Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tai lieu on thi môn lịch sử đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.87 KB, 28 trang )

Câu 1. Hoàn cảnh lịch sử, nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên được thông qua tại
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (1930). Giá trị lý luận và thực tiễn của Cương lĩnh đầu tiên
của Đảng đối với tiến trình Cách mạng Việt Nam từ 1930 đến nay? Liên hệ thực tiễn?
1. Hoàn cảnh lịch sử
Trong vòng nửa cuối năm 1929, trên cả nước ra đời ba tổ chức cộng sản, khẳng định bước tiến về chất
của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng cách mạng vô sản, phù hợp
với xu thế và nhu cầu bức thiết của lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên, sự tồn tại ba tổ chức cộng sản ở ba miền
dẫn đến phân tán về lực lượng và thiếu thống nhất về tổ chức trên cả nước. Trước tình hình đó, Quốc tế
Cộng sản đã gửi thư cho những người cộng sản Đông Dương (tài liệu ghi ngày 27-10-1929), nêu rõ: "Nhiệm
vụ quan trọng nhất và cấp bách nhất của tất cả những người cộng sản Đông Dương là thành lập một đảng
cách mạng có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản, nghĩa là một Đảng Cộng sản có tính chất quần chúng
ở Đông Dương. Đảng đó phải chỉ có một và là tổ chức duy nhất ở Đông Dương". Trước nhu cầu cấp bách
của phong trào cách mạng trong nước, với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái
Quốc đã đến Hương Cảng (Trung Quốc) triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản lại thành
một chính đảng duy nhất của Việt Nam.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng được đề ra tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong
nước có ý nghĩa như Đại hội để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Ái Quốc,
đại biểu Quốc tế Cộng sản, triệu tập và chủ trì, cùng với sự tham dự của các đồng chí Trịnh Đình Cửu,
Nguyễn Đức Cảnh, đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng, Nguyễn Thiệu và Châu Văn Liêm, đại biểu
của An Nam Cộng sản Đảng. Hội nghị họp bí mật ở nhiều địa điểm khác nhau trên bán đảo Cửu Long
(Hương Cảng), từ ngày 6-1 đến 7-2-1930, đã thảo luận quyết định thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và
nhất trí thông qua 7 tài liệu, văn kiện, trong đó có 4 văn bản: Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn
tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam hợp thành nội
dung Cương lĩnh chính trị của Đảng. Tất cả các tài liệu, văn kiện nói trên đều do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo
dựa trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối Đại hội VI (1928) của Quốc tế Cộng sản; nghiên
cứu các Cương lĩnh chính trị của những tổ chức cộng sản trong nước, tình hình cách mạng thế giới và Đông
Dương. Dù là vắn tắt, tóm tắt, song nội dung các tài liệu, văn kiện chủ yếu của Hội nghị được sắp xếp theo
một lôgic hợp lý của một Cương lĩnh chính trị của Đảng.
2. Nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Chánh cương vắn tắt của Đảng phân tích, đánh giá khái quát đặc điểm cơ bản nhất của kinh tế - xã hội
Việt Nam dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Đặc biệt phân tích tính chất độc quyền khai thác thuộc địa


của tư bản Pháp, gây nên hậu quả kìm hãm sự phát triển kinh tế của Việt Nam: “Tư bản bản xứ đã buộc tư
bản Pháp, vì tư bản Pháp hết sức ngăn trở sức sinh sản làm cho công nghệ bản xứ không thể mở mang được.
Còn về nông nghệ một ngày một tập trung đã phát sinh ra lắm khủng khoảng, nông dân thất nghiệp nhiều”.
Vì vậy, dẫn tới mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp xâm lược.
Xuất phát từ phân tích thực trạng và mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam - một xã hội thuộc địa nửa phong
kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam trong đó có công nhân, nông dân với đế quốc ngày càng gay gắt cần phải
giải quyết Từ đó, Chánh cương xác định đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam "chủ trương làm tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Như vậy, mục tiêu chiến lược được
nêu ra trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã làm rõ nội dung của cách mạng thuộc địa nằm trong phạm trù của
cách mạng vô sản, chính là làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Giải phóng dân
tộc và giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội gắn liền mật thiết với nhau thể hiện ở mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.
Về nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể, chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam: "Đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp và bọn phong kiến", "Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập". Đây là vấn đề căn cốt của
cách mạng Việt Nam lúc này. Cương lĩnh đã xác định: Chống đế quốc và chống phong kiến là nhiệm vụ cơ
bản để giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày, trong đó chống đế quốc, giành độc lập cho dân
tộc được đặt ở vị trí hàng đầu. Để sau đó: "Dựng ra chính phủ công nông binh", "Thâu hết sản nghiệp lớn
(như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v...) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công
nông binh quản lý". Trong đó, trước hết là "Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho
dân cày nghèo" ..
Về lực lượng cách mạng: Xác định lực lượng cách mạng phải đoàn kết công nhân, nông dân - đây là
lực lượng cơ bản, trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp,
các lực lượng tiến bộ, yêu nước để tập trung chống đế quốc và tay sai. Do vậy, Đảng "phải thu phục cho
được đại bộ phận giai cấp mình", "phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày,… hết sức liên lạc với tiểu tư
sản, trí thức, trung nông… để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa


chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung
lập". Đây là cơ sở của tư tưởng chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết rộng rãi các
giai cấp, các tầng lớp nhân dân yêu nước và các tổ chức yêu nước,cách mạng, trên cơ sở đánh giá đúng đắn

thái độ các giai cấp phù hợp với đặc điểm xã hội Việt Nam, .
Về phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, Cương lĩnh khẳng định phải bằng con đường
bạo lực cách mạng chứ không thể là con đường cải lương thoả hiệp "không khi nào nhượng một chút lợi ích
gì của công nông mà đi vào đường thoả hiệp". Có sách lược đấu tranh cách mạng thích hợp để lôi kéo tiểu tư
sản, trí thức, trung nông về phía giai cấp vô sản, còn "bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập
hiến, v.v.) thì phải đánh đổ".
Phát huy tinh thần tự lực tự cường, đồng thời tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của các dân tộc bị áp bức
và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp. Cương lĩnh nêu rõ cách mạng Việt Nam liên lạc mật
thiết và là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, "trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam
độc lập, phải đồng thời tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới".
Như vậy, ngay từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu cao chủ nghĩa quốc tế và mang bản chất
quốc tế của giai cấp công nhân.
Về vai trò lãnh đạo của Đảng: với tư cách là đội tiên phong của giai cấp vô sản, Sách lược vắn tắt của
Đảng ghi rõ: "Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình,
phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng". "Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm
một số lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng".
3. Giá trị lý luận và thực tiễn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đối với tiến trình cách
mạng Việt Nam
* Giá trị lý luận của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng:
Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và
được Hội nghị thành lập Đảng nhất trí thông qua, đã phản ánh một cách súc tích các luận điểm cơ bản của
cách mạng Việt Nam. Trong đó, thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc đánh giá đặc
điểm, tính chất xã hội thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX, chỉ rõ những
mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của dân tộc Việt Nam lúc đó, đặc biệt là việc đánh giá đúng đắn, sát thực thái
độ các giai tầng xã hội đối với nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Từ đó, các văn kiện đã xác định đường lối chiến
lược và sách lược của cách mạng Việt Nam, đồng thời xác định phương pháp cách mạng, nhiệm vụ cách
mạng và lực lượng của cách mạng để thực hiện đường lối chiến lược và sách lược đã đề ra.
Những nội dung cơ bản ấy đã khẳng định lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có một bản cương lĩnh
chính trị phản ánh được quy luật khách quan của xã hội Việt Nam, đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp
bách của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại, định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình

phát triển của cách mạng Việt Nam.
Những nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo
chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của một nước thuộc địa nửa phong kiến. Đó chính là giải quyết
đúng đắn các mối quan hệ cốt lõi trong cách mạng Việt Nam: kết hợp đúng đắn vấn đề giai cấp và vấn đề
dân tộc; kết hợp truyền thống yêu nước và tinh thần cách mạng của nhân dân ta với những kinh nghiệm của
cách mạng thế giới; kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng; đặc biệt là sự kết hợp
nhuần nhuyễn và đầy sáng tạo, đặc điểm thực tiễn, yêu cầu của cách mạng Việt Nam với tư tưởng tiên tiến
cách mạng của thời đại. Vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam một cách đúng
đắn, sáng tạo và có phát triển trong điều kiện lịch sử mới.
Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Cương lĩnh ấy rất phù hợp
với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta... Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách
mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc
bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân - không ngừng củng cố và tăng
cường". Chính vì vậy, con đường cách mạng vô sản mà Cương lĩnh đã khẳng định là sợi chỉ đỏ xuyên suốt
cách mạng Việt Nam từ năm 1930. Trong bối cảnh những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, trước sự
khủng hoảng trầm trọng của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục
kiên định con đường cách mạng mà Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã lựa chọn: "Đối với nước ta, không còn
con đường nào khác để có độc lập dân tộc thật sự và tự do hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn mạnh rằng
đây là sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng ta".
Giá trị thực tiễn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên đối với cách mạng Việt Nam: Sự đúng đắn của
Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã được khẳng định bởi quá trình khảo nghiệm của lịch sử đấu tranh giải phóng dân
tộc và xây dựng đất nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc ta từ khi Đảng ra đời và đến nay vẫn là ngọn
cờ dẫn dắt nhân dân ta trong công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đi theo Cương lĩnh ấy, trong


suốt hơn 8 thập kỷ qua dân tộc Việt Nam đã thay đổi cả vận mệnh của dân tộc, thay đổi cả thân phận của người dân
và từng bước khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Khi đánh giá quá trình cách mạng Việt Nam hơn
80 năm thực hiện Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nhận định: “Từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt
Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách

mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: Thắng
lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc kháng
chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân
năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế; thắng lợi của
công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng
bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam.”
Thực hiện đường lối chiến lược được hoạch định trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Việt
Nam từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường
xã hội chủ nghĩa; nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã
hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới.
* Liên hệ thực tiễn


Câu 2: Hoàn cảnh lịch sử, nội dung cơ bản của Hội nghị BCH TW lần thứ tám (5/1941). Ý nghĩa
lịch sử của hội nghị đối với thắng lợi CMT8/1945?
Bối cảnh
- Thời gian từ tháng 9/1939 đến tháng 5/1941:
Đầu năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ. Theo dõi sát diễn biến của chiến tranh, Đảng ta
nhận định: "Nếu cuộc chiến tranh thế giới lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc
chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công"(2).
Nhận định của Đảng dựa trên cơ sở phân tích khoa học và lý luận cách mạng của Chủ nghĩa Mác Lênin một cách biện chứng, khách quan, toàn diện, thể hiện tư duy nhạy bén của Đảng về quy luật vận động
tất yếu: có áp bức, có đấu tranh. Nhận định này chứng minh tầm vóc, tư duy chiến lược của Đảng và Bác Hồ
sớm nhận thấy quy luật vận động cách mạng, dự báo thời cơ cách mạng, nhanh chóng triển khai, thực hiện
nhiệm vụ để thúc đẩy cách mạng từng bước phát triển. Tức là, không thụ động chờ thời cơ, mà sáng tạo, tích
cực, chủ động tiến hành đấu tranh cách mạng, từng bước tạo thế, lực và thời, thúc đẩy thời cơ nhanh chóng
chín muồi.
Do đó, trong thời gian này đã thông qua các Hội nghị Trung ương lần thứ 6, tháng 9/1939, tháng
9/1939 và Hội nghị trung ương lần thứ 8, tháng 5/1941, Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng đã đề ra, hoàn

chỉnh đường lối chung của cách mạng Việt Nam, Đông Dương và chủ trương đường lối về vấn đề chính
quyền trong thời kỳ vận động cách mạng tháng Tám năm 1945. Công việc chuẩn bị về chính quyền và khởi
nghĩa giành chính quyền được tiến hành từ Hội nghị Trung ương 6 (9/1939), nhưng được đẩy mạnh từ sau
Hội nghị Trung ương 8 (5/1941).
Ngày 19/5/1941, Mặt trận Việt Minh chính thức thành lập, công bố Tuyên ngôn, Chương trình, Điều lệ
đoàn kết hết thảy mọi lực lượng yêu nước toàn dân tộc đánh đuổi Pháp - Nhật cứu nước.
Nội dung:
Từ ngày 10 - 19/5/1941, Bac ho triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng ở lán Khuổi Nặm, Pác Bó (Hà Quảng). Tham gia Hội nghị có các đồng chí: Trường Chinh, Hoàng Văn
Thụ, Phùng Chí Kiên, Hoàng Quốc Việt, cùng một số đại biểu của Xứ ủy Bắc Kỳ, Trung Kỳ và đại biểu tổ
chức Đảng hoạt động ở nước ngoài. Đồng chí Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư. Xét về tính chất và
quy mô, Hội nghị Trung ương lần thứ 8 như một Đại hội toàn quốc của Đảng. Nghị quyết Trung ương đã
vạch ra những chiến lược căn bản cho con đường cách mạng Việt Nam.
Từ việc phân tích sâu sắc tình hình, thế và lực của cách mạng Việt Nam, Hội nghị quyết định “cần phải
thay đổi chiến lược”, “phải thay đổi chính sách cách mạng ở Đông Dương cho phù hợp với nguyện vọng của
toàn thể nhân dân Đông Dương” và đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Từ việc xác định rõ kẻ thù
chính của nhân dân Đông Dương là “Phát xít Pháp - Nhật và các lực lượng phản cách mạng tay sai cho
chúng”. Hội nghị đã đánh giá những chuyển biến hết sức quan trọng và đúng đắn về mối quan hệ giữa dân
tộc và giai cấp, giữa dân tộc và dân chủ.
Hội nghị khẳng định: “ Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, độc lập đất nước là một nhiệm vụ trước tiên của
Đảng ta” và “ Trong giai đoạn hiện tại nếu không đánh đuổi được Pháp - Nhật thì vận mạng của dân tộc phải
chịu mãi kiếp trâu ngựa muôn đời, mà vấn đề ruộng đất ruộng đất cũng không sao giải quyết được”. Nhận
định khoa học này là cơ sở để Hội nghị đi đến quyết tâm chuyển hướng chiến lược cách mạng: “Đặt nhiệm
vụ giải phóng dân tộc cao hơn hết, là nhiệm vụ trước tiên, tạm gác nhiệm vụ cách mạng điền địa lại”. Từ đó,
Hội nghị đề ra chủ trương thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh, nhằm đoàn
kết tập hợp mọi lực lượng yêu nước, chống đế quốc, giành độc lập cho dân tộc, không phân biệt giai cấp,
dân tộc, tôn giáo... để chuẩn bị Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền trong cả nước.
Về phương pháp cách mạng, Hội nghị chỉ rõ “ Chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trọng tâm của
Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện nay". Hội nghị nêu phương châm khi thời cơ đến "Với lực lượng
sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương, cũng có thể giành sự thắng

lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn".
Nội dung Nghị quyết Trung ương lần thứ 8 và sự thay đổi chiến lược cách mạng của lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc và Trung ương Đảng trong việc giải quyết một cách đúng đắn mối quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc
và giai cấp, dân tộc và dân chủ trong điều kiện cụ thể của nước ta, chính là sự hoàn chỉnh nội dung các nghị
quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 6 và 7 trước đó. Sự thay đổi chiến lược một cách kịp thời, đầy sáng
tạo của Hội nghị Trung ương lần thứ 8 đáp ứng được khát vọng độc lập, tự do của toàn dân tộc, phù hợp với
bối cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, thực chất là sự trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường của
cách mạng Việt Nam đã được nêu ra trong Chánh cương, Sách lược vắn tắt từ đầu năm 1930. Như vậy, Hội
nghị Trung ương lần thứ 8 đã mở đường cho Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đi đến thắng lợi hoàn toàn ở
Việt Nam.


Ý nghĩa:
Hội nghị lần thứ 8 (khóa I) của Trung ương Đảng có ý nghĩa lịch sử đặc biệt quan trọng đối với cách
mạng nước ta. Nghị quyết của hội nghị thể hiện một cách sâu sắc và hoàn chỉnh vấn đề giải phóng dân tộc,
đánh dấu bước tiến mới trong tư duy cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng, khẳng định bước phát triển mới
của cách mạng Việt Nam; có ý nghĩa quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945. Nghị quyết của
Hội nghị lần thứ 8 và những chủ trương sáng suốt của Nguyễn Ái Quốc được toàn Đảng, toàn quân, toàn dân
ra sức phấn đấu thực hiện, đi đến thành công.
Hội nghị đã minh chứng tính nhất quán của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam
và minh chứng tính đúng đắn của lý luận càng làm sáng ngời di sản tư tưởng Hồ Chí Minh: “Chân lý là cụ
thể, cách mạng là sáng tạo”. Xét về tính chất và quy mô, Hội nghị Trung ương lần thứ Tám giống như một
Đại hội toàn quốc của Đảng. Nghị quyết Trung ương đã vạch ra những chiến lược căn bản cho con đường
cách mạng Việt Nam. Nghị quyết đã toát lên được những tư tưởng chiến lược cơ bản sau đây:
Thứ nhất, Hội nghị đã nhận định chính xác diễn biến của cách mạng thế giới, đánh giá đúng thực tiễn,
đây là cơ sở khoa học để tiến tới chớp thời cơ cho cách mạng giành chính quyền. Hội nghị chỉ rõ: “Phát xít
Đức đang chuẩn bị đánh Liên Xô, chiến tranh Thái Bình Dương sẽ bùng nổ…”. Nhận định chính xác này
của Trung ương Đảng mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tạo nên quyết tâm cho toàn dân tộc thống
nhất ý chí, biết gác lại những khác biệt để đồng hành cùng dân tộc, đặt lợi ích của dân tộc lên trên hết. Cũng
chính tại Hội nghị này, trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa chiến tranh và cách mạng, căn cứ vào những

diễn biến mới của tình hình thế giới và trong nước, đã phát triển nhận định của hai hội nghị Trung ương lần
trước thành những dự đoán cụ thể, xác thực: “Nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một
nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc chiến tranh đế quốc lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó
mà cách mạng nhiều nước thành công”3. Hội nghị đã xác định sự vận động tất yếu của lịch sử để đi đến
khẳng định: “Cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng thế giới và lúc đó là một bộ phận của
phong trào dân chủ chống phát xít”4.
Thứ hai, về nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam, sau khi phân tích các mâu thuẫn trong xã hội và thấy
rằng mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc phát xít Pháp - Nhật cũng như bè lũ tay sai của
chúng là mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết một cách cấp bách, Hội nghị tán thành Nghị quyết
của hai hội nghị trước của Trung ương về việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược để từ đó nêu
cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Hội nghị đã đánh giá những chuyển biến hết sức quan trọng và đúng đắn
về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. Hội nghị khẳng định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được
vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể
quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không
đòi lại được”5. Nhận định khoa học này là cơ sở để Hội nghị đi đến quyết tâm chuyển hướng chiến lược
cách mạng: “Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc cao hơn hết, là nhiệm vụ trước tiên, tạm gác nhiệm vụ cách
mạng điền địa lại”. Từ đó, Hội nghị đề ra chủ trương thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất rộng rãi, lấy tên
là “Việt Nam độc lập đồng minh”, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh, nhằm đoàn kết tập hợp mọi lực lượng yêu
nước, chống đế quốc, giành độc lập cho dân tộc, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo... để chuẩn bị
Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền trong cả nước. Như vậy, Hội nghị Trung ương lần thứ tám (5-1941), đã
khai thông những nút gấp cho một đường lối đã bị “tả” khuynh chi phối trong một thời gian dài để mở
đường cho Cách mạng Tháng Tám đi đến thắng lợi hoàn toàn ở Việt Nam.


Câu 3: Hoàn cảnh lịch sử, nội dung cơ bản trong đường lối kháng chiến chống Thực dân Pháp
của Đảng. Ý nghĩa của đường lối đó đối với thắng lợi của cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1954?
Trả lời:
1. Hoàn cảnh lịch sử cách mạng Việt nam giai đoạn 1945-1954
Trên thế giới
Hệ thống xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu đã hình thành. Phong trào cách mạng giải phóng dân

tộc có điều kiện phát triển mạnh mẽ.Với danh nghĩa quân Đồng minh, quân đội các nước đế quốc ồ ạt chiếm
đóng thuộc địa.
Trong nước.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã mở ra thời đại mới trong lịch sử dân tộc. Nước VNDCCH trở
thành một nước độc lập, tự do,Nhân dân trở thành người làm chủ đất nước, nhưng cũng đặt nước ta trước
những khó khăn và thử thách do hậu quả của chế độ cũ, nạn đói, nạn dốt, ngân khố trống rỗng..vv. Bên cạnh
đó, mặc dù đã kí Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3 và Tạm ước ngày 14/9/1946, thực dân Pháp vẫn đẩy mạnh việc
chuẩn bị chiến tranh xâm lược.
+ Ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp mở các cuộc tiến công.
+ Ở Bắc Bộ, hạ tuần tháng 11/1946, quân Pháp tiến công ở Hải Phòng, Lạng Sơn, cho quân đổ bộ lên
Đà Nẵng, sau đó chiếm đóng Hải Phòng.
+ Tháng 12 – 1946, Pháp gây hấn ở Hà Nội, chiếm trụ sở Bộ Tài chính, gây ra vụ thảm sát ở phố Hàng
Bún (Khu phố Yên Ninh)…
+ Ngày 18/12/1946, quân Pháp gửi tối hậu thư đòi giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu, để cho Pháp làm
nhiệm vụ giữ gìn trật tự ở Hà Nội, nếu không chúng sẽ giành toàn quyền hành động vào sáng ngày
20/12/1946.
– Tình thế khẩn cấp đã buộc Đảng và Chính phủ phải có quyết định kịp thời. Ngày 18 – 12 1946, Ban
Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định phát động cuộc kháng chiến toàn quốc.
– Tối ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, phát động
nhân dân cả nước kháng chiến chống Pháp, bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Quá trình hình thành đường lối kháng chiến:
Dựa trên thực tiễn đối phó với những âm mưu, thủ đoạn của Thực dân Pháp, Đường lối kháng chiến
của Đảng ta đã được hình thành và hoàn chỉnh.
Trong Chỉ thị về kháng chiến kiến quốc ngày 25/11/1945, Đảng ta đã xác định kẻ thù chính và nguy
hiểm nhất của dân tộc ta là thực dân Pháp.
Hội nghị Quân sự toàn quốc lần thứ I ngày 19/10/1946 đã nhận định “không sớm thì muộn Pháp sẽ
đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”, và từ đó đề ta những chỉ trương, biện pháp cụ thể về tư
tưởng và tổ chức cho quân dân bước vào cuộc chiến đấu mới.
Chỉ thị Công việc khẩn bây giớ (5/11/1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên những công việc tầm
toàn cục, chiến lược.

Cuối cùng, Đường lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được hoàn chỉnh và thể hiện tập trung trong ba
văn kiện lớn: Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng (12/12/1946), Lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến (20/12/1946) của Hồ Chủ tịch, và Tác phẩm được tổng hợp loạt bài đăng của Tổng Bí
thư Trường Chinh Kháng chiến nhất định thẳng lợi (1947).
2. Nội dung đường lối.
- Mục đích kháng chiến:
+ Đánh phản động thực dân Pháp xâm lược: Đây là mục tiêu thiết yếu trong giai đoạn này bởi thực dân
Pháp đã quay trở lại Việt Nam xâm lược nhằm đô hộ nước ta thêm một lần nữa. Chỉ khi đánh bại thực dân
Pháp thì đất nước mới có thể độc lập, dân tộc mới được tự do.
+ Giành thống nhất và độc lập
- Tính chất kháng chiến:
+ Tính chất dân tộc giải phóng: Cuộc kháng chiến mà Đảng phát động có mục đích giải phóng dân tộc
khỏi ách đô hộ từ tay thực dân Pháp, là một cuộc chiến tranh chính nghĩa
+ Tính chất dân chủ mới: Cuộc kháng chiến của dân tộc ta là một cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc
lập, dân chủ và hòa bình nhằm loại bỏ chế độ thực dân, đô hộ trước kia.
- Phương châm tiến hành kháng chiến:
+ Kháng chiến toàn dân: Thực hiện mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài. Huy
động lực lượng toàn dân tộc để kháng chiến chống Pháp.
+ Kháng chiến toàn diện: Đánh địch trên mọi mặt trận: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao.


> Chính trị: tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền. Kết hợp đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc
yêu chuộng hòa bình.
> Quân sự: Vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Triệt để dùng du kích, vận động
chiến. Bào toàn lực lượng, kháng chiến lâu dài. Vừa đánh vừa tiếp tục vũ trang và đào tạo thêm cán bộ.
> Kinh tế: Tiêu thổ kháng chiến (phá hủy tất cả những thứ địch có thể dùng được khi ta rút lui), xây
dựng kinh tế tự cung tự cấp, tập trung phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và quốc
phòng- những ngành thiết yếu phục vụ cho kháng chiến trường kì, toàn dân.
> Văn hóa: Xóa bỏ văn hóa cũ là phong kiến, thực dân để xây dựng văn hóa mới theo 3 nguyên tắc:
dân tộc (văn hóa mang bản sắc dân tộc), khoa học (văn hóa hiện đại, phù hợp với cuộc sông mới), đại chúng

(văn hóa phù hợp với đại đa số quần chúng, không quá cao hay lạc hậu).
> Ngoại giao: Thêm bạn (đặc biệt liện hiệp với dân tộc Pháp chống bọn phản động thực dân), bớt thù,
biểu dương lực lượng. Sẵn sàng đàm phán nếu Pháp công nhận việt nam độc lập.
+ Kháng chiến trường kỳ: Chống lại âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của giặc Pháp, nhằm phát huy
tất cả lợi thế “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, chuyển từ tương quan yếu hơn thành mạnh hơn, đánh thắng địch.
+ Dựa vào sức mình là chính: Tự cấp, tự túc về mọi mặt. Mới bắt đầu vào cuộc kháng chiến, ta bị địch
bao vây, phải tự trang bị cho chính mình để duy trì kháng chiến lâu dài mới có thể chờ thời cơ phá vỡ vòng
vây, tranh thủ sự giúp đỡ từ bên ngoài được
- Triển vọng kháng chiến: Mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn, song nhất định thắng lợi. Đảng đã nhận
định, đánh giá tình hình hợp lý, khích lệ tinh thần nhân dân về một cuộc kháng chiến nhất định thành
côngmột cách đúng lúc khi cuộc kháng chiến mới bắt đầu, giúp cuộc kháng chiến có thể sớm đi vào đúng
quỹ đạo và phát triển ổn định.
=> Đường lối kháng chiến của Đảng với những nội dung cơ bản nêu trên là đúng đắn và sáng tạo, vừa
kế thừa được kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với các nguyên lý về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin, vừa phù hợp với thực tế đất nước lúc bấy giờ. Đường lối kháng chiến của Đảng được công bố sớm đã
có tác dụng đưa cuộc kháng chiến nhanh chóng đi vào ổn định và phát triển đúng hướng, từng bước đi tới
thắng lợi vẻ vang.
3. Ý nghĩa với thắng lợi.
Đường lối kháng chiến của Đảng là sự kế thừa, nâng lên tầm cao mới tư tưởng quân sự truyền thống
của cha ông ta, là sự vận dụng lý luận chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và kinh nghiệm quân
sự một số nước anh em vào điều kiện Việt Nam.
- Đường lối kháng chiến của Đảng thể hiện tư tưởng kết hợp độc lập dân tộc và CNXH trong điều kiện
chiến tranh cách mạng bảo vệ Tổ quốc. Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, kháng chiến toàn dân, toàn
diện, lâu dài, tự lực cánh sinh là chính.
- Đường lối kháng chiến của Đảng là đường lối đấu tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc, tập trung vào
nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc. Nhiệm vụ cách mạng ruộng đất, chống phong kiến được tiến
hành từng bước, kết hợp và phục vụ cho nhiệm vụ chống đế quốc. Đường lối đó là đúng đắn, sáng tạo.
- Đường lối kháng chiến lâu dài, toàn diện toàn dân là niềm tin, động lực, sức mạnh cho toàn dân Việt
Nam chiến đấu và chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp chứng minh sự tài tình của việc hoạch định
đường lối, cũng như tổ chức chỉ đạo kháng chiến của Đảng. Với chiến thắng Điện Biên Phủ – kháng chiến

chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi cho thấy Đảng đạt tầm cao tư tưởng và trí tuệ Việt Nam, cũng như
thời đại.
- Tuy nhiên, do chưa có thực tiễn chỉ đạo kháng chiến nên cũng có những điểm hạn chế, còn nhiều
biểu hiện của sự rập khuôn theo lý luận quân sự nước ngoài như lý luận kháng chiến ba giai đoạn (phòng
ngự, cầm cự, tổng phản công). Những hạn chế ấy được dần nhận thức qua thực tiễn của cuộc kháng chiến và
từng bước bổ sung đường lối kháng chiến, phát triển một cách khoa học nghệ thuật chiến tranh nhân dân.


Câu 4: Hoàn cảnh lịch sử, đường lối cách mạng Miền Nam được thông qua tại Hội nghị BCH
TW lần thứ 15 (1959) và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III.
Trả lời
Bối cảnh lịch sử:
Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết (tháng 7-1954), cách mạng Việt Nam có những thuận lợi mới
nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Yêu cầu bức thiết đặt ra cho Đảng ta là phải hoạch định
được đường lối cách mạng đúng đắn, vừa phù hợp với tình hình trong nước, vừa phù hợp xu thế của thời đại.
Đây là giai đoạn đế quốc Mỹ từng bước thiết lập chế độ chủ nghĩa thực dân kiểu mới ở miền Nam và
xây dựng chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm từng bước xóa bỏ Hiệp định Giơnever, đàn áp phong trào đấu
tranh của nhân dân ta. Thực hiện chính sách tố cộng diệt cộng với phương châm "giết nhầm còn hơn bỏ sót".
Vì vậy ptrào cách mạng miền nam chịu những tổn thất hết sức nặng nề. Về phía ta Đảng kiên trì lãnh đạo
ndân đtranh ctrị.
Tuy nhiên trước những đòi hỏi của phong trào CM Miền Nam Đảng ta đã từng bước tìm tòi để xây
dựng đường lối CM ở Miền Nam và được đánh dấu bằng nghị quyết hội nghị TƯ lần 15 tháng 1 năm 1959.
Đường lối cách mạng Việt Nam ở miền Nam (1954 -1964)
Vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (tháng 7-1954) đã xác định: đế quốc Mỹ là kẻ thủ chính của nhân dân thế giới và hiện
đang trở thành kẻ thù chính trực tiếp của nhân dân Đông Dương. Như vậy, Đảng ta đã sớm xác định được:
kẻ thù của cách mạng Việt Nam. Tiếp đó, tháng 9-1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về tình hình mới, nhiệm
vụ mới và chính sách mới của Đảng. Nghị quyết đã chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của tình hình trong lúc
cách mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn mới là: từ chiến tranh chuyển sang hoà bình; nước nhà tạm
chia làm hai miền; từ nông thôn chuyển vào thành thị ; từ phân tán chuyển đến tập trung.

Tại Hội nghị lần thứ bảy (tháng 3-1955) và lần thứ tám (tháng 8-1955) Trung ương Đảng nhận định:
muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ,
điều cốt lõi là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc dấu tranh của nhân dân
miền Nam.
Đặc biệt, tháng 12-1957, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: ta
đang đồng thời tiến hành hai chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Nhiệm vụ củng cố miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội có tính chất quyết định cho toàn bộ thắng
lợi cách mạng trong giai đoạn mới. Lực lượng cách mạng ở miền Nam được duy trì và phát triển là nhân tố
trực tiếp quyết định thắng lợi của cuộc đấu tranh cách mạng của miền Nam.
Từ năm 1954 đến năm 1959, Mỹ - Diệm trắng trợn vi phạm Hiệp định Giownevơ tiến hành tổng tuyển
cử riêng rẽ khủng bố, đàn áp dã man phong trào yêu nước của nhân dân miền Nam. Tình hình đó đặt cách
mạng miền Nam vào tình trạng hết sức cấp bách. Chính vì vậy, tháng 1-1959, Ban Chấp hành Trung ương đã
triệu tập Hội nghị lần thứ 15 khoá II. Hội nghị họp nhiều đợt, ra Nghị quyết về nhiệm vụ cách mạng ở miền
Nam. Những nội dung cơ bản của Nghị quyết gồm:
- Hội nghị xác định cách mạng Việt Nam lúc này có hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai nhiệm vụ chiến lược đó tuy có
tính chất khác nhau, nhưng có quan hệ hữu cơ với nhau, song song tiến hành.
- Nghị quyết chỉ rõ nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là: "giải phóng miền Nam
khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc vaà người cày có ruộng, hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc
lập và giàu mạnh"'.
- Phương hướng phát triển của cách mạng miền Nam: "ngoài con đường cách mạng, nhân dân miền
Nam không có con đường nào khác", cho nên con đường phát triển cơ bản của cách mạng miền Nam là
"khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân... đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng
chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hơp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc
và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân"'.
- Hội nghị dự kiến: "cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc
đấu tranh vũ trang trường kỳ. Trong tình hình đó, cuộc đấu tranh sẽ chuyển sang một cục diện mới: đó là
chiến tranh trường kỳ giữa ta và địch, và thắng lợi cuối cùng nhất định về ta".
- Nghị quyết chỉ rõ ở miền Nam cần có Mặt trận dân tộc thống nhất riêng cho phù hợp với tính chất và

nhiệm vụ của cách mạng.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 có ý nghĩa lịch sử to lớn, không những đã mở đường cho cách mạng
miền Nam tiến lên, mà còn thể hiện rõ bán lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong những năm tháng
khó khăn của cách mạng. Có thể nói, đến Hội nghị 15, đường lối cách mạng ở miền Nam đã được hoạch


định một cách căn bản. Sau đó, đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (từ ngày 5 đến ngày 109-1960), Đảng ta đã khẳng định những nội dung căn bản đó. Đại hội đã bổ sung và hoàn chỉnh đường lối
chiến lược chung của cách mạng Việt Nam. Trong đó, Đại hội đã vạch ra nhiệm vụ chung, nhiệm vụ chiến
lược, mục tiền chiến lược của cách mạng, đồng thời nêu bật mối quan hệ giữa hai chiến lược cách mạng ở
hai miền.
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp trong hoàn cảnh lịch sử đất nước và thế giới có
những đặc điểm nổi bật sau đây: Đến cuối năm 1960, sự nghiệp cách mạng ở hai miền nước ta có những
bước tiến quan trọng. Ở miền Bắc, công cuộc khôi phục kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa với các thành
phần kinh tế đã đạt được những thành tựu quan trọng. Ở miền Nam, cuộc đấu tranh chống Mỹ - Diệm đã
giành được thắng lợi có ý nghĩa chiến lược trong phong trào "Đồng khởi" (1959 - 1960), làm lung lay chế độ
ngụy quyền Sài Gòn. Phong trào cũng đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng miền Nam, chuyển
cách mạng từ thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công. Trong thời điểm này, tình hình thế giới cũng
có nhiều thay đổi, vừa là thuận lợi, vừa là thách thức cho cách mạng Việt Nam. Sự phát triển của hệ thống xã
hội chủ nghĩa, nhất là của Liên Xô và Trung Quốc đã có nhiều ảnh hường tích cực đến cách mạng Việt Nam.
Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh phát triển mạnh mẽ. Đó
là thuận lợi cơ bản cho cách mạng Việt Nam ở cả hai miền. Tuy nhiên, sự mâu thuẫn trong phong trào cộng
sản mà tâm điểm là quan hệ Liên Xô - Trung Quốc đã ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế và cũng ảnh hưởng đến cách mạng Việt Nam. Sự phát triển của cách mạng
hai miền Bắc - Nam đòi hỏi Đảng phải nhanh chóng hoạch định đường lối cách mạng cho cả nước, thống
nhất ý chí và hành động, định hướng tư tưởng và hoạt động thực tiễn cho cách mạng của hai miền. Mặt khác,
đã gần 10 năm kể từ khi diễn ra Đại hội đại biểu lần thứ 11 của Đảng (tháng 2-1951), cách mạng Việt Nam
đã có nhiều thay đổi, thế và lực của đất nước đã phát triển, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra cho
cả dân tộc ta trên con đường cách mạng gải phóng dân tộc để đi lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, cùng với sự
thách thức của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở một nước nghèo nàn, lạc hậu, Đảng và dân tộc Việt Nam
đã và đang đối mặt với nhiều vấn đề thực tiễn phức tạp đặt ra yêu cầu cấp thiết Đảng phải sớm khẳng định

những nhiệm vụ cụ thể cho sự nghiệp cách mạng ở hai miền đất nước. Lần đầu tiên sau 30 năm hoạt động
trong điều kiện bí mật và chiến tranh, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã được tiến hành tại
Thủ đô Hà Nội từ ngày 5-9-1960 đến ngày 10-9-1960. Tham dự Đại hội có 525 đại biểu chính thức và 51 đại
biểu dự khuyết hay mặt cho hơn 50 vạn đảng viên trong cả nước đến tham dự Đại hội còn có đại biểu các
đoàn thể và các đảng phái dân chủ trong nước và đại biểu của 16 đoàn quốc tế.
Nội dung chủ yếu của Đại hội:
- Về đường lối cách mạng chung trong cả nước:
Căn cứ vào tình hình và đặc điểm nước ta, Đại hội đã xác định cách mạng Việt Nam bước vào giai
đoạn mới cùng lúc thực hiện hai chiến lược cách mạng khác nhau: chiến lược cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc và chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai chiến lược đó có mối quan
hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau. Mỗi chiến lược cách mạng ở mỗi miền của đất nước
có vị trí và trách nhiệm riêng trong mục tiêu chung là hòa bình thống nhất Tổ quốc.
Miền Bắc sau khi hoàn toàn giải phóng đă trở thành căn cứ địa cách mạng chung của cả nước. Tiến lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc được tăng cường về mọi mặt, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu
tranh cách mạng ở miền Nam. bảo dám sự phát triển của cách mạng trong cả nước. Vì vậy, "cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc rỏ ràng là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng
nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà của nhân dân ta". Trong sự nghiệp hoàn thành cách mạng
dân tộc , dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện thống nhất nước nhà, cách mạng miền Nam "có tác dụng
quyết định trực tiếp đối vời sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay
sai".
Trong khi giải quyết yêu cầu cụ thể của mỗi miền, cả hai chiến lược cách mạng ở hai miền đều nhằm
giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ và bọn tay sai của
chúng, thực hiện mục tiêu chung trước mắt là hòa bình thống nhất Tổ quốc.
Từ những nhiệm vụ trên đây, Đại hội vạch ra nhiệm vụ chung của cách mạng Việt Nam trong thời ký
mới là: ''Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân lộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện
thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông
Nam Á và thế giới".
- Về đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và đấu tranh thực hiện thống nhất

nước nhà:


Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và
phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, góp phần xây dựng một nước Việt Nam hoà
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Đại hội đề ra "Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng ở miền
Nam là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn
thống trị độc tài Ngô Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc dân
chủ ở miền Nam. thực hiện độc lập dân tộc, các quyền tự do dân chu và cải thiện đời sống nhân dân, giữ
vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân dân chủ, tích cực góp phần bảo vệ
hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới".
Cuộc đấu tranh cách mạng nhằm thực hiện thống nhất nước nhà là nhiệm vụ thiêng liêng của nhân dân
cả nước. Đó là quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài chống đế quốc Mỹ và bè
lũ tay sai của chúng ở miền Nam.
- Về đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc:
Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là vấn đề trung tâm thảo luận tại Đại hội. Xuất phát
từ các đặc điểm của miền Bắc, trong đó, đặc điểm lớn nhất là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Đại hội xác định: cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt, là một quá trình đấu
tranh gay go giữa con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa trên các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, tư tưởng văn hoá và kỹ thuật.
Về đường lối chung của miền Bắc trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Báo cáo chính trị
khẳng định: 'Đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. xây dựng đời sống
ấm no hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hòa
bình thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế
giới".
Để thực hiện xây dựng chiến lược này, Nghị quyết Đại hội đã xác định: cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây
dựng chủ nghĩa xã hội là hai mặt của cách mạng xã hội chủ nghĩa, cải tạo xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ
cơ bản, trong đó, cải cạo nông nghiệp là khâu chính của toàn bộ công cuộc cải tạo nhằm tăng năng suất lao
lộng, phát triển sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Công

nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ. nhằm xâydựng cơ sở vật chất
và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội "Thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta là xây
dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công
nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển
nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có
công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại".
Cùng với việc phát triển kinh tế, Nghị quyết Đại hội còn đề cập đến việc phát triển văn hóa, giáo dục,
khoa học- kỹ thuật: xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân: tăng cường đoàn kết quốc tế, vấn đề Đảng và
công tác tổ chức cán bộ của Đảng.
Căn cứ vào đường lối chung trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Đại hội đã thảo
luận và thông qua nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) nhằm mục
tiêu: "phấn đấu để thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất
và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; đồng thời hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, làm cho kinh tế miến Bắc
nước ta thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa".
Để đạt được mục tiêu trên, Đại hội đề ra năm nhiệm vụ:
- Ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện một bước việc ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện.
- Hoàn thành công cuộc cảicách xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp
nhỏ và công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tư doanh.
- Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ xây dựng
kinh tế và công nhân lành nghề, xúc tiến công tác khoa học và kỹ thuật.
- Cải thiện thêm một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động.
- Đi đôi với kết hợp phát triển kinh tế, cần ra sức củng cố quốc phòng, tăng cường trật tự an ninh, bảo
vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đại hội xác định rằng, sự lãnh đạo của Đảng bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng, cho nên Đảng cần
phải tăng cường sự lãnh đạo đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đối với cuộc đấu
tranh nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện hòa bình thống nhất
Tổ quốc. Muốn thế, "phải nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng, cụ thể là phải tăng cường
tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng, phải củng cố sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng".



Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương khóa III gồm có 47 ủy viên chính thức và 31 ủy viên dự
khuyết. Bộ Chính trị gồm 11 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Ban Bí thư gồm có 7 dồng chí.
Đồng chí Hồ Chí Minh được bầu lại làm Chủ tịch Đảng. Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất
Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đánh dấu một bước phát triển mới của cách mạng nước
ta do Đảng lãnh đạo. Đại hội đã đề ra được đường lối tiến lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và con đường
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nghị quyết của Đại hội là nguồn ánh sáng mới, là cơ sở để toàn
Đảng và toàn dân ta đoàn kết chặt chẽ thành một khối, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và
hoàn thành sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện hoà bình, thống nhất nước nhà.


Câu 5: Hoàn cảnh lịch sử, những biểu hiện của khủng hoảng kinh tế - xã hội Việt Nam trong
những năm 1979 – 1986, nguyên nhân khủng hoảng.
Trả lời
* Hoàn cảnh lịch sử:
Chiến thắng mùa Xuân năm 1975 đưa Việt Nam sang một thời kỳ mới-thời kỳ cả nước hòa bình, độc
lập, thống nhất, quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Bối cảnh đó có những thuận lợi cơ bản, nhưng cũng không ít
khó khăn phức tạp:
- Một là, hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh vô cùng ác liệt đã tác động sâu sắc đến mọi mặt của
đời sống xã hội Việt Nam.
- Hai là, điểm xuất phát chung của cả nước vẫn là một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu.
- Ba là, quan hệ quốc tế sau chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam có nhiều thay đổi: trên trường quốc tế, đế
quốc Mỹ và phản động quốc tế câu kết bao vây, cô lập Việt Nam. Những năm cuối của thập kỷ 70, nền kinh
tế Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã có những biểu hiện trì trệ, khủng hoảng. Do vậy,
bước vào đầu thập kỷ 80, quan hệ hợp tác giữa các nước XHCN đã có sự thay đổi khác trước.
- Bốn là, vừa ra khỏi chiến tranh, Việt Nam lại phải đương đầu với cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở
biên giới Tây Nam (1978) và biên giới phía Bắc (1979).
Đặc điểm trên đặt ra cho Đảng nhiệm vụ nặng nề, yêu cầu bức bách phải đổi mới tư duy lý luận và
thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

* Biểu hiện khủng hoảng kinh tế - xã hội
Tháng 3-1977, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định: trong 2 năm 1977-1978
phải hoàn thành về cơ bản nhiệm vụ cải tạo XHCN đối với công, thương nghiệp tư bản tư doanh. Song, cơ
chế quản lý tập trung, hành chính và bao cấp ngày càng bộc lộ những hạn chế trong toàn bộ nền kinh tế quốc
dân, hiệu quả của cải tạo XHCN ở miền Nam rất thấp, công nghiệp hóa XHCN xây dựng cơ sở vật chất-kỹ
thuật được chú trọng và đầu tư lớn nhưng hiệu quả mang lại còn thấp chưa tương xứng với công sức bỏ ra.
Vì vậy, các chỉ tiêu kinh tế mà Đại hội IV đề ra đều không thực hiện được, cùng với nhiều tác động khách
quan khác nhất là chiến tranh biên giới, nền kinh tế nước ta đã lâm vào khủng hoảng từ năm 1979.
Từ cuối những năm 70, trong khó khăn của nền kinh tế đã xuất hiện những hiện tượng các địa phương,
các đơn vị kinh tế tập thể và quốc doanh tìm tòi, cải tiến cách làm ăn, mô hình tổ chức quản lý mới. Khoán
sản phẩm cho các hộ xã viên trong hợp tác xã nông nghiệp ở Đồ Sơn (Hải Phòng), các đơn vị kinh tế quốc
doanh ở thành phố Hồ Chí Minh và một số nơi “phá rào” vượt qua cơ chế hành chính, bao cấp để tự chủ,
hạch toán kinh tế.
Mặt trái của sự "phá rào" là gây ra những lộn xộn, mất trật tự. Kế hoạch tập trung do Trung ương giao
thì bị bỏ bê trong khi kế hoạch 2 và kế hoạch 3 thì lại được thực hiện tích cực. Tình trạng tranh mua, tranh
bán xuất hiện khiến giá hàng bị đẩy lên cao. Để thu mua được mức kế hoạch đề ra, Nhà nước phải in thêm
tiền, vì thế lạm phát tăng tốc. Những mặt trái này khiến cho các tư tưởng thủ cựu nổi lên, muốn quay trở lại
cơ chế cũ.
Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IV (8-1979) chủ trương “Phải quán triệt
mục đích cải tạo là để đẩy mạnh sản xuất, nắm vững phương châm kết hợp cải tạo với xây dựng và tổ chức
lại sản xuất, không làm ồ ạt nóng vội, mệnh lệnh” . Các chính sách phải thúc đẩy sản xuất bung ra. Khuyến
khích mọi người lao động, mọi năng lực sản xuất và các thành phần kinh tế làm ra nhiều của cải vật chất…
Chú trọng kế hoạch và thị trường, cần vận dụng rộng rãi các quan hệ thị trường. Hội nghị Trung ương sáu
Khóa IV với những chủ trương, chính sách quan trọng được coi như bước đột phá đầu tiên của quá trình tim
tòi và hình thành đường lối đổi mới.
Trong nông nghiệp, ngày 13-1-1981, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 100 Về cải tiến công tác khoán,
mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp. Đây là bước đổi
mới cơ chế quản lý trong nông nghiệp, tạo ra một động lực mới trong sản xuất nông nghiệp.
Trong công nghiệp: ngày 21-1-1981, Chính phủ ra Quyết định 25- CP Về một số chủ trương, biện
pháp nhằm tiếp tục phát huy quyền chủ động sản xuất, kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí

nghiệp quốc doanh. Quyết định còn cho phép các xí nghiệp quốc doanh có nhiều nguồn cân đối và xây dựng
kế hoạch 3 phần. Cùng ngày 21-1-1981, Chính phủ có Quyết định 26 - CP Về việc mở rộng hình thức trả
lương khoán, lương sản phẩm và vận động hình thức thưởng trong các đơn vị sản xuất, kinh doanh của Nhà
nước (Trao quyền tự chủ cho các xí nghiệp).
Những năm đầu thập niêm 80, cả nước sôi nổi đổi mới cơ chế quản lý kinh tế thúc đẩy sản xuất phát
triển. Đại hội V của Đảng (3-1982) khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối chung của cách mạng XHCN và
đường lối xây dựng kinh tế do Đại hội IV của Đảng đề ra. Đại hội xác định cả nước ta đang ở “chặng đường


đầu tiên” của thời kỳ quá độ với mục tiêu là tạo ra những tiền đề cần thiết để đẩy mạnh công nghiệp hóa. Đại
hội V đánh dấu một bước phát triển mới trong nhận thức của Đảng về công nghiệp hóa.
Tiếp đó, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa V (6-1985) đi đến chủ trương
“Phải dứt khoát xóa bỏ tập trung quan liêu - bao cấp, thực hiện chế độ tập trung dân chủ, hạch toán kinh tế
và kinh doanh xã hội chủ nghĩa thì mới đẩy mạnh được sản xuất kinh doanh có hiệu quả” . Nghị quyết của
Trung ương xác định rõ mục tiêu và phương hướng giải quyết vấn đề giá - lương-tiền, coi đó là khâu đột phá
để chuyển sang cơ chế mới, tạo sự chuyển biến căn bản cho nền kinh tế quốc dân. Có thể khẳng định Nghị
quyết Trung ương 8 (Khóa V) là bước đột phá thứ hai của quá trình hình thành đường lối đổi mới.
Hội nghị Trung ương 3 khóa V được tổ chức vào đầu tháng 12 năm 1983. Một trong 3 nội dung chính
của Hội nghị là bàn về "mấy vấn đề cấp bách trong công tác phân phối lưu thông. Sau hộii nghị, phân phốilưu thông được chấn chỉnh theo hướng trở lại cơ chế phân phối lưu thông trước nghị quyết số 26-NQ/TW
năm 1980. Các công ty xuất nhập khẩu địa phương được sáp nhập lại theo hướng mỗi tỉnh, thành chỉ còn
một công ty xuất nhập khẩu.
Tháng 6 năm 1983, Hội nghị Trung ương 4 được tổ chức, đã nhận định: “Trong thời gian qua, Đảng và
Nhà nước đã phạm sai lầm nặng nhất là không làm chủ thị trường, không làm chủ phân phối lưu thông …,
đã buông lỏng cải tạo công thương nghiệp tư nhân, cải tạo tiểu, thủ công nghiệp và tiểu thương, để cho bọn
tư sản cũ và mới phục hồi và phát triển, có thêm thế lực chống chủ nghĩa xã hội. Việc hợp tác hóa nông
nghiệp ở Nam Bộ so với nhu cầu tiến hành có phần chậm. Trong phạm vi cả nước đã buông lỏng việc củng
cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”.
Thời kỳ 1979-1982 là thời kỳ có những chuyển biến trong tư duy về kế hoạch hóa kinh tế, về chính
sách giá thu mua nông sản, về khoán sản xuất. Kết quả là kinh tế Việt Nam thời kỳ này có những khởi sắc.
Tuy nhiên, cũng có những hậu quả tiêu cực như tình trạng tranh mua, tranh bán đẩy giá lên cao, tình trạng kế

hoạch tập trung của nhà nước bị các đơn vị kinh tế không chấp hành do mải chạy theo kế hoạch 2 (kế hoạch
liên doanh liên kết) và kế hoạch 3 (kế hoạch làm ăn kiểu thị trường). Những mặt tiêu cực này đã khiến hình
thành chủ trương xét lại, thể hiện rõ qua Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ V vào tháng 3 năm 1982, hội
nghị lần thứ 1 (tháng 9/1982), thứ 3 (tháng 12/1982), thứ 4 (tháng 6/1983)và thứ 5 (12/1983) của Ban chấp
hành Trung ương Đảng khóa V, chiến dịch Z-30, v.v... Các hội nghị trung ương lần thứ 6, và 7 đến hội nghị
trung ương 8 (tháng 6/1985), Ban chấp hành trung ương đã quyết nghị tiến hành một cuộc cải cách lớn
về giá - lương - tiền. Tuy nhiên, sau khi tổng kết, đánh giá, các nhà hoạch định chính sách đã nhận định cuộc
cải cách giá - lương - tiền đã bị vỡ trận, cụ thể:
Thứ nhất, các đơn vị kinh tế quốc doanh phản đối mức giá vật tư mới, cho rằng như thế quá cao và đề
nghị giảm đi. Tại hội nghị thông báo mức giá mới, các bộ trưởng đã đề nghị các mức giá vật tư thấp hơn.
Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Phạm Văn Đồng chấp thuận rút mức giá mới xuống khoảng 70% so với
phương án của Ban chỉ đạo Cải cách.
Thứ hai, các bộ và các tỉnh (nhất là các tỉnh phía Nam) cho rằng mức tăng lương 20% là quá ít. Một số
đề nghị nâng mức tăng lương lên 100%. Chính phủ cũng chấp nhận tăng lương 100%.
Chi ngân sách Nhà nước cho tiền lương tăng vọt, nhưng thu ngân sách lại không tăng bao nhiêu do giá
vật tư không tăng bằng mức Ban Chỉ đạo đề nghị. Để cứu ngân sách, tiền được phát hành hơn rất nhiều so
với kế hoạch. Lạm phát bùng nổ. Những vòng xoáy điều chỉnh giá - lương - tiền càng làm cho lạm phát leo
thang nhanh chóng trong năm 1986. Tiền phát hành nhiều mà vẫn không đủ. Lương công nhân không có.
Vật tư, hàng hóa khan hiếm. Giá bán lương thực dù tăng 10 lần vẫn không đủ bù đắp chi phí. Sản xuất nông
nghiệp sa sút. Đầu tư trong công nghiệp giảm.
Chỉ số giá bán lẻ của thị trường xã hội năm 1986 tăng 587,2% so với năm 1985. Do đồng tiền mất giá,
người ta quay sang lấy vàng làm bản vị, khiến giá vàng tăng vọt, còn nhanh hơn cả tăng giá hàng hóa.
Tuy kế hoạch cải cách giá - lương - tiền không diễn ra như kế hoạch do sự chắp vá giữa cải cách với
mô hình cũ, gây ra những hậu quả nghiêm trọng trong thời gian cuối năm 1985 và năm 1986, song chính sự
khủng hoảng này đã làm cho các cấp các ngành nhận ra rằng đã cải cách là phải cải cách triệt để. Mô hình cũ
phải bị đoạn tuyệt hoàn toàn. Trên cơ sở đó, Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ 6 của Đảng Cộng sản Việt
Nam tháng 12 năm 1986 đã đưa ra những chủ trương cải cách, đổi mới lịch sử.
Trong quá trình chuẩn bị dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội VI của Đảng từ ngày 25 đến ngày 308-1986, Bộ Chính trị đã thảo luận và đưa ra Kết luận quan trọng Về một số vấn đề thuộc quan điểm kinh tế:
Trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát
triển công nghiệp nhẹ.

Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.


Trong cơ chế quản lý kinh tế, lấy kế hoạch làm trung tâm, sử dụng đúng quan hệ hàng hóa – tiền tệ,
dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, vận dụng quy luật giá trị, thực hiện cơ chế một giá.
* Nguyên nhân:
Thực trạng đó bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nguyên nhân khách quan là
hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc (1945-1975); chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên
giới Tây Nam và phía Bắc; chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch cấm vận và chống phá cách mạng Việt
Nam. Mặt khác, chúng ta chậm sửa đổi cơ chế quản lý kinh tế-xã hội, duy trì quá lâu cơ chế quản lý tập
trung quan liêu, hành chính, bao cấp đã không còn thích hợp, cản trở sự phát triển nền kinh tế; chủ quan, duy
ý chí, nóng vội trong cải tạo XHCN, muốn thực hiện nhanh chóng mục tiêu của CNXH trong khi Việt Nam
mới ở chặng đường đầu tiên; công tác tư tưởng, lý luận bộc lộ sự lạc hậu, nhất là nhận thức và vận dụng các
quy luật đang hoạt động trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Chưa nhận thức rõ những đặc trưng cơ bản của
thời kỳ quá độ để vận dụng vào thực tiễn Việt Nam một cách có hiệu quả; khuyết điểm về công tác tổ chức,
cán bộ, chậm đổi mới công tác cán bộ, nhất là quy hoạch, đào tạo và sử dụng cán bộ ở tất cả các cấp, các
ngành. Phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc mang nặng chủ nghĩa quan liêu, không sát thực tế, xa rời quần
chúng…


Câu 6: Những thuận lợi và khó khăn của cách mạng VN trong những năm 80 của thế kỷ XX để
làm rõ yêu cầu khách quan phải tiến hành sự nghiệp đổi mới?
Năm 1975, với thắng lợi hoàn toàn và triệt để của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cách mạng
Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn cả nước độc lập, thống nhất, làm nhiệm vụ chiến lược
duy nhất là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc. Quá trình đất nước tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa, đã gặp nhiều thuận lợi nhưng cũng gặp không ít khó khăn, thách thức trong những
năm 80 của thế kỷ XX, cụ thể đó là:
1. Trên thế giới
1.1. Những thuận lợi

Các Đảng Cộng sản cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa (Việt Nam, Trung Quốc, Cu Ba,…) tiếp
tục kiên định mục tiêu, lý tưởng con đường xây dựng CNXH, điều chỉnh đường lối, chính sách, đẩy mạnh
công cuộc cải cách, đổi mới tiếp tục củng cố chế độ XHCN với những thành tựu to lớn. Xu hướng xã hội
chủ nghĩa phát triển ở một số nước, khu vực.
Chiến tranh lạnh kết thúc, xu thế đối thoại thay cho đối đầu. Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa ngày
càng phát triển, trở thành xu thế nổi bật và tất yếu chi phối thời đại; không ngoại trừ một quốc gia, dân tộc
nào, nếu muốn phát triển bắt buộc phải mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mới lần thứ 3 diễn ra với nhịp độ ngày càng mạnh mẽ, mà cốt
lõi là dựa trên việc ứng dụng các phát minh khoa học công nghệ, phát triển các ngành công nghệ cao, như
công nghệ truyền thông và tin học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học; kinh tế tri thức diễn ra mạnh
mẽ,… tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều nước, trong đó có Việt Nam.
1.2. Khó khăn, thách thức
Sau một thời gian dài phát triển, đạt được những thành tựu vĩ đại trong lịch sử nhân loại, đến cuối thập
niên 80, các nước XHCN lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Do những nguyên nhân khác nhau, công cuộc
cải tổ đã không thành công ở các nước Đông Âu và Liên Xô dẫn tới sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở các
nước đó vào những năm 1989-1991.
Ở các nước TBCN cũng đang diễn ra những thay đổi to lớn do tác động không thể cưỡng lại và phản
ứng dây chuyền của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ. Cuộc cách mạng khoa hoc kỹ thuật và công
nghệ, cùng xu thế toàn cầu hóa đặt Việt Nam cũng như nhiều nước khác trên thế giới, đặc biệt là các nước
XHCN đứng trước những thời cơ và thách thức vô cùng to lớn, nếu không đổi mới, cải cách mở cửa đề hòa
nhịp với xu thế chung của thời đại thì sẽ bị tụt hậu so với các nước TBCN.
2. Trong nước
2.1. Những thuận lợi
Đất nước độc lập, thống nhất; xây dựng, củng cố vững chắc hệ thống chính quyền nhân dân các địa
phương và cơ sở ở miền Nam. Đảng đã lãnh đạo nhân dân đánh thắng các thế lực xâm lược, bảo vệ vững
chắc độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc; làm
thất bại một bước chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận lớn bọn phản
động FULRO ở vùng Tây Nguyên, bắt gọn nhiều nhóm phản động khác và bọn gián điệp, thám báo, đẩy
mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc. Đồng thời làm tròn nghĩa vụ quốc tế với cách mạng
Lào và Campuchia.

Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, nhân dân ta tiếp tục nhận được sự giúp
đỡ to lớn và sự hợp tác nhiều mặt của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, cũng như sự cổ
vũ, ủng hộ của nhiều nước bạn và nhân dân yêu chuộng tự do trên thế giới. Cùng với sự cải thiện thế chiến
lược chung của cách mạng ba nước Đông Dương, quan hệ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam, Lào và
Campuchia đã tạo thêm những nhân tố thuận lợi cho công cuộc xây dựng cuộc sống mới ở mỗi nước. Vị thế
Việt nam trên trường quốc tế được nâng cao, các hoạt động đối ngoại của Việt Nam được tăng cường.
Đảng đã tập trung lãnh đạo khôi phục kinh tế, cấu trúc lại toàn bộ nền kinh tế trên cả hai miền, chuyển
từ một nền kinh tế chủ yếu được xây dựng, hoạt động phục vụ chiến tranh sang hòa bình xây dựng. Cơ sở
vật chất kĩ thuật của CNXH được xây dựng, bắt đầu phát huy tác dụng đối với nền kinh tế. An ninh chính trị
được đảm bảo, độc lập và chủ quyền quốc gia được giữ vững.
Sau khi đất nước giải phóng cho tới năm 1985, cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp
và mô hình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa kiểu Xô viết đã được áp dụng rộng rãi trên cả nước. Đến giữa
năm 1979 trở đi diễn ra một quá trình đổi mới cục bộ về kinh tế, trước hết là về cơ chế quản lí, theo hướng
xóa bỏ dần cơ chế quản lí hành chính, tập chung, quan liêu, bao cấp, chuyển sang cơ chế hoạch toán, kinh
doanh XHCN. Cuộc đổi mới cục bộ đã thu được những kết quả và kinh nghiệm đầu tiên, tạo ra những tiền
đề, điều kiện để đi tới đổi mới toàn diện, đồng bộ. Những giải pháp kinh tế mới đó dù chưa đi đến xóa bỏ cơ
chế quản lý tập chung, quan liêu, nhưng đã tạo ra những hiệu quả sản xuất rõ rệt: Năng xuất tăng, thu nhập


quốc dân tăng hàng năm 6,4% trong những năm 1981 – 1985 (so với 0,4% trong những năm 1976 - 1980),
đời sống nhân dân được cải thiện, lưu thông phân phối được cải thiện hơn.
1.2. Khó khăn, thách thức
Việt Nam vừa bước ra khỏi hai cuộc chiến tranh phá hoại của thực dân và đế quốc, trước đó lại chìm
trong ách đô hộ của phong kiến phương Bắc, đi lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ
lẻ, manh mún, chịu hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh, bỏ qua chế độ TBCN.
Từ cuối những năm 70 đầu những năm 80 của thế kỷ XX, đặc biệt là từ sau cuộc cải tạo XHCN ở miền
Nam (1978) và sự bùng phát đồng thời của chiến tranh biên giới Tây – Nam, biên giới phía Bắc, tình hình
đất nước khó khăn gay gắt. Sản xuất chậm phát triển, trì trệ, không theo kịp với mức tăng dân số quá nhanh;
phối lưu thông rối ren, ách tắc, giá cả và lạm phát tăng nhanh, llạm phát lên tới mức phi mã, đời sống nhân
dân cực kỳ khó khăn. Nguồn viện trợ của bên ngoài, các nguồn vốn, hàng hoá vật tư, nguyên liệu và hàng

hoá tiêu dùng đã bị cắt giảm đáng kể, trong khi nền kinh tế trong nước không đủ nội lực khiến đất nước thiếu
nghiêm trọng nguyên, nhiên vật liệu, hàng tiêu dùng. Những mất cân đối trong nền kinh tế chậm được thu
hẹp, có mặt lại gay gắt thêm. Hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh
đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước suy giảm.
Đế quốc Mỹ thực hiện chính sách bao vây, cấm vận, ngăn cản Việt Nam bình thường hoá quan hệ với
thế giới; khuyển khích dân di tản, kích động gây bạo loạn. Các thế lực thù địch chống phá quyết liệt.
Trước những khó khăn, thách thức của thời kỳ mới, ổn định kinh tế-xã hội, từng bước đưa đất nước ra
khỏi khủng hoảng, cải thiện đời sống nhân dân, đưa đất nước phát triển theo con đường XHCN trở thành yêu
cầu bức thiết và trách nhiệm nặng nề của Đảng, Nhà nước và của toàn dân ta. Những tìm tòi, thử nghiệm
trong thời kỳ 1979 - 1986 đã chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho việc Đảng ta đưa ra đường lối đổi mới tại
Đại hội VI (1986). Đại hội VI đã thực sự mở ra một bước ngoặt trên con đường quá độ lên CNXH ở nước
ta. Sau nhiều năm đổi mới kể từ Đại hội Đảng lần VI năm 1986, Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế,
đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, tăng cường cơ sở vật chất và tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển mới
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để đất nước ta sớm trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại.


Câu 7: Hoàn cảnh lịch sử, nội dung cơ bản của đường lối đổi mới được thông qua tại Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng. Ý nghĩa?
1. Hoàn cảnh lịch sử:
- Tình hình trong nước:
Từ năm 1979, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội: Sản xuất tăng chậm, nhiều chỉ tiêu quan
trọng của kế hoạch 5 năm không đạt được, tài nguyên bị lãng phí, phân phối lưu thông rối ren, nhiều người
lao động chưa có việc làm, hàng tiêu dùng không đủ, nhà ở và điều kiện vệ sinh thiếu thốn. Sự mất cân đối
trong nền kinh tế chậm được thu hẹp, quan hệ sản xuất của XHCN chậm được củng cố, vai trò chủ đạo của
kinh tế quốc doanh bị suy yếu. Đời sống nhân dân, nhất là công nhân, viên chức, lực lượng vũ trang gặp
nhiều khó khăn. Tiêu cực trong xã hội phát triển, công bằng xã hội bị vi phạm, quần chúng giảm lòng tin đối
với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước. Nguyên nhân khách quan dẫn đến khủng hoảng là
từ hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh giải phóng để đi đến thống nhất đất nước, tiếp đó là chiến tranh
bảo vệ Tổ quốc ở Biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, cùng với sự cấm vận của Mỹ, sự phá hoại của

các thế lực thù địch. Nguyên nhân chủ quan là do duy trì quá lâu cơ chế quản lý không phù hợp, chậm đổi
mới và có nhiều khuyết điểm trong chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và tổ chức thực hiện.
-Tình hình thế giới:
Cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, các nước XHCN lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Do những
nguyên nhân khác nhau, công cuộc cải tổ đã không thành công ở các nước Đông Âu và Liên Xô dẫn tới sự
sụp đổ của CNXH ở các nước đóvào những năm 1989 - 1991. Trước tình hình đó, các đảng cộng sản cầm
quyền ở một số nước XHCN trong đó có Việt Nam tiếp tục kiên định mục tiêu, lý tưởng con đường xây
dựng CNXH, điều chỉnh đường lối, chính sách, đẩy mạnh công cuộc cải cách, đổi mới tiếp tục củng cố chế
độ XHCN và đã đạt được những thành tựu to lớn.
Xu hướng XHCN vẫn phát triển ở một số nước, khu vực. Tuy nhiên, các nước theo con đường XHCN,
phong trào cộng sản và cánh tả còn gặp nhiều khó khăn, các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, tìm cách
xóa bỏ CNXH.
Chiến tranh lạnh kết thúc, xu thế đối thoại thay cho đối đầu. Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa ngày
càng phát triển.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự
phát triển của nhiều nước trong đó có Việt Nam.
2. Nội dung cơ bản của đường lối đổi mới do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã họp tại Hà Nội từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 12
năm 1986. Dự Đại hội có 1.129 đại biểu, thay mặt cho hơn hai triệu đảng viên, ngoài ra còn có 35 đại biểu
quốc tế. Đại hội VI đã đánh giá đúng mức những thành tựu đã đạt được trong 10 năm xây dựng CNXH và
bảo vệ Tổ quốc; đồng thời với tinh thần nhìn thẳng vào, đánh giá đúng sự thật, Đại hội đã chỉ ra những mặt
yếu kém, những khó khăn gay gắt của kinh tế - xã hội nước ta, từ đó đề ra đường lối đổi mới và đã được
thông qua tại Đại hội. Cụ thể:
- Đổi mới tư duy lý luận: Thực tiễn xây dựng CNXH đòi hỏi phải nhận thức rõ hơn những đặc trưng cơ
bản của thời kỳ quá độ, những quy luật khách quan, những hình thức, bước đi của thời kỳ quá độ lên CNXH
ở Việt Nam. Khắc phục những biểu hiện chủ quan, duy ý chí, nóng vội, làm trái quy luật trong cải tạo
XHCN, xây dựng quan hệ sản xuất mới. Nhận thức và vận dụng đúng đắn quy luật khách quan phù hợp với
thực tiễn đất nước là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
- Đổi mới cơ cấu kinh tế: Đại hội đã khẳng định chính sách phát triển nền kinh tế có cơ cấu nhiều
thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Các thành phần kinh tế bao gồm: Kinh tế xã hội chủ nghĩa

(quốc doanh và tập thể); kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước và
kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc.
Đại hội VI của Đảng chỉ rõ: Đổi mới tư duy lý luận chính là nhận thức rõ quan điểm của Lê nin coi
nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng cơ bản của thời kỳ quá độ, nhận thức và vận dụng đúng đắn
các quy luật khách quan của thời kỳ quá độ, của CNXH trong đó có quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế: Xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp
chuyển sang hạch toán, kinh doanh XHCN phát triển nền kinh tế hàng hóa, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng
hóa – tiền tệ. Thực chất cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán
kinh doanh XHCN, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Đổi mới vai trò quản lý điều hành của Nhà nước: Khắc phục bệnh quan liêu, xa rời thực tế, chủ quan,
duy ý chí. Nhấn mạnh chức năng quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội trên cơ sở hoàn thiện hệ thống chính


sách, pháp luật. Nhà nước quản lý đất nước, xã hội bằng chính sách và pháp luật. Hoàn thiện bộ máy chính
quyền nhà nước các cấp phù hợp với sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế, quản lý xã hội.
- Đổi mới chính sách đối ngoại, hợp tác với các nước: Củng cố quan hệ hợp tác toàn diện với các nước
XHCN, đồng thời mở rộng hợp tác với các nước khác, kể cả các nước TBCN. Có chính sách để thu hút vốn
đầu tư của nước ngoài, động viên Việt kiều đầu tư vào trong nước.
- Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, nhất là phong cách lãnh đạo và làm việc. Nâng cao trình độ trí tuệ, lý
luận, nắm vững và vận dụng quy luật khách quan, khắc phục tình trạng lạc hậu về lý luận. Đổi mới công tác
tổ chức, cán bộ, nâng cao trình độ nhận thức và năng lực hoạt động thực tiễn của tổ chức đảng và của cán bộ,
đảng viên đáp ứng đòi hỏi của công cuộc đổi mới.
3. Ý nghĩa:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng có ý nghĩa lich sử trọng đại, đánh dấu một bước ngoặt
trong sự nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội và mở ra thời kỳ phát triển mới cho cách mạng Việt Nam. Đại
hội VI đã tìm ra lối thoát cho cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, thể hiện quan điểm đổi mới toàn diện đất
nước, đặt nền tảng cho việc tìm ra con đường thích hợp đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Những chủ
trương, chính sách mới đã gợi mở, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, giải phóng năng lực sản
xuất của xã hội để mở đường cho phát triển sản xuất, đã góp phần đưa đất nước ta vượt qua những khó khăn,

thách thức trong nước và trên thế giới, đến năm 1991, tình hình chính trị của đất nước ổn định. Nền kinh tế
có những chuyển biến tích cực, bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Lạm phát năm 1990 giảm xuống còn 67,4%. Năm 1989 đã
xuất khẩu 1,4 triệu tấn gạo, đứng thứ 3 thế giới, sinh hoạt dân chủ trong xã hội được phát huy. Quốc phòng,
an ninh được giữ vững. Hoạt động đối ngoại mở rộng, đẩy lùi tình trạng bị bao vây, cấm vận. Đời sống nhân
dân được cải thiện, lòng tin của nhân dân đối với Đảng được khôi phục và củng cố.


Câu 8: Sự phát triển nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội qua 20 năm thực hiện Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII
đến Đại hội XI)
Trả lời:
Sự phát triển nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội qua 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đến Đại hội XI) thể
hiện ở những nội dung sau:
1. Về hệ mục tiêu của đổi mới - đặc trưng tổng quát của chủ nghĩa xã hội Việt Nam
Hệ mục tiêu của đổi mới được Đảng ta liên tục bổ sung, phát triển và hoàn thiện, từ Đại hội VI đến Đại
hội IX đã được xác định là đặc trưng tổng quát của chủ nghĩa xã hội Việt Nam, trong Văn kiện Đại hội X là
đặc trưng được nêu lên hàng đầu trong số các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta
xây dựng. “Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ,
văn minh…”
Đại hội XI của Đảng (2011), tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991 (1991 - 2011) và thông
qua Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, hệ mục tiêu đổi mới vẫn được coi là đặc trung tổng quát, là
đặc trưng đầu tiên trong số các đặc trưng XH XHCN ở Việt Nam. Song Đảng ta đã có điều chỉnh về trật tự
các mục tiêu. Lần này, sau mục tiêu “dân giàu, nước mạnh”, Đảng ta nói ngay tới “dân chủ”, đặt “dân chủ”
trước “công bằng, văn minh”.
Ở Đại hội XI của Đảng, qua Cương lĩnh, chiến lược, Báo cáo chính trị trình trước Đại hội, chúng ta
thấy rõ, sau một phần tư thế kỷ đổi mới, Đảng ta đã định hình hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hệ thống đó, nói một cách khái quát là tám đặc trưng
của XH XHCN, tám phương hướng xây dựng CNXH, trải qua một quá độ lịch sử - bỏ qua chế độ tư bản chủ

nghĩa. Phương hướng đó có ý nghĩa là con đường, mô hình, phương thức xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, đặc biệt là Đảng ta nêu lên tám mối quan hệ lớn phải nhận thức đúng và giải quyết tốt. Những mối
quan hệ đó có mối quan hệ mật thiết với nhau thành một chỉnh thể, một hệ thống toàn diện. Các mối quan hệ
này có ý nghĩa là những quy luật, những tính quy luật mà công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam tất yếu phải tuân thủ.
2. Về các đặc trưng của XH XHCN Việt Nam – những phát triển nhận thức lý luận về CNXH từ
Đại hội VII đến đại hội XI của Đảng
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội VII của Đảng
thông qua xác định sáu đặc trưng của XH XHCN Việt Nam. Đây là những nhận thức cơ bản, là những hình
dung tổng quát về XH XHCN sẽ được xây dựng ở Việt Nam. Trong sáu đặc trưng trên, Đảng đã xác định
bản chất của chế độ, đó là nhân dân lao động làm chủ; đã nêu rõ những nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa,
quan hệ xã hội, nhấn mạnh mục tiêu phát triển con người, quan hệ giữa phát triển cá nhân với cộng đồng, vai
trò lãnh đạo của Đảng, quan hệ giữa nước ta với cộng đồng thế giới…đặc biệt nhấn mạnh mục tiêu xây dựng
một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất phát triển hiện đại và xây dựng quan hệ sản xuất
tiên tiến với chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Điều đó phù hợp với bản chất của chủ nghĩa xã
hội, thể hiện được bước đầu những nhận thức mới về xây dựng CNXH trong đổi mới.
Sau Đại hội VII của Đảng, ở các nhiệm kỳ tiếp theo, đặc biệt là Đại hội X và XI, trên cơ sở thực tiễn
đổi mới của đất nước, sự phát triển của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã từng bước có
những bổ sung quan trọng, nhất là trong quá trình tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh để có những phát
triển mới về lý luận. Có thể nói hệ thống các đặc trưng xã hội XHCN Việt Nam được thể hiện đầy đủ, rõ
ràng nhất tại Đại hội XI của Đảng, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) với tám đặc trưng sau:
“Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các
nước trên thế giới”
3. Về phương hướng xây dựng CNXH

Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế
của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta
trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc


Để định hình CNXH ở Việt Nam, Đảng ta xác định các phương hướng cơ bản trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011) xác định tám phương hướng cơ bản sau:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài
nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời
sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở
rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Tám phương hướng nêu trên phản ánh nội dung toàn diện các lĩnh vực xây dựng và phát triển đất nước
theo các mục tiêu phát triển bền vững, không chỉ kinh tế - xã hội – môi trường mà còn phải chú trọng phát
triển văn hóa, con người và bảo đảm sự ổn định, củng cố vững chắc chế độ chính trị với Nhà nước pháp
quyền, nền dân chủ, vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Do đó, phải nhấn mạnh tầm quan trọng của việc
xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, có tiềm lực về quốc phòng, an ninh
quốc gia để xây dựng CNXH gắn liền bảo vệ Tổ quốc XHCN.
4. Về các mối quan hệ lớn cần nhận thức đúng và giải quyết tốt trong thực tiễn đổi mới.
Tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh, lần đầu tiên Đảng ta đặt vấn đề phải nghiên cứu các mối quan
hệ lớn gắn với tổng kết việc thực hiện các mối quan hệ đó trong thực tiễn, từ đó có những điều chỉnh cần
thiết trong các chủ trương, chính sách, biện pháp và cơ chế quản lý, điều hành, bảo đảm cho công cuộc đổi

mới đi đúng định hướng và thực hiện được mục tiêu phát triển bền vững. Đây là một trong những vấn đề lý
luận lớn của đổi mới, của xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, phản ánh những tính quy luật trong phát
triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011) đã khái quát tám mối quan hệ lớn:
Một là, quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển;
Hai là, giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị;
Ba là, giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa;
Bốn là, giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa;
Năm là, giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;
Sáu là, giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa;
Bảy là, giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế;
Tám là, giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ
Qua 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, Đảng
ta đã xác định rõ hệ thống các quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam với tám đặc trưng, tám phương hướng xây dựng và tám mối quan hệ lớn của đổi mới và phát triển. Đó
là thành tựu nổi bật của đổi mới tư duy lý luận, của phát triển lý luận của Đảng ta.


Câu 9: Quá trình bổ sung, phát triển đường lối đổi mới của Đảng qua Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991 và cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển) năm 2011
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991
* Bối cảnh lịch sử: Cuối năm 1990, đầu năm 1991, chế độ XHCN ở các nước Đ.Âu sụp đổ; Liên Xô
cũng đang khủng hoảng trầm trọng, bên bờ sụp đổ; phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trên thế giới bị
tấn công dữ dội; nhiều ĐCS và công nhân mất phương hướng; một bộ phận cán bộ, đảng viên hoang mang,
dao động, hoài nghi vào con đường đi lên CNXH... Trước tình hình đó, Đảng đã soạn thảo Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
* Nội dung bổ sung, phát triển:

-Cương lĩnh 1991 đã tổng kết hơn 60 năm ĐCVN lãnh đạo CM, trên cơ sở đóđúc rút 5 bài học lớn.
- Cương lĩnh xác định 6 đặc trưng xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng:
+ Do nhân dân lao động làm chủ;
+ Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư
liệu sản xuất chủ yếu;
+ Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
+ Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động,
có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân;
+ Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ;
+ Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên TG.
- Cương lĩnh đưa ra 7 phương hướng cơ bản trong quá trình xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc VN
XHCN.
- Cương lĩnh xác định mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về
cơ bản những cơ sở kinh tế của CNXH, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp,
làm cho nước ta trở thành một nước XHCN phồn vinh.Cương lĩnh nêu rõ: "Quá độ lên CNXH ở nước ta là
quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường. Mục tiêu của chặng đường đầu là: thông qua đổi mới toàn
diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau".
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011)
* Bối cảnh lịch sử: Kể từ khi Cương lĩnh năm 1991 ra đời đến nay, tình hình TG và trong nước đã
có nhiều biến đổi to lớn. VN ngày càng hội nhập sâu rộng vào đời sống quốc tế. Nhận thức về con đường,
về thời kỳ quá độ lên CNXH ngày càng được xác định rõ hơn về chặng đường, quy mô, mục tiêu, phương
hướng, mô hình… Nhiều vấn đề thực tiễn đặt ra được nhận thức và giải quyết qua các nhiệm kỳ ĐH. Tuy
nhiên, vẫn còn một số vấn đề thực tiễn cần phải bổ sung, phát triển trong Cương lĩnh cho phù hợp.
* Nội dung bổ sung, phát triển:
- Cương lĩnh đã tổng kết những thắng lợi vĩ đại của CMVN hơn 80 năm qua dưới sự lãnh đạo của
Đảng.
- Cương lĩnh vẫn giữ 5 bài học kinh nghiệm như Cương lĩnh 1991 nhưng có bổ sung một số nội dung
và điều chỉnh cách diễn đạt cho chính xác.
- Cương lĩnh 1991 đưa ra 6 đặc trưng về CNXH, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) bổ sung thêm 2
đặc trưng: đặc trưng bao trùm, tổng quát “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và đặc trưng “có

Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do ĐCS lãnh đạo”.
- Bổ sung và phát triển một số nội dung trong các đặc trưng cho phù hợp với xu thế phát triển chung
của nhân loại và thực tiễn của VN:
+ Cương lĩnh 1991 là “do nhân dân lao động làm chủ”, ĐH XI đã mở rộng biên độ “do nhân dân làm
chủ”. Đây chính là để khắc phục những biểu hiện biệt phái, để xóa bỏ dần những định kiến đối với lao động
trong thành phần kinh tế tư nhân, nhằm tập hợp, mở rộng và phát huy khối ĐĐK toàn dân trong XD đất
nước; Đồng thời để quy tụ cộng đồng người VN đang sinh sống, làm ăn ở nước ngoài hướng về Tổ quốc, tạo
nên sự đồng thuận XH và tận dụng được mọi nguồn lực XH rộng rãi trong kinh tế thị trường định hướng
XHCN.
+ Đặc trưng về kinh tế: Cương lĩnh năm 1991 xác định: “Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên
LLSX hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu SX chủ yếu”. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011)
xác định “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên LLSX hiện đại và QHSX tiến bộ phù hợp”. Nhận thức được
điều chỉnh từ tư duy về chế độ công hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu sang tư duy về QHSX tiến bộ, phù hợp,
là bước phát triển tư duy từ kết quả của một quá trình tư duy biện chứng với quan điểm lịch sử cụ thể và thực
tiễn.


Đặc trưng về con người: Cương lĩnh năm 1991 xác định: “Con người được giải phóng khỏi áp bức,
bóc lột, bất công, làm theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện
cá nhân”. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”, thể hiện tính ưu việt của chế độ XHCN trong bước quá độ đang còn
tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau và các giai tầng xã hội khác nhau.
Đặc trưng về dân tộc: Cương lĩnh 1991: “các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ”. Bổ sung, phát triển 2011: “Các dân tộc trong cộng đồng VN bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và
giúp đỡ nhau cùng phát triển”. Cụm từ “tôn trọng” được bổ sung so với Cương lĩnh 91, và “tiến bộ” được
thay bằng cụm từ “phát triển”, thể hiện nhận thức của Đảng về tộc người và quan hệ giữa các tộc người
ngày càng được sát thực hơn, ĐĐK toàn dân tộc thực sự đi vào chiều sâu và mang tính bền vững.
Đặc trưng về hợp tác quốc tế: Cương lĩnh năm 1991 xác định: “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với
nhân dân các nước trên TG”. Bổ sung, phát triển mở rộng thành “có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các
nước trên TG”, nhận thức đó thể hiện vị thế của VN được khẳng định rõ rệt sau 25 thực hiện đường lối đổi

mới trên chính trường quốc tế. Nhận thức về con đường đi lên CNXH, thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN ngày
càng được sáng rõ hơn về chặng đường, về mục tiêu, về phương hướng, giải pháp lớn…
- Kế thừa mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta được xác định tại Cương lĩnh 1991, Cương
lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI: “toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức
phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng XHCN”.
- Cương lĩnh 1991 nêu 7 phương hướng cơ bản, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định 8
phương hướng cơ bản, đồng thời bổ sung chính xác hóa một số phương hướng.
Thành tựu về thực tiễn và lý luận nhận thức của 25 năm đổi mới:
Sau 25 năm đổi mới, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới đã
đạt được những thành tựu to lớn cả về nhận thức và hoạt động thực tiễn. Tập trung ở một số lĩnh vực chủ yếu
sau đây:
- Về kinh tế: Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng
năm khá cao (bình quân 7,26% giai đoạn 2001-2010). GDP năm 2011 đạt 119 tỉ USD, gấp 3,5 lần so với
năm 2000. Thu nhập bình quân đầu người 2011 đạt 1.200 USD/năm tăng gấp 6 lần so với năm 1990; cán cân
xuất XNK đạt trên 200 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt 96 tỷ USD.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng
nông nghiệp. Kinh tế đã hội nhập sâu rộng với khu vực và TG.
- Về văn hoá - xã hội: Giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, tiến bộ
và công bằng xã hội:
+ Tạo việc làm bình quân hàng năm cho 1,6 triệu lao động; tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 17% năm 2000
xuống còn 9,5% năm 2010.
+ Năm 2000 cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Đến năm
2010, cả nước đã hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục THCS.
+ Chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông thôn giảm từ 2,3 lần năm 1999 xuống còn 2 lần năm
2008.
- Về đối ngoại: Phá thế bao vây cấm vận; mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa
dạng hoá; giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia: chủ động tham gia giải pháp chính trị vấn đề Campuchia
năm 1989; bình thường hoá quan hệ với TQ năm 1991; bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ năm 1995,gia
nhập ASEAN năm 1995; đồng thời tham gia nhiều tổ chức quốc tế như: ASEAN, APEC, ASEM, WB,
WTO... Đến nay, VN đã có quan hệ ngoại giao với 179 nước, quan hệ thương mại với trên 220 nước và vùng

lãnh thổ trên TG.
- Về QPAN; công tác xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị cũng đạt những thành tựu rất
quan trọng.
Những hạn chế, khuyết điểm sau 25 năm đổi mới:
- Trong quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn, chúng ta còn lúng túng, bị động. Chưa xây dựng
được quan hệ lợi ích đan xen, phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước.
- Một số chủ trương, cơ chế, chính sách chậm được đổi mới so với yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại,
hội nhập kinh tế quốc tế; hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh, không đồng bộ, gây khó khăn trong việc thực
hiện các cam kết của các tổ chức kinh tế quốc tế.
- Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế và một lộ trình hợp lý cho
việc thực hiện các cam kết.
- Tích luỹ từ nền kinh tế còn thấp; quản lý, kết cấu hạ tầng còn nhiều yếu kém, trình độ công nghệ còn lạc
hậu 2-3 thập kỷ so với các nước trong khu vực; chất lượng nguồn lực nhân lực còn thấp.


- Đội ngũ CB lĩnh vực đối ngoại nhìn chung chưa đáp ứng được nhu cầu cả về số lượng và chất lượng;
CB doanh nghiệp ít hiểu biết về pháp luật quốc tế, về kỹ thuật kinh doanh.
- Nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết tốt, tốc độ giảm nghèo có xu hướng chậm lại,
chênh lệch giàu nghèo ngày càng tăng.
Trong 25 năm đổi mới Đảng ta đã tổng kết và rút ra một số bài học kinh nghiệm có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn. Đó là: Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng CN M-L và TT
HCM; đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp; đổi mới phải vì lợi ích
của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy
bén với cái mới; phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức khai thác ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại trong điều kiện mới; đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo, bảo đảm nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền
dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.


Câu 10: Thành tựu gần 30 năm tiến hành đổi mới

Trong gần 30 năm qua, nhìn tổng thể, công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo
đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa. Những thành tựu đạt được khẳng định sự đúng đắn, sáng tạo trong đường lối đổi mới toàn diện
đất nước của Đảng ta trong ba thập kỷ qua, chứng minh khả năng lãnh đạo và bản lĩnh chính trị vững vàng
của Đảng trên cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vận dụng trong thời
đại mới.
Những thành tựu đó thể hiện ở những lĩnh vực cơ bản sau:
1. Lĩnh vực kinh tế
Thành tựu nổi bật của công cuộc đổi mới theo con đường xã hội chủ nghĩa là tăng trưởng, phát triển kinh
tế. Thể hiện ở những kết quả sau:
Thứ nhất, tư tưởng, đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã từng bước
được thể chế hóa thành pháp luật, cơ chế chính sách. Trong gần 30 năm đổi mới, Quốc hội đã ba lần sửa đổi
và ban hành Hiến pháp, sửa đổi và ban hành trên 150 bộ luật và luật tạo cơ sở pháp lý cho sự chuyển đổi và
vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Thứ hai, lực lượng sản xuất có bước phát triển đáng kể. Nếu sau giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990),
mức tăng trưởng GDP bình quân hàng năm chỉ đạt 4,4%, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua gần 20 năm với
mức tăng trưởng rất ấn tượng, có giai đoạn đạt mức 8,2%/ năm (1991-1995) và đến giai đoạn 2011 - 2015,
QDP (ước) tăng bình quân 5,9%, đưa Việt Nam ra khỏi nước kém phát triển, trở thành nước có thu nhập
trung bình. Nếu năm 2003, sau 16 năm đổi mới, QDP bình quân đầu người mới chỉ đạt 471 USD/năm (theo
giá cố định năm 1993) thì đến năm 2013, QDP bình quân đầu người đạt khoảng 1.960 USD. Cơ cấu kinh tế
tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức
sở hữu. Cơ cấu ngành, lĩnh vực có sự chuyển dịch rõ nét, tỷ trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ
không ngừng tăng lên; cơ cấu kinh tế vùng đã có bước điều chỉnh theo hướng phát huy lợi thế so sánh của
từng vùng; các vùng kinh tế trọng điểm, khu công nghiệp, khu kinh tế và vùng sản xuất chuyên môn hóa cây
trồng, vật nuôi đang phát triển khá nhanh.
Thứ ba, hoàn thiện từng bước chế độ sở hữu, thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp trên cơ
sở phát triển kinh tế hàng hóa, khuyến khích các tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế được sản xuất
kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm, đã hình thành nên các loại hình doanh nghiệp
khác nhau cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật.
Thứ tư, các yếu tố thị trường và các loại thị trường đang hình thành, phát triển, cơ bản đã có sự liên

thông, gắn kết thị trường trong nước với thị trường khu vực và thị trường quốc tế. Thị trường hàng hóa, dịch
vụ tăng về số lượng, chủng loại, chất lượng, hoàn thiện về quy mô, cơ cấu, kết cấu hạ tầng thương mại, dịch
vụ, cơ chế quản lý, năng lực cạnh tranh; Thị trường lao động đã được hình thành với nguồn cung lao động
khá dồi dào trên phạm vi cả nước, bước đầu đã tham gia thị trường quốc tế; thị trường tài chính - tiền tệ phát
triển khá sôi động; thị trường bất động sản phát triển mạnh; thị trường khoa học - công nghệ đang hình thành
và có bước phát triển bước đầu.
Thứ năm, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng theo nguyên tắc và chuẩn
mực của thị trường thế giới; đã tiến hành nhiều cải cách thể chế theo hướng minh bạch, tự do hóa và có tính
giải trình; gia nhập và tích vực xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN; từng bước hoàn thiện thị trường đầy
đủ theo quy định của WTO; tham gia có hiệu quả các liên kết kinh tế khu vực và quốc tế trên nhiều cấp độ,
nhất là trong xây dựng quan hệ đối tác hợp tác chiến lược về kinh tế.
2. Lĩnh vực văn hóa - xã hội
2.1. Về văn hóa:
Văn hóa được Đảng ta xác định là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc
đẩy kinh tế - xã hội phát triển, là nguồn nội sinh quan trọng của phát triển. Qua gần 30 năm đổi mới, những
tiến bộ trong giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ; sự khởi sắc trong hoạt động văn hóa, văn nghệ, truyền
thông đại chúng, bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa; sự tăng cường các thiết chế văn hóa cơ sở… làm cho
đời sống tinh thần của con người, xã hội phong phú, đa dạng hơn, mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân từng
bước được nâng lên.
Bầu không khí xã hội dân chủ, cởi mở hơn; dân trí được nâng cao; con người Việt Nam năng động,
sáng tạo hơn, tính tích cực cá nhân, tính tích cực xã hội được phát huy. Những nhân tố mới, giá trị mới của
văn hóa, con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế từng bước được định
hình trong đời sống, góp phần bồi đắp tinh thần dân tộc, củng cố, phát huy sức mạnh đại đoàn kết trong sự
nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.


Giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế về văn hóa được mở rộng, từng bước đi vào chiều sâu, bước
đầu tiếp thu được tinh hoa văn hóa nhân loại, góp phần làm phong phú hơn đời sống văn hóa trong nước và
quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam ra nước ngoài.
2.2. Về giải quyết các vấn đề xã hội

Nhận thức rõ và nhất quán mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước và từng chính sách phát triển. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện và tiền đề vật chất để thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Đến lượt mình, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là nhân tố và động lực
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Qua gần 30 năm đổi mới, việc giải quyết các vấn đề xã hội đã
đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
- Về lao động - việc làm: Các chính sách về lao động việc làm của Nhà nước đã chuyển biến theo
hướng ngày càng phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Năm 2014, lao động
trong khu vực chính thức đạt trên 30%, lao động đã qua đào tạo chiếm khoảng 49% tổng số lao động.
- Về giảm ngèo bền vững: Nhất quán về chính sách giảm nghèo bền vững đi đôi với khuyến khích làm
giàu hợp pháp đã giúp giảm tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm bình quân 1,5 – 2 %/năm; các huyện, xã đặc biệt
khó khăn có tỷ lệ hộ nghèo giảm 4%/năm theo tiêu chuẩn nghèo từng giai đoạn. Nếu năm 1993, tỷ lệ hộ
nghèo cả nước còn 58,1% thì đến năm 2015, tỷ lệ này chỉ còn 6%, trong vùng đặc biệt khó khăn còn dưới
30%. Thành tựu về giảm nghèo của Việt Nam đã được Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế công nhận, đánh
giá cao.
- Về chăm sóc sức khỏe nhân dân: đã có nhiều tiến bộ. Hệ thống cơ sở y tế đã được hình thành trong
cả nước; số bác sỹ, số giường bệnh/1 vạn dân tăng nhanh, hệ thống dịch vụ y tế ngày càng được nâng cao
chất lượng.
- Chính sách ưu đãi với người có công: đã được Đảng ta đặc biệt quan tâm. Cả nước hiện có khoảng
8,8 triệu người có công, chiếm khoảng 10% dân số, có khoảng 1,45 triệu người được hưởng trợ cấp thường
xuyên. Đến ngày 12/1/2015, đã có 95,4% người có công được hưởng đúng, đầy đủ chế độ, chính sách.
- Về chính sách an sinh xã hội: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội toàn diện và đa dạng,
ngày càng mở rộng và hiệu quả.
3. Về Quốc phòng - an ninh
Thành tựu cơ bản, bao trùm là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ
quốc, lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn
định chính trị, trật tự, an toàn xã hội trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực có nhiều biến động phức
tạp, khó lường; trong điều kiện đất nước ta gặp nhiều khó khăn, thách thức, các thế lực thù địch tăng cường
chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Bên cạnh đó, là thực hiện thành công nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân
dân; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ tổ

quốc.
4. Trên lĩnh vực đối ngoại
Qua gần 30 năm đổi mới, Việt Nam đã mở rộng quan hệ đối ngoại, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc
gia; phá được thế bị bao vây, cấm vận thời kỳ đầu đổi mới; bình thường hóa, thiết lập quan hệ ổn định, lâu
dài với các nước; tạo lập và giữ được môi trường hòa bình, tranh thủ yếu tố thuận lợi của môi trường quốc tế
để phát triển; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ tiếp tục được giữ vững. Quan hệ đối ngoại
được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu. Mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước, các vùng
lãnh thổ trên thế giới trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ chính
trị; tiếp tục từng bước đưa quan hệ với các đối tác đi vào chiều sâu, ổn định hơn. Đã thiết lập quan hệ đối tác
chiến lược với 16 nước, quan hệ đối tác toàn diện với 11 nước. Nâng cao hình ảnh và vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế, đóng góp ngày càng tích cực, có trách nhiệm vào đời sống chính trị khu vực và thế giới.
5. Về hệ thống chính trị
- Hệ thống chính trị ở nước ta qua gần 30 năm đổi mới đã từng bước được đổi mới phù hợp hơn với
yêu cầu phát triển đất nước, thích ứng với nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập quốc tế. Hệ thống
chính trị được đổi mới theo hướng dân chủ - pháp quyền - của dân, do dân và vì dân, góp phần thực hành
dân chủ thông qua nâng cao dân trí, bảo đảm dân quyền, chăm lo phát triển dân sinh; thực hiện tốt hơn công
bằng xã hội, bình đẳng – tương trợ - đoàn kết – hợp tác cùng phát triển của các dân tộc ở nước ta.
- Các quan điểm mới về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN thể hiện trong Cương lĩnh bổ sung,
phát triển năm 2011 đã được thể chế hóa một bước quan trọng trong Hiến pháp năm 2013 và các đạo luật
của Nhà nước. Tổ chức và cơ chế hoạt động của các thiết chế trong bộ máy nhà nước có những đổi mới và
từng bước được hoàn thiện. Từ năm 2001, lần đầu tiên các cuộc cải cách lập pháp, cải cách hành chính, cải
cách tư pháp đã được triển khai đồng bộ nhằm xác lập và vận hành trên thực tế hệ thống pháp luật và các


×