Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tiểu luận kiểm tra đánh giá trong dạy học lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.04 KB, 23 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

TIỂU LUẬN

KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
Giảng viên: TS. Nguyễn Thị Bích
Học viên:
Lớp: Cao học LL&PPDH Lịch sử – K10

Hà Nội 06/2015


PHẦN NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......
…………………………………………………………………………......

ĐIỂM
Bằng số

Bằng chữ

Hà Nội, ngày …. tháng …. Năm 2015


Giảng viên

TS . Nguyễn Thị Bích
Đề bài:
1.Anh (chị) có nhận thức như thế nào về kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập của học sinh ở trường phổ thông. Lựa chọn một vấn đề mà anh (chị)
tâm huyết và nêu quan điểm của anh chị về vấn đề đó.


2.Từ thực trạng việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập lịch sử của học
sinh ở trường phổ thông Việt Nam hiện nay và từ kinh nghiệm đánh giá của
1 số quốc gia trên thế giới, anh (chị) hãy đề xuất những giải pháp của mình
cho việc đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập lịch sử của học sinh ở
trường phổ thông hiện nay. Hãy phân tích một giải pháp mà anh (chị) cho là
có hiệu quả nhất và giải thích vì sao lại chọn giải pháp đó.
3. Soạn 1 chủ đề kiểm tra trong chương trình lịch sử lớp 12 và soạn
một đề kiểm tra môn Lịch sử ở lớp 12 trong phân phối chương trình theo
tinh thần đổi mới.
BÀI LÀM:
I. PHẦN MỞ ĐẦU
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học
theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến
thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ
máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để
người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển
từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt
động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin và truyền thông trong dạy và học”; “Đổi mới căn bản hình thức và
phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung

thực, khách quan. Việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo cần
từng bước theo các tiêu chí tiên tiến được xã hội và cộng đồng giáo dục thế giới
tin cậy và công nhận. Phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học với
đánh giá cuối kỳ, cuối năm học; đánh giá của người dạy với tự đánh giá của
người học; đánh giá của nhà trường với đánh giá của gia đình và của xã hội ”.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc tăng cường đổi mới kiểm tra, đánh giá
(KTĐG) thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học (PPDH), trong những năm qua,
Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) đã tập trung chỉ đạo đổi mới các hoạt động này
nhằm tạo ra sự chuyển biến cơ bản về tổ chức hoạt động dạy học, góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục trong các trường trung học.
Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình
giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ
quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng
được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, nhất định phải thực hiện
thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối "truyền thụ một chiều"
sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng
lực và phẩm chất; đồng thời phải chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ nặng
về kiểm tra trí nhớ sang kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải


quyết vấn đề, coi trọng cả kiểm tra đánh giá kết quả học tập với kiểm tra đánh
giá trong quá trình học tập để có thể tác động kịp thời nhằm nâng cao chất lượng
của các hoạt động dạy học và giáo dục.
Trước bối cảnh đó và để chuẩn bị quá trình đổi mới chương trình, sách
giáo khoa giáo dục phổ thông sau năm 2015, cần thiết phải đổi mới đồng bộ
phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục theo định hướng
phát triển năng lực người học.
KTĐG là một khâu trong quá trình dạy học( QTDH) . Bộ đã có chủ
chương đổi mới QTDH, trong đó lấy đổi mới về KTĐG làm khâu đột phá của
quá trình đổi mới. Để theo kịp sự chuyển đổi của ngành giáo dục, môn lịch sử,

vốn được coi là một môn khó học, học sinh ít có hứng thú, cũng cần phải có
những đổi mới theo tinh thần của Bộ. Vậy đối với môn lịch sử, việc đổi mới
KTĐG được thực hiện như thế nào? Thực trạng của việc kiểm tra đánh giá kết
quả học tập lịch sử của học sinh ở trường phổ thông Việt Nam hiện nay? Kinh
nghiệm đánh giá của 1 số quốc gia trên thế giới? Những giải pháp cho việc đổi
mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập lịch sử của học sinh ở trường phổ thông
hiện nay? … Đó là những nội dung được nhiều người quan tâm.
II. NỘI DUNG
1. Nhận thức về kiểm tra, đánh giá kết quả học tập lịch sử của học
sinh ở trường phổ thông.
Kiểm tra: Là một quá trình mà các mục tiêu và các tiêu chí đi kèm được
định ra từ trước, trong đó chúng ta kiếm tra sự phù hợp của sản phẩm với các
mục tiêu và tiêu chí đã xác định. Bản chất của việc kiểm tra là quá trình thu thập
thông tin để có được những nhận xét, xác định mức độ đạt được cả về sổ lượng
hay chất lượng của quá trình lĩnh hội kiến thức, trau dồi kĩ năng, kĩ xảo, hình
thành nhân cách ở người học. Quá trình kiểm tra thường hướng tới kiểm tra các
thành phần:Kiến thức,Kĩ năng,Thái độ,Năng lực.
Đánh giá là quá trình thu thập và xử lí kịp thời, có hệ thống thông tin về
hiện trạng, khả năng hay nguyên nhân của chất lượng và hiệu quả giáo dục căn
cứ vào mục tiêu giáo dục, làm cơ sở cho những chủ trương, biện pháp và hành
động giáo dục tiếp theo nhằm phát huy kết quả, sửa chữa thiếu sót.
Đánh giá năng lực là đánh giá khả năng thực hiện một công việc cụ thể
dựa trên việc kết hợp kiến thức, kĩ năng và thái độ phù hợp với yêu cầu sản
phẩm đầu ra của quá trình giáo dục. Trong dạy học, năng lực cần đạt của học
sinh phổ thông là tổ hợp nhiều khả năng và giá trị cơ bản được cá nhân thể hiện
thông qua các hoạt động có kết quả, đó là sự kết hợp một cách linh hoạt của kiến
thức, kĩ năng cơ bản với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân... Thực chất,
đánh giá năng lực là đánh giá theo chuẩn và theo sản phẩm đầu ra. Các năng lực
cụ thể, thiết yếu này được thực hiện từ sự vận dụng, kết hợp các kiến thức, kĩ



năng, thái độ, động cơ... đặc biệt là sự vận dụng các tri thức đã học vào trong
thực tiễn cuộc sống.
1.1.Mục đích , vai trò, ý nghĩa của KTĐG:
* Đối với học sinh:
- Thứ nhất: Định hướng và thúc đẩy quá trình học tập:
Qua kiểm tra, đánh giá thông báo cho từng học sinh biết được trình độ tiếp
thu kiến thức và những kỹ năng môn học của mình so với yêu cầu của chương
trình cũng như sự tiến bộ của họ trong quá trình học tập, nhằm thúc đẩy tính tích
cực, hứng thú học tập.
Kiểm tra, đánh giá giúp học sinh phát hiện những nguyên nhân sai sót cần
phải bổ sung, điều chỉnh trong hoạt động học.
- Thứ hai: kiểm tra, đánh giá để phân loại, xếp loại học sinh:
Công khai hoá các nhận định về năng lực và kết quả học tập của mỗi học
sinh và mỗi tập thế lớp, tạo cơ hội để các em phát triển kỹ năng tự đánh giá để
nhận ra sự tiến bộ của mình, khuyến khích, động viên các em học tập, có kế
hoạch bồi dưỡng kịp thời. Đồng thời, qua đó giáo dục học sinh nâng cao tinh
thần trách nhiệm trong học tập, rèn luyện tu dưỡng đạo đức, có thêm niềm tin ở
sức lực, khả năng của mình để từ đó có nhu cầu tự kiểm tra, đánh giá thường
xuyên.
Phát triển năng lực tư duy, năng lực hành động của người học.
KTĐG không chỉ đánh giá sự nhận thức của học sinh, mà còn đánh giá sự
tiến bộ của học sinh. Mục đích đánh giá là vì sự tiến bộ của học sinh.
* Đối với giáo viên
- Biết được trình độ chung của người học, những học sinh có tiến bộ,
những học sinh sút kém để có thể động viên và giúp đỡ kịp thời.
- Kết quả đánh giá giúp giáo viên xem xét và điều chỉnh lại phương pháp
và hình thức tổ chức dạy học hiện hành.
* Đối với cán bộ quản lí giảo dục: Giúp nhà quản lí có động thái uốn
nắn, điều chỉnh, động viên, khuyến khích kịp thời giáo viên và học sinh.

Thông qua đánh giá, các nhà quản lý sẽ ra những quyết định phù hợp để
điều chỉnh chương trình đào tạo và tổ chức giảng dạy và học tập cũng như ra các
quyết định về đánh giá kết quả học tập của học sinh.
1.2.Yêu cầu của kiểm tra đánh giá.
Trong dạy học nói chung, có bốn yêu cầu: tính quy chuẩn; tính khách
quan: công bằng, khách quan; tính xác nhận phát triển và tính toàn diện. trong
dạy học lịch sử có những yêu cầu riêng như: đảm bảo tính toàn diện; tính công
bằng khách quan và độ tin cậy và tính giá trị của KTĐG.
1.3. Đặc trưng của KTĐG.
Trong KTĐG có những đặc trưng như:
- Đánh giá sự tiến bộ của người học trong suốt quá trình dạy học


- Đánh giá sẽ định hướng cho hoạt động của giáo viên
- Đánh giá sẽ mang lại lợi ích gì cho học sinh
- Trong quá trình đánh giá, phải đánh giá liên tục theo tiến trình, phải đa
dạng hóa các loại hình đánh giá.
- Khi đánh giá phải chú ý tới từng đối tượng ( lớp học) cụ thể để đánh giá
phù hợp.
- ĐÁnh giá lớp học sẽ gắn với hoạt động điều khiển của giáo viên trong và
ngoài giờ học. Như vậy KTĐG là một phương pháp dạy học, là một bộ phân
trong quá trình dạy học.
1.4. Các hình thức KTĐG:
Có hai hình thức KTĐG:
Một là: KTĐG cơ bản: KTĐG thường xuyên và KTĐG định kì;
Hai là: KTĐG ngoài giờ học như: kiểm tra bài tập, bài chuẩn bị trước,
ngoại khóa…
1.5. Tác dụng và yêu cầu của các loại kiểm tra:
* Kiểm tra miệng: tác dụng của kiểm tra miệng là: giáo viên có thể kiểm
tra ngay lập tức trình độ, năng lực của học sinh, nhưng số lượng kiểm tra trong

một tiết không được nhiều. Yêu cầu của kiểm tra miệng là: câu hỏi phải ngắn
gọn, rõ nội dung.
* Kiểm tra viết: tác dụng của kiểm tra viết là giáo viên cùng lúc có thể
đánh giá nhiều học sinh. Thời gian kiểm tra theo phân phối chương trình.
1.6. Về phương pháp kiểm tra:
Có nhiều phương pháp KTĐG như:
* Phương pháp KTĐG bằng quan sát: Là quan sát đối tượng KTĐG để
đánh giá đối tượng. Bản chất của KTĐG bằng quan sát là xem học sinh tham gia
quá trình học tập như thế nào. Ví dụ, khi giáo viên nêu câu hỏi, giáo viên quan
sát học sinh tham gia câu hỏi như thế nào, học sinh có tư duy với câu hỏi không.
Nếu làm tốt phương pháp này, sẽ giúp phân loại được đối tượng.
Có hai hình thức quan sát: quan sát thông qua hành vi( thái độ,cử chỉ,biểu
hiện…) và đánh giá các dấu hiệu liên quan đến giọng nói, biểu cảm.
* Phương pháp KTĐG bằng vấn đáp: Là sử dụng hệ thống các câu hỏi để
đánh giá học sinh. Có các loại câu hổi như: ôn lại nội dung, phát vấn để thảo
luận, nêu vấn đề.
Mục đích của câu hỏi vấn ddapf là lôi cuốn học sinh tham gia bài học. Yêu
cầu khi đặt câu hỏi là: câu hỏi phải rõ ràng, xúc tích, gắn với mục tiêu học tập,
thu hút cả lớp, có thời gian cho học sinh trả lời, câu hỏi phải phù hợp với học
sinh, tránh những câu hỏi quá rễ học sinh chỉ cần trả lời có hoặc không, tránh
những câu hỏi mang tính giằng co, dồn ép, không hỏi những câu hỏi học sinh đã
biết câu trả lời.


* Phương pháp KTĐG bằng viết( còn gọi là trắc nghiệm): gồm có trắc
nghiệm khách quan và trắc nghiệm tự luận. Hai loại trắc nghiệm trên có những
đặc trưng tương đồng là:
- Mục đích đều để đánh giá, đo lường kết quả học tập của học sinh;
khuyến khích học sinh học tập tốt;
- Đều vận dụng ít, nhiều sự phán đoán chủ quan;

- Giá trị của cả hai đều phụ thuộc vào tính khách quan…
Ngoài các phương pháp trên ra, hiện nay chúng ta còn phát triển các
phương pháp KTĐG khác như: đánh giá bằng hồ sơ học tập, dánh giá qua dự án
học tập, đánh giá trong phòng thí ngiệm…
2. Quan điểm cá nhân về một vấn đề tâm huyết trong kiểm tra đánh
giá kết quả học tập lịch sử của học sinh ở trường phổ thông.
Đổi mới phương pháp dạy học cần gắn liền với đổi mới về đánh giá quá
trình dạy học cũng như đổi mới việc kiểm tra và đánh giá thành tích học tập của
học sinh. Đánh giá kết quả học tập là quá trình thu thập thông tin, phân tích và
xử lý thông tin, giải thích thực trạng việc đạt mục tiêu giáo dục, tìm hiểu nguyên
nhân, ra những quyết định sư phạm giúp học sinh học tập ngày càng tiến bộ.
Khi KTĐG cần đánh giá theo năng lực. Theo quan điểm phát triển năng
lực, việc đánh giá kết quả học tập không lấy việc kiểm tra khả năng tái hiện kiến
thức đã học làm trung tâm của việc đánh giá. Đánh giá kết quả học tập theo năng
lực cần chú trọng khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong những tình huống
ứng dụng khác nhau. Đánh giá kết quả học tập đối với các môn học và hoạt động
giáo dục ở mỗi lớp và sau cấp học là biện pháp chủ yếu nhằm xác định mức độ
thực hiện mục tiêu dạy học, có vai trò quan trọng trong việc cải thiện kết quả học
tập của học sinh. Hay nói cách khác, đánh giá theo năng lực là đánh giá kiến
thức, kỹ năng và thái độ trong bổi cảnh có ỷ nghĩa.
Dạy học định hướng năng lực đòi hỏi việc thay đổi mục tiêu, nội dung,
phương pháp dạy học và đánh giá, trong đó việc thay đổi quan niệm và cách xây
dựng các nhiệm vụ học tập, câu hỏi và bài tập có vai trò quan trọng.
Dựa trên các bậc nhận thức và chú ý đến đặc điểm của học tập định hướng
năng lực, có thể xây dựng bài tập theo các dạng:
- Các bài tập dạng tái hiện: Yêu cầu sự hiểu và tái hiện tri thức. Bài tập tái
hiện không phải trọng tâm của bài tập định hướng năng lực.
- Các bài tập vận dung: Các bài tập vận dụng những kiến thức trong các
tình huống không thay đối. Các bài tập này nhằm củng cố kiến thức và rèn luyện
kỹ năng cơ bản, chưa đòi hỏi sáng tạo.

- Các bài tập giải quyết vấn đề: Các bài tập này đòi hỏi sự phân tích, tổng
hợp, đánh giá, vận dụng kiến thức vào những tình huống thay đổi, giải quyết vấn
đề. Dạng bài tập này đòi hỏi sự sang tạo của người học.


- Các bài tập gắn với bối cảnh, tình huống thực tiễn: Các bài tập vận dụng
và giải quyết vấn đề gắn các vấn đề với các bối cảnh và tình huống thực tiễn.
Những bài tập này là những bài tập mở, tạo cơ hội cho nhiều cách tiếp cận, nhiều
con đường giải quyết khác nhau.
3. Thực trạng việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập lịch sử của học
sinh ở trường phổ thông Việt Nam hiện nay.
Thực trạng KTĐG kết quả học tập lịch sử của học sinh ở trường phổ thông
Việt Nam hiện nay là:
Thứ nhất: KTĐG còn chạy theo thành tích, theo điểm số. Do áp lực từ
nhiều phía, giáo viên đôi khi đánh giá học sinh không sát với năng lực thực sự
của học sinh. Đánh giá học sinh thường cao hơn so với năng lực thực sự của học
sinh.
Thứ hai: học sinh không hứng thú với môn lịch sử. Biểu hiện là học sinh
không lựa chọn môn lịch sử để học và thi.
Hoạt động kiếm tra đánh giá chưa bảo đảm yêu cầu khách quan, chính
xác, công bằng; việc kiếm tra chủ yếu chú ý đến yêu cầu tái hiện kiến thức và
đánh giá qua điểm số đã dẫn đến tình trạng giáo viên và học sinh duy trì dạy học
theo lối "đọc-chép" thuần túy, học sinh học tập thiên về ghi nhớ, ít quan tâm vận
dụng kiến thức. Nhiều giáo viên chưa vận dụng đúng quy trình biên soạn đề
kiểm tra nên các bài kiểm tra còn nặng tính chủ quan của người dạy. Hoạt động
kiểm tra đánh giá ngay trong quá trình tổ chức hoạt động dạy học trên lớp chưa
được quan tâm thực hiện một cách khoa học và hiệu quả. Các hoạt động đánh giá
định kỳ, đánh giá diện rộng quốc gia, đánh giá quốc tế được tổ chức chưa thật sự
đồng bộ hiệu quả.
Thực trạng trên đây dẫn đến hệ quả là không rèn luyện được tính trung

thực trong thi, kiểm tra; nhiều học sinh phổ thông còn thụ động trong việc học
tập; khả năng sáng tạo và năng lực vận dụng tri thức đã học để giải quyết các
tình huống thực tiễn cuộc sống còn hạn chế.
Nguyên nhân của thực trạng trên:
Thực trạng nói trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có thể chỉ ra
một số nguyên nhân cơ bản sau:
- Nhận thức về sự cần thiết phải đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra
đánh giá và ý thức thực hiện đổi mới của một bộ phận cán bộ quản lý, giáo viên
chưa cao. Năng lực của đội ngũ giáo viên về vận dụng các phương pháp dạy học
tích cực, sử dụng thiết bị dạy học, ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông
trong dạy học còn hạn chế.
- Lý luận về phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá chưa được nghiên
cứu và vận dụng một cách có hệ thống; còn tình trạng vận dụng lí luận một cách
chắp vá nên chưa tạo ra sự đồng bộ, hiệu quả; nghèo nàn các hình thức tổ chức
hoạt động dạy học, giáo dục.


- Chỉ chú trọng đến đánh giá cuối kỳ mà chưa chú trọng việc đánh giá
thường xuyên trong quá trình dạy học, giáo dục.
- Năng lực quản lý, chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh
giá từ các cơ quan quản lý giáo dục và hiệu trưởng các trường trung học phổ
thông còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu. Việc tổ chức hoạt động đổi mới
phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá chưa đồng bộ và chưa phát huy được
vai trò thúc đẩy của đổi mới kiểm tra đánh giá đối với đổi mới phương pháp dạy
học. Cơ chế, chính sách quản lý hoạt động đổi mới phương pháp dạy học, kiểm
tra đánh giá chưa khuyến khích được sự tích cực đổi mới phương pháp dạy học,
kiểm tra đánh giá của giáo viên. Đây là nguyên nhân quan trọng nhất làm cho
hoạt động đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá ở trường trung học
phổ thông chưa mang lại hiệu quả cao.
- Nguồn lực phục vụ cho quá trình đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra

đánh giá trong nhà trường như: cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, hạ tầng công
nghệ thông tin - truyền thông vừa thiếu, vừa chưa đồng bộ, làm hạn chế việc áp
dụng các phương pháp dạy học, hình thức kiểm tra đánh giá hiện đại.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc tăng cường đổi mới kiểm tra
đánh giá thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có
chủ trương tập trung chỉ đạo đổi mới kiểm tra đánh giá, đổi mới phương pháp
dạy học, tạo ra sự chuyển biến cơ bản về tổ chức hoạt động dạy học, góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục trong các trường trung học; xây dựng mô hình
trường phổ thông đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá
kết quả giáo dục.
4. Kinh nghiệm đánh giá của 1 số quốc gia trên thế giới.
4.1. Kinh nghiệm KTĐG ở Nhật Bản:
Nếu nhìn vào giáo dục phổ thông ở Nhật Bản bằng con mắt của người
Việt sẽ thấy rất nhiều điểm khác biệt. Ta có thể kể ra những điểm khác biệt liên
quan đến kiểm tra, đánh giá học sinh như.
Thứ nhất, giáo viên ở Nhật không tiến hành đánh giá, xếp loại hạnh kiểm
(đạo đức) học sinh. Đối với người Nhật, chuyện đánh giá đạo đức người khác là
nhạy cảm và trong trường học, nơi học sinh được học tập để trở thành công dân
dân chủ, chuyện giáo viên - người nắm quyền lực trong tay - đánh giá đạo đức
học sinh là điều... khủng khiếp khó có thể tưởng tượng. Đơn giản vì họ quan
niệm đạo đức hay nhân cách con người khó có thể được đoán định, đánh giá chỉ
thông qua học lực và các hành vi tuân thủ hay không tuân thủ nội quy của trường
học.
Thay vào đó, giáo viên sẽ thường xuyên có những nhận xét và trao đổi với
gia đình học sinh về sự trưởng thành tâm sinh lý và các hoạt động của học sinh
trong trường học. Nếu học sinh có những điểm bất thường cần chú ý, giáo viên


sẽ gặp riêng học sinh hoặc phụ huynh để đưa ra chỉ đạo và lời khuyên. Đương
nhiên những nhận xét của giáo viên dành cho học sinh ở đây sẽ không phải là

“hạnh kiểm tốt/khá/trung bình/yếu/kém”, mà sẽ là “tuân thủ nội quy” hay “vi
phạm nội quy”, “lạc quan vui vẻ”, “cô đơn, không có bạn”, “hướng nội” hay
“hướng ngoại”...
Thứ hai, ở Nhật Bản không có thi học sinh giỏi và thông thường cũng
không công bố công khai thành tích học tập của học sinh trước toàn bộ lớp và
xếp thứ tự học sinh theo điểm số trung bình. Thành tích học tập được coi là một
dạng thông tin cá nhân và được tôn trọng. Các kỳ thi có tính chất cạnh tranh ở
Nhật Bản thường là thi đấu thể thao, sáng tạo nghệ thuật hay nghiên cứu khoa
học thay vì thi kiểm tra kiến thức các môn giáo khoa như thường thấy ở Việt
Nam.
Thứ ba, giáo viên đánh giá sự tiến bộ của học sinh không chỉ dựa vào
điểm số thu được từ các bài kiểm tra, bài tập. Lý do nằm ở chỗ mục tiêu mà giáo
dục phổ thông Nhật Bản theo đuổi là giáo dục nên công dân có phẩm chất, năng
lực phù hợp với xã hội “hòa bình”, “dân chủ” và “tôn trọng con người”. Vì vậy
khi đánh giá giáo viên phải chú ý tới cả thái độ, mối quan tâm hứng thú và các
kỹ năng của học sinh.
Bên cạnh đó, giáo viên có xu hướng chú trọng đánh giá học sinh thông
qua những sản phẩm mà các em tự tạo ra trong quá trình học tập: tranh vẽ, tập
san, các sản phẩm thủ công... Trong khi đánh giá học sinh, giáo viên Nhật cũng
có xu hướng tránh tạo ra sự so sánh hay cạnh tranh quyết liệt giữa các học sinh
trong cùng một tập thể. Thay vào đó, giáo viên luôn khuyến khích sự trao đổi,
hợp tác lẫn nhau.
4.2. Kinh nghiệm KTĐG ở Mỹ:
Kiểm tra đánh giá của giáo viên ở Mỹ đối với học sinh không phải là sự
ghi nhớ, thuộc vẹt kiến thức mà là ở sự sáng tạo, tư duy tích cực ở người học. Ở
ta thiếu câu hỏi nêu vấn đề, kích thích tư duy sáng tạo ở học sinh mà có quá
nhiều câu hỏi tái hiện, ghi nhớ máy móc như: A giữ chức vụ … ? Ai là … ? Sự
kiện .... xẩy ra lúc nào, …? A thành lập ngày tháng năm nào? Ai là chủ tịch ...?
… Hãy nêu diễn biến của … Cuộc kháng chiến, trận đánh chia làm mấy giai
đoạn,…. Qua theo dõi tôi biết đây là dạng câu hỏi đang rất phổ biến hiện nay của

kiểm tra đánh giá môn lịch sử ở nước ta.
Dạy lịch sử ở Mỹ phần kiến thức của các em, bài làm của các em có thể
lấy ở ngoài sách giáo khoa, miễn là các em có lập luận lo gic, chặt chẽ, trung
thực, có sức thuyết phục và có cái mới trong bài viết. Giáo viên tôn trọng chính
kiến của cá thể từng học sinh, kích thích tư duy sáng tạo ở các em, dạy các em


yêu lẽ phải, làm người hữu ích cho xã hội. Đây là cái chúng ta cần ở người học,
là mục tiêu của dạy học.
4.3. Kinh nghiệm KTĐG ở Phần Lan
Từ những năm 90 của thế kỉ XX, Phần Lan đẩy mạnh cải cách gióa dục.
Phương châm của cải cách là: không lấy điểm số làm thước đo học sinh. Phần
lân quan niệm: không có học sinh hay giáo viên dốt. Từ lớp một đến lớp 9, học
sinh được học chung trường, chung thầy cô. Trong quá trình dạy học, giáo dục
Phần Lan cũng có KTĐG, tuy nhiên kết quả của KTĐG không thông báo cho
học sinh để không tạo ra sức ép và sự ganh đua giữa các học sinh mà chi thông
báo kết quả cho phụ huynh và họ lấy kết quả KTĐG đó để điều chỉnh hoạt động
giáo dục.
Từ kinh nghiệm của quốc tế ta thấy: ở các nền giáo dục tiên tiến, họ đều
chú trọng đánh giá năng lực của người học. Biểu hiện:
- Chuyển từ đánh giá định kì sang cuối năm học sang đánh giá thường
xuyên, đánh giá quá trình.
- Chuyển từ đánh giá kiến thức kĩ năng sang đánh giá năng lực của người
học.
- Chuyển từ đánh giá một chiều sang đánh giá đa chiều. đánh giá cả học
sinh và đánh giá cả giáo viên. Nói cách khác là đánh giá thực.
- Chuyển từ đánh giá từ một hoạt động độc lập với quá trình dạy học sang
việc tích hợp đánh giá vào quá trình dạy học và xem nó như một phương pháp
dạy học.
- Tăng cường sử dụng công nghệ thông tin trong đánh giá làm cho kết quả

đánh giá đạt đọ tin cậy đúng giá trị thực hơn
5. Những giải pháp của mình cho việc đổi mới kiểm tra, đánh giá kết
quả học tập lịch sử của học sinh ở trường phổ thông hiện nay.
Từ thực tiễn KTĐG ở Việt Nam và kinh nghiệm KTĐG của thế giới ta có
thể rút ra những giải pháp cho việc đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
lịch sử của học sinh ở trường phổ thông hiện nay như sau:
* Đổi mới nhận thức về KTĐG môn lịch sử: Đây là yếu tố quan trọng
nhất. Nhận thức đúng về vai trò của KTĐG. Xác định đúng vị trí, vai trò, ý nghĩa
của KTĐG, xem đó là một khâu không thể thiếu để giáo viên điều chỉnh quá
trình dạy học. Quan niệm trước đây là đánh giá một chiều, quan niệm đổi mới
hiện nay là đánh giá đa chiều; Thay đổi quan niệm về vị trí, vai trò, ý nghĩa của
môn lịch sử. Trước đây lịch sử vẫn bị coi là môn phụ, môn ít quan trọng nên
không thu hút được học sinh cũng như sự chú trọng của xã hội. Quan niệm này
cần phải loại bỏ. Cần nâng cao vị trí, vai trò và ý nghĩa của bộ môn lịch sử.
* Phải thay đổi nhận thức các yếu tố của quá trình KTĐG, đổi mới các
yếu tố trong quá trình KTĐG như mục đích, nội dung, hình thức, phương pháp
KTĐG.


* Chú trọng KTĐG quá trình: là đánh giá sự tiến bộ của học sinh qua
quá trình dạy học. Gắn nội dung KTĐG với nội dung học tập, phải phù hợp với
đối tượng học sinh, phát huy tính năng lực, tích cực, chủ động, sáng tạo của học
sinh. Đánh giá phải toàn diện cả ở trên lớp và ngoài lớp. Vận dụng phối hợp linh
hoạt các hình thức và phương pháp KTĐG. Vận dụng tất cả các biện pháp vào
trong quá trình dạy học.
* Đổi mới việc ra đề, coi thi, chấm thi: Phải đổi mới ra đề thi vì đề kiểm
tra được biểu hiện thông qua hệ thống các câu hỏi, đó là công cụ đo năng lực dạy
và học của giáo viên và học sinh. Đổi mới coi thi: coi thi phải nghiêm túc, đảm
bảo sự khách quan và đánh giá đúng năng lực thực tế của học sinh. Khâu chấm
thi cũng phải nghiêm túc, thực hiện chấm chéo và chấm hai người đọc lập.

6. Phân tích một giải pháp có hiệu quả nhất.
Trong số các giải pháp trên, thì đổi mới nhận thức quan niệm về KTĐG và
bộ môn lịch sử là quan trọng nhất.
Thực tế cho thấy, môn lịch sử ở nhà trường phổ thông vẫn bị xem là
“phụ”, ít được sự quan tâm của học sinh. Nói cách khác, học sinh không thích
học môn lịch sử. Theo kết quả khảo sát sơ bộ được thực hiện trước kỳ thi tốt
nghiệp THPT năm 2014 tại một số trường THPT trên địa bàn Hà Nội, số học
sinh chọn thi môn lịch sử chiếm tỷ lệ trên dưới 10% - thấp nhất trong số các môn
thi, điều đó cho thấy nhiều HS không mặn mà với môn học này. Sự "lép vế" của
các môn khoa học xã hội nói chung, môn lịch sử nói riêng còn được thể hiện qua
các kỳ tuyển sinh ĐH hằng năm khi chỉ có khoảng 4-5% HS đăng ký dự thi khối
C.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng buồn trong việc dạy và học môn
lịch sử đã được "điểm mặt, chỉ tên", trong đó có lỗi từ nội dung chương trình,
sách giáo khoa nặng nề, hàn lâm và thiếu tính thực tiễn. Việc kiểm tra, đánh giá
học sinh ở môn lịch sử cũng bộc lộ nhiều hạn chế khi chủ yếu yêu cầu học thuộc
lòng, ít tạo cho học sinh thói quen độc lập suy nghĩ và hình thành kỹ năng.
Đến nay, ngành giáo dục không có văn bản nào quy định môn lịch sử là
môn phụ, nhưng trong thực tiễn, cách điều hành của không ít trường vô tình làm
cho môn này trở thành môn phụ. Điều đó ảnh hưởng tới việc giảng dạy của giáo
viên, việc học của học sinh và định hướng học tập cho con cái của nhiều phụ
huynh. Ngoài ra, cần phải tính đến yếu tố "đầu ra" liên quan đến môn học này,
điều có thể khiến nhiều học sinh e ngại. Thực tế cho thấy những người làm việc
ở các ngành khoa học xã hội - nhân văn nói chung thường có thu nhập không
cao, ít cơ hội phát triển hơn so với các ngành được cho là "thời thượng" như kinh
tế, tài chính, ngân hàng. Cơ hội việc làm đối với những sinh viên tốt nghiệp loại
khá, giỏi trong các ngành học thuộc khối khoa học xã hội - nhân văn cũng khá
chật vật…



Rõ ràng, có nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng dạy - học môn
lịch sử trong trường phổ thông. Quá trình "mổ xẻ" các nguyên nhân, đánh giá
thực tiễn và tìm căn cứ khoa học. Một nguyên nhân quan trọng, mà nếu giải
quyết được tận gốc khâu này thì toàn bộ các khâu sau sẽ có chuyển động tích
cực. Đó là phải thay đổi nhận thức của các cấp quản lý giáo dục, thầy cô giáo
đến cha mẹ học sinh và toàn xã hội về vai trò của môn lịch sử trong giáo dục con
người nói chung, giáo dục nhân cách thế hệ trẻ nói riêng. Nghị quyết Hội nghị
TƯ 5 (khóa VIII) chỉ rõ, để nền giáo dục phát triển bền vững, xây dựng lớp thế
hệ trẻ có đủ đức, tài thì bên cạnh các môn khoa học tự nhiên, "cần coi trọng hơn
nữa các môn khoa học xã hội và nhân văn, nhất là tiếng Việt, lịch sử, địa lý và
văn hóa Việt Nam". Thực tế, khảo sát của Hội Khoa học lịch sử Việt Nam cho
thấy, hơn 40% giáo viên cho rằng môn lịch sử chưa được coi trọng đúng với vai
trò và vị trí cần có, quan niệm "môn phụ" dẫn đến kết quả dạy và học lịch sử
chưa cao. Vì thế, giải pháp hàng đầu là phải có sự thay đổi mang tính cách mạng
về quan niệm, nhận thức đối với môn lịch sử ở cấp học phổ thông. Không có
nhận thức đúng thì tất cả những đề xuất về đổi mới nội dung, phương pháp, đội
ngũ… nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn này không thể đem lại hiệu quả
mong muốn.
Trong khi những vấn đề lớn như nội dung chương trình, sách giáo khoa…
chưa thể điều chỉnh trong ngày một ngày hai, đội ngũ giáo viên dạy lịch sử chính
là những người có thể khơi nguồn cảm hứng học lịch sử cho HS ngay khi các em
bước chân vào trường phổ thông.
Bên cạnh thay đổi quan điểm nhận thức về vị trí, vai trò, ý nghĩa của môn
lịch sử trong trường phổ thông, cũng cần phải thay đổi nhận thức về vị trí, vai
trò, ý nghĩa của KTĐG trong dạy học lich sử. Thực tế không ít giáo viên chỉ coi
KTĐG chỉ nhằm mục đích lấy điểm cho học sinh. Từ quan niệm như vậy nên họ
đã xem nhẹ vai trò của KTĐG. Thông thường, KT ĐG ở các trường phô thông
hiện nay, giáo viên chủ yếu KTĐG kiến thức mà ít khi nghĩ rằng qua bài kiểm
tra có thể đánh giá trình độ, năng lực sư phạm của giáo viên thông qua câu hỏi
kiểm tra, cũng như mức độ phù hợp với mục tiêu, nội dung giảng dạy (câu hỏi có

đạt độ tin cậy, tính giá trị không, nội dung kiểm tra đã toàn diện chưa, có đạt
mục tiêu bài kiểm tra?). Nói cách khác, giáo viên chưa chú ý đến tác động của
kết quả kiểm tra đối với việc thúc đẩy QTDH. Đây cũng chính là một trong
những nguyên nhân dẫn đến sự sa sút về chất lượng dạy học lịch sử. Thực trạng
trên đòi hổi phải nâng cao nhận thức của giáo viên, học sinh và các nhà quản lí
về vai trò, vị trí, ý nghĩa của KTĐG.
Như vậy, chúng ta muốn đổi mới KTĐG môn lịch sử ở trường phổ thông,
trước tiên phải đi từ việc thay đổi nhận thức. Yếu tố quan trọng nhất quyết định
thành công của công cuộc đổi mới KTĐG chính là yếu tố con người.
7. Soạn một chủ đề kiểm tra trong chương trình lịch sử lớp 12.


Chủ để
SỰ HÌNH THÀNH TRẬT TỰ THẾ GIỚI MỚI
SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI (1945 - 1949)
*Chuẩn kiến thức, kĩ năng, thái độ theo chương trình hiện hành
Về mặt kiến thức:
Các kiến thức học sinh cần đạt được:
- Sau chiến tranh thế giới thứ hai, một trật tự thế giới mới được hình
thành, đó là trật tự hai cực Ianta, do Mĩ và Liên Xô đứng đầu mỗi cực, thế giới
chia làm hai phe đối lập nhau. Phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu và phe
tư bản chủ nghĩa do Mĩ đứng đầu.
- Trật tự hai cực Ianta là nhân tố chủ yếu chi phối nền chính trị thế giới và
các quan hệ quốc tế nửa sau thế kỉ XX.
- Liên hợp quốc thành lập với mục đích chủ yếu là giữ gìn hòa bình, an
ninh thế giới, giải quyết các tranh chấp bằng phương pháp hòa bình.
Về mặt kĩ năng:
Rèn luyện cho học sinh kĩ năng tư duy logic, bước đầu biết khái quát,
nhận định đánh giá những vấn đề lớn của lịch sử.
Về mặt thái độ:

- Học sinh nhận thức rõ: sự tồn tại của hai phe đối lập nhau trên thế giới đã
làm cho tình hình thế giới ngày càng căng thẳng phức tạp.
- Trong thời kì chiến tranh lạnh, tình hình thế giới đã ảnh hưởng trực tiếp
đến tình hình nước ta.
*Bảng mô tả các mức yêu cầu cần đạt cho mỗi loại câu hỏi/bài tập trong
chủ đề:
Nội dung

Nhận biết

Thông hiểu

Vận dụng thấp

Vận dụng cao

Sự hình thành
trật tự thế giới
mới sau chiến
tranh:Hội nghị
Ianta.

-Trình
bày
được bối cảnh
dẫn đến việc
tổ chức Hội
nghị Ianta.
-Trình
bày

được
các
quyết
định
quan
trọng
của Hội nghị
Ianta

-Giải
thích
được vì sao
các
cường
quốc
đồng
minh lại tổ
chức Hội nghị
Ianta.
-Lý giải vì sao
Mỹ và Liên
Xô là hai
nước có nhiều
khu vưc đóng
quân và phạm
vi ảnh hưởng
nhất.

-Phân tích được
tác động của

Hội nghị Ianta
làm thay đổi
trật tự thế giới
mới sau Chiến
tranh thế giới
thứ hai.
-Chỉ được trên
bản đồ thế giới
những khu vực
nằm trong sự
phân chia phạm
vi ảnh hưởng
do thoả thuận ở
Hội nghị Ianta.

-Từ nghị quyết
của hội nghị
Ianta, liên hệ
và giải thích vì
sao các nước
đế
quốc
phương
Tây
quay trở lại
xâm lược các
thuộc địa cũ
của mình, trong
đó có Việt
Nam



Sự hình thành -Trình
bày
tổ chức Liên hoàn
được
hợp Quốc
cảnh ra đời,
mục đích và
nguyên
tắc
hoạt động của
Liên
hợp
quốc.
-Nêu được vai
trò của Liên
hiệp quốc.

-Giải
thích
được sự ra đời
của tổ chức
Liên
hợp
quốc(cần có
sự ra đời của
Liên
Hiệp
Quốc).


Sự hình thành -Nêu được các
hai hệ thống sự kiện dẫn
xã hội đối lập đến sự hình
thành hai hệ
thống xã hội
đối lập.
-Nêu
được
những
biểu
hiện của sự
đối đầu giữa
hai khối.

-Lí giải được
sự hình thành
hai hệ thống
xã hội đối lập

-Phân tích được
vai trò của Liên
hợp quốc đối
với việc giữ gìn
hòa bình và an
ninh trên thế
giới.

Đánh giá vai
trò, thành phần

của Hội đồng
Bảo an Liên
họp quốc trong
việc giữ gìn
hòa bình hiện
nay.

* Định hướng năng lực cần hình thành:
- Năng lực chung: Giải quyết vấn đề, sử dụng ngôn ngữ, sáng tạo.
- Năng lực chuyên biệt: Tái tạo kiến thức, xác định mối quan hệ giữa các
sự kiện, hiện tượng lịch sử, nhận xét, đánh giá, quan sát bản đồ.
8. Soạn một đề kiểm tra môn Lịch sử ở lớp 12 trong phân phối
chương trình theo tinh thần đổi mới.
* Hệ thống câu hỏi/bài tập đánh giá theo các mức đã mô tả:
I - Trắc nghiệm: Khoanh tròn chỉ một chữ cái in hoa trước câu trả lời
đúng.
1. Hội nghị lanta diễn ra trong bối cảnh lịch sử nào?
A. Chiến tranh Thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc.
B. Chiến tranh Thế giới thứ hai đang ở giai đoạn đầu.
C. Chiến tranh Thế giới thứ hai đang diễn ra ác liệt.
D. Chiến tranh Thế giới thứ hai đã kết thúc.
2. Vấn đề quan trọng và cấp bách nhất đặt ra cho các cường quốc Đồng
minh tại Hội nghị Ianta là
A. nhanh chóng đánh bại hoàn toàn chủ nghĩa phát xít.
B. tổ chức lại thế giới sau chiến tranh và phân chia thành quả chiến thắng
giữa các nước thắng trận .
C.khôi phục nền kinh tế.
D. giải quyết vấn đề các nước phát xít bại trận.
3. Nội dung nào sau đây không phải là quyết định của Hội nghị Ianta?



A. Tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít Đức và chủ nghĩa quân phiệt Nhật.
B. Thành lập tổ chức Liên hợp quốc.
C. Hình thành khối đồng minh chống phát xít.
D. Thỏa thuận khu vực đóng quân và phân chia khu vực ảnh hưởng.
4. Theo thỏa thuận của các cường quốc đồng minh tại Hội nghị Ianta, ở
châu Ấu, quân đội Liên Xô sẽ chiếm đóng và kiếm soát
A. các nước Đông Âu và Đông Đức.
B. các nước Đông Âu, Đông Đức và Đông Beclin.
C. các nước Đông Âu và Đông Beclin.
D. các nước Đông Âu, Đông Đức và Phần Lan.
5. Nội dung nào sau đây không phải là mục đích của tổ chức Liên hợp
quốc?
A. Duy trì hòa bình, an ninh thế giới, phát triển các mối quan hệ hợp tác.
B. Bình đẳng về chủ quyền của các quốc gia.
C. Không can thiệp vào công việc nội bộ công việc của bất kỳ nước nào?
D. Tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít.
6. Cơ quan giữ vai trò trọng yếu hàng đầu của Liên hợp quốc trong viêc
duy trì hòa bình và an ninh thế giới là
A. Đại hội đồng. B. Hội đồng Bảo an.
C. Ban Thư ký.
D. Hội đồng Kinh tế và Xã hội.
7. Những sự kiện nào sau đây không nằm trong quá trình hình thành
hai hệ thống xã hội đối lập?
A. Tháng 9 năm 1949, nước Cộng hoà liên bang Đức ra đời.
B. Tháng 10 năm 1949, nước Cộng hoà Dân chủ Đức được thành lập.
C. Từ năm 1947, Mỹ thực hiện “kế hoạch phục hung Châu Âu”.
D. Từ năm 1946- 1950, Liên Xô thực hiện kế hoạch năm năm khôi phục
kinh tế.
II - Tự luận.

Nội dung

Câu hỏi nhận
biết

Câu hỏi
thông hiểu

Câu hỏi vận
dụng thấp

Câu hỏi vận
dụng cao

Sự hình thành
trật tự thế giới
mới sau chiến
tranh:Hội nghị
Ianta.

1-Trình bày
bối cảnh dẫn
đến việc tổ
chức Hội nghị
Ianta?
2-Trình bày
các quyết định
quan
trọng
của Hội nghị

Ianta?

3-Vì sao các
cường quốc
đồng minh lại
tổ chức Hội
nghị Ianta?
4-Vì sao Mỹ
và Liên Xô là
hai nước có
nhiều khu vưc
đóng quân và
phạm vi ảnh
hưởng nhất?

5-Anh(chị) hãy
phân tích tác
động của Hội
nghị Ianta làm
thay đổi trật tự
thế giới mới
sau Chiến tranh
thế giới thứ hai
như thế nào.
6-Anh(chị) hãy
chỉ trên bản đồ
thế giới những

7-Từ
nghị

quyết của hội
nghị Ianta, hãy
liên hệ và giải
thích vì sao các
nước đế quốc
phương
Tây
quay trở lại
xâm lược các
thuộc địa cũ
của mình, trong
đó có Việt


khu vực nằm Nam?
trong sự phân
chia phạm vi
ảnh hưởng do
thoả thuận ở
Hội nghị Ianta.
Sự hình thành 8-Anh (chị)
tổ chức Liên trình bày hoàn
hợp Quốc
cảnh ra đời,
mục đích và
nguyên
tắc
hoạt động của
Liên
hợp

quốc.
9-Vai trò của
Liên
hiệp
quốc là gì?

-

10-Vì sao các
nước
Đồng
minh
thống
nhất thành lập
tổ chức Liên
hiệp quốc?

11-Phân
tích
vai trò của Liên
hợp quốc đối
với việc giữ gìn
hòa bình và an
ninh trên thế
giới.

12-Hãy đánh
giá vai trò,
thành phần của
Hội đồng Bảo

an Liên họp
quốc trong việc
giữ gìn hòa
bình hiện nay.

Sự hình thành 13-Anh (chị) 15-Anh ( chị)
hai hệ thống hãy trình bày hãy lí giải sự
xã hội đối lập các sự kiện hình thành hai
dẫn đến sự hệ thống xã
hình thành hai hội đối lập sau
hệ thống xã Chiến tranh
hội đối lập.
Thế giới thứ
14-Sự đối đầu hai.
giữa hai khối
Đông – Tây
được
biểu
hiện như thế
nào?
• Đáp án câu hỏi:
- Đáp án câu hỏi trắc nghiệm:
Câu hỏi
1
2
3
4
5
6
7

Đáp án
A
B
C
B
D
B
D
đúng
- Đáp án câu hỏi phần tự luận:
Câu 1: Bối cảnh hội nghị Ianta: Chiến tranh thế giới thứ hai sắp kết thúc đặt ra
nhiều vấn đề cần giải quyết:
Nhanh chóng đánh bại hoàn toàn các nước phát xít;
Tổ chức lại thế giới sau chiến tranh;
Phân chia thành quả chiến tranh giữa các nước thắng trận.
Do vậy từ 04 – 11/2/1945 nguyên thủ ba nước đã họp hội nghị tại Ianta (Liên
Xô) để giải quyết những vấn đề trên.
Câu 2: Các quyết định quan trọng của hội nghị Ianta:
Các nước thống nhất


-

-

-

-

Thống nhất mục tiêu chung là tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít Đức-Nhật,

trong thời gian từ 2 đến 3 tháng sau khi đánh bại nước Đức phát xít, Liên Xô
tham gia chiến tranh chống Nhật ở châu Á
Thành lập tổ chức Liên hợp quốc nhằm duy trì hòa bình, an ninh thế giới.
Thỏa thuận về việc đóng quân tại các nước nhằm giải giáp quân đội phát xít và
phân chia phạm vi ảnh hưởng ở Châu Âu, Châu Á.
Ở Châu Âu: Quân đội Liên chiếm đóng Đông Đức, Đông Béclin và các nước
Đông Âu; Quân đội Anh, Pháp, Mỹ chiếm đóngTây Đức, các nước Tây Âu; Hai
nước Áo và Phần Lan trở thành những nước trung lập.
Châu Á: Giữ nguyên trạng Mông Cổ; Trả lại cho Liên Xô miền Nam đảo
Xakhalin, Liên Xô chiếm 4 đảo thuộc quần đảo Curin; Quân đội Mỹ chiếm đóng
Nhật Bản; Ở bán đảo Triều Tiên, hồng quân Liên Xô chiếm đóng miền Bắc và
quân đội Mỹ chiếm đóng miền Nam; Trung Quốc cần trở thành một quốc gia
thống nhất và dân chủ; Các vùng còn lại của Châu Á vẫn thuộc phạm vi ảnh
hưởng của các nước phương Tây..
Câu 3: Các nước đồng minh tổ chức hội nghị Ianta vì:
Thứ nhất: giải quyết 3 vấn đề cấp bách ( câu 1);
Thứ hai: Các vấn đề được giải quyết liên quan đến quyền lợi của các nước.
Những vấn đề đó cần được giải quyết sớm trước khi nảy sinh những mâu thuẫn
mới sẽ khó giải quyết.
Câu 4: Mỹ và Liên Xô là hai nước có nhiều khu vực đóng quân và phạm vi ảnh
hưởng nhất vì:
Mỹ và Liên Xô có tiềm lực kinh tế, chính trị, quân sự mạnh nhất trong số các
nước đống minh;
Là hai nước có đóng góp nhiều nhất trong các nước đồng minh chống phát xít;
Câu 5: Phân tích tác động của Hội nghị Ianta làm thay đổi trật tự thế giới mới
sau Chiến tranh thế giới thứ hai
Hội nghị Ianta là khuôn khổ của một trật tự thê giớ mới: Trật tự hai cực Ianta mà
ở đó, Mỹ và Liên Xô là hai cường quốc đứng đầu hai cực đối đầu nhau.
Theo như những quyết nghị của hội nghị Ianta:
+ Ở Châu Âu: Quân đội Liên chiếm đóng Đông Đức, Đông Béclin và các nước

Đông Âu; Quân đội Anh, Pháp, Mỹ chiếm đóngTây Đức, các nước Tây Âu; Hai
nước Áo và Phần Lan trở thành những nước trung lập.
+ Châu Á: Giữ nguyên trạng Mông Cổ; Trả lại cho Liên Xô miền Nam đảo
Xakhalin, Liên Xô chiếm 4 đảo thuộc quần đảo Curin; Quân đội Mỹ chiếm đóng
Nhật Bản; Ở bán đảo Triều Tiên, hồng quân Liên Xô chiếm đóng miền Bắc và
quân đội Mỹ chiếm đóng miền Nam; Trung Quốc cần trở thành một quốc gia
thống nhất và dân chủ; Các vùng còn lại của Châu Á vẫn thuộc phạm vi ảnh
hưởng của các nước phương Tây…


-

Ba cường quốc Liên Xô, Mỹ, Anh tham gia cuộc chiến tranh chống phát
xít đều nhằm thực hiện những mục tiêu gắn với lợi ích của giai cấp cầm quyền
và những lợi ích dân tộc của mỗi nước. Cũng vì thế Hội nghị Ianta trở thành Hội
nghị thực hiện những mục tiêu chiến tranh của mỗi nước thành viên, hay nói
cách khác, Hội nghị để tranh giành, phân chia thành quả cuộc chiến tranh chống
phát xít tương ứng với so sánh lực lượng, vị trí, đóng góp của mỗi nước trong
cuộc chiến tranh. Do vậy, hội nghị đã diễn ra rất gay go, quyết liệt.
Những quyết định của Hội nghị Ianta đã tạo ra một khuôn khổ để phân
chia lại phạm vi ảnh hưởng và thiết lập một trật tự thế giới mới sau chiến
tranh.Việc phân chia phạm vi ảnh hưởng và thiết lập trật tự thế giới mới đó chủ
yếu được thực hiện và định đoạt bởi hai siêu cường đại diện cho hai chế độ chính
trị đối lập nhau là Liên Xô (XHCN) và Mỹ (TBCN).
Câu 6: Chỉ trên bản đồ thế giới những khu vực nằm trong sự phân chia phạm vi
ảnh hưởng do thoả thuận ở Hội nghị Ianta.
Học sinh căn cứ vào nội dung của hội nghị Ianta về phân chia khu vực
đóng quân và phạm vi ảnh hưởng để phân thế giới thành 02 phần (có thể tô 02
màu khác nhau cho 02 phần) gồm:
+ Phần 01: Liên xô và khu vục ảnh hưởng của Liên xô (Đông Đức, Đông

Béclin và các nước Đông Âu, Nam đảo Xakhalin, Liên Xô chiếm 4 đảo thuộc
quần đảo Curin, Bắc triều Tiên)
+ Phần 2: Mỹ và khu vực ảnh hưởng của Mỹ (Tây Đức, các nước Tây Âu,
Nhật Bản, nam Triều Tiên)
Câu 7: Liên hệ và giải thích vì sao các nước đế quốc phương Tây quay trở lại
xâm lược các thuộc địa cũ của mình, trong đó có Việt Nam:
Căn cứ vào nghị quyết hội nghị Ianta thì các khu vực còn lại của Châu á
(Tây Á, Nam Á, Đông Nam Á)vẫn thuộc phạm vi ảnh hưởng của các nước
phương Tây. Điều đó có nghĩa là các nước này trước Chiến tranh thế giới thứ hai
là thuộc địa của các đế quốc phương Tây nào thì sau Chiến tranh thế giới thứ hai
vãn thuộc phạm vi ảnh hưởng của đế quốc đó. Vì vậy sau Chiến Tranh thế giới
thứ hai các nước đế quốc phương Tây quay trở lại xâm lược các thuộc địa cũ của
mình. Việt Nam trước Chiến tranh là thuộc địa của Pháp, do vậy sau Chiến tranh
thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta.
Câu 8: Hoàn cảnh ra đời, mục đích và nguyên tắc hoạt động của Liên hợp quốc.
Hoàn cảnh: Từ ngày 25/4 đến 26/6/1945, một Hội nghị quốc tế lớn đã được triệu
tập tại San Phranxixcô (Mỹ) với sự tham gia của đại biểu 50 nước để thông qua
bản Hiến chương và tuyên bố thành lập tổ chức Liên hợp quốc. Ngày
24/10/1945, với sự phê chuẩn của Quốc hội các nước thành viên, bản Hiến
chương chính thức có hiệu lực,


-

-

Mục đích: Duy trì hòa bình và an ninh thế giới, phát triển các mối quan hệ hữu
nghị giữa các dân tộc và tiến hành hợp tác quốc tế giữa các nước trên cơ sở tôn
trọng nguyên tắc bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc
Nguyên tắc hoạt động:

+ Bình dẳng chủ quyền giữa các quốc gia và quyền tự quyết của các dân tộc.
+Tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của tất cả các nước.
+Không can thiệp vào công việc nội bộ của bất kỳ nước nào.
+Giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình.
+ Chung sống hòa bình và sự nhất trí giữa năm nước lớn (Liên Xô, Mỹ, Anh,
Pháp và Trung Quốc).
Câu 9: Vai trò của Liên hiệp quốc:
- Liên hợp quốc đã trở thành một diễn đàn quốc tế vừa hợp tác, vừa đấu tranh
nhằm duy trì hòa bình và an ninh tế giới.
- Thúc đẩy việc giải quyết các vụ tranh chấp, xung đột khu vực.
- Thúc đẩy các mối quan hệ hữu nghị và hợp tác quốc tế.
- Giúp đỡ các dân tộc về kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, nhân đạo..
Câu 10: Các nước Đồng minh thống nhất thành lập tổ chức Liên hiệp quốc vì:
Mục đích thành lập Liên hiệp quốc không chỉ để thực hiện duy trì hòa bình
và an ninh thế giới, phát triển các mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc và tiến
hành hợp tác quốc tế giữa các nước và thực hiện vai trò thúc đẩy việc giải quyết
các vụ tranh chấp, xung đột khu vực, thúc đẩy các mối quan hệ hữu nghị và hợp
tác quốc tế,giúp đỡ các dân tộc về kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, nhân đạo.. mà
Liên hiệp quốc còn làm nhiệm vụ bảo vệ trật tự thế giới mới, tức bảo vệ quyền
lợi của các nước thắng trận.
Câu 11: Phân tích vai trò của Liên hợp quốc đối với việc giữ gìn hòa bình và an
ninh trên thế giới.
Vai trò to lớn nhất của liên hiệp quốc là giữ gìn hoà bình và an ninh thế giới.
Vai trò này được thể hiện như: chống khủng bố, chống sử dụng vũ khí hạt nhân,
vũ khí nhiệt hạch, giải quyết tranh chấp quốc tế, chống xâm lược, giải quyết các
cuộc xung đột quốc tế, xét xử tội phạm chiến tranh…
Câu 12: Đánh giá vai trò, thành phần của Hội đồng Bảo an Liên họp quốc trong
việc giữ gìn hòa bình hiện nay:
HĐBA gồm 15 thành viên. Năm thành viên thường trực là Trung Hoa,
Pháp, Nga, Anh và Hoa Kỳ. Mười thành viên không thường trực do ĐHĐ bầu ra

với nhiệm kỳ 2 năm được phân bổ theo khu vực địa lý
Trong lĩnh vực duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, HĐBA có chức năng,
quyền hạn chính như sau: Giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế. Hành động
trong trường hợp hòa bình bị đe dọa, bị phá hoại hoặc có hành vi xâm lược. Tiến
hành các hoạt động GGHB. Tiến hành các hoạt động thực tế nhằm chống khủng
bố quốc tế. Ngoài những chức năng, quyền hạn cơ bản nêu trên, với tư cách là cơ


quan hành động của LHQ, HĐBA còn có những đóng góp không nhỏ đối với
chương trình giải trừ quân bị. Hoạt động đó của HĐBA đã góp phần tăng cường
lòng tin giữa các nước, làm giảm căng thẳng về an ninh và duy trì ổn định chiến
lược quốc tế.
Câu 13: Các sự kiện dẫn đến sự hình thành hai hệ thống xã hội đối lập:
Những năm 1945-1949, các nước Đông Âu lần lượt hoàn thành cuộc cách
mạng Dân chủ nhân dân và bước vào thời kỳ xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân Đông Âu hợp tác ngày càng chặt chẽ về
chính trị, kinh tế, quân sự....Năm 1949, Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) thành
lập
Sau chiến tranh, Mỹ đề ra kế hoạch "Phục hưng Châu Âu" nhằm viện trợ các
nước Tây Âu, khôi phục kinh tế tăng cường ảnh hưởng và sự khống chế của Mỹ
đối với các nước này.
Ở nước Đức, năm 1949, hai nhà nước đối lập nhau về chính trị ra đời: CHDC
Đức (Đông Đức) và CHLB Đức (Tây Đức).
Câu 14: Sự đối đầu giữa hai khối Đông – Tây được biểu hiện:
Về chính trị: - Khối Đông do Liên Xô đứng đầu đi theo con đường XHCN.
-Khối Tây, do Mỹ đứng đầu đi theo con đường TBCN,
Về kinh tế: - Các nước XHCN và Liên Xô thực hiện nền kinh tế kế hoạch, tập
trung, thành lập Hội đồng tương trợ kinh tế để giúp đỡ nhau phát triển.
- Các nước TBCN và Mỹ thực hiện nền kinh tế thị trường, trong đó
các nước Tây Âu được Mỹ giúp đỡ qua kế hoạch “phục hưng Châu Âu” của Mỹ.

Về quân sự: Liên Xô Đông Âu thành lập khối hiệp ước Vacxava nhằm mục đích
bảo vệ hoà bình, an ninh các nước thành viên.
- Mỹ và các nước Tây Âu cũng thành lập khối hiệp ước quân sự bắc
đại tây dương (NATO).
Câu 15: Lí giải sự hình thành hai hệ thống xã hội đối lập sau Chiến tranh Thế
giới thứ hai.
Sự ra đời của hai hệ thống xã hội đối lập sau chiến tranh thế giớ thứ hai là tất
yếu bởi: Hội nghị Ianta đã chia thế giới thành hai cực với hai vùng ảnh hưởng
của Liên Xô và Mỹ. Vì vậy, những vùng chịu ảnh hưởng của Liên Xô thì sẽ đi
theo con đường XHCN; ngược lại, những vùng chịu ảnh hưởng của Mỹ thì sẽ đi
theo con đường TBCN. Sự mâu thuẫn về chính trị, xã hội sẽ kéo theo những mâu
thuẫn về kinh tế, quân sự…Vì vậy sẽ hình thành nên hai hệ thống xã hội đối lập
nhau.



Gợi ý tổ chức dạy học.
Nội dung

Phương pháp, kỹ

Hình thức tổ chức


Sự hình thành trật tự
thế giới mới sau chiến
tranh:Hội nghị Ianta.
Sự hình thành tổ chức
Liên hợp Quốc
Sự hình thành hai hệ

thống xã hội đối lập

thuật dạy học
Phương pháp trao đổi
đàm thoại;
Kỹ thuật khăn trải bàn
Phương pháp trao đổi
đàm thoại;
Tìm tòi nghiên cứu
Trao đổi đàm thoại

dạy học
Làm việc tập thể và
làm việc nhóm.
Làm việc tập thể
Làm việc tập thể

III. KẾT LUẬN
Kiểm tra, đánh giá là khâu rất quan trọng trong quá trình dạy và học. Khoa
học về KTĐG của thế giới đã có bước phát triển mạnh mẽ cả về lý luận và thực
tiễn, trong khi ở Việt Nam ngành GD chỉ mới quan tâm trong những năm gần
đây. Đổi mới KTĐG theo hướng tiếp cận năng lực học sinh là một yêu cầu cấp
thiết để nâng cao chất lượng GD nói chung và đáp ứng yêu cầu đổi mới chương
trình GDDPT sau năm 2015.
Việc kết hợp giữa kiểm tra đánh giá của giáo viên, học sinh là nhằm thực
hiện đổi mới phương pháp dạy học, phát huy vai trò chủ động, tích cực của học
sinh, động viên khích lệ các em tham gia vào quá trình tự kiểm tra, đánh giá mức
độ nhận thức của mình. Đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
của học sinh có ý nghĩa to lớn góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn
lịch sử. Vì vậy, đây là yêu cầu cần thiết của mỗi giáo viên dạy lịch sử hiện nay.

Hiện nay, để đáp ứng yêu cầu phát triển về giáo dục và đào tạo, phương
pháp dạy học môn lịch sử cũng được thay đổi nhiều. Việc kiểm tra, đánh giá học
sinh cần phải có những điều chỉnh mang tính khách quan và chính xác để tạo
điều kiện để mỗi học sinh bộc lộ thực chất khả năng và trình độ của mình, đó là
một trong những con đường có hiệu quả nhất nhằm phát huy tối đa tính năng
động của học sinh, tạo điều kiện cho học sinh có thời cơ khám phá, phát hiện tri
thức mới, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng dạy học lịch sử ở trường
THPT.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. GS. TS Phan Ngọc Liên, Phương pháp dạy học lịch sử, NXB Đại học
sư phạm, 2010.
2. PGS.TS. Trịnh Đình Tùng, Đổi mới phương pháp dạy học lịch sử, NXB
Đại Học Quốc gia.
3. Nguyễn Đình Lễ, Đổi mới việc dạy học lịch sử lấy “ học sinh làm trung
tâm”, NXB Đại học sư phạm, 1996.
4. Mục tiêu giáo dục và kế hoạch hóa sự đánh giá, Viện nghiên cứu Đại
học và giáo ducjchuyeen nghiệp, Hà Nội, 1991.



×