (GSV), là các cán bộ y tế, cán bộ
dân số của phường phụ trách.
3. Sai số nghiên cứu và kĩ thuật khống chế sai số
4.1. Sai số thu thập thông tin.
Do nghiên cứu đề cập đến những vấn đề nhạy cảm nên người được
phỏng vấn khó có thể trả lời thẳng thắn, dẫn đến những sai lệch khi thu thập
số liệu. Để hạn chế, chúng tôi đã chọn những người điều tra hầu hết là phụ nữ,
có uy tín trong cộng đồng, có kĩ năng giao tiếp và phỏng vấn tốt, các ĐTV
giải thích rõ ràng cho người được điều tra về sự bảo mật thông tin cá nhân của
họ.
Do phương pháp thu thập thông tin được lặp lại 3 tháng 1 lần, với bộ
câu hỏi giống nhau dễ dẫn đến sự nhàm chán cho cả những người được hỏi
nên dễ dẫn đến sự không nghiêm túc trong lúc trả lời câu hỏi. Để khắc phục
chúng tôi giải thích kỹ cho họ vai trò của họ với nghiên cứu, bên cạnh đó,
chúng tôi lồng ghép hoạt động này với các hoạt động chăm sóc sức khỏe
khác.
Điều tra được tiến hành trong nhiều năm nên có một số điều tra viên
không thể theo tiếp tục công việc sau nhiều năm do những lí do khác nhau,
những người mới được tuyển vào sẽ khó khăn hơn trong bắt đầu công việc


17

mới, kỹ năng phỏng vấn kém, dễ mắc sai lầm. Để khắc phục, các ĐTV được

tập huấn kĩ càng trước khi điều tra.
4.2. Sai số bỏ cuộc
Nghiên cứu được kéo dài qua nhiều năm, mà tỷ lệ nhập cư tạm thời ở
khu vực này khá cao do đó nguy cơ bỏ điều tra rất lớn. Để khắc phục các điều
tra viên giải thích kĩ và thuyết phục, động viên những người dân trong khu
vực tham gia vào điều tra đầy đủ.
4. Xử lí số liệu
Thông tin phục vụ cho nghiên cứu được trích xuất từ cơ sở dữ liệu của
DoDaLab trên phần mềm Access và được xử lí bằng phần mềm Stata phiên
bản 12.0.
Kiểm định χ2 được sử dụng để kiểm định xác suất sinh con trai và mối
liên quan của TSGTKS và một số yếu tố kinh tế xã hội.
Kết quả nghiên cứu được trình bày dưới dạng bảng biểu và biểu đồ.
5. Khía cạnh đạo đức của đề tài
Nghiên cứu được thông qua và chấp thuận tiến hành bởi trường Đại học
Y Hà Nội và được địa phương nơi tiến hành nghiên cứu ủng hộ.
Nghiên cứu được tiến hành trung thực, tuân thủ các nguyên lí và đạo đức
trong nghiên cứu khoa học, và kết quả nghiên cứu sẽ được phổ biến.
Trước khi tiến hành phỏng vấn, chúng tôi cung cấp đầy đủ thông tin về
nghiên cứu cho đối tượng nghiên cứu. Sau khi được đối tượng đồng ý tham
gia nghiên cứu, chúng tôi mới tiến hành phỏng vấn.


18

Đối tượng được quyền dừng, không tiếp tục tham gia vào nghiên cứu bất
kì thời điểm nào của nghiên cứu mà không bị phân biệt đối xử, không bị phạt
hoặc đền bù nào khi từ chối tiếp tục tham gia nghiên cứu.
Nghiên cứu chỉ tiến hành phỏng vấn đối tượng nghiên cứu bằng bộ câu
hỏi có sẵn, không sử dụng bất kì hình thức nào khác mang tính chất xâm hại

tới thể chất và tinh thần của đối tượng nghiên cứu.
Các thông tin thu thập được giữ bí mật và chỉ dùng trong nghiên cứu.


19

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Các thông tin chung về đối tượng nghiên cứu

Biểu đồ 1: Số trẻ sinh ra qua các năm
Nhận xét: Trong nghiên cứu, số trẻ được sinh ra nhiều nhất vào năm 2009 là
602 trẻ.

Biểu đồ 2: Thứ tự sinh của trẻ
`Nhận xét: Các trẻ sinh ra trong thời điểm này phần lớn là con đầu của các bà
mẹ, số trẻ là con thứ 3 ít, chiếm 3%.


×