Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Boi thuong nha nuoc trong hoat dong quan ly hanh chinh nha nuoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.45 KB, 58 trang )

Xác định thiệt hại được bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
NHÀ NƯỚC TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH
1.1. Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt
động quản lý hành chính
1.1.1. Khái niệm
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tổ chức quyền lực của Nhân
dân, đại diện cho Nhân dân thống nhất quản lý mọi mặt của đời sống xã hội trên các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại... Để thực hiện
nhiệm vụ này, Nhà nước cần phải thiết lập hệ thống các CQNN và quy định cho CQNN
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn để thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
CQNN là một bộ phận cấu thành bộ máy nhà nước, có tính độc lập tương đối, có những
chức năng do pháp luật quy định, để thực hiện chức năng đó CQHCNN được trao những
quyền hạn nhất định.
CQHCNN là một bộ phận của bộ máy nhà nước, do Nhà nước lập ra để thực
hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước. Các CQHCNN ở nước ta bao gồm
Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp. Các cơ quan này dựa trên thẩm quyền được
luật định có chức năng quản lý thống nhất, toàn diện các mặt kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội, hành chính, an ninh quốc phòng, đối ngoại của nhà nước. Đặc điểm cơ
bản của CQHCNN là: Được nhân danh Nhà nước khi tham gia vào các quan hệ pháp
luật; được sử dụng quyền lực nhà nước thông qua việc ban hành các văn bản pháp
luật theo thẩm quyền, có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các đối tượng có liên quan
và được bảo đảm thi hành bằng cưỡng chế nhà nước; có chức năng quản lý trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội theo phạm vi chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền do pháp
luật quy định; có hệ thống các đơn vị cơ sở trực thuộc. Các CQHCNN không chỉ hoạt
động trong khuôn khổ thẩm quyền của mình mà còn có nghĩa vụ nhất định bắt buộc
các cơ quan này phải thực hiện. Như vậy, CQHCNN có vị trí, vai trò đặc biệt quan
trọng trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước.
Công chức là khái niệm mang tính chính trị, pháp lý của mỗi quốc gia hay ở


mỗi thời kỳ phát triển nhất định của một quốc gia thì có quan niệm khác nhau về
công chức. Ở nước ta “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ
nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam,

1


Xác định thiệt hại được bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính

Nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên
nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà
không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý
của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế
và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo,
quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của
đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật 1. Công chức cấp xã là công
dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc
Uỷ ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước2”.
Pháp luật Việt Nam quy định: “Hoạt động công vụ của cán bộ, công chức là
việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức theo quy định của Luật
này và các quy định khác có liên quan”3. Trong hoạt động của CQHCNN, công vụ là
những việc mang tính chất quyền lực nhà nước, trực tiếp do công chức của
CQHCNN đó thực hiện trong phạm vi thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ và chức
trách của công chức. Các quy định của Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và các quy
định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của CQHCNN và của công
chức tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt động công vụ. Trên cơ sở đó, mỗi CQHCNN,
mỗi công chức chỉ được phép nhân danh Nhà nước thực hiện những công việc đã
được xác định cụ thể nhằm mục đích phục vụ Nhà nước và Nhân dân, công chức

không được phép nhân danh Nhà nước để thực hiện những việc với mục đích để
mang lại lợi ích cá nhân. Với cách hiểu về công vụ như trên, hoạt động công vụ phải
tuân theo những nguyên tắc: “Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; Bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân; Công khai, minh bạch, đúng
thẩm quyền và có sự kiểm tra, giám sát; Bảo đảm tính hệ thống, thống nhất, liên tục,
thông suốt và hiệu quả; Bảo đảm thứ bậc hành chính và sự phối hợp chặt chẽ”4.
Trong thực thi công vụ, CQHCNN luôn có sự kiểm tra, giám sát và công chức
phải có nghĩa vụ tuân thủ mệnh lệnh của cấp trên, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các
công chức và các cơ quan. Đây là nghĩa vụ xuất phát từ thuộc tính quyền lực, phục
tùng trong CQHCNN. Trong thực tế, do yêu cầu đặc biệt mang tính cấp thiết của công
vụ cũng có trường hợp công chức không bị ràng buộc bởi nghĩa vụ tuân thủ mệnh lệnh
của cấp trên tại thời điểm thi hành công vụ và trong trường hợp này, công chức chỉ
Khoản 2 Điều 4 Luật Cán bộ công chức năm 2008.
Khoản 3 Điều 4 Luật Cán bộ công chức năm 2008.
3
Điều 2 Luật cán bộ, công chức năm 2008.
4
Điều 3 Luật cán bộ, công chức năm 2008.
1
2

2


Xác định thiệt hại được bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính

tuân theo pháp luật và phải chịu trách nhiệm cá nhân về hành vi thi hành công vụ của
mình. Trong nền hành chính hiện đại, hệ thống công vụ phải được pháp luật xác định
một cách công khai, minh bạch và đúng thẩm quyền, nghĩa là tất cả các chức trách,
nhiệm vụ, quyền hạn của công chức và trình tự, thủ tục thực hiện các chức trách, nhiệm

vụ đó phải được quy định rõ ràng trong các văn bản pháp luật để mọi công dân, tổ chức
biết, kiểm tra, giám sát việc thi hành công vụ của công chức CQHCNN.
Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật, công chức là những người đại diện cho
CQHCNN thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý và thông qua công chức đang thi
hành công vụ để cá nhân, tổ chức tham gia vào quan hệ pháp luật với Nhà nước. Hành
vi xử sự tuân thủ pháp luật của công chức không những là tấm gương của cá nhân mà
còn là hình ảnh tiêu biểu của cơ quan công quyền mà công chức đó đại diện. Trước
quần chúng nhân dân, mỗi sai sót hoặc vi phạm của công chức CQHCNN đều gây ấn
tượng tiêu cực. Do vậy, trong trường hợp hành vi của công chức CQHCNN trái pháp
luật, gây ra thiệt hại về vật chất hay tinh thần cho cá nhân, tổ chức thì Nhà nước phải
chịu trách nhiệm về hành vi của công chức trước cá nhân, tổ chức bị thiệt hại. Việc
Nhà nước quy định trách nhiệm bồi thường của mình hoàn toàn không phải là hạn chế
quyền lực trong mối quan hệ với công dân, mà chính việc nâng cao trách nhiệm của
nhà nước, là biện pháp bảo đảm cho các quyền của công dân, bảo đảm thực thi những
chủ trương, chính sách pháp luật. Một mặt nó mang tính cải cách trong xã hội, góp
phần nâng cao uy tín, vị thế của nhà nước. Mặt khác làm tăng sự tin tưởng của nhân
dân vào bộ máy nhà nước.
Dưới góc độ pháp lý, khi thi hành công vụ hành vi của công chức được chia
thành hành vi hợp pháp và hành vi bất hợp pháp. Trong đó, hành vi bất hợp pháp là
những xử sự cụ thể của con người được thể hiện thông qua hành động hoặc không
hành động trái với các quy định của pháp luật, xâm hại các quan hệ xã hội được
pháp luật bảo vệ. Hành vi bất hợp pháp là căn cứ phát sinh hai dấu hiệu cơ bản, đó
là chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật và hành vi trái pháp luật trong thi hành
công vụ. Hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra thiệt hại là hành
vi không thực hiện hoặc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn không đúng quy định của
pháp luật và được xác định trong văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.5
Về mặt hình thức, hành vi trái pháp luật do công chức CQHCNN thực hiện
trong thi hành công vụ tương đối đa dạng, có thể là các hành vi làm trái nghĩa vụ công
chức, vi phạm những điều pháp luật cấm, vi phạm thời hạn giải quyết công việc, vi


5

Khoản 2 Điều 3 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2009.

3


Xác định thiệt hại được bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính

phạm quy trình, thủ tục hay ban hành các quyết định không có căn cứ pháp lý dẫn đến
hậu quả gây thiệt hại về tài sản cho Nhà nước, các tổ chức, cá nhân.
Xét về thời gian, hành vi trái pháp luật của công chức có thể thực hiện trong giờ
hành chính hoặc ngoài giờ hành chính, nghĩa là thời gian diễn ra hoạt động công vụ sẽ
phụ thuộc vào tính chất của công việc cụ thể. Xét về không gian, không kể trong công
sở hay ngoài công sở, mà đó chính là nơi diễn ra hoạt động công vụ. Một điểm lưu ý
khi xem xét về thời gian, không gian thi hành công vụ cần phải phù hợp với quy định
của pháp luật. Mối liên hệ giữa hành vi trái pháp luật do công chức thực hiện với công
vụ được giao phải có quan hệ nhân quả. Vấn đề đặt ra khi công chức CQHCNN có
hành vi trái pháp luật trong thi hành công vụ, gây thiệt hại tới quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức thì trách nhiệm của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức bị
thiệt hại thế nào.
Như vậy, theo quan điểm của người viết có thể định nghĩa: Trách nhiệm bồi
thường nhà nước là trách nhiệm pháp lý trong đó cơ quan nhà nước có nghĩa vụ
bồi thường cho cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi
hành công vụ gây ra trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao.
1.1.2. Đặc điểm
Từ khái niệm trên về TNBTCNN trong hoạt động quản lý hành chính có các
đặc điểm sau:
TNBTCNN trong hoạt động quản lý hành chính chỉ được xác định khi có thiệt
hại xảy ra trong thi hành công vụ của công chức, nếu không có thiệt hại xảy ra hoặc có

thiệt hại xảy ra nhưng không trong thi hành công vụ thì sẽ không có TNBTCNN.
Với bản chất là bồi thường thiệt hại, nhưng TNBTCNN có sự khác biệt cơ bản
với trách nhiệm bồi thường dân sự. Đặc trưng trong quan hệ bồi thường thiệt hại dân sự
là tính bình đẳng, thỏa thuận giữa người bị thiệt hại và người gây ra thiệt hại. Trong khi
đó, quan hệ TNBTCNN có đặc trưng bởi tính hành chính với đặc tính bảo vệ công vụ.
Nhà nước có trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại và tùy từng trường
hợp có thể xác định công chức phải chịu trách nhiệm bồi hoàn trước Nhà nước về phần
lỗi của mình trong việc đã gây ra thiệt hại cho cá nhân, tổ chức.
Trong quan hệ pháp luật này, chủ thể được xác định một bên là CQHCNN, bên
kia là cá nhân, tổ chức. Công chức chỉ là một bộ phận cấu thành của CQHCNN, là
nhân tố quyết định mọi hoạt động của CQHCNN khi thay mặt các cơ quan công quyền
thực thi nhiệm vụ, quyền hạn. Trong trường hợp này, hành vi hay các quyết định trái

4


Xác định thiệt hại được bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính

pháp luật của công chức trong thi hành công vụ dẫn đến gây thiệt hại cho cá nhân, tổ
chức thì các sai phạm đó được coi là sai phạm của CQHCNN và CQHCNN phải chịu
trách nhiệm về hành vi của công chức trước cá nhân, tổ chức bị thiệt hại.
1.1.3. Vai trò
TNBTCNN trong hoạt động quản lý hành chính có vai trò rất quan trọng trong
việc thực hiện các quy định của pháp luật về TNBTCNN.
Thứ nhất: TNBTCNN trong hoạt động quản lý hành chính góp phần nâng cao
nhận thức, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật và phòng ngừa, đấu tranh các hành vi
trái pháp luật của cán bộ, công chức gây thiệt hại tới quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức.
TNBTCNN trong hoạt động quản lý hành chính là quá trình hoạt động có mục
đích làm cho pháp luật về TNBTCNN đi vào cuộc sống. TNBTCNN trong hoạt động

quản lý hành chính được tiến hành công khai như các hoạt động tổ chức thương lượng,
áp dụng chế độ, chính sách bồi thường... hình thành thói quen xử sự đúng pháp luật
cho mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội. Nâng cao nhận thức, giáo dục đầy đủ về
TNBTCNN sẽ góp phần đẩy mạnh hiệu quả phòng ngừa, đấu tranh các hành vi tiêu
cực của cán bộ, công chức CQHCNN và ngược lại.
Thứ hai: TNBTCNN trong hoạt động quản lý hành chính góp phần nâng cao
chất lượng, hiệu quả thi hành công vụ của cán bộ, công chức CQHCNN, đảm bảo
tính công bằng.
- Thực hiện pháp luật về TNBTCNN luôn hướng tới tính tối thượng của Hiến
pháp và pháp luật, tính thống nhất, bảo đảm có hiệu quả trong thi hành công vụ của
công chức CQHCNN. Do vậy, hoạt động này có tác dụng bảo vệ đầy đủ quyền và lợi
ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ TNBTCNN được thực hiện trong thực tế.
- Thực hiện pháp luật về TNBTCNN phải nghiêm chỉnh, triệt để và đây cũng là
vấn đề Nhà nước, nhân dân mong muốn. Tuy nhiên, trên thực tế do nhiều nguyên nhân
khác nhau không phải lúc nào CQHCNN cũng được thực hiện đúng, các vi phạm vẫn
xảy ra trong thi hành công vụ của công chức CQHCNN.
- Tính chất công bằng của pháp luật thể hiện ở chỗ, công chức CQHCNN gây ra
thiệt hại về vật chất hay tinh thần cho cá nhân, tổ chức trong thi hành công vụ thì
CQHCNN sẽ chịu trách nhiệm bồi thường.
Thứ ba: Thực hiện pháp luật về TNBTCNN trong hoạt động quản lý hành chính
góp phần tăng cường pháp chế XHCN.
5


Xác định thiệt hại được bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính

Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một chế độ đặc biệt trong đời sống chính trị xã hội
của mỗi quốc gia. Trong đó mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tuyệt đối tuân thủ các
quy định của pháp luật. Thực hiện đúng pháp luật sẽ làm cho pháp chế được bảo đảm,
theo đó, các chủ thể thực hiện đầy đủ những quy định của toàn bộ hệ thống pháp luật

nói chung, đặc biệt các quy định cụ thể quy định trong Luật TNBTCNN, bộ luật dân
sự, Luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật Cán bộ, công chức, Luật Khiếu
nại... Yêu cầu của pháp chế xã hội chủ nghĩa nghiêm cấm mọi sự vi phạm pháp luật từ
phía tất cả các chủ thể trong quá trình thực hiện TNBTCNN và xử lý nghiêm minh, kịp
thời mọi hành vi trái pháp luật do công chức CQHCNN gây ra.
Thực hiện pháp luật về TNBTCNN còn góp phần phát hiện những sơ hở, thiếu
sót của cơ quan tham gia TNBTCNN trong bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, tổ chức. Yêu cầu pháp chế xã hội chủ nghĩa luôn buộc các chủ thể phải sử
dụng hiệu quả, phát huy hiệu lực pháp luật để pháp luật về TNBTCNN đi vào cuộc
sống, vừa bảo đảm lợi ích của Nhà nước, vừa bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, tổ chức bị thiệt hại.
1.2. Quan hệ pháp luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước trong hoạt
động hành chính
Khi đề cập đến TNBTCNN, Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã quy định trách nhiệm của Nhà nước trong bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh
thần đối với các chủ thể bị thiệt hại. Bên cạnh đó các văn bản pháp luật khác cũng đã
trực tiếp hoặc gián tiếp quy định về TNBTCNN. Theo đó nội dung quan hệ pháp luật
về TNBTCNN trong hoạt động quản lý hành chính được quy định như sau:
1.2.1. Về chủ thể
Các bên trong quan hệ TNBTCNN trong hoạt động quản lý hành chính gồm bên
gây thiệt hại là CQHCNN (do cán bộ, công chức đại diện nhân danh Nhà nước) và bên
bị thiệt hại là cá nhân, tổ chức. Với lý luận về TNBTCNN, chủ thể của trách nhiệm bồi
thường nhà nước nói chung gồm mọi cá nhân, tổ chức tham gia TNBTCNN, trong đó
chủ thể cần được bảo vệ là cá nhân, tổ chức bị thiệt hại về vật chất, tinh thần do hành vi
trái pháp luật của công chức gây ra. Như vậy, chủ thể của hoạt động này bao gồm
rất nhiều đối tượng đó là Nhà nước, các cá nhân, tổ chức và các đối tượng khác có
liên quan thực hiện pháp luật về TNBTCNN trong hoạt động quản lý hành chính
do công chức gây ra.
Chủ thể gây thiệt hại là cán bộ, công chức (đại diện hoặc nhân danh Nhà nước)
cơ quan hành chính nhà nước gây ra.

6


Xác định thiệt hại được bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính

Chủ thể bị thiệt hại là cá nhân, tổ chức bị thiệt hại về vật chất, tinh thần do hành
vi trái pháp luật của công chức gây ra.
Chủ thể quản lý: Các cơ quan chủ yếu tham gia hoạt động này gồm các cơ
quan giúp Chính phủ quản lý và tổ chức TNBTCNN như Bộ Tư pháp, Các bộ, cơ
quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình thực hiện quản lý nhà nước về công tác bồi thường, Sở tư pháp tỉnh, Phòng tư
pháp huyện và Cục bồi thường nhà nước; Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình quản lý công tác bồi
thường và phối hợp với Chính phủ trong việc thực hiện quản lý nhà nước về công
tác bồi thường. Người có thẩm quyền tham gia hoạt động này là những người được
Nhà nước trao quyền trong các cơ quan trên.
Chủ thể thực hiện pháp luật về TNBTCNN trong hoạt động quản lý hành chính
là do công chức CQHCNN gây ra có những điểm nổi bật sau:
Trách nhiệm thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường trong hoạt động
quản lý hành chính thuộc về Nhà nước. Nhà nước là chủ thể đặc biệt có trách nhiệm
chính trong bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức nhưng cũng là
chủ thể có nhiều khả năng, điều kiện vi phạm TNBTCNN nhất.
Xét ở góc độ thực hiện pháp luật, các chủ thể trên có địa vị pháp lý không bình
đẳng với nhau. CQHCNN là chủ thể có quyền lực nhà nước, có quyền tổ chức thực
hiện pháp luật, áp dụng phương pháp quyền uy, mệnh lệnh bắt buộc cá nhân, tổ
chức và những người khác tham gia TNBTCNN phải chấp hành.
Do vậy, chủ thể thực hiện pháp luật về TNBTCNN có sự khác nhau về mức độ
tham gia, nguy cơ bị xâm hại, trách nhiệm bảo đảm và địa vị pháp lý cũng như nội
dung quyền của chủ thể nhưng có điểm chung là đều có trách nhiệm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cá nhân, tổ chức trong xã hội.

1.2.2. Về khách thể
Trong các quan hệ pháp luật, khách thể là lợi ích vật chất hoặc tinh thần mà
các chủ thể pháp luật mong muốn đạt được khi tham gia các quan hệ pháp luật.
Trong quan hệ pháp luật dân sự, khách thể là đối tượng mà các chủ thể quan tâm,
hướng tới, nhằm đạt tới hoặc tác động vào khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự.
Trên thực tế, khi hoạt động công quyền gây ra thiệt hại, thì đó là những thiệt hại vật
chất, thiệt hại tinh thần của các cá nhân, tổ chức; tuy nhiên có một thiệt hại mà
không thể đo, đếm được là lòng tin của người dân vào hiệu quả hoạt động cũng như
uy tín của Nhà nước. Khách thể trong trường hợp này là quyền, lợi ích hợp pháp
7


Xác định thiệt hại được bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính

của công dân và lợi ích của Nhà nước vì khi xảy ra bất kỳ một vụ sai phạm thì
không chỉ có công dân là người duy nhất bị thiệt hại mà luôn kéo theo những tổn
thất về phía Nhà nước.
1.2.3. Nội dung quan hệ pháp luật
Nội dung quan hệ pháp luật về TNBTCNN trong hoạt động quản lý hành chính là
mối quan hệ giữa cơ quan hành chính và người dân trong hoạt động quản lý hành chính
được hình thanh trên cơ sở một bên là chủ thể tham gia với tư cách mang quyền lực
nhà nước với một bên không mang quyền lực nhà nước. Mối quan hệ này được pháp
luật điều chỉnh bằng phương pháp mệnh lệnh đơn phương. Tuy nhiên trong quá trình
quản lý hành chính nếu có những hành vi trái pháp luật của cán bộ, công chức khi thi
hành công vụ, gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân thì nhà nước phải bồi thường. Tuy
nhiên việc xác định mức độ thiệt hại cũng như mức bồi thường lại mang tính chất dân
sự là bình đẳng thảo thuận trên cơ sở thương lượng giữa bên gây thiệt hại và bên bị
thiệt hại. Như vậy, nội dung quan hệ pháp luật về TNBTCNN trong hoạt động quản lý
hành chính, nhà nước không còn là chủ thể quyền lực công trong mối quan hệ mang
tính mệnh lệnh, phục tùng mà Nhà nước khi đó chỉ đóng vai trò như một chủ thể của

quan hệ tư, không có quyền lực hành chính, bình đẳng với bên bị thiệt hạitrong việc
giải quyết bồi thường
1.3. Phạm vi trách nhiệm và nguyên tắc bồi thường trong hoạt động quản
lý hành chính
1.3.1. Phạm vi trách nhiệm
Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước có hiệu lực từ ngày 01/01/2010, có
thể nói đây là lần đầu tiên trách nhiệm bồi thường của nhà nước được ghi nhận một
cách đầy đủ và toàn diện nhằm tại cơ chế khả thi của quy định này trong thực tiễn.
Điều 13 Luật TNBTCNN liệt kê hơn 12 hành vi trái pháp luật của người thi hành
công vụ mà nếu trong khi thực hiện người thi hành có hành vi trái pháp luật, có lỗi
gây ra thiệt hại, thì Nhà nước có trách nhiệm bồi thường. Nhà nước có trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra
trong các trường hợp sau đây:
Ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính;
Áp dụng biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và bảo đảm việc xử lý vi
phạm hành chính;
Áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở, công trình, vật kiến trúc và biện pháp
cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính khác;
8


Xác định thiệt hại được bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính

Áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa người vào trường giáo dưỡng, đưa
người vào cơ sở giáo dục hoặc đưa người vào cơ sở chữa bệnh;
Cấp, thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; Giấy chứng nhận đầu tư,
giấy phép và các giấy tờ có giá trị như giấy phép;
Áp dụng thuế, phí, lệ phí; thu thuế, phí, lệ phí; truy thu thuế; thu tiền sử dụng đất;
Áp dụng thủ tục hải quan;
Giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; bồi

thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư; cấp hoặc thu hồi Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;
Ban hành quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh;
Cấp văn bằng bảo hộ cho người không đủ điều kiện được cấp văn bằng bảo
hộ; cấp văn bằng bảo hộ cho đối tượng sở hữu công nghiệp không đủ điều kiện
được cấp văn bằng bảo hộ; ra quyết định chấm dứt hiệu lực của văn bằng bảo hộ;
Không cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đầu tư,
giấy phép và các giấy tờ có giá trị như giấy phép, văn bằng bảo hộ cho đối tượng có
đủ điều kiện;
Các trường hợp được bồi thường khác do pháp luật quy định.
1.3.2. Nguyên tắc bồi thường
Việc giải quyết bồi thường phải tuân theo các nguyên tắc quy định tại Điều 7
Luật bồi thường trách nhiệm của nhà nước năm 2009, nhằm nâng cao trách nhiệm
của nhà nước khi các chủ thể bị thiệt hại.
- Thứ nhất, kịp thời, công khai, đúng pháp luật: Khi xác định đã có thiệt hại xảy
ra đối với cá nhân, tổ chức do công chức CQNN đại diện thực hiện hành vi xử sự trái
với quy định của pháp luật, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ thì việc
bồi thường các thiêt hại về vật chất lẫn tinh thần phải được tiến hành một cách kịp
thời. Bên cạnh đó phải công khai việc bồi thường của nhà nước để nhân dân tin tưởng
vào việc quản lý xã hội của nhà nước bằng pháp luật và các tổ chức, cá nhân trong
quan hệ pháp luật hành chính nhà nước luôn được bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng. Việc bồi thường có thể thương lượng hoặc bằng quyết định của cơ quan có
thẩm quyền nhưng cũng phải đảm bảo đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền,
mức bồi thường...
- Thứ hai, được tiến hành trên cơ sở thương lượng giữa cơ quan có trách
nhiệm bồi thường với người bị thiệt hại hoặc đại diện hợp pháp của họ: Việc quy

9



Xác định thiệt hại được bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính

định thương lượng giữa cơ quan có trách nhiệm bồi thường với người bị thiệt hại là
nguyên tắc thoả thuận bồi thường. Nguyên tắc trên được đưa ra nhằm tôn trọng
quyền tự do thoả luận của các bên, mong muốn giải quyết các vụ việc một cách
nhanh chóng, tránh việc khởi kiện tại Toà án, nhưng thiệt hại về vật chất và tinh
thần vẫn đảm bảo được bồi thường theo mức quy định của pháp luật.
- Thứ ba, được trả một lần bằng tiền, trừ trường hợp các bên có thoả thuận
khác: Cá nhân bị thiệt hại về vật chất lẫn tinh thần được bồi thường bằng tiền một
lần từ ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, tổn hại về tinh thần được quy ra vật chất (bằng
tiền) chi trả một lần cho những chủ thể bị hại, nhưng nhiều tổn hại tinh thần chưa được
quy định, trong khi đó có những tổn hại về tinh thần rất khó tính toán để quy ra tiền,
thậm chí nếu quy ra vật chất thì mức bồi thường là chưa tương xứng với uy tín, danh dự,
nhân phẩm mà cá nhân, tổ chức phải gánh chịu. Việc các chủ thể có thoả thuận khác
về bồi thường vẫn còn chung chung chưa quy định cụ thể như cá nhân bị thiệt hại
khi có quyết định bồi thường thì được nhận tiền mặt một lần hay được chuyển vào
tài khoản ngân hàng của cá nhân.
1.4. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về công tác bồi thường trong
hoạt động quản lý hành chính nhà nước
1.4.1. Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về công tác bồi thường 6
Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về công tác bồi thường bao gồm các cơ
quan có thẩm quyền và đội ngũ công chức của các cơ quan đó tham gia thực hiện pháp
luật về TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra. Sự vận hành của hệ thống tổ chức
này là rất cần thiết nhằm đảm bảo thực hiện pháp luật về TNBTCNN. Có thể khái quát
hệ thống này như sau:
Chính phủ là cơ quan thống nhất quản lý về công tác bồi thường nhà nước do
công chức CQHCNN gây ra: Hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ đã được
pháp luật quy định, hoạt động này phải có sự tham gia của CQHCNN các cấp và được
tổ chức chặt chẽ, đồng bộ, thống nhất với cơ sở vật chất kỹ thuật và các nguồn lực dồi
dào. Sự quản lý phải có tính chuyên nghiệp, khoa học với việc ban hành theo thẩm

quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về
TNBTCNN phù hợp với thực tế. Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành và UBND cấp tỉnh
thống kê, tổng kết việc thực hiện bồi thường; báo cáo Quốc hội, Ủy ban thường vụ
Quốc hội về công tác bồi thường khi có yêu cầu của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc
Điều 11 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2009 và Thông tư 03/TT-BTP ngày
31/01/2013 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện quản lý nhà nước về công tác bồi thường trong hoạt động
quản lý hành chính.
6

10


Xác định thiệt hại được bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính

hội; phối hợp với TANDTC, VKSNDTC quản lý công tác bồi thường trong hoạt động
tố tụng.
Các bộ, cơ quan ngang bộ, trong đó Bộ Tư pháp giúp Chính phủ quản lý công
tác bồi thường nhà nước do công chức CQHCNN gây ra: Thực hiện TNBTCNN là
hoạt động phức tạp, đòi hỏi phải có cơ quan giúp Chính phủ chuyên trách thực hiện
nhiệm vụ này. Bộ Tư pháp được giao nhiệm vụ là cơ quan chuyên trách giúp Chính
phủ quản lý nhà nước nội dung này. Theo đó, Bộ Tư pháp có thẩm quyền: Ban hành
hoặc trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung, ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật
về TNBTCNN; hướng dẫn nghiệp vụ giải quyết bồi thường, giải đáp vướng mắc về
thực hiện pháp luật TNBTCNN; xác định cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong
trường hợp người bị thiệt hại có yêu cầu hoặc không có sự thống nhất về
TNBTCNN giữa các Bộ, cơ quan ngang bộ, UBND cấp tỉnh; theo dõi, kiểm tra,
thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật về TNBTCNN; thông qua việc thực hiện
nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác bồi thường, kịp thời phát hiện những yếu
kém, hạn chế về lề lối làm việc, trình độ, kinh nghiệm của công chức để kiến nghị
với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục; phối hợp với

TANDTC, VKSNDTC quản lý công tác bồi thường trong hoạt động tố tụng; hướng
dẫn kỹ năng, nghiệp vụ giải quyết bồi thường... Đối tượng chịu sự quản lý về công
tác này cũng rất rộng, bao gồm các CQHCNN (các bộ, ngành và các cơ quan quản
lý nhà nước ở cấp tỉnh, huyện và xã); cá nhân, tổ chức bị thiệt hại và cá nhân, tổ
chức tham gia vào hoạt động giải quyết bồi thường nhà nước. Đây là nhiệm vụ mới,
có tính chuyên sâu, độc lập so với các nhiệm vụ của Bộ Tư pháp. Ở Bộ Tư pháp đã
được Thủ tướng Chính phủ thành lập Cục bồi thường nhà nước, là cơ quan giúp Bộ
trưởng Bộ Tư pháp thực hiện nhiệm vụ trên.
Các Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện
quản lý nhà nước về công tác bồi thường; hàng năm, báo cáo Bộ Tư pháp về công tác
bồi thường của bộ, ngành, địa phương mình. Tổ chức pháp chế của các bộ, ngành được
giao nhiệm vụ tham mưu giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ thực hiện nhiệm
vụ quản lý nhà nước về công tác bồi thường trong phạm vi do Bộ, ngành quản lý. Các cơ
quan này có nhiệm vụ: Phổ biến, tuyên truyền TNBTCNN và các văn bản hướng dẫn thi
hành của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; hướng dẫn cơ quan có trách nhiệm bồi
thường thực hiện giải quyết bồi thường; bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ giải quyết bồi
thường; theo dõi, kiểm tra, thanh tra việc giải quyết bồi thường; giải quyết khiếu nại, tố
cáo và xử lý vi phạm pháp luật về TNBTCNN... Ngoài ra, Bộ Tài chính còn có trách
nhiệm xây dựng, trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo

11


Xác định thiệt hại được bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính

thẩm quyền văn bản quy phạm pháp luật về việc sử dụng và quyết toán ngân sách nhà
nước về bồi thường.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, trong đó giao Sở Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước
về công tác bồi thường ở địa phương: Vai trò của UBND cấp tỉnh, trong đó trách
nhiệm về công tác bồi thường của Sở Tư pháp được quy định trong các văn bản pháp

luật với nhiệm vụ giúp UBND cấp tỉnh thực hiện các quy định của pháp luật
TNBTCNN trên phạm vi địa phương mình với tư cách là cơ quan chuyên trách tổ chức
quản lý, thực hiện pháp luật về TNBTCNN. Sở Tư pháp cung cấp thông tin, hướng dẫn
thủ tục hỗ trợ người bị thiệt hại thực hiện quyền yêu cầu bồi thường; bồi dưỡng, hướng
dẫn kỹ năng, nghiệp vụ giải quyết bồi thường; theo dõi, đôn đốc, thanh tra, kiểm tra
việc giải quyết bồi thường, chi trả tiền bồi thường và thực hiện trách nhiệm hoàn trả…
UBND cấp huyện, trong đó giao Phòng Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước về
công tác bồi thường của cấp huyện và cấp xã: UBND cấp huyện thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn về TNBTCNN được quy định trong các văn bản pháp luật, trong đó, UBND
cấp huyện giao Phòng Tư pháp với tư cách là cơ quan chuyên trách giúp UBND cấp
huyện thực hiện nhiệm vụ nêu trên. Đây được coi là cấp quản lý cơ sở của hệ thống các
cơ quan quản lý nhà nước về công tác bồi thường. Do vậy, vai trò của Phòng Tư pháp
cấp huyện rất quan trọng với nhiệm vụ tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về
TNBTCNN, phổ biến, tuyên truyền pháp luật về TNBTCNN tới các tầng lớp nhân dân
và công chức các CQHCNN của huyện; hướng dẫn UBND cấp xã thực hiện việc giải
quyết bồi thường; cung cấp thông tin, hướng dẫn thủ tục hỗ trợ người bị thiệt hại thực
hiện quyền yêu cầu bồi thường; theo dõi, đôn đốc, thanh tra, kiểm tra việc giải quyết
bồi thường, chi trả tiền bồi thường và thực hiện trách nhiệm hoàn trả đối với trường
hợp UBND cấp xã có trách nhiệm giải quyết bồi thường; chủ trì, phối hợp với các đơn
vị có liên quan tham mưu cho UBND cấp huyện giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi
phạm pháp luật về TNBTCNN…
Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan có thẩm quyền trong
thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công chức gây ra: Luật TNBTCNN quy định,
TANDTC, VKSNDTC trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình quản lý công tác
bồi thường và phối hợp với Chính phủ trong việc thực hiện quản lý nhà nước về công
tác bồi thường; hàng năm, thông báo cho Bộ Tư pháp về công tác bồi thường của
ngành mình. Ngoài ra, Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức TAND năm 2002, Luật Tổ
chức VKSND năm 2002, các cơ quan TAND, VKSND đều có thẩm quyền trong thực
hiện pháp luật về TNBTCNN nói chung, pháp luật về TNBTCNN do công chức
CQHCNN gây ra nói riêng. Theo đó, TAND có vai trò thực hiện nhiều hoạt động quan

12


Xác định thiệt hại được bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính

trọng khi giải quyết các yêu cầu bồi thường của Nhà nước nếu việc thương lượng giữa
CQHCNN với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại không đạt kết quả. Nhiều vấn đề phức tạp,
nhạy cảm TAND phải phán quyết giữa một bên đương sự là CQHCNN và một bên là
cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do chính hành vi trái pháp luật của công chức CQHCNN
gây ra trong thi hành công vụ. Cùng với TAND, VKSND có trách nhiệm KS việc tuân
theo pháp luật, bảo đảm pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh, thống nhất. Thẩm
quyền cụ thể của VKSND trong TNBTCNN là kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
việc chấp hành các bản án, quyết định của TAND đã có hiệu lực pháp luật, quyết định
thương lượng trong TNBTCNN và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các
CQHCNN.
Ngoài các cơ quan trên, một số cơ quan khác cũng đóng vai trò nhất định trong
TNBTCNN do công chức CQHCNN gây ra như Bộ Nội vụ, Thanh tra Chính phủ, Bộ
Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn… Vai trò này thể
hiện chủ yếu ở việc phối hợp, hỗ trợ trong thực hiện pháp luật về TNBTCNN do công
chức CQHCNN gây ra.
Như vậy, hệ thống tổ chức thực hiện TNBTCNN ở Việt Nam gồm nhiều cơ quan,
nhưng vai trò chủ đạo, chi phối trực tiếp hoạt động này chính là các CQHCNN và các
cơ quan chuyên trách tổ chức thực hiện pháp luật TNBTCNN.
1.4.2. Cơ quan có trách nhiệm bồi thường
Việc xác định cơ quan nhà nước có trách nhiệm bồi thường có ý nghĩa hết sức
quan trọng, bởi lẽ khi xác định được cơ quan có trách nhiệm bồi thường thì chủ thể
bị thiệt hại dễ dàng thực hiện quyền yêu cầu bồi thường của mình và cơ quan có
trách nhiệm bồi thường cũng không thể đùn đẩy trách nhiệm cho các cơ quan có
liên quan. Theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước “Cơ quan
hành chính trực tiếp quản lý người thi hành công vụ có hành vi trái pháp luật gây

ra thiệt hại là cơ quan có trách nhiệm bồi thường 7” và Nghị định số 16/2010/NĐCP ngày 03/3/2010 của Chính phủ quy định hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật
trách nhiệm bồi thường của nhà nước. Nội dung các văn bản thể hiện rõ từng cơ
quan có trách nhiệm bồi thường trong từng trường hợp.
Cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính quy
định tại Điều 3 Nghị định số 16/2010/NĐ-CP ngày 03/3/2010 của Chính phủ hướng
dẫn cụ thể khoản 1 Điều 14 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được xác
định như sau:
7

Khoản 1 Điều 14 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2009.

13


Xác định thiệt hại được bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính

Người thi hành công vụ gây ra thiệt hại là cán bộ, công chức của Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường là Bộ,
cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
Người thi hành công vụ gây ra thiệt hại là công chức của Tổng cục, Cục, các
đơn vị khác có tư cách pháp nhân, có tài khoản riêng trực thuộc Bộ, cơ quan ngang
Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thì các cơ quan này có trách nhiệm bồi thường.
Người thi hành công vụ gây ra thiệt hại là thành viên Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là cơ quan có trách nhiệm bồi thường. Trong
trường hợp người thi hành công vụ gây ra thiệt hại do các cơ quan chuyên môn trực
thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo quy định tại Nghị định số 13/2008/NĐ-CP
ngày 04 tháng 02 năm 2008 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên
môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các cơ quan
khác trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trực tiếp quản lý thì các cơ quan này có
trách nhiệm bồi thường. Tuy nhiên, hiện nay Nghị định số 13/2008/NĐ-CP ngày 04

tháng 02 năm 2008 của Chính phủ quy được thay thế bằng nghị định số
24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Người thi hành công vụ gây ra thiệt hại là thành viên Ủy ban nhân dân cấp
huyện và người thi hành công vụ do các cơ quan chuyên môn trực thuộc Ủy ban
nhân dân cấp huyện trực tiếp quản lý thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường là Ủy
ban nhân dân cấp huyện.
Người thi hành công vụ gây ra thiệt hại là thành viên Ủy ban nhân dân cấp xã
hoặc là cán bộ, công chức cấp xã thì Ủy ban nhân dân cấp xã là cơ quan có trách
nhiệm bồi thường.
Cơ quan nhà nước khác theo quyết định của cơ quan quản lý nhà nước về công
tác bồi thường có thẩm quyền theo quy định.
Trường hợp cơ quan quản lý người thi hành công vụ đã được chia tách, sáp
nhập, hợp nhất hoặc bị giải thể thì cơ quan kế thừa chức năng, nhiệm vụ của cơ
quan đó là cơ quan có trách nhiệm bồi thường; trường hợp không có cơ quan nào kế
thừa chức năng, nhiệm vụ của cơ quan đã bị giải thể thì cơ quan đã ra quyết định
giải thể là cơ quan có trách nhiệm bồi thường;
Trường hợp tại thời điểm thụ lý đơn yêu cầu bồi thường mà người thi hành
công vụ gây ra thiệt hại không còn làm việc tại cơ quan quản lý người đó thì cơ

14


Xác định thiệt hại được bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính

quan có trách nhiệm bồi thường là cơ quan quản lý người thi hành công vụ tại thời
điểm gây ra thiệt hại;
Trường hợp có sự uỷ quyền hoặc uỷ thác thực hiện công vụ thì cơ quan uỷ
quyền hoặc cơ quan uỷ thác là cơ quan có trách nhiệm bồi thường; trường hợp cơ
quan được ủy quyền, cơ quan nhận ủy thác thực hiện không đúng nội dung ủy

quyền, ủy thác gây thiệt hại thì cơ quan này là cơ quan có trách nhiệm bồi thường;
Trường hợp có nhiều người thi hành công vụ thuộc nhiều cơ quan cùng gây ra
thiệt hại thì cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực chịu trách nhiệm chính trong vụ việc là
cơ quan có trách nhiệm bồi thường;
Trường hợp có nhiều người thi hành công vụ thuộc cơ quan trung ương và cơ
quan địa phương cùng gây ra thiệt hại thì cơ quan trung ương là cơ quan có trách
nhiệm bồi thường.
1.5. Giải quyết yêu cầu bồi thường
1.5.1. Tại co quan có trách nhiệm bồi thường
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 9 Nghị định số 16/2010/NĐ-CP ngày
03/3/2010 của Chính phủ thì trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc
việc xác minh thiệt hại, cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải tiến hành thương
lượng với người bị thiệt hại. Việc tổ chức và chủ trì thương lượng với người bị thiệt
hại về về việc giải quyết bồi thường phải được thực hiện trong thời hạn 30 ngày, kể
từ ngày kết thúc việc xác minh thiệt hại; trường hợp vụ việc có nhiều tình tiết phức
tạp thì thời hạn thương lượng có thể kéo dài nhưng không qúa 45 ngày8.
Thành phần thương lượng gồm đại diện cơ quan có trách nhiệm bồi thường và
người bị thiệt hại hoặc đại diện hợp pháp của họ. Trong trường hợp cần thiết, người
thi hành công vụ gây ra thiệt hại được mời tham gia vào việc thương lượng.
Đại diện của cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải là người có thẩm quyền
để thỏa thuận việc bồi thường với người bị thiệt hại và chịu trách nhiệm trước cơ
quan có trách nhiệm bồi thường9.
Nếu không có thỏa thuận khác thì địa điểm thương lượng là trụ sở của cơ quan
có trách nhiệm bồi thường hoặc trụ sở của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi
người bị thiệt hại cư trú10.
Điều 14 thông tư liên tịch số 19/2010/TTLT-BTP-BTC-TTCP ngày 26/11/2010 của Bộ tư pháp.
Bộ tài chính, Thanh tra Chính phủ hướng dẫn thực hiện trách nhiệm bồi thường của nhà nước trong hoạt
động quản lý hành chính.
9
Khoản 2 Điều 19 Luật bồi thường trách nhiệm của nhà nước năm 2009.

10
Khoản 3 Điều 19 Luật bồi thường trách nhiệm của nhà nước năm 2009.
8

15


Xác định thiệt hại được bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính

Việc thương lượng phải lập thành biên bản. Biên bản thương lượng phải ghi rõ
những nội dung chính sau đây: Ngày, tháng, năm tiến hành thương lượng; địa điểm
thương lượng, thành phần tham gia thương lượng; ý kiến của các bên tham gia
thương lượng; những nội dung thương lượng thành hoặc không thành. Biên bản
thương lượng phải có chữ ký của các bên và được gửi cho người bị thiệt hại một
bản ngay sau khi kết thúc thương lượng. Một điều đáng lưu ý là kết quả thương
lượng là cơ sở để quyết định việc bồi thường11.
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày kết thúc việc thương lượng, cơ quan có
trách nhiệm bồi thường phải ra quyết định giải quyết bồi thường12.
Quyết định giải quyết bồi thường có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày người bị
thiệt hại nhận được quyết định, trừ trường hợp người bị thiệt hại không đồng ý và
khởi kiện ra Toà án13.
Khởi kiện tại Tòa án
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày hết thời hạn ra quyết định giải quyết bồi
thường mà cơ quan có trách nhiệm bồi thường không ra quyết định hoặc kể từ ngày
người bị thiệt hại nhận được quyết định nhưng không đồng ý thì người bị thiệt hại
có quyền khởi kiện ra Toà án nhân dân cấp huyện nơi cá nhân bị thiệt hại cư trú,
làm việc, nơi tổ chức bị thiệt hại đặt trụ sở, nơi thiệt hại xảy ra theo sự lựa chọn của
người bị thiệt hại để yêu cầu giải quyết bồi thường14.
Trường hợp người bị thiệt hại chứng minh được do trở ngại khách quan hoặc do
sự kiện bất khả kháng mà không thể khởi kiện đúng thời hạn thì thời gian có trở ngại

khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng không được tính vào thời hạn khởi kiện.
Người bị thiệt hại không có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết bồi
thường trong trường hợp quyết định giải quyết bồi thường đã có hiệu lực pháp luật.
Thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại Toà án được thực hiện theo quy định
của pháp luật về tố tụng dân sự.
1.5.2. Ttrong quá trình khởi kiện vụ án hành chính
Trong quá trình khởi kiện vụ án hành chính mà người khởi kiện cho rằng,
hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra thiệt hại thì có quyền yêu

Khoản 4 Điều 19 Luật bồi thường trách nhiệm của nhà nước năm 2009.
Điều 20 Luật bồi thường trách nhiệm của nhà nước năm 2009.
13
Điều 21 Luật bồi thường trách nhiệm của nhà nước năm 2009.
14
Điều 22 Luật bồi thường trách nhiệm của nhà nước năm 2009.
11
12

16


Xác định thiệt hại được bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính

cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính thực hiện việc giải quyết bồi
thường. Trong trường hợp này, đơn khởi kiện còn phải có các nội dung sau đây:
Yêu cầu xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ;
Nội dung yêu cầu bồi thường;
Thiệt hại và mức yêu cầu bồi thường;
Tài liệu, chứng cứ có liên quan đến yêu cầu bồi thường.
Thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường trong quá trình giải quyết vụ án hành

chính được áp dụng theo quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án
hành chính15.
1.6. Phân biệt bồi thường của nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính với bồi thường thiệt hại dân sự nói chung
- Về chủ thể:
Người thi hành công vụ là
người được bầu cử, phê chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ nhiệm vào một vị trí trong cơ
quan nhà nước để thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án hoặc
người khác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ có liên
quan đến hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án 16. Bồi thường thiệt hại
dân sự là bất kỳ người nào có hành vi trái pháp luật có lỗi cố ý hoặc vô ý mà gây
thiệt hại cho người khác thì phải bồi thường.
Chủ thể gây thiệt hại trong bồi thường nhà nước là người thi hành công vụ.

Chủ thể bồi thường của nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính là CQHCNN (công chức hành chính nhà nước làm
đại diện nhân danh Nhà nước), còn chủ thể bồi thường thiệt hại dân sự là cá nhân, pháp nhân (cá nhân làm đại diện).

- Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường: Đối với bồi thường của nhà nước trong hoạt động quản lý
hành chính là có hành vi trái pháp luật (quyết định) của người thi hành công vụ thuộc
phạm vi TNBTCNN.
Đối với bồi thường thiệt hại dân sự là cá nhân có lỗi cố ý hoặc vô ý, không phải bằng quyết định trái pháp
luật.

- Đặc trưng trong quan hệ bồi thường thiệt hại dân sự là tính bình đẳng, thỏa
thuận giữa người bị thiệt hại và người gây ra thiệt hại. Trong khi đó, quan hệ
TNBTCNN có đặc trưng bởi tính hành chính với đặc tính bảo vệ công vụ.
Bồi thường của nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính là trả bằng tiền, đối với bồi
thường thiệt hại dân sự có thể bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc.

15
16


Điều 24 Luật bồi thường trách nhiệm của nhà nước năm 2009.
Khoản 1 Điều 3 Luật bồi thường trách nhiệm của nhà nước năm 2009.

17


Xác định thiệt hại được bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính

- Kinh phí bồi thường: Kinh phí bồi thường của nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính là ngân sách nhà nước, còn bồi
17

thường thiệt hại dân sự là tài sản của cá nhân, cha, mẹ của người chưa thành niên, người giám hộ hoặc pháp nhân .

CHƯƠNG 2
XÁC ĐỊNH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC
TRONG HOẠT ĐỘNG HÀNH CHÍNH
2.1. Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động
quản lý hành chính
Trách nhiệm bồi thường của nhà nước chỉ phát sinh khi thỏa mãn các căn
cứ tại Điều 6 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2009. Việc xác định
căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà nước có ý nghĩa hết
sức quan trọng, đó là cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường, mức bồi thường.
2.1.1. Văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi của
người thi hành công vụ là trái pháp luật
17

Điều 606 và 618 Bộ luật dân sự năm 2005.

18



Xác định thiệt hại được bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính

Văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi của người thi
hành công vụ là trái pháp luật gồm các loại văn bản sau18:
Quyết định giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp
luật theo quy định của pháp luật. Cá nhân, tổ chức khi có yêu cầu về xác định hành
vi của người thi hành công vụ là trái quy định của pháp luật được người có thẩm
quyền quyết định giải quyết khiếu nại, xác định hành vi của người thi hành công cụ
là trái pháp luật và có thiệt hại về vật chất và tinh thần xảy ra. Hành vi trái pháp luật
của người thi hành công vụ và thiệt hại có mối quan hệ nhân quả.
Kết luận nội dung tố cáo của cơ quan hoặc người có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật. Kết luận nội dung tố cáo cũng tương tự như quyết định giải quyết
khiếu nại ở phần trên, khi xác định kết luận nội dung tố cáo là có thật, hành vi của
người thi hành công vụ trái pháp luật, có thiệt hại xảy ra. Đồng thời có mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi và thiệt hại. Nội dung kết luận này xác định rằng hành vi của
người thi hành công vụ là hành vi trái pháp luật.
Bản án, quyết định của Tòa án về giải quyết vụ án hành chính đã có hiệu lực
pháp luật. Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính nếu có yêu cầu bồi thường
thì bản án, quyết định của Tòa án còn phải có các nội dung sau: Tóm tắt lý do yêu
cầu bồi thường, căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường, mức bồi thường và hình
thức bồi thường.
Bản án, quyết định của Tòa án về việc giải quyết vụ án dân sự đã có hiệu lực
pháp luật tuyên hủy quyết định hành chính. Khi hết thời hạn ra quyết định giải
quyết bồi thường mà cơ quan có trách nhiệm bồi thường không ra quyết định hoặc
kể từ ngày người bị thiệt hại nhận được quyết định nhưng không đồng ý thì người bị
thiệt hại có quyền khởi kiện ra Toà án nhân dân cấp huyện nơi cá nhân bị thiệt hại
cư trú, làm việc, nơi tổ chức bị thiệt hại đặt trụ sở, nơi thiệt hại xảy ra. Kết quả Tòa
án tuyên hủy quyết định hành chính.

2.1.2. Hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ thuộc phạm vi
trách nhiệm bồi thường của nhà nước và có thiệt hại thực tế xảy ra
Hành vi gây ra thiệt hại của người thi hành công vụ phải được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền xác định là trái pháp luật.

Khoản 2 Điều 1 Thông tư liên tịch số 08/2013/TTLT-BTP-BTC-TTCP ngày 27/2/2013 của Bộ tư
pháp-Bộ Tài chính-Thanh tra chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư liên tịch số 19/2010/TTLTBTP-BTC-TTCP ngày 26/11/2010 hướng dẫn thực hiện trách nhiệm bồi thường của nhà nước trong hoạt động
quản lý hành chính.
18

19


Xác định thiệt hại được bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính

Hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại của người thi hành công vụ phải thuộc các
trường hợp được bồi thường mà Luật quy định đã được người viết trình bày ở mục
1.3.1. Tuy nhiên Nhà nước không bồi thường đối với thiệt hại xảy ra trong các
trường hợp sau đây19:
Do lỗi của người bị thiệt hại;
Người bị thiệt hại che giấu chứng cứ, tài liệu hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật
trong quá trình giải quyết vụ việc;
Do sự kiện bất khả kháng, tình thế cấp thiết.
2.1.3. Mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại thực tế xảy ra và hành vi trái
pháp luật của người thi hành công vụ
Mối quan hệ nhân quả là điều kiện cần thiết làm phát sinh trách nhiệm bồi thường
của nhà nước do công chức cơ quan hành chính nhà nước gây ra, nếu giữa hành vi trái
pháp luật của công chức cơ quan hành chính nhà nước và thiệt hại đã xảy ra không có
mối quan hệ nhân quả thì không thể tồn tại trách nhiệm bồi thường của nhà nước. Giữa
hành vi trái pháp luật của công chức cơ quan hành chính nhà nước và thiệt hại thực tế

xảy ra được coi là có mối quan hệ nhân quả khi hành vi trái pháp luật do công chức cơ
quan hành chính nhà nước thực hiện xảy ra trong thi hành công vụ mà chính hành vi
trái pháp luật đó là yếu tố làm phát sinh thiệt hại và thiệt hại là hậu quả tất yếu do hành
vi trái pháp luật của công chức cơ quan hành chính nhà nước gây ra.
2.2. Thiệt hại được bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính
2.2.1. Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm
2.2.1.1. Các trường hợp thiệt hại do tài sản bị xâm phạm
Theo quy định tại Điều 45 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước quy định
các trường hợp thiệt hại do tài sản bị xâm phạm như sau:
Tài sản đã bị phát mại, bị mất;
Tài sản bị hư hỏng;
Thiệt hại do việc không sử dụng, khai thác tài sản;
Thiệt hại phát sinh từ việc phải nộp một khoản tiền vào ngân sách nhà nước
theo các quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
2.2.1.2. Căn cứ xác định thiệt hại do tài sản bị xâm phạm
19

Khoản 3 Điều 6 Luật bồi thường trách nhiệm của nhà nước năm 2009.

20


Xác định thiệt hại được bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính

Trường hợp tài sản đã bị phát mại, bị mất thì thiệt hại được xác định căn cứ
vào giá thị trường của tài sản cùng loại hoặc tài sản có cùng tính năng, tiêu chuẩn
kỹ thuật và mức độ hao mòn của tài sản đã bị phát mại, bị mất trên thị trường tại
thời điểm giải quyết bồi thường.
Trường hợp tài sản bị hư hỏng thì thiệt hại được xác định là chi phí có liên
quan theo giá thị trường tại thời điểm giải quyết bồi thường để sửa chữa, khôi phục

lại tài sản; nếu tài sản bị hư hỏng không thể sửa chữa, khôi phục thì thiệt hại được
xác định theo khoản 1 Điều 45 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Trường hợp có thiệt hại phát sinh do việc không sử dụng, khai thác tài sản thì
thiệt hại được xác định là thu nhập thực tế bị mất. Đối với những tài sản trên thị
trường có cho thuê, thu nhập thực tế bị mất được xác định phù hợp với mức giá thuê
của tài sản cùng loại hoặc tài sản có cùng tiêu chuẩn kỹ thuật, tính năng, tác dụng và
chất lượng tại thời điểm giải quyết bồi thường; đối với những tài sản trên thị trường
không có cho thuê, thu nhập thực tế bị mất được xác định trên cơ sở thu nhập do tài
sản bị thiệt hại mang lại trong điều kiện bình thường trước thời điểm thiệt hại xảy
ra; nếu tài sản bị kê biên được giao cho người bị thiệt hại hoặc người khác quản lý
thì chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại về tài sản được xác
định là những thiệt hại được bồi thường.
Trong trường hợp tài sản bị xâm phạm là quyền sử dụng đất, nhà ở, công trình
xây dựng và tài sản khác gắn liền với đất thì thiệt hại được bồi thường được xác
định theo quy định tại Điều 45 của Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm
2009 và các quy định của pháp luật có liên quan (ví dụ như: Luật đất đai, Luật nhà
ở...).
Các khoản tiền đã nộp vào ngân sách nhà nước theo quyết định của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, bị tịch thu, thi hành án, khoản tiền đã đặt để bảo đảm tại
cơ quan có thẩm quyền được hoàn trả cho người bị thiệt hại hoặc thân nhân của họ;
trường hợp khoản tiền đó là khoản vay có lãi thì phải hoàn trả cả khoản lãi hợp
pháp; trường hợp khoản tiền đó không phải là khoản vay có lãi thì phải hoàn trả cho
người bị thiệt hại hoặc thân nhân của họ cả khoản lãi theo lãi suất cơ bản do Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm giải quyết bồi thường 20. Thời gian
tính lãi đối với các khoản tiền quy định tại khoản 4 Điều 45 của Luật được tính từ
ngày tiền được nộp vào ngân sách nhà nước; bị tịch thu; thi hành án; được đặt để

20

Điều 45 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2009.


21


Xác định thiệt hại được bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính

bảo đảm tại cơ quan có thẩm quyền đến ngày ban hành quyết định giải quyết bồi
thường của cơ quan có trách nhiệm bồi thường hoặc bản án, quyết định của Tòa án.
2.2.2. Thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút
2.2.2.1 Các trường hợp thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút
Theo quy định tại Điều 46 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước quy định
có 3 trường hợp thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút sau đây:
Trường hợp xác định được thu nhập của người bị thiệt hại;
Trường hợp cá nhân có thu nhập thường xuyên nhưng không ổn định;
Trường hợp cá nhân có thu nhập không ổn định và không có cơ sở để xác định
cụ thể hoặc thu nhập có tính chất thời vụ.
2.2.2.2. Căn cứ xác định thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút21
Thứ nhất, Cá nhân, tổ chức có thu nhập mà xác định được thì được bồi thường
theo thu nhập thực tế bị mất.
Thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của tổ chức 22: Thiệt hại
do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của tổ chức được xác định trên cơ sở
thu nhập trung bình của 2 năm liền kề trước thời điểm xảy ra thiệt hại. Thu nhập của
tổ chức được xác định theo báo cáo tài chính hợp pháp của tổ chức; trường hợp
không có báo cáo tài chính, tổ chức có thể chứng minh thu nhập thực tế bị mất hoặc
bị giảm sút bằng các tài liệu, chứng cứ hợp pháp khác theo quy định của pháp luật
có liên quan. Trường hợp tổ chức được thành lập chưa đủ hai năm tính đến thời
điểm xảy ra thiệt hại thì thu nhập thực tế của tổ chức được xác định trên cơ sở thu
nhập bình quân trong thời gian hoạt động thực tế của tổ chức đó.
Thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của cá nhân23
Trường hợp trước khi xảy ra thiệt hại mà người bị thiệt hại có thu nhập ổn

định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động thì căn cứ vào
mức lương, tiền công của tháng liền kề của người đó trước khi xảy ra thiệt hại để
xác định khoản thu nhập thực tế.

21

Điều 46 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2009.

Khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 19/2010/TTLT-BTP-BTC-TTCP ngày 26/11/2010 của Bộ tư
pháp, Bộ tài chính, Thanh tra Chính phủ hướng dẫn thực hiện trách nhiệm bồi thường của nhà nước trong hoạt
22

động quản lý hành chính..
23

Khoản 2 Điều 6 Thông tư số 19/2010/TTLT-BTP-BTC-TTCP ngày 26 tháng 11 năm 2010.

22


Xác định thiệt hại được bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính

Trường hợp trước khi xảy ra thiệt hại mà người bị thiệt có việc làm và hàng
tháng có thu nhập nhưng không ổn định thì lấy mức thu nhập trung bình của ba
tháng liền kề trước thời điểm thiệt hại xảy ra làm căn cứ để xác định khoản thu nhập
thực tế.
Trường hợp trước khi xảy ra thiệt hại mà người bị thiệt hại là nông dân, ngư
dân, người làm muối, người trồng rừng, người làm thuê, người buôn bán nhỏ, thợ
thủ công, lao động khác có thu nhập nhưng theo mùa vụ hoặc không ổn định thì lấy
mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại tại địa phương; nếu không xác định

được thu nhập trung bình thì lấy mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định áp dụng
cho công chức làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước tại thời điểm giải
quyết bồi thường làm căn cứ để xác định khoản thu nhập thực tế.
Người bị thiệt hại (gồm cả trường hợp đã chết) được bồi thường khoản thu
nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút trong thời gian họ bị tạm giữ hành chính, bị
đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh và trong thời gian điều
trị do sức khỏe bị xâm phạm. Trong thời gian này, người bị thiệt hại được cơ quan,
người sử dụng lao động trả lương, trả tiền công lao động đầy đủ theo quy định của
pháp luật lao động, bảo hiểm xã hội thì họ không nhận được khoản tiền bồi thường
tương ứng; nếu người bị thiệt hại được cơ quan, người sử dụng lao động trả lương,
trả tiền công một phần thì phần còn lại được xác định là thu nhập thực tế bị giảm sút
và họ được bồi thường khoản thu nhập bị giảm sút đó.
Thứ hai, trường hợp cá nhân có thu nhập thường xuyên nhưng không ổn định thì
mức bồi thường được xác định căn cứ vào thu nhập trung bình trong ba tháng liền kề
trước thời điểm thiệt hại xảy ra.
Thứ ba, cá nhân có thu nhập không ổn định và không có cơ sở xác định cụ thể
hoặc thu nhập có tính chất thời vụ thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động
cùng loại tại địa phương. Trường hợp không xác định được thu nhập trung bình thì tiền
bồi thường được xác định theo mức lương tối thiểu chung đối với cơ quan nhà nước tại
thời điểm giải quyết bồi thường.
2.2.3. Thiệt hại do tổn thất về tinh thần
2.2.3.1. Các trường hợp thiệt hại do tổn thất về tinh thần
Theo quy định tại Điều 47 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước quy định
có các trường hợp thiệt hại do tổn thất về tinh thần như sau:
Tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm quyền tự do về thân thể;
Tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm tính mạng;
23


Xác định thiệt hại được bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính


Tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm sức khoẻ;
2.2.3.2. Căn cứ xác định thiệt hại do tổn thất về tinh thần24
Thứ nhất, thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong thời gian bị tạm giữ hành
chính, bị đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở chữa bệnh bắt
buộc được xác định là hai ngày lương tối thiểu cho một ngày bị tạm giữ hành chính,
bị đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở chữa bệnh bắt buộc.
Một ngày lương tối thiểu được xác định bằng việc lấy mức lương tối thiểu do
Nhà nước quy định áp dụng cho công chức làm việc trong các cơ quan hành chính
nhà nước tại thời điểm giải quyết bồi thường chia cho 22 là số ngày làm việc bình
quân của mỗi tháng.
Ví dụ: Tại thời điểm hiện nay thì mức lương tối thiểu chung do Nhà nước quy
định là 1.150.000 đồng, do đó một ngày lương tối thiểu sẽ là: 1.150.000 đồng: 22 =
52.272 đồng.
Số ngày bị tạm giữ hành chính, bị đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục,
cơ sở chữa bệnh được xác định theo số ngày thực tế mà người được bồi thường bị
tạm giữ hành chính, bị đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa
bệnh.25
Ví dụ: Ông A bị đưa vào cơ sở chữa bệnh từ ngày 01/12/2013 và đến ngày
01/3/2014 thì được ra khỏi cơ sở chữa bệnh. Ngày 20/3/2014, cơ quan có thẩm
quyền xác định ông A không thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở
chữa bệnh. Trong trường hợp này, thiệt hại do tổn thất về tinh thần mà ông A được
bồi thường được xác định như sau:
Số ngày thực tế bị đưa vào cơ sở chữa bệnh là: 31 ngày của tháng 12/2013 +
31 ngày của tháng 01/2014 + 28 ngày của tháng 02/2014 = 90 ngày.
Số ngày lương tính theo mức lương tối thiểu được bồi thường là:
90 ngày x 2 = 180 ngày.
Trong ví dụ này, số tiền mà ông A được Nhà nước bồi thường là:
180 ngày x 52.272 đồng = 9.408.960 đồng.
Thứ hai, thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong trường hợp bị tạm giữ, tạm

giam, chấp hành hình phạt tù được xác định là ba ngày lương tối thiểu cho một ngày
bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù.
24

Điều 47 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2009.

25

Khoản 1 Điều 7 Thông tư số 19/2010/TTLT-BTP-BTC-TTCP ngày 26 tháng 11 năm 2010.

24


Xác định thiệt hại được bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính

Thứ ba, thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong trường hợp người bị thiệt hại
chết được xác định là ba trăm sáu mươi tháng lương tối thiểu.
Nếu người bị thiệt hại chết trong thời gian bị tạm giữ hành chính, bị đưa vào
trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh mà không phải do lỗi của chính
họ hoặc không do sự kiện bất khả kháng, tình thế cấp thiết thì thân nhân của họ
được bồi thường thiệt hại do tổn thất về tinh thần một khoản tiền là ba trăm sáu
mươi tháng lương tính theo mức lương tối thiểu chung do Nhà nước quy định tại
thời điểm giải quyết bồi thường.
Nếu người bị tạm giữ hành chính, bị đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo
dục, cơ sở chữa bệnh chết trong thời gian bị tạm giữ hành chính, bị đưa vào trường
giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh mà do lỗi của chính họ hoặc do sự
kiện bất khả kháng, tình thế cấp thiết thì thân nhân của họ không được bồi thường
thiệt hại do tổn thất về tinh thần theo quy định tại khoản 3 Điều 47 của Luật trách
nhiệm bồi thường của nhà nước.
Khoản tiền bồi thường thiệt hại do tổn thất về tinh thần là khoản tiền bồi

thường chung cho thân nhân của người bị thiệt hại (vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha
nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người bị thiệt hại, người trực tiếp nuôi dưỡng
người bị thiệt hại). Những người được bồi thường trong trường hợp này phải còn
sống tại thời điểm người bị thiệt hại chết.26
Thứ tư, thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong trường hợp sức khoẻ bị xâm
phạm được xác định căn cứ vào mức độ sức khoẻ bị tổn hại nhưng không quá ba
mươi tháng lương tối thiểu.
2.2.4. Thiệt hại về vật chất do người bị thiệt hại chết
2.2.4.1. Các thiệt hại về vật chất do người bị thiệt hại chết
Theo quy định tại Điều 48 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước quy định
có 3 trường hợp thiệt hại về vật chất do người bị thiệt hại chết như sau:
Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại
trước khi chết;
Chi phí cho việc mai táng;
Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa
vụ cấp dưỡng.

26

Khoản 2 Điều 7 Thông tư số 19/2010/TTLT-BTP-BTC-TTCP ngày 26 tháng 11 năm 2010.

25


×