Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Nghiên cứu tình hình lợn con mắc bệnh phân trắng và biện pháp phòng trị bệnh tại huyện đồng hỷ tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (692.65 KB, 52 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
–––––––––––––––––––

NGUYỄN QUÝ LONG
Tên đề tài:

“NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH LỢN CON MẮC BỆNH
PHÂN TRẮNG VÀ BIỆN PHÁP PHÕNG TRỊ
TẠI HUYỆN ĐỒNG HỶ TỈNH THÁI NGUYÊN”

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo :
Chuyên ngành:
Khoa
:
Khóa học
:

Chính quy
Chăn nuôi thú y
Chăn nuôi thú y
2012 - 2016

THÁI NGUYÊN - 2016


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
–––––––––––––––––––



NGUYỄN QUÝ LONG
Tên đề tài:

“NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH LỢN CON MẮC BỆNH
PHÂN TRẮNG VÀ BIỆN PHÁP PHÕNG TRỊ
TẠI HUYỆN ĐỒNG HỶ TỈNH THÁI NGUYÊN”

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo
: Chính quy
Chuyên ngành: Chăn nuôi thú y
Lớp
: K44 - CNTY
Khoa
: Chăn nuôi thú y
Khóa học
: 2012 - 2016
Giảng viên hƣớng dẫn:
TS. Nguyễn Văn Sửu

THÁI NGUYÊN - 2016


i

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình đào tạo trong nhà trường, thực hiện
phương châm học đi đôi với hành lý thuyết gắn liền với thực tiễn sản xuất,

thực tập tốt nghiệp là giai đoạn cuối cùng trong toàn bộ chương trình học tập
của tất cả các trường đại học nói chung và trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên nói riêng. Đây là khoảng thời gian để sinh viên củng cố và hệ thống
hoá toàn bộ kiến thức đã học, đồng thời giúp sinh viên làm quen với thực tiễn
sản xuất, từ đó nâng cao trình độ chuyên môn, nắm được phương thức tổ chức và
tiễn hành công việc nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực
tiễn sản xuất, tạo cho sinh viên có tác phong làm việc đúng đắn, sáng tạo, để khi
ra trường trở thành một người cán bộ có chuyên môn, đáp ứng được yêu cầu
thực tiễn, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp phát triển đất nước.
Được sự nhất trí của Ban chủ nghiệm khoa Chăn nuôi Thú y trường Đại
học Nông lâm Thái Nguyên, của thầy giáo hướng dẫn và trạm Thú y Đồng
Hỷ tỉnh Thái Nguyên. Qua thời gian thực tập tại đây em đã được vận dụng các
kiến thức đã học vào thực tiễn sản xuất, học hỏi được nhiều kinh nghiệm
trong thực tiễn từ đó nâng cao trình độ chuyên môn, nắm được các phương
pháp tổ chức và tiến hành công tác nghiên cứu, tạo cho mình tác phong làm
việc đúng đắn, sáng tạo để khi ra trường trở thành một cán bộ chuyên môn
giỏi, đáp ứng được nhu cầu thực tiễn.
Do bước đầu làm quen với đề tài nghiên cứu nên chuyên đề tốt nghiệp
của em không tránh khỏi thiếu sót. Em mong nhận được sự đóng góp của các
thầy cô giáo và các bạn để bản báo cáo của em được hoàn thiện hơn, em xin
trân trọng cảm ơn !
Sinh viên
Nguyễn Quý Long


ii

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 4.1: Kết quả tỷ lệ mắ c bê ̣nh lơ ̣n con phân trắ ng ta ̣i tại một số xã của
huyện Đồng Hỷ ............................................................................... 35

Bảng 4.2: Tỉ lệ lợn con mắc bệnh theo tuổi tại một số xã của Đồng Hỷ ....... 36
Bảng 4.3: Tỉ lệ lợn con mắc bệnh theo tháng tại một số xã của Đồng Hỷ .... 37
Bảng 4.4: Triê ̣u chứng lơ ̣n con mắ c bê ̣nh phân trắ ng ..................................... 37
Bảng 4.5: Tỷ lệ chết do mắc bệnh phân trắng tại một số xã của Đồng Hỷ ... 38
Bảng 4.6: Bê ̣nh tích lợn con mắc bệnh phân trắng ......................................... 39
Bảng 4.7: Kết quả điều trị lợn con phân trắng tại một số xã của Đồng Hỷ ... 40


iii

DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT

VK

: Vi khuẩn

Cl.

: Clostridium

Sal.

: Salmonella

SS

: Sơ sinh

TT


: Thể trọng

Cs

: Cộng sự


iv

MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................... i
DANH MỤC CÁC BẢNG................................................................................ ii
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT ....................................................... iii
MỤC LỤC ........................................................................................................ iv
PHẦN 1: MỞ ĐẦU .......................................................................................... 1
1.1. Đặt vấn đề................................................................................................... 1
1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài ................................................................... 1
1.3. Ý nghĩa của đè tài ....................................................................................... 1
PHẦN 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ............................................................... 3
2.1. Cơ sở khoa học ........................................................................................... 3
2.1.1. Đặc điểm sinh trưởng và phát tiển của lợn con trong thời gian theo mẹ ...... 4
2.1.2. Đặc biểm phát triển của cơ quan tiêu hoá ............................................... 5
2.1.3. Đặc điểm sinh lí của lợn con ................................................................... 9
2.1.4. Đặc điểm về tiêu hóa của lợn con ......................................................... 10
2.1.5. Hệ sinh vật trong đường ruột của lợn con ............................................. 10
2.1.6. Khả năng miễn dịch của lợn con ........................................................... 12
2.1.7. Nguyên nhân gây bệnh phân trắng ở lợn con ....................................... 13
2.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước .............................................. 21
2.2.1.Tình hình nghiên cứu ngoài nước .......................................................... 21
2.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước .......................................................... 22

PHẦN 3: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU ............................................................................................. 33
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................ 33
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu ............................................................ 33
3.3. Phương pháp nghiên cứu và các chỉ tiêu theo dõi ................................... 33
3.4. Phương pháp nghiên cứu và các chỉ tiêu theo dõi ................................... 33


v

PHẦN 4: KẾT QUẢ VÀ PHÂN TÍCH KẾT QUẢ .................................... 35
4.1. Kết quả theo dõi tình hình mắc bệnh phân trắng ta ̣i một số xã của
huyện Đồng Hỷ ............................................................................................... 35
4.2. Tình hình lơ ̣n con mắ c bê ̣nh theo tuổ i ta ̣i một số xã của Đồng Hỷ ......... 36
4.3. Tỉ lệ lợn con mắc bệnh theo tháng tại một số xã của Đồng Hỷ .............. 36
4.4. Triê ̣u chứng lơ ̣n con mắ c bê ̣nh phân trắ ng ............................................... 37
4.5. Tỷ lệ chết do mắc bệnh phân trắng tại một số xã của Đồng Hỷ ............ 38
PHẦN 5: KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ ĐỀ NGHỊ........................................ 42
5.1. Kết luận .................................................................................................... 42
5.2. Đề nghị ..................................................................................................... 43
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 44


1

PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Đồng Hỷ là huyện Miền núi trung du thuộc tỉnh Thái Nguyên. Trong
cơ cấu phát triển kinh tế thì chăn nuôi khá phát triển, trong đó chăn nuôi lợn

đóng một vai trò quan trọng trong mắt xích phát triển kinh tế của huyện. Để
hạn chế dịch bệnh thì công tác tiêm phòng và trị bệnh cho đàn vật nuôi nói
chung luôn được quan tâm . Tuy nhiên trong chăn nuôi lợn bên cạnh những
dịch bệnh nhiễm gây ảnh hưởng, tổn thất lớn cho chăn nuôi nói chung trong
đó có chăn nuôi lợn như : dịch tả, tụ huyết trùng, tai xanh… thì một trong
những bệnh thường gặp và gây tổn thất đáng kể cho người chăn nuôi lợn nái
sinh sản đó là bệnh phân trắng lợn con. Bệnh hay gặp ở giai đoạn lợn con
bú sữa. Để hiểu thêm một phần về tình hình mắc bệnh phân trắng ở lợn con và
hiệu quả của một số thuốc dùng trong điều trị bệnh này, chúng em tiến hành
thực hiện đề tài
“Nghiên cứu tình hình lợn con mắc bệnh phân trắng và biện pháp
phòng trị bệnh tại huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên”
1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài
-Xác định được tình hình lợn con mắc bệnh phân trắng tại một số địa điểm
nghiên cứu
- Tình hình lợn con mắc bệnh phân trắng theo lứa tuổi
- Tình hình mắc bệnh phân trắng qua các tháng trong năm.
- Triệu chứng lâm sàng , bệnh tích lợn mắc phân trắng
- Hiệu quả điều trị của thuốc
* Một số biện pháp điều trị.
1.3. Ý nghĩa của đè tài
* Ý nghĩa trong khoa học
- Nắm được nguyên nhân, cơ chế của bệnh phân trắng ở lợn con


2

* Ý nghĩa trong thực tiễn
- Trên cơ sở tìm hiểu được nguyên nhân và cơ chế của bệnh phân trắng
ở lợn con tiến hành điều trị bệnh hạn chế tổn thất cho người chăn nuôi



3

PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học
Bệnh phân trắng lợn con là bệnh thường xảy ra ở thể viêm ruột, viêm
dạ dày cấp tính ở lợn con đang bú. Đặc trưng là ỉa chảy, phân màu hơi vàng
hoặc trắng, biểu hiện mất nước, suy kiệt và chết.
Ở trạng thái sinh lý bình thường, giữa cơ thể vật chủ và hệ vi sinh vật
trong đường tiêu hoá cũng như giữa các loài vi sinh vật trong khu hệ vi sinh
vật với nhau luôn luôn ở trạng thái cân bằng, sự cân bằng này là cần thiết cho
sức khoẻ của vật chủ. Họ vi khuẩn đường ruột là một họ lớn, bao gồm các trực
khuẩn gram âm sống trong ống tiêu hoá của người và động vật. Chúng có thể
gây bệnh hoặc không gây bệnh, hiếu khí hoặc hiếu khí tuỳ tiện, bao gồm vi
khuẩn sinh axit lactic, vi khuẩn bifidium, một số loại cầu khuẩn đường ruột có
khả năng ức chế và tiêu diệt vi khẩn Salmonella, Proteus vulgaris và các loại
vi khuẩn sinh thối rữa, vi khuẩn Lactobacillus, Bacilus subtilis. Ở gia súc sơ
sinh, chưa hình thành hoặc hình thành không ổn định hệ vi sinh vật có lợi này,
có nghĩa là chưa có vi khuẩn ức chế và tiêu diệt sự xâm nhập của vi khuẩn gây
bệnh đường tiêu hoá.
Hệ vi sinh vật có hại hay gặp trong đường ruột là vi khuẩn Salmonella
spp, E.coli, một số chủng Clostridium spp, Shigella. Cho đến nay nhiều công
bố nghiên cứu khoa học đã cho biết nguyên nhân gây tiêu chảy ở gia súc non
gồm 3 loại chính là E.coli, Salmonella spp, Clostridium perfringens.
Trong hệ vi khuẩn đường ruột, vi khuẩn E.coli là phổ biến nhất và
chúng xuất hiện sớm trong đường ruột của người, động vật sơ sinh, thường ở
phần sau của ruột, đôi khi còn thấy ở niêm mạc của nhiều bộ phận trong cơ
thể (Nguyễn Như Thanh, 2001)[14].

Clostridium perfringens typ C gây bệnh viêm ruột hoại tử cho lợn ở
lứa tuổi 1 đến 14 ngày tuổi, đặc biệt xảy ra trầm trọng ở 1 đến 7 ngày tuổi, tỷ
lệ chết cao (50%), bệnh lây nhiễm qua phân.


4

Tiêu chảy ở lợn con do Salmonella cholerasuis gây ra thường thể hiện
ở 2 dạng là bại huyết và thần kinh. Khi mổ khám chúng ta thấy có hiện tượng
viêm ruột hoại tử có xuất huyết ở ruột, màng treo ruột, viêm màng ruột, đoạn
trước trực tràng phình to.
Khả năng miễn dịch của cơ thể là khả năng phản ứng của cơ thể đối
với các chất lạ khi xâm nhập vào cơ thể. Các chất lạ có thể là mầm bệnh, các
mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể gia súc non tương đối dễ do các cơ quan bảo
vệ cơ thể phát triển chưa hoàn chỉnh. Trong hệ thống tiêu hoá của lợn con
lượng enzym tiêu hoá và lượng HCl tiết ra chưa đủ để đáp ứng cho quá trình
tiêu hoá, gây rối loạn trao đổi chất, tiêu hoá và hấp thu dinh dưỡng kém. Do
vậy, các mầm bệnh như E.coli, Salmonella… dễ dàng xâm nhập vào cơ thể
qua đường tiêu hoá và gây bệnh.
Ở lợn con, các yếu tố miễn dịch như bổ thể, profecdin và lysozim được
tổng hợp còn ít, khả năng thực bào kém. Vì vậy, việc cho lợn con bú sữa đầu
là rất cần thiết do trong sữa đầu có rất nhiều globulin miễn dịch, bảo vệ cơ
thể lợn con chống lại mầm bệnh. Hai giờ sau khi đẻ, lợn con phải được bú
sữa đầu để hấp thu được nhiều globulin từ sữa đầu vào máu trong thời gian
24- 36 giờ, nhờ đó có đủ kháng thể trong 5 tuần đầu tiên
Tuy nhiên còn một yếu tố quan trọng nữa là sự phát triển của hệ vi sinh
vật trong đường ruột gia súc non có những đặc thù riêng. Việc cân bằng khu hệ
vi sinh vật có lợi trong đường ruột nhằm khắc phục, hạn chế sự loạn khuẩn trong
quá trình phát triển và trưởng thành của cơ thể lợn con là rất quan trọng. Sử dụng
chế phẩm sinh học để phòng và trị tiêu chảy cho lợn con là rất cần thiết.

2.1.1. Đặc điểm sinh trưởng và phát tiển của lợn con trong thời gian theo mẹ
Lợn con ở giai đoạn này có khả năng sinh trưởng, phát dục rất nhanh.
So với khối lượng sơ sinh thì khối lượng lợn con lúc 10 ngày tuổi tăng gấp 2
lần, lúc 21 ngày tuổi tăng gấp 4 lần, lúc 30 ngày tuổi tăng gấp 5 - 6 lần, lúc 40
ngày tuổi tăng gấp 7 - 8 lần, lúc 50 ngày tuổi tăng gấp 12 - 14 lần.


5

Lợn con bú sữa có tốc độ sinh trưởng phát triển nhanh nhưng không
đều qua các gia đoạn, trong 21 ngày tuổi đầu khối lượng tăng nhanh, sau đó
giảm. Có sự giảm này là do nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là do lượng
sữa của lợn mẹ bắt đầu giảm và hàm lượng hemoglobin trong máu của lợn
con bị giảm. Thời gian bị giảm sinh trưởng kéo dài khoảng 2 tuần, còn gọi là
thời gian khủng hoảng của lợn con. Phạm Sỹ Lăng(2003 ) [6].
Có thể hạn chế sự khủng hoảng này bằng cách tập cho lợn con ăn sớm.
Do lợn con sinh trưởng và phát dục nhanh, nên khả năng tích luỹ các chất
dinh dưỡng rất mạnh. Ví dụ: Lợn con ở 3 tuần tuổi,mỗi ngày có thể tích lũy
được 9 - 14g protein/1kg khối lượng cơ thể. Trong đó lợn trưởng thành chỉ
tích luỹ được 0,3 - 0,4g protein/1kg khối lượng cơ thể.
2.1.2. Đặc biểm phát triển của cơ quan tiêu hoá
Tiêu hoá là quá trình làm biến đổi thức ăn một cách toàn diện về mặt
vật lý, hoá học để làm cho thức ăn từ dạng các hợp chất hoá học phức tạp
chuyển thành dạng đơn giản mà cơ thể có thể hấp thu và sử dụng được. Quá
trình tiêu hoá ở gia súc diễn ra dưới 3 tác động cơ học, hoá học và vi sinh vật
học. Đối với lợn con theo mẹ, quá trính tiêu hoá có các đặc điểm riêng.
Đặc điểm sinh lý lợn con bú sữa:
Sau khi sinh phải cho lợn con bú ngay sữa đầu bởi có giá trị dinh
dưỡng cao. Các thành phần protein, vitamin.... đều cao hơn sữa thường. Trong
sữa đầu lượng vật chất khô đạt 23,20% so với sữa thường chỉ có 19,60%.

Hàm lượng protein cũng cao hơn 11,15% so với 6,80% sữa thường. Đặc biệt
sữa đầu chứa nhiều kháng thể ‫ ﻻ‬- globulin có vai trò bảo vệ lợn con mới để
chống lại sự tấn công của các virut, vi trùng gây bệnh. Lượng ‫ ﻻ‬- globulin
chiếm khoảng 50% tổng số protein sữa đầu. Hệ thống enzyme trong dịch vị
đã có từ khi lợn con mới sinh, nhưng trước 20 ngày tuổi chưa có khả năng
tiêu hoá bởi thiếu HCl. Hoạt tính của enzyme pepsin tăng dần theo độ tuổi. Ở
9 ngày tuổi tiêu hoá 30mg fibrin trong 19 giờ, 28 ngày tuổi chỉ cần 2 - 3 giờ,


6

đến 50 ngày tuổi chỉ cần 1 giờ là tiêu hoá hết. Khi bổ sung 3g pepsine và
500mg HCl 0,4% vào thức ăn cho lợn 3 - 4 tháng tuổi sẽ kích thích tiết dịch vị
và tăng sưc tiêu hoá của lợn con (Trương Lăng, 1994) [7]. Khả năng đông tụ
sữa của dịch vị lợn con cũng thay đổi theo tuổi, lượng chymozine cũng tăng
lên trước một tháng tuổi sau đó sẽ giảm dần. Khả năng miễn dịch của lợn con
thường được đánh giá ở nồng độ ‫ ﻻ‬- globulin trong máu lợn con.
Do lợn được bú sữa đầu nên hàm lượng globulin tăng vào lúc 2 ngày
tuổi, sau đó giảm dần. Sau đó hàm lượng ‫ﻻ‬- globulin lại tiếp tục tăng do miễn
dịch chủ động đã thay thế miễn dịch thụ động.
Kháng thể còn thấy ở dịch mô bào nên nồng độ ‫ ﻻ‬- globulin trong máu
thấp ở tuần 3 - 6 không thể nói hoàn toàn thiếu kháng thể. Lợn con có thể thụ
được miễn dịch thụ động một cách hiệu quả cao khi lợn con bú được nhiều
sữa đầu. Hàm lượng ‫ ﻻ‬-globulin có thể hấp thu trực tiếp ở ruột non trong vòng
36 giờ đầu mà không mất hoạt tính miễn dịch. Khả năng miễn dịch của lợn
con phụ thuộc vào số lượng ‫ ﻻ‬- globulin hấp thu được. Vì vậy cho lợn con bú
sữa đầu là vô cùng quan trọng để tăng sức đề kháng của cơ thể.
Hoạt tính của các enzyme pepsin, chymotrypsin, trypsin và axit HCl
tăng lên rất cao đặc biệt khi lợn con bắt đầu vào tuổi cai sữa, Enzyme phân
giải cacbohydrat phát triển không đồng đều. Lactase cao lúc đầu sau đó giảm

nhanh ở tuần tuổi thứ 3, hoạt tính của amylase, maltasa tăng chạm. Hoạt tính
của amylasa tăng gấp đôi khi lợn con ăn thức ăn chứa nhiều tinh bột, tuy
nhiên lypase không tăng.
Khi lợn con ăn thức ăn các chất dinh dưỡng của thức ăn có tác dụng
thúc đẩy sự phát triển của enzyme và hoạt động sinh lý tiêu hoá có khả năng
thích nghi với sự thay đổi của thức ăn. Hoạt tính phân giải protein của dịch dạ
dày tăng rõ rệt khi protein thực vật thay thế protein sữa.
Cơ quan tiêu hoá của lợn con trong giai đoạn theo mẹ phát tiển nhanh
về cấu tạo và hoàn thiện dần về chức năng tiêu hoá, biểu hiện:


7

Dung tịch ruột con của lợn con lúc 10 ngày tuổi gấp 1,5 lần lúc sơ sinh,
lúc 20 ngày tuổi gấp 2,5 lần và lúc 60 ngày tuổi gấp 50 lần (dung tích ruột già
lúc sơ sinh khoảng 0,04 lít )
Chức năng tiêu hoá của lợn sơ sinh chưa có hoạt lực cao, trong giai đoạn
theo mẹ, chức năng tiêu hoá của một số men tiêu hoá được hoàn thiện dần.
+ Men pepsin: Nếu không cho lợn ăn sớm thì khoảng 25 ngày tuổi, men
pepsin trong dạ dày lợn con chưa có khả năng tiêu hoá protein của thức ăn, vì
lúc này trong dạ đày lợn con chưa có HCl tự do. Khi có HCl tự do sẽ kích
hoạt men pepsinogen không hoạt động thành men pepsin hoạt động có khả
năng tiêu hoá. Ngoài ra, do thiếu HCl tự do nên lợn con rất dễ bị vi khuẩn có
hại xâm nhập vào đường tiêu hoá và tác động gây bệnh.
Có thể kích thích việc tăng tiết HCl tự do sớm bằng cách tập cho lợn
con ăn sớm. Nếu cho lợn con ăn sớm vào lúc 5 - 7 ngày tuổi thì HCl tự do có
thể được tiết ra từ 14 ngày tuổi.
+ Men amylaza và maltaza: Hai men này có trong nước bọt và trong
dịch tuỵ lợn con từ lúc mới đẻ nhưng dưới 3 tuần tuổi hoạt tính thấp, do đó
khả năng tiêu hoá tinh bột của lợn con còn kém, chỉ tiêu hoá được 50% lượng

tinh bột ăn vào. Đối với thức ăn tinh bột sống, lợn con tiêu hoá càng kém.
Cho nên các loại thức ăn cần được nấu chín trước khi cho lợn con ăn. Sau 3
tuần tuổi, men amylaza và maltaza mới có hoạt tính mạnh nên khả năng tiêu
hoá tinh bột của lợn con tốt hơn.
+ Men saccaraza: Đối với lợn con dưới 2 tuần tuổi men saccaraza hoạt
tính còn thấp cho nên lợn con ăn đường saccaroza thì dễ bị ỉa chảy. Lợn con
dưới 3 tuần tuổi chỉ có một số men tiêu hoá có hoạt tính mạnh như men
trypsin, catepsin, lactaza, lipaza và chymosin.
+ Men trypsin: Là men tiêu hoá protein thức ăn: ở thai lợn 2 tháng đã
có men trypsin, thời kỳ càng lớn hoạt tính của men trypsin càng cao. Khi lợn


8

con mới đẻ ra, men trypsin của dịch tuỵ rất cao để bù đắp lại khả năng tiêu
hoá kém của men pepsin dạ dày.
+ Men catepsin: Là men tiêu hoá protein trong sữa. Đối với lợn con ở 3
tuần tuổi đầu, men catepsin có hoạt tính mạnh, sau đó hoạt tính giảm dần.
+ Men lactaza: Có tác dụng tiêu hoá đường lactose trong sữa. Men này
có hoạt tính mạnh ngay từ khi lợn con mới để ra và tăng cao ở tuần thứ 2, sau
đó hoạt tính của men này giảm dần.
+ Men lipaza và chymosin: Hai men này có hoạt tính mạnh trong 3 tuần
sau đó hoạt tính giảm dần. Nói chung lợn con bú sữa chỉ có khả năng tiêu hoá
các chất dinh dưỡng trong sữa lợn mẹ có khả năng tiêu hoá thức ăn kém.
Trong khâu nuôi dưỡng chúng ta cần chú ý chế biến thức ăn tốt để nâng cao
khả năng tiêu hoá của lợn con.
Giai đoạn lợn con bú sữa lợn sinh trưởng và phát triển rất nhanh, tầm
vóc và thể trọng tăng dần theo ngày tuổi. Từ lúc sơ sinh đến lúc cai sữa trọng
lượng của lượn con tăng từ 10-12 lần. So với các gia súc khác thì trọng lượng
của lợn con tăng lớn nhất hàm lượng nước giảm dần theo tuổi, vật chất khô

tăng dần, các thành phần hóa học trong cơ thể thay đổi nhanh chóng. Hàm
lượng sắt trong cơ thể lợn giảm mạnh, thấp nhất vào giai đoạn 20 ngày tuổi và
sau đó tăng dần đạt mức bằng khi sinh vào 60 ngày tuổi. Một điểm quan trọng
nhất của lợn con theo mẹ là: Sản lượng sữa lợn mẹ tăng dần từ khi mới đẻ cho
đến ngày 15, tại thời điểm này sản lượng sữa là cao nhất và ổn định vào ngày
thứ 20 sau đó thì giảm dần cho đến ngày 60 là ở mức thấp nhất. Nhu cầu dinh
dưỡng của lợn con tăng lên trong khi hàm lượng sữa lợn mẹ sau 3 tuần giảm đi
rõ rệt, dẫn tới lợn con sẽ thiếu dinh dưỡng nếu không có thức ăn bổ sung.
Khả năng miễn dịch của lợn con trong giai đoạn này cũng có những điểm
đặc biệt. Lợn con mới đẻ trong máu không có γ Globulin nhưng khi bú sữa có
chứa hàm lượng γ Globulin cao, hàm lượng kháng thể trong máu lợn con tăng
lên nhanh chóng. Sau 3 đến 4 tuần tuổi hàm lượng γ Globulin giảm xuống.


9

Trong thời gian bú sữa trong lượng bộ máy tiêu hóa của lợn con tăng
lên từ 5-10 lần, chiều dài ruột non tăng gấp 5 lần, dung tích bộ máy tiêu hóa
tăng lên 40-50 lần, chiều dài ruột già tăng lên từ 40-50 lần. Tuyến tụy ở 30
ngày tuổi tăng lên gấp 4 lần, trọng lượng gan gấp 3 lần sau khi sơ sinh. Lúc
đầu dạ dày chỉ nặng 6-8 gam và chứa được 35-50 gam sữa, nhưng chỉ sau 3
tuần tuổi đã tăng lên 4 lần và ở 60 ngày tuổi năng 160 gam và chứa được 7001000 gam sữa.
2.1.3. Đặc điểm sinh lí của lợn con
Lợn con trong 3 tuần tuổi chỉ có khả năng tiêu hóa cazein, các đường,
lipid của sữa, còn các chất khác từ thức ăn nhân tạo thì chưa có. Khi có khả năng
hoạt động của các men trong dịch tụy mà điều quyết định là HCL tự do hoặc hóa
men Pepsinogen để tiêu hóa protid. Trong giai đoạn này cần chú ý cho lượn con
ăn các loại thức ăn dễ tiêu hóa và chia thành nhiều bữa trong ngày.
Trong giai đoạn lơn con bú mẹ khả năng điều hòa thân nhiệt còn rất
kém. Nhiệt độ bên ngoài ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp tới quá trình sinh

trưởng và tỏa nhiệt của lợn con, nhiệt độ quá cao hay quá thấp đều ảnh hưởng
tới quá trình điều tiết thân nhiệt của lợn con. Khi nhiệt độ ngoại cảnh là 1324oC thân nhiệt lơn con sẽ giảm từ 2,5-6,5oC sau 1 giờ và mất 1 giờ mới phục
hồi thân nhiệt trở lại bình thường. Nếu nhiệt độ môi trường <13 oC thì sau 2
ngày lợn con mới điều hòa thân nhiệt trở lại bình thường, nếu nhiệt độ môi
trường giảm xuống -4 oC thì sau 10 ngày thì thân nhiệt lợn con mới trở về
bình thường. thân nhiệt của lợn con khi sinh khoảng 38 oC, sau 10 ngày tăng
lên 39,5-39,7 oC và giữ ở mức đó. Trong thời gian này thân nhiệt của lợn con
biến động trên dưới 1 oC. Độ ẩm cũng là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến khả
năng điều hòa thân nhiệt của lợn con. Nếu độ âm cao thì lợn con dễ bị mất
nhiệt và có thể bị cảm lạnh, độ ảm thích hợp cho lơn con ở nước ta là 65-70%.
Trong chăn nuôi chúng ta thường sử dụng một số biện pháp kĩ thuật để hạn


10

chế những tách động nói trên đối với lợn con, nhằm nâng cao hiệu quả chăn
nuôi cũng như điều hòa nhiệt độ và độ ẩm thích hợp với lợn con,
2.1.4. Đặc điểm về tiêu hóa của lợn con
Lợn con mới sinh ra sống nhờ vào sữa mẹ , sau khi cai sữa cơ thể lợn
trải qua một quá trình thay đổi không ngừng về hình thái , cấu tạo và sinh lý
của ống tiêu hoá để thích ứng với điều kiện mới.
Sau khi sinh ra, ở lợn con chức năng tiêu hoá của dạ dày còn hạn chế,
dễ gây rối loạn trao đổi chất mà hậu quả là rối loạn tiêu hoá, gây tiêu chảy,
còi cọc, thiếu máu và chậm lớn.
Lợn con trước 1 tháng tuổi có hàm lượng HCl tự do trong dạ dày rất ít,
giai đoạn này gọi là giai đoạn thích ứng cần thiết tự nhiên giúp cơ thể thẩm
thấu được các kháng thể miễn dịch trong sữa đầu của lợn mẹ. Dịch vị không
có hoạt tính phân giải protein mà chỉ có hoạt tính làm vón sữa đầu, albumin
và globulin được chuyển xuống ruột để vào máu.
Tuy nhiên, lợn con trên 14 - 16 ngày tuổi tình trạng thiếu HCl ở dạ dày

không còn là sự cần thiết cho sinh lý bình thường nữa (Đào Trọng Đạt và
cộng sự, 1986) [4] Vì vậy, việc tập cho lợn con ăn sớm đã rút ngắn được giai
đoạn thiếu HCl, giúp hoạt hoá hoạt động tiết dịch, tạo khả năng xây dựng
nhanh chóng các đáp ứng miễn dịch của cơ thể.
Sau 20 ngày lượng sữa mẹ giảm dần trong khi nhu cầu của lợn con tăng
lên. Vì vậy, lợn con rất dễ rơi vào trạng thái khủng hoảng. Để khắc phục tình
trạng này cần tập cho lợn con tập ăn sớm để bổ sung thêm chất dinh dưỡng,
có tác dụng kích thích tăng tiết dịch, tăng hàm lượng HCl và men tiêu hóa; sự
phát triển của dạ dày và ruột để đáp ứng kịp thời với chế độ sau cai sữa.
2.1.5. Hệ sinh vật trong đường ruột của lợn con
Ở gia súc trưởng thành, trong đường ruột có hệ vi sinh vật có lợi
thường trực cộng sinh có khả năng khống chế sự xâm nhập và nhân lên của
các loài vi sinh vật khác lạ từ môi trường bên ngoài, đồng thời tham gia vào


11

quá trình tiêu hoá hấp thu. Trong đường ruột của gia súc non, hệ vi sinh có
lợi - vi sinh vật đối kháng với vi khuẩn gây bệnh chưa hình thành, chức năng
tiêu hoá chưa thành thục, môi trường sống, điều kiện ngoại cảnh, chăm sóc
không tốt đều là những stress đối với gia súc non. Khi chuyển từ bào thai
sang nuôi dưỡng bằng sữa mẹ và chế độ tập ăn, tiếp xúc thường xuyên với
môi trường bên ngoài và nhất là điều kiện không vệ sinh, vi sinh vật gây bệnh
dễ dàng xâm nhập và gây bệnh đường ruột cho gia súc non, có thể ở dạng cấp
tính hay mãn tính.
Ở trạng thái sinh lý bình thường, giữa cơ thể vật chủ và hệ vi sinh vật
trong đường tiêu hoá cũng như giữa các loài vi sinh vật trong khu hệ vi sinh
vật với nhau luôn luôn ở trạng thái cân bằng, sự cân bằng này là cần thiết cho
sức khoẻ của vật chủ. Họ vi khuẩn đường ruột là một họ lớn, bao gồm các trực
khuẩn gram âm sống trong ống tiêu hoá của người và động vật. Chúng có thể

gây bệnh hoặc không gây bệnh, hiếu khí hoặc hiếu khí tuỳ tiện, bao gồm vi
khuẩn sinh axit lactic, vi khuẩn bifidium, một số loại cầu khuẩn đường ruột có
khả năng ức chế và tiêu diệt vi khẩn Salmonella, Proteus vulgaris và các loại
vi khuẩn sinh thối rữa, vi khuẩn Lactobacillus, Bacilus subtilis. Ở gia súc sơ
sinh, chưa hình thành hoặc hình thành không ổn định hệ vi sinh vật có lợi này,
có nghĩa là chưa có vi khuẩn ức chế và tiêu diệt sự xâm nhập của vi khuẩn gây
bệnh đường tiêu hoá.
Hệ vi sinh vật có hại hay gặp trong đường ruột là vi khuẩn Salmonella
spp, E.coli, một số chủng Clostridium spp, Shigella. Cho đến nay nhiều công
bố nghiên cứu khoa học đã cho biết nguyên nhân gây tiêu chảy ở gia súc non
gồm 3 loại chính là E.coli, Salmonella spp, Clostridium perfringens.
Trong hệ vi khuẩn đường ruột, vi khuẩn E.coli là phổ biến nhất và
chúng xuất hiện sớm trong đường ruột của người, động vật sơ sinh, thường ở
phần sau của ruột, đôi khi còn thấy ở niêm mạc của nhiều bộ phận trong cơ
thể Clostridium perfringens typ C gây bệnh viêm ruột hoại tử cho lợn ở lứa


12

tuổi 1 đến 14 ngày tuổi, đặc biệt xảy ra trầm trọng ở 1 đến 7 ngày tuổi, tỷ lệ
chết cao (50%), bệnh lây nhiễm qua phân.
Tiêu chảy ở lợn con do Salmonella cholerasuis gây ra thường thể hiện
ở 2 dạng là bại huyết và thần kinh. Khi mổ khám chúng ta thấy có hiện tượng
viêm ruột hoại tử có xuất huyết ở ruột, màng treo ruột, viêm màng ruột, đoạn
trước trực tràng phình to.
2.1.6. Khả năng miễn dịch của lợn con
Khả năng miễn dịch của cơ thể là khả năng phản ứng của cơ thể đối
với các chất lạ khi xâm nhập vào cơ thể. Các chất lạ có thể là mầm bệnh, các
mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể gia súc non tương đối dễ do các cơ quan bảo
vệ cơ thể phát triển chưa hoàn chỉnh. Trong hệ thống tiêu hoá của lợn con

lượng enzym tiêu hoá và lượng HCl tiết ra chưa đủ để đáp ứng cho quá trình
tiêu hoá, gây rối loạn trao đổi chất, tiêu hoá và hấp thu dinh dưỡng kém. Do
vậy, các mầm bệnh như E.coli, Salmonella… dễ dàng xâm nhập vào cơ thể
qua đường tiêu hoá và gây bệnh.
Ở lợn con, các yếu tố miễn dịch như bổ thể, profecdin và lysozim được
tổng hợp còn ít, khả năng thực bào kém. Vì vậy, việc cho lợn con bú sữa đầu
là rất cần thiết do trong sữa đầu có rất nhiều globulin miễn dịch, bảo vệ cơ
thể lợn con chống lại mầm bệnh. Hai giờ sau khi đẻ, lợn con phải được bú
sữa đầu để hấp thu được nhiều globulin từ sữa đầu vào máu trong thời gian
24- 36 giờ, nhờ đó có đủ kháng thể trong 5 tuần đầu tiên
Tuy nhiên còn một yếu tố quan trọng nữa là sự phát triển của hệ vi sinh
vật trong đường ruột gia súc non có những đặc thù riêng. Việc cân bằng khu hệ
vi sinh vật có lợi trong đường ruột nhằm khắc phục, hạn chế sự loạn khuẩn trong
quá trình phát triển và trưởng thành của cơ thể lợn con là rất quan trọng. Sử dụng
chế phẩm sinh học để phòng và trị tiêu chảy cho lợn con là rất cần thiết.


13

2.1.7. Nguyên nhân gây bệnh phân trắng ở lợn con
Bệnh phân trắng lợn con đã và đang được rất nhiều tác giả nghiên cứu
và đưa ra những nhận định về nguyên nhân theo nhiều hướng khác nhau song
tập trung vào 2 hướng:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng bệnh phân trắng lợn con không phải
bệnh nhiễm trùng mà là chứng khó tiêu, hậu quả của các yếu tố ngoại cảnh
như thời tiết khí hậu, chất lượng sữa mẹ, vệ sinh chuồng trại, chăm sóc nuôi
dưỡng lợn con, lợn mẹ kém… gây nên.
- Quan điểm thứ 2 cho là bệnh nhiễm trùng đường tiêu hoá, chủ yếu do
vi khuẩn E.coli gây ra.
Gần đây nhiều nhà nghiên cứu cho rằng bệnh do nhiều nguyên nhân

phối hợp, liên quan đến hàng loạt các yếu tố. Do đó việc phân chia nguyên
nhân nào là chính, nguyên nhân nào là phụ để có biện pháp điều trị hiệu quả.
* Do đặc điểm sinh lý của lợn con
Khi mới sinh ra, cơ thể lợn con phát triển để dần hoàn chỉnh về cấu tạo,
chức năng hệ tiêu hóa và hệ miễn dịch. Lợn con trước một tháng tuổi không có
HCl tự do trong dịch vị vì lúc này lượng axit tiết ra và nhanh chóng liên kết với
dịch nhầy. Đây là điều kiện để vi sinh vật phát triển gây bệnh dạ dày - ruột ở lợn
con. Hơn nữa vì thiếu axit HCl nên pepsinogen tiết ra không trở thành pepsin
hoạt động được gây rối loạn tiêu hóa sữa, sữa bị kết tủa dưới dạng casein gây rối
loạn tiêu hóa, tiêu chảy màu phân trắng (màu của casein chưa được tiêu hóa).
Mặt khác khi mới sinh vỏ não và các trung tâm điều tiết thân nhiệt
chưa hoàn chỉnh. Hơn nữa lượng mỡ dưới da của lợn con mới sinh chỉ có
khoảng 1%. Lúc khí hậu thay đổi lợn con mất cân bằng giữa hai quá trình sản
nhiệt và thải nhiệt. Đặc điểm này đã lý giải tại sao bệnh lại hay xảy ra hàng
loạt ồ ạt khi thời tiết thay đổi thất thường.
Theo Nguyễn Xuân Bình ( 2002) [2] lượng sữa mẹ từ khi đẻ tăng đến
ngày thứ 15 là cao nhất, đến ngày thứ 20 đột ngột giảm xuống thấp trong khi


14

nhu cầu về sữa mẹ của lợn con tăng lên. Do đó nếu ở giai đoạn này lợn mẹ
mà thiếu chất dinh dưỡng thì lợn con lại càng thiếu sữa, cơ thể lợn con trở
nên suy nhược, giảm sức đề kháng, lợn dễ bị stress.
Một trong các nguyên nhân quan trọng nhất gây bệnh đường tiêu hóa là
do thiếu sắt. Khi còn là bào thai lượng sắt cần thiết được mẹ cung cấp. Khi ra
ngoài môi trường sống, sữa mẹ chỉ cung cấp được 1/6 lượng sắt mà cơ thể
non yêu cầu. Trong khi cơ thể sơ sinh cần tới 40- 50 mg sắt/ngày, nhưng lợn
con chỉ nhận được 1mg/ngày thông qua sữa mẹ. Vì vậy, cần bổ sung thêm ít
nhất là 200- 250mg/con để lợn con tránh thiếu máu. Trong sữa mẹ không

những chỉ thiếu sắt mà còn thiếu cả Coban, Vitamin B 12 tham gia vào quá
trình tạo máu, tổng hợp và hoạt hóa một số enzym. Do đó lợn con dễ sinh bần
huyết, cơ thể suy yếu, sức đề kháng giảm, lợn con dễ mắc bệnh phân trắng.
* Do chăm sóc nuôi dƣỡng lợn nái không đúng kỹ thuật
Tình trạng sức khoẻ và chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng lợn mẹ ảnh
hưởng đến dinh dưỡng bào thai và tích luỹ chất dinh dưỡng để tạo ra sữa
trong giai đoạn cuối. Việc nuôi dưỡng lợn nái chửa kỳ cuối rất quan trọng, nó
quyết định trọng lượng sơ sinh của lợn con - một trong những chỉ tiêu để
nâng cao năng suất của đàn nái sinh sản, đồng thời nói lên sức khoẻ của lợn
con sơ sinh.
Các chất dinh dưỡng cung cấp cho lợn mẹ, ngoài việc đáp ứng nhu cầu
năng lượng và protein còn cung cấp các vitamin, khoáng, đặc biệt là protein
tạo kháng thể chống lại các vi khuẩn có hại.
Lợn con khi sinh không ngừng sử dụng protein để xây dựng các mô
bào mới trong quá trình phát triển, đồng thời khôi phục và tu bổ lại tế bào cũ.
Vì vậy, nếu khẩu phần ăn của lợn mẹ không đủ protein, thiếu khoáng đa
lượng, vi lượng, dẫn đến thiếu dinh dưỡng, lượng sữa giảm, chất lượng sữa
giảm, ảnh hưởng đến sức khoẻ của lợn con.


15

Thân nhiệt của lợn mới sinh ra là 38,9 oC - 39,1oC, nhưng sau 30 phút
giảm xuống còn 36,7oC - 37,1oC. Trong vòng 1 giờ sau khi sinh, nếu con vật
được bú sữa đầu thì sau 8- 12 giờ thân nhiệt của lợn con sẽ được ổn định trở
lại, nếu lợn con không được bú sữa đầu thì sự mất nhiệt sẽ là nguyên nhân
gây bệnh phân trắng lợn con.
Trong sữa đầu hàm lượng vitamin A, D, B1, C cao hơn rất nhiều so với
sữa thường. Ngoài ra, trong sữa đầu còn có MgSO4 có tác dụng tẩy rửa các
chất cặn bã trong đường tiêu hoá. Đặc biệt còn có hàm lượng kháng thể γ globulin, do đó cho lợn con bú sữa đầu đầy đủ rất cần thiết nhằm cung cấp

hàm lượng kháng thể đáng kể chống lại sự xâm nhập của các vi khuẩn gây
bệnh, tăng sức đề kháng của cơ thể.
* Do vi trùng, virus, ký sinh trùng và nấm mốc
Do vi khuẩn
Vi khuẩn E.coli
Vai trò của vi khuẩn gây tiêu chảy ở lợn con đã và đang được nhiều
nhà khoa học quan tâm. Nhưng trong đó vi khuẩn E.coli là nguyên nhân quan
trọng nhất trong hội chứng tiêu chảy của lợn con mới sinh và sau cai sữa .
E.coli là một loại trực khuẩn đường ruột sống ở ruột già, chỉ một vài giờ sau
khi sinh và tồn tại đến khi con vật chết, bệnh lợn con phân trắng là một hội
chứng hay nói cách khác là một trạng thái lâm sàng đa dạng, đặc biệt là viêm
dạ dày ruột, tiêu chảy và gầy sút nhanh.
Hầu hết E.coli gây bệnh cho ký chủ nhờ yếu tố bám dính và độc tố
đường ruột. E.coli bám dính vào niêm mạc ruột rồi sản sinh độc tố đường
ruột. Các chủng E.coli gây bệnh đều sản sinh ra một hay nhiều kháng nguyên
bám dính, chúng nằm trên Fibriae- một cấu trúc giống sợi lông, xuất phát từ
một đĩa giống trong màng nguyên sinh chất của tế bào vi khuẩn. Chính các
yếu tố bám dính cùng với các độc tố đường ruột đã gây quá trình sinh bệnh
đặc trưng của E.coli.


16

Nguyễn Thị Tài và cs (2000) [13] đã phân lập được các chủng E.coli
gây bệnh phân trắng cho lợn con và đã chọn được 7 chủng E.coli mang các yếu
tố gây bệnh như K88, Enterotoxin, Hly và R để chế tạo vacxin. Vacxin này rất an
toàn (100%) và hiệu lực bảo hộ so với đối chứng đạt 40% đến 59% trên động
vật thí nghiệm.
Vi khuẩn Salmonella
Salmonella có mặt trong thức ăn, nước uống, môi trường thiên nhiên

và trong cơ thể động vật, có khả năng gây bệnh khi gặp điều kiện thuận lợi.
Salmonella cũng đóng vai trò rất quan trọng trong nguyên nhân gây hội
chứng tiêu chảy ở lợn con vì vi khuẩn này là nguyên nhân gây bệnh phó
thương hàn ở lợn bao gồm Salmonelle cholera suis (chủng kunzendorf) và
Salmonella typhysuis .Ngoài Salmonella cholera suis gây bệnh phó thương
hàn cho lợn, trong một số trường hợp còn gặp Slmonella enteritidis và
Salmonella dublin ở lợn con đang bú sữa
Vi khuẩn Clostridium perfringens
Một trong những nguyên nhân quan trọng khác đóng vai trò kế phát
gây bệnh là vi khuẩn yếm khí Cl.perfringens hình thành độc tố gây dung
huyết, gây hoại tử tổ chức phần mềm và gây chết. Vi khuẩn có khả năng gây
ra các chứng nhiễm độc, viêm ruột xuất huyết trầm trọng ở lợn con.
Các chủng Cl.perfringens sản sinh ra nhiều độc tố và enzym khác
nhau, mỗi chủng có những đặc điểm riêng trong việc sản sinh ra một vài loại
độc tố hay enzym nào đó, những độc tố gây bệnh chủ yếu do Cl.perfringens
bao gồm độc tố α, β, δ. Dựa vào hầu hết các đặc điểm mô tả thì
Cl.perfringens typ C gây ra viêm ruột hoại tử.
Cl.perfringens typ C sản sinh ra độc tố α, β chủ yếu là độc tố β, nhân tố
quan trọng nhất trong sinh bệnh học của bệnh viêm ruột hoại tử do
Cl.perfringens typ C gây ra. Bệnh xảy ra chủ yếu trên lợn con ở giai đoạn
theo mẹ, lứa tuổi mắc phổ biến nhất là 12 giờ sau khi sinh ra đến 7 ngày tuổi,


17

hay gặp nhất ở 1 đến 3 ngày tuổi. Ngoài ra bệnh cũng có thể xảy ra đối với
lợn con từ 2 đến 4 tuần tuổi và cả khi cai sữa, lợn mắc bệnh thường bị chết ở
những ổ lợn mẹ không được tiêm phòng, tỷ lệ khỏi rất thấp, tỷ lệ chết có thể
lên tới 100% (Lobiro và Acovacl (2004 ) [18]
Do virus

Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu đến vai trò của virus.
Một đại diện của virus được chú ý nhiều trong hội chứng tiêu chảy của lợn đó
là Transmissble gastroenteritis virus (TGE). TGE (viêm dạ dày ruột truyền
nhiễm), là một bệnh có tính truyền nhiễm cao, biểu hiện đặc trưng là nôn mửa
và tiêu chảy nghiêm trọng, bệnh thường xảy ra ở các cơ sở chăn nuôi tập
trung khi thời tiết rét lạnh.
Virus TGE xâm nhập chủ yếu qua đường tiêu hoá. Virus này gây
bệnh cho lợn ở các lứa tuổi khác nhau, ở lợn virus nhân lên mạnh nhất ở
trong niêm mạc của không tràng rồi đến hồi tràng, chúng không sinh sản
trong dạ dày và kết tràng.
Một số virus như Cornavirus, paravirus, rotavirus và adenovirus đều
có tính hướng đến các tế bào ruột. Các tế bào niêm mạc ruột bị phá huỷ do
lông nhung bị teo dẫn đến sự tiêu hoá và hấp thu kém. Những chất không tiêu
hoá được trong ruột non sẽ kéo theo chất lỏng vào xoang ruột non. Khi được
vận chuyển vào ruột già, một số được tiêu hoá hoặc không tiêu hoá đều có thể
tham gia vào quá trình gây tiêu chảy.
Do ký sinh trùng
Các bệnh ký sinh trùng ở đường tiêu hoá cũng là nguyên nhân dẫn đến
tiêu chảy ở lợn con cũng như ở một số gia súc khác. Nguyên nhân này xảy ra
chủ yếu ở lợn lứa tuổi sau cai sữa, còn lợn con theo mẹ ít gặp hơn vì đa số tỷ
lệ nhiễm ký sinh trùng tăng theo độ tuổi của lợn.
Tác hại của ký sinh trùng là do chúng ký sinh, phát triển trong đường
tiêu hoá, cướp chất dinh dưỡng của cơ thể, tiết độc tố, quá trình bám dính và di
hành chúng làm tổn thương niêm mạc ruột, giảm sức đề kháng của cơ thể lợn.


18

Tất cả các yếu tố trên tạo điều kiện thuận lợi cho các vi khuẩn xâm
nhiễm, bội nhiễm và gây bệnh.

Do độc tố nấm mốc
Độc tố nấm mốc với hàm lượng cao có thể gây chết hàng loạt gia
súc, với biểu hiện là nhiễm độc đường tiêu hoá, gây tiêu chảy dữ dội.
Ngoài ra việc gây tiêu chảy cho gia súc, độc tố nấm mốc còn gây độc trực
tiếp cho người dùng thực phẩm bị nhiễm nấm mốc hoặc gián tiếp từ những
độc tố tồn dư trong thực phẩm.
* Do thời tiết
Trong điều kiện sinh lý bình thường có sự cân bằng giữa sức đề kháng
của cơ thể đối với các yếu tố gây bệnh. Khi sức đề kháng của cơ thể giảm, thì
cân bằng này mất đi, làm cho cơ thể rơi vào trạng thái bệnh lý.
Khi còn nằm trong bụng mẹ, sự cân bằng nhiệt của bào thai do thân nhiệt
của cơ thể mẹ quy định. Sau khi sinh ra cơ thể lợn con chưa thể bù đắp được
lượng nhiệt mất đi do ảnh hưởng của môi trường bên ngoài. Lúc này, các yếu tố
bất lợi làm giảm sức đề kháng của cơ thể, tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh phát
sinh và tiến triển. Trong những yếu tố về khí hậu thì yếu tố về nhiệt độ ẩm là
quan trọng nhất. Nhiệt độ 28oC- 30oC, độ ẩm từ 75%- 85% là thích hợp cho lợn
con. Vì vậy vào những tháng giao mùa, tháng mưa nhiều, độ ẩm cao 86%- 90%,
nhiệt độ thay đổi thất thường lợn con sẽ mắc bệnh nhiều, có khi tỷ lệ bệnh phân
trắng lợn con trong đàn 90% - 100% Đào Trọng Đạt ( 1996) [4]
Nhiều tác giả cho rằng nguyên nhân của bệnh phân trắng lợn con
không có tính đặc hiệu nhưng mang tính tổng hợp, trong đó các yếu tố lạnh,
ẩm được đánh giá là yếu tố hàng đầu của bệnh. Lạnh, ẩm làm hệ thống điều
hoà bị rối loạn, dẫn đến rối loạn trao đổi chất của các cơ quan, các mô bào,
các tế bào của cơ thể, làm giảm sức đề kháng, tạo điều kiện cho virus, vi
khuẩn có sẵn trong đường ruột hay từ ngoài vào có cơ hội phát triển tăng
nhanh về số lượng và tăng cường độc lực gây bệnh.


×