Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN MÔN HỌC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.07 KB, 22 trang )

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN
MÔN HỌC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Họ và tên học viên: DIỆP HUỲNH NGỌC HƯƠNG
Lớp: H605
NỘI DUNG
CÂU 1. Đồng chí hãy phân tích một yếu tố tạo ra nguồn lực phát triển
thành phố Hồ Chí Minh và liên hệ thực tiễn địa phương, cơ quan đơn vị
công tác?
A. CHỦ ĐỀ: Nguồn lực phát triển của Thành phố Hồ Chí Minh
B. TRỌNG TÂM VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:

Yếu tố tạo ra nguồn lực phát triển Thành phố Hồ Chí Minh.
Hơn 300 năm xây dựng và trưởng thành, thành phố HCM đã từng bước thay da
đổi thịt, mang tầm vóc của một thành phố có nền kinh tế phát triển nhất cả nước,
là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa lớn. để có được vị thế như ngày hôm nay,
thành phố HCM hội tụ 6 yếu tố quan trọng đối với sự phát triển của thành phố
trong đó yếu tố nổi bật tạo ra nguồn lực phát triển Sài Gòn – TP HCM chính là:
Con người – Nguồn nhân lực. Đây chính là yếu tố thuận lợi, tiềm năng, là thế
mạnh tác động đến sự phát triển của Thành phố HCM.
a. Đăc điểm: Tp.HCM là đô thị có nguồn nhân lực tập trung, dồi dào, phong
phú, đa dạng và chất lượng cao. Lực lượng lao động của Thành phố bao gồm cả
lao động phổ thông và lao động có trình độ chuyên môn tay nghề cao, lao động
chất xám chiếm tỉ lệ rất lớn trong cả nước. Đây là sức mạnh phát triển , là nguồn
vốn quý báu của Thành phố Hồ Chí Minh.
Con người - nguồn nhân lực Thành phố Hồ Chí Minh có sức cạnh tranh rất lớn so
với các đô thị, tỉnh - thành trong cả nước. Do đó, con người - nguồn nhân lực
Thành phố có tính siêng năng, cần cù, thông minh, năng động và sáng tạo. Trong
quá trình làm việc không ngừng học tập để vươn lên.
Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm đào tạo, cung cấp nguồn
nhân lực chất lượng cao, lao động chuyên môn tay nghề giỏi… bởi một hệ thống
giáo dục – đào tạo với mạng lưới đại học, cao đẳng, dạy nghề quy mô về số


lượng, hiện đại về chất lượng và trang bị cơ sở vật chất hiện đại.
Sài Gòn – TP Hồ Chí Minh có dân số, dân cư trên hàng chục triệu dân; Trong đó,
có khoảng trên 10 triệu dân thuộc TP HCM và khoảng trên 3 triệu dân đang nhập
cư. Tỷ lệ dân số Sài Gòn – TP HCM chiếm 10% dân số cả nước.
Dân số Sài Gòn – TP HCM thuộc dân số vàng do độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ
70% (Từ 16 - 17 tuổi đến dưới 60 tuổi); GDP thành phố phát triển là nhờ vào độ
tuổi này. Tốc độ tăng dân số nhanh.
Chất lượng dân số lao động Sài Gòn – TP Hồ Chí Minh cao.
Có Năng suất, năng lực lao động cao, tạo ra sản phẩm cho cả nước. Phần lớn
được đào tạo chuyên ngành từ các Trường Trung học, Cao đẳng, Đại học ....; Đội
ngũ cán bộ - công nhân kỹ thuật có trình độ chuyên môn, tay nghề cao chiếm tỷ
lệ 40% cả nước;
Kỹ năng, thao tác điều hành, điều khiển trong quá trình lao động
Có tác phong lao động, ý thức tổ chức kỹ luật.
b.Ví trí, vai trò: Nguồn nhân lực Sài Gòn – TP Hồ Chí Minh giữ vai trò, vị trí
quyết định, thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững, liên tục, toàn diện trên tất
cả các lĩnh vực khác nhau cho Sài Gòn – TP Hồ Chí Minh, Nam bộ và cả nước;

GHI CHÚ


là tài sản vô giá, động lực phát triển của Thành phố ta.
Con người là nhân tố quan trọng nhất trong việc cải tạo môi trường, biến đất
hoang thành đồng ruộng , thành đất ở, đất xây dựng
Với dân số đông tạo cho thành phố trở thành nơi tiêu thụ lớn, thúc đẩy sự phát
triển kinh tế để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ
Con người – nguồn nhân lực thành phố được xem là tài sản quý giá, tài sản vô
giá mà thành phố ta có được. Từ đó cho thấy thành phố HCM phát triển được là
từ nguồn nhân lực mà thôi.
Chất lượng nguồn nhân lực không chỉ có vai trò quyết định đối với phát triển

kinh tế, mà chất lượng nguồn nhân lực càng cao thì sẽ dẫn đến ý thức xã hội càng
phát triển, mối quan hệ giữa người với người tốt hơn và thúc đẩy sự phát triển
nhanh của xã hội. Chính vì vậy cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng đã chỉ rõ: Con người là
nguồn lực quan trọng nhất, là nguồn lực của mọi nguồn lực, quyết định sự hưng
thịnh của đất nước. Do đó việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực luôn là quốc
sách của Việt Nam qua nhiều thời kỳ. Tại TP.HCM, Chương trình nâng cao
nguồn nhân lực giai đoạn 2011-2015 được xác định là 1 trong 6 chương trình đột
phá.
* Những giải pháp phát triển nguồn lực con người:
Các biện pháp cần làm để thúc đẩy và phát triển nguồn nhân lực của Tp.HCM
+ Đẩy mạnh đầu tư, phát triển giáo dục đào tạo:
Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho các hoạt động giáo dục: Nâng cấp trang
thiết bị, dụng cụ thí nghiệm, trang bị đầy đủ các dụng cụ học tập cải thiện và xây
dựng hệ thống trường lớp đạt chuẩn từ cấp mầm non đến bậc Đại học. Đây là
một trong những nội dung quan trọng của tiến trình đổi mới giáo dục nâng cao
chất lượng đào tạo.
Đội ngũ giáo viên: Chất lượng giáo viên phải đạt chuẩn, phải tương xứng với yêu
cầu về chất lượng, kỹ năng sư phạm, phương pháp giảng dạy kịp đổi mới, thường
xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên môn từ cấp mầm non đến các cấp phổ
thông, đại học và coi đó là trách nhiệm bản thân. Thầy cô giáo phải là người có
lòng yêu nghề, tâm huyết với sự nghiệp giáo dục; có trình độ cao, có phẩm chất
đạo đức tốt, nếp sống giản dị, khiêm tốn luôn biết tôn trọng lợi ích tập thể và
quốc gia. Cơ cấu giáo viên cân đối giữa các môn học, bậc học, vùng , miền. Nâng
dần chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ nhà giáo để đáp ứng yêu cầu
và truyền đạt lý thuyết, có khả năng phát triển tư duy, năng lực sáng tạo, kỹ năng
thực hành của người học. Tránh tình trạng giáo viên dạy kiêm nhiệm không đúng
chuyên môn đào tạo, không đảm bảo chất lượng giáo dục.
Tăng số lượng giáo viên có khả năng sử dụng thành thạo ngoại ngữ, tin học
Công tác đào tạo giáo viên phải thật sự gắn kết với nhu cầu sử dụng của từng địa

phương, vùng, miền. Công tác quy hoạch, phát triển đội ngũ giáo viên cần được
các cấp quản lý quan tâm đúng mức. Nhất là chế độ, chính sách dành cho đội ngũ
giáo viên phải hợp lý để tạo động lực đủ mạnh phát huy tiềm năng của đội ngũ
giáo viên, giảng viên.
Chương trình và nội dung mới phải sát thực tế, đáp ứng nhu cầu của XH, sát với
thực tiễn sử dụng lao động của DN. Đây cũng là một trong những yếu tố đặc biệt
quan trọng quyết định chất lượng giáo dục và đào tạo.
Đào tạo cả các cấp học từ thấp lên cao: Từ tiểu học, Phổ thông Cơ sở, Phổ thông
Trung học, Trung cấp nghề, Cao đẳng, Đại học và sau Đại học; Đào tạo những


ngành còn yếu và thiếu nhân lực.
+ Nghiên cứu, tiếp thu các biện pháp, các chương trình đào tạo tiên tiến của
nước ngoài để ứng dụng vào giáo dục Việt Nam. Đào tạo quốc tế, cử nhân lực
con người đi du học ở nước ngoài thuộc các ngành mũi nhọn. Kết hợp đào tạo
trong nước với quốc tế
+ Đào tạo con người phải đào tạo một cách toàn diện, đáp ứng trên nhiều mặt
nhất là hai mặt chính chuyên môn và đạo đức phải có phẩm chất, chính trị đạo
đức tốt.
+ Xây dựng chế độ chính sách, cơ chế đãi ngộ cho nguồn nhân lực phù hợp,
hợp lý, công bằng, bình đẳng, tiến bộ khoa học và cách mạng để phát huy nguồn
nhân lực chất lượng cao: Đời sống, lương bổng, nơi ăn, chốn ở, an sinh xã hội…
+ Xây dựng chế độ tiền lương phù hợp với giá cả thị trường
+ Mức lương, thưởng phải xứng đáng với trình độ và công sức của người lao
động
+ Bố trí công việc phù hợp với ngành nghề đào tạo
+ Phải có cơ chế thu hút người tài từ khắp nơi, thu hút Việt kiều về đầu tư
+ Xây nhà trọ, cư xá cho công nhân
+ Tạo môi trường, điều kiện làm việc ổn định, bền vững, phải có môi trường
điều kiện làm việc tốt, an toàn , thân thiện và chuyên nghiệp là một trong những

yếu tố quan trọng tạo nên hiệu quả làm việc.
Nghiên cứu các giải pháp nâng cao hiệu quả chính sách bảo hiểm thất nghiệp.
C. LIÊN HỆ BẢN THÂN – CƠ QUAN ĐƠN VỊ:
Bản thân tôi là một giáo viên dạy ở trường MNSC 4. Tôi luôn chấp hành các quy
chế, nội quy của trường – ngành.
Tích cực tham gia các đợt sinh hoạt chính trị tư tưởng do Quận và Thành phố
phát động.
Tiếp tục thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh”
Phối hợp với cha mẹ học sinh cùng quan tâm đến việc chăm sóc giáo dục trẻ
cũng như về kỹ năng sống cho trẻ…
Có ý thức tổ chức kỷ luật, thể hiện long yêu nghề, tinh thần đoàn kết, quan hệ
ứng xử mực thước với trẻ, phụ huynh, đồng nghiệp, không vi phạm pháp luật,
đạo đức nhà giáo.
Không ngừng tự học nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tin học, ngoại
ngữ, chính trị, nghệ thuật sư phạm…đáp ứng yêu cầu chuẩn nghề nghiệp của nhà
giáo để nêu gương cho học sinh.
Đổi mới phương pháp giảng dạy, ứng dụng CNTT vào bài giảng, linh hoạt xử lý
tốt các tình huống sư phạm, nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục đào tạo.
* Một số giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho đơn vị
Tiếp tục nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, lý luận chính trị cho Cán bộ
công chức, tham gia đầy đủ các lớp tập huấn nghiệp vụ. Chú trọng đổi mới tư
duy nghiên cứu giảng dạy, bồi dưỡng kỹ năng sử dụng, ứng dụng các công cụ hỗ
trợ hiện đại trong giảng dạy.
Tạo điều kiện thuận lợi cho CBCC theo học các lớp sau đại học, cử các nguồn
nhân lực đã có thâm niên công tác lâu năm đi học các lớp nghiệp vụ để tạo
nguồn, bổ sung thêm cho đội ngũ của đơn vị
Tạo điều kiện cho CBCC tham gia các khóa học thêm về anh văn, vi tính



Tiếp tục đổi mới công tác thi đua khen thưởng theo hướng thiết thực, hiệu quả,
tránh hình thức. Có những chế độ đãi ngộ, khen thưởng cho những CBCC hoàn
thành tốt nhiệm vụ.
Triển khai có hiệu quả bồi dưỡng thường xuyên giáo viên mầm non, phổ thong
và giáo dục thường xuyên nhằm nâng cao năng lực nghề nghiệp của đội ngũ theo
yêu cầu chuẩn nghề nghiệp giáo viên các cấp.
Thường xuyên đào tạo, quán triệt đến các nguồn nhân lực quản lý về phẩm chất,
đạo đức lối sống tốt, trong sáng của cán bộ quản lý nói riêng và của toàn thể
CBCC trong đơn vị nói chung.
Luôn quan tâm đến điều kiện làm việc, đời sống của cán bộ công chức, không
ngừng cải thiện trang thiết bị làm việc, giữ gìn vệ sinh môi trường, công sở văn
minh sạch đẹp.
CÂU 2. Quá trình mở đất, lập chính quyền của người Việt Nam trên đất Sài
Gòn diễn ra như thế nào? Đồng chí có suy nghĩ, nhận định như thế nào về
vấn đề này?
A. CHỦ ĐỀ: Lịch sử Sài Gòn TP.HCM.
B. TRỌNG TÂM VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Quá trình mở đất, lập chính quyền của người Việt Nam trên đất Sài Gòn

Sài Gòn Cuối thế kỷ 16 - Người Việt đến khai hoang, lập ấp
Từ thế kỉ XVI, do sự can thiệp của Xiêm, triều đình Chân Lạp bị chia rẽ sâu sắc
và dần bước vào thời kì suy vong, hầu như không có điều kiện quan tâm đến
vùng đất còn ngập nước ở phía đông. Cảnh quan ở đây chỉ là ‘những đám rừng
hoang vu đầy cỏ rậm, …” và trên thực tế đã không đủ sức quản lý vùng đất này.
Trong bối cảnh đó nhiều cư dân Việt đầu tiên được xem là cư dân bản địa của
vùng đất Đồng Nai – Bến Nghé có thể là những tộc người: Mạ, Stiêng, M’nông,
Chro,…từ đất Thuận Quảng đã vào vùng Mô Xoài, Đồng Nai – Bén Nghé (miền
Đông Nam Bộ) khai khẩn đất hoang, lập nghiệp và lập làng sinh sống xen kẽ với
cư dân bản địa.
Những người Việt này bao gồm tầng lớp bình dân là những nông dân không có

ruộng đất, bị bóc lột, tiểu thương, thủ công nghiệp, phu kéo xe, những tù nhân,
quân lính khốn khó bỏ quê hương đi tìm vùng đất mới. Và quan lại là những ông
quan thất sủng, không còn đất dụng võ từ vùng đất Đàng Trong và một bộ phận
dân cư từ Đàng Ngoài vượt biển ra đi và đặt chân lên đất Đồng Nai - Bến Nghé
tiến hành những bước đầu tiên trong công cuộc khai hoang, lập làng ở vùng Mô
Xoài (Bà Rịa – Vũng Tàu ngày nay).
Cho đến nửa cuối thế kỷ XVII, hoạt động chuyển cư tới vùng đất này đã trở
thành một “làn sóng mạnh mẽ”. Từ một vùng đất rộng bao la dưới sự cai quản
lỏng lẻo của chính quyền Chân Lạp, với bàn tay của những lưu dân người Việt,
vùng đồng bằng phương Nam được “tái khai phá, tái định cư” trở nên trù phú,
đầy sức sống. Động cơ, mục đích của người Việt đi dân vào Sài Gòn là vì kinh tế,
họ tìm vùng đất mới để làm ăn, sinh sống, tạo dựng cơ nghiệp mới. Họ lập
phường, lập chợ: sống trên sông, họp chợ trên sông, chợ Bến tàu - ngày nay là
chợ Bến Thành, chợ xóm chiếu (Quận 4) chuyên bán chiếu,…. Từ đó dân cư
đông đúc, phố chợ phát triển, giao thương hàng hóa.

Sài Gòn trong qua trình chuẩn bị lập phủ Gia định (Đầu thế kỷ 17)
Vai trò của lưu dân người Việt: Những người lưu dân Việt tiên phong đi trước
khai phá, mở mang, làm biến đổi kinh tế - xã hội, tạo ra những tiền đề quan trọng


cho các chúa Nguyễn sau này đến lập chính quyền, mở mang bờ cõi đất nước.
+ Kinh tế: phát triển các ngành nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương mại
+ Xã hội: hình thành thôn ấp, làng xã, phố phường.
Đây là 2 yếu tố chính quyết định quá trình lập chính quyền, đơn vị hành chính
- Vai trò của phong kiến họ Nguyễn: Đến sau, khôn khéo lập quan hệ ngoại giao
với Triều đình Chân Lạp. Từ đầu thế kỷ XVII trở đi, các chúa Nguyễn từng bước
chuẩn bị những cơ sở, điều kiển để chuẩn bị lập phủ Gia Định, xác lập đặt chủ
quyền trên vùng đất Đồng Nai - Bến Nghé.
+ Năm 1620, vua Chân Lạp là Chey Chetta II (Campuchia) xin cưới con gái

chúa Nguyễn Phúc Nguyên là công chúa Ngọc Vạn. Vua Chey Chetta II phong
Ngọc Vạn làm hoàng hậu Somdach. Đối với Chân Lạp, việc kết thân với chúa
Nguyễn là để dựa vào lực lượng quân sự của người Việt lúc này đang rất mạnh
nhằm làm giảm sức ép từ phía Xiêm La. Với chúa Nguyễn, quan hệ hữu hảo này
tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt, vốn đã có mặt từ trước, được tự do khai
khẩn đất hoang và làm ăn sinh sống lập hãng xưởng và buôn bán trên đất Thuỷ
Chân Lạp và tăng cường ảnh hưởng của họ Nguyễn với triều đình Oudong thúc
đẩy nhanh lập chính quyền.
+ Năm 1623, được sự đồng ý của vua Chân Lạp, chúa Nguyễn lập Trạm thuế
thương chính ở Pray Kor (Sài Gòn ngày nay (gần Cầu Kho)) được lập ngay trên
Gò Tân Khai nhìn xuống sông Bến Nghé, đây chính là con đường giao thông
thủy huyết mạch, chính thức yêu cầu triều đình Chân Lạp để cho dân Việt mở
rộng địa bàn khai phá trên những vùng đất thưa dân và quản lý. Vào thời điểm
đó cư dân việt đã có mặt ở hầu khắp miền Đông Nam Bộ và Sài Gòn.
+ Đến năm 1679, chúa Nguyễn Phúc Tần đã lập đồn dinh Tân Mỹ ở ngã tư
Cống Quỳnh - Nguyễn Trãi. Đây thực chất là một hình thức chính quyền bán
chính thức để bảo vệ, tổ chức, quản lý lưu dân người Việt. Cuối năm 1679, chúa
Nguyễn cho một nhóm người Hoa do Trần Thượng Xuyên dẫn đầu đến tỵ nạn,
họ khai phá ở vùng đất Cù lao Phố, xây dựng thương cảng đầu tiên của vùng đất
phương Nam. Nhóm người này mau chóng Việt hóa và họ có những đóng góp
đáng kể cho sự phát triển của Sài Gòn.
Như vậy, gần trọn thế kỷ 17, sau khi những người Việt đầu tiên đến khai hoang,
lập ấp, với chính sách khai khẩn đất hoang tích cực của chúa Nguyễn làm cho
Đồng Nai nhanh chóng trở thành vùng đất trù phú. Sài Gòn dần tự khẳng định
mình về vị trí trung tâm, là một thị trấn, một đầu mối giao thông, một địa điểm
chiến lược khá quan trọng với các cơ quan quân sự, hành chính, có kho Quản
Thảo, đồn thu thuế, phố chợ buôn bán, …

Thời kỳ lập chính quyền: Cuối thế kỷ 17
Có thể nói, “làng nước đi trước” dường như là đặc điểm chung cho công cuộc

khẩn hoang vùng đất Nam bộ. Sự kiện năm 1698 đã chính thức xác lập bộ máy
hành chính của các chúa Nguyễn để cai quản vùng Đồng Nai - Gia Định. Năm
1698 chính thức được lấy làm năm “khai sinh” của Đồng Nai, Sài Gòn với tư
cách là cương vực, là đơn vị hành chính thuộc quốc gia Đại Việt.
Mùa xuân năm Mậu Dần (2/1698) theo lệnh Chúa Nguyễn Phúc Chu cử Lễ
Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược. Ông thiết lập hệ thống quản
lý hành chính, tổ chức việc khai thác đất đai và ổn định trật tự xã hội. Ông “Lấy
đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long,
dựng dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn.
Mỗi dinh đặt ra chức Lưu thủ, Cai bộ và Ký lục để “giữ và chăm dân”.


Sài Gòn trở thành trung tâm hành chính, thương mại của cả vùng. Lỵ sở của Phủ
Gia Định của huyện Tân Bình đều đóng tại Phiên Trấn – Sài Gòn. Trấn phủ dinh
Phiên Trấn cũng là tri huyện Tân Bình, tri phủ Gia Định. Nguyễn Hữu Cảnh cũng
tiến hành phân chia các đơn vị hành chính cấp cơ sở như tổng, thôn, phường, ấp,
điểm, lân…
+ Ông tiến hành đăng bộ đinh, điền đưa việc quản lý hành chính vào nề nếp
chính quy, chấm dứt thời kỳ tự phát, tự quản của lưu dân.
+ Tổ chức chiêu mộ người ở miền Trung vào mở mang, khai thác vùng đất
mới…, cho phép mở mang thương mại, khuyến khích làm giàu, làm ăn lớn.
+ Về quân sự, Chúa Nguyễn cho đắp chiến luỹ kết hợp với các con sông để bố
phòng nhằm bảo vệ Sài Gòn. Đối với người Hoa Minh Hương, Chúa Nguyễn
cũng thực hiện một số chính sách đồng hoá tương đối hợp tình, hợp lý.
+ Sau khi lập Phủ Gia Định, Sài Gòn trở thành một trung tâm chính trị - hành
chính, trung tâm kinh tế thương mại của cả vùng, một chiến luỹ quân sự, có
nhiều phố chợ buôn bán, một bến cảng xuất nhập khẩu lớn, gắn bó mật thiết với
sự phát triển của toàn vùng đất phương Nam.
2. Suy nghĩ, nhận định về vấn đề mở đất, lập chính quyền của người Việt Nam
trên đất Sài Gòn

Vùng đất Nam Bộ vốn là một địa bàn giao tiếp và đã từng có nhiều lớp cư dân
đến khai phá. Vào khoảng đầu công nguyên, cư dân vùng đất này đã xây dựng
nên nhà nước Phù Nam. Trong thời kỳ phát triển nhất vào khoảng thế kỷ V-VI,
Phù Nam đã mở rộng ảnh hưởng và trở thành một đế chế rộng lớn với nhiều
thuộc quốc phân bố ở phía nam bán đảo Đông Dương và bán đảo Malaca. Vào
thế kỷ VII đế chế Phù Nam tan rã, nước Chân Lạp của người Khmer, vốn là một
trong những thuộc quốc của Phù Nam ở vùng Tongle Sap đã tấn công đánh chiếm
vùng hạ lưu sông Mêkông (tương đương với vùng đất Nam Bộ ngày nay).
Tuy nhiên, trong suốt thời gian gần 10 thế kỷ vùng đất Nam Bộ không được cai
quản chặt chẽ và gần như bị bỏ hoang. Từ cuối thế kỷ XVI và đặc biệt là đầu thế
kỷ XVII, dưới sự bảo hộ của các chúa Nguyễn người Việt đã từng bước khai phá
vùng đất này. Người Việt đã nhanh chóng hoà đồng với các cộng đồng cư dân tại
chỗ và những cư dân mới đến (người Hoa) cùng nhau mở mang, phát triển Nam
Bộ thành một vùng đất trù phú. Cũng từ đây người Việt là cư dân chủ thể và thực
sự quản vùng đất này. Từ đó đến nay chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam đã được
khẳng định không chỉ bằng thực tế lịch sử mà còn trên các văn bản có giá trị
pháp lý được cộng đồng quốc tế thừa nhận.
Trong suốt ba thế kỷ với biết bao thăng trầm của lịch sử, nhiều thế hệ người Việt
Nam (với ý nghĩa cộng đồng đa dân tộc) đã đổ biết bao công sức để xây dựng và
bảo vệ vùng đất Nam Bộ không đơn thuần chỉ là vấn đề lãnh thổ mà cao hơn thế,
còn là vùng đất của những giá trị thiêng liêng.
C. LIÊN HỆ BẢN THÂN – CƠ QUAN ĐƠN VỊ:
Vùng đất Sài gòn trước đây là vùng đất hoang sơ, nhiều tranh chấp, trải qua quá
trình khai hoang, đấu tranh giành chính quyền và qua tìm hiểu, phân tích quá
trình mở đất và lập chính quyền của người Việt Nam trên đất Sài Gòn, chúng ta
thấy TP.HCM là một trung tâm lớn về mọi mặt của cả miền Nam nói riêng và của
cả nước Việt Nam nói chung, chúng ta càng cảm thấy tự hào về ý thức, ý trí tinh
thần vượt qua bao khó khăn, thử thách, sáng tạo của cha ông đã đổ bao xương
máu để gầy dựng và bảo vệ mảnh đất này. Sự quyết tâm khai phá của ông cha ta
thời xưa đi xa để lập nghiệp dù phải vượt qua bao nhiêu khó khăn, gian khổ để



khai phá những vùng đất rừng thiêng nước độc, quá trình di cư của người Việt
vào Sài Gòn đã tạo ra đặc trưng riêng biệt của người Việt Nam. Chính những
điều kiện tự nhiên ở đây đã làm cho người Sài Gòn có khả năng tiếp thu những
cái hay về văn hóa - kinh tế của các dân tộc.
Chúng ta cũng thấy được sự quan tâm của các lưu dân người Việt đến từ nhiều
vùng miền trên cả nước, của biết bao nhiêu người miền Nam đến với vùng đất
“lành” Sài Gòn – Tp.HCM, đã đóng góp những thành quả lao động để xây dụng
nền một thành phố HCM đứng đầu về kinh tế, là trung tâm chính trị lớn của quốc
gia.
Là người con của vùng đất Sài Gòn – TP HCM, đối với bản thân là một nhà giáo
tôi thấy rõ trách nhiệm của mình trong việc bảo tồn và phát huy những gì mà ông
cha ta để lại, để góp phần xây dựng và phát triển thành phố Sài Gòn nói riêng và
cả nước nói chung tôi luôn cố gắng hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, luôn
trung thực, gương mẫu và hoàn thiện bản thân hằng ngày, việc định hướng nhân
cách cho trẻ là việc làm hết sức quan trọng và càn thiết. Hiểu vấn đề đó nên tôi
luôn trau dồi thêm kiến thức cho bản thân, đề ra phương pháp học tập, tiếp thu
những kiến thức về mọi mặt, hiểu biết, chắt lọc tinh hoa những thông tin cần và
đúng để nâng cao năng lực chuyên môn và ra sức phấn đấu nhiều hơn, vươn lên
trong thời kỳ đất nước đổi mới, thời kỳ Công nghiệp hoá – Hiện đại hoá đất
nước.
+ Thực hiện việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
+ Tích cực tham gia các họat động do cơ quan, công đoàn phát động, luôn
quan tâm và giúp đỡ hỗ trợ lẫn nhau trong công việc và cuộc sống cùng các bạn
đồng nghiệp trong trường.
+ Chỉ có học tập, trau dồi kiến thức, nâng cao năng lực chuyên môn, lý luận
chính trị vững vàng mới có một tinh thần vượt trội trong thực tế, cùng đồng
nghiệp tích cực trao đổi học tập nhằm mục tiêu góp phần nhỏ bé của mình vào
cơ quan nói riêng và cả thành phố nói chung phát triển vượt bật, và có khả năng

đóng góp cho Thành phố ngày càng xứng đáng hơn với vị trí vai trò trung tâm,
đầu tàu, là động lực thúc đẩy nhanh đất nước sớm trở thành một nước công
nghiệp hiện đại, sánh vai cùng với các cường quốc trên thế giới..
CÂU 3. Đồng chí hãy phân tích, đánh giá một đặc điểm nổi bật của Đảng bộ
thành phố Hồ Chí Minh? Liên hệ thực tiễn với Đảng bộ địa phương, cơ
quan, đơn vị công tác?
A. CHỦ ĐỀ: Lịch sử Đảng Bộ Thành phố Hồ Chí Minh.
B. TRỌNG TÂM VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:

Đặc điểm lịch sử Đảng bộ Tp.HCM
Trong lịch sử Đảng Bộ TPHCM từ năm 1930 đến nay (84 năm) đã trải qua
03 thời kỳ với 12 điểm nổi bật trong vai trò lãnh đạo cách mạng của mình:
a/ Thời kỳ 1: 15 năm Đảng bộ thành phố lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành
chính quyền cách mạng ( 1930-1945) có 04 điểm nổi bật:
Điểm nổi bật 1: Đảng bộ thành phố được thành lập vào tháng 03/1930
Điểm nổi bật 2: Đảng bộ thành phố là cơ sở, chỗ dựa cho Trung ương Đảng
Điểm nổi bật 3: Đảng bộ thành phố và nhân dân thành phố giữ vai trò hạt nhân
chính trị, trung tâm của cả nước
Điểm nổi bật 4: Đảng bộ thành phố góp phần thắng lợi của Cách mạng tháng
Tám ở Sài Gòn Nam bộ


b/ Thời kỳ 2: Thời kỳ tham gia sự nghiệp chiến tranh cách mạng chống thực
dân Pháp, đế quốc Mỹ ( 1945- 1975) có 04 điểm nổi bật:
Điểm nổi bật 1: Đảng bộ thành phố lãnh đạo nhân dân đi trước, mở đầu cho cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai
- Điểm nổi bật 2: Hoàn thành vai trò là “ chiến trường phối hợp” với chiến
trường chính ở Việt Bắc để đánh tan thực dân Pháp
- Điểm nổi bật 3: Đảng bộ thành phố lãnh đạo nhân dân hoàn thành vai trò “
chiến trường chiến lược”, địa bàn trọng điểm quyết định thành bại trên cả chiến

trường miền Nam
- Điểm nổi bật 4: Về sau cùng với đại thắng mùa xuân 30/4/1975 với chiến
dịch Hồ Chí Minh lịch sử
c/ Thời kỳ 3: 40 năm xây dựng đổi mới, phát triển ( từ 1975 đến nay) có 04
điểm nổi bật:
- Điểm nổi bật 1: Thành phố luôn giữ vững ổn định chính trị, trật tự xã hội
- Điểm nổi bật 2: Thành phố là trung tâm kinh tế hàng đầu đất nước, đầu tư
kinh tế quốc gia
- Điểm nổi bật 3: Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân
- Điểm nổi bật 4: Xây dựng củng cố hệ thống chính trị vững mạnh, hoàn thiện
* Qua 12 điểm nổi bật trên của Đảng Bộ thành phố tôi phân tích điểm
nổi bật: Đảng bộ thành phố là cơ sở, chỗ dựa cho Trung ương Đảng
- Sài Gòn là một trung tâm lớn, là đô thị lớn phát triển, là nơi tập trung đông dân
cư, là thủ phủ của Liên bang Đông Dương, là “ hòn ngọc Viễn Đông”
- Sài Gòn có điều kiện hoạt động Cách mạng hiệu quả mà những nơi khác không
có được vì Sài Gòn có những điều kiện hết sức thuận lợi đó là:
+ Có Đảng bộ thành phố: đảng bộ thành phố là một đảng bộ lớn, số đảng viên
đông, tổ chức cơ sở đảng phát triển mạnh, có tinh thần. Hoạt động ở một đảng bộ
lớn như thế này thì Trung ương Đảng có được sự che chở. Đảng bộ thành phố
luôn trung thành tuyệt đối về mặt chính trị với Đảng cho nên cán bộ đảng viên
của Đảng bộ Thành phố có tinh thần, ý chí đấu tranh cách mạng kiên cường, bất
khuất, anh dũng, một lòng một dạ sắt son với Trung ương Đảng, sẵn sàng hy sinh
tất cả để bảo vệ đảng. Đây là một phẩm chất chính trị cao quý của Đảng bộ thành
phố.
+ Có dân: nhân dân thành phố Sài Gòn có lòng yêu nước được thể hiện từ buổi
đầu mở đất lập chính quyền khi quân Xiêm La đến ngăn cản, xâm phạm chủ
quyền nhân dân Sài Gòn đã đứng lên giành chính quyền. Trong thời Pháp đến đô
hộ nhân dân Sài Gòn đã có nhiều cuộc khởi nghĩa diễn ra để chống Pháp góp
phần thắng lợi cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Người dân Sài Gòn
có lòng yêu Đảng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng (Sài Gòn là nơi có các chi

bộ Đảng ra đời sớm nhất có 03 tổ chức Đảng ra đời đầu tiên tại Sài Gòn trong đó
có khoảng 20 Chi bộ và 150 đảng viên, ngày nay Đảng bộ thành phố có khoảng
3.000 chi bộ và 180.000 đảng viên). Lòng dân luôn hướng về Đảng, Sài Gòn tập
trung đông đảo dân cư chủ yếu dân Sài gòn là dân lưu dân (dân tứ xứ) từ khắp cả
nước nên Trung ương đảng lấy được lòng dân của thành phố là có được lòng dân
của cả nước
- Sài gòn là một thành phố trung tâm: có điều kiện kinh tế, điều kiện giao thông
thuận lợi: có đường bộ, đường sắt, đường thủy, hàng hải… là đầu mối cửa ngõ
giao thương quốc tế.
- Vị trí và vai trò của thành phố rất thuận lợi cho thông tin liên lạc: Trung ương


đảng dễ dàng nắm được những thông tin của tình hình thế giới, nắm bắt được
nhanh chóng âm mưu, kế hoạch của thực dân Pháp để triển khai chỉ đạo Cách
mạng kịp thời.
Trong nhiều năm, Trung ương Đảng đã chọn thành phố Sài Gòn làm địa bàn
hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng của cả nước. Trung ương Đảng đã tổ chức
05 hội nghị Trung ương ở Sài Gòn. Trong đó quan trọng nhất là hội nghị Trung
ương lần thứ 6 (diễn ra từ ngày 6-8/11/1939) đảng ta quyết định chuyển hướng
chỉ đạo chiến lược cách mạng sang thời kỳ tổng khởi nghĩa giương cao ngọn cờ
giải phóng dân tộc, cho nên Sài Gòn là trung tâm, là “lò lửa” đấu tranh Cách
mạng của Đảng. Có 05 đồng chí tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng
đầu tiên đã sống và làm việc tại thành phố là: Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy
Tập, Nguyễn Văn Cừ và Trường Chinh.
Sài Gòn là nơi trưởng thành và rèn luyện của nhiều nhà lãnh đạo Đảng, Nhà
nước.
C. LIÊN HỆ BẢN THÂN – CƠ QUAN ĐƠN VỊ:
Trải qua 80 mùa xuân, Đảng Cộng sản Việt Nam - một tổ chức lãnh đạo duy nhất
đã giương cao ngọn cờ và lý tưởng độc lập tự do, ấm no hạnh phúc cho nhân dân.
Tám mươi mùa xuân ấy, đi qua mọi thác ghềnh, gian khổ, con đường của Đảng

đã lựa chọn là con đường vinh quang với biết bao kỳ tích, thành tựu: chiến thắng
mọi kẻ thù xâm lược, chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu và Đảng đã lãnh đạo toàn
dân, đưa đất nước vươn tới kỷ nguyên xây dựng, phát triển, sánh vai với bè bạn
năm châu.
Nói đến sức sống của Đảng Cộng sản Việt Nam trong 80 năm qua, phải nói
đến những đóng góp không nhỏ của Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh vào sự
nghiệp chung của đất nước. Với vai trò lãnh đạo một thành phố đông dân, lớn
nhất nước, Đảng bộ thành phố HCM đã luôn gìn giữ, phát huy truyền thống, kinh
nghiệm quý báu của Đảng bộ thành phố trong kháng chiến, để rồi các thế hệ lãnh
đạo thành phố cứ tiếp nối kinh nghiệm, bản lĩnh và sự sáng tạo, thể hiện được vai
trò tiên phong bằng đường lối lãnh đạo đúng đắn, kịp thời, hợp lòng dân. Có thể
nói, hơn hai mươi năm đổi mới đất nước, chưa bao giờ người dân thành phố cũng
như những người có dịp đến thăm thành phố mang tên Bác, chứng kiến một sự
đổi thay, phát triển nhanh vượt bậc về mọi mặt như trong những năm gần đây. Tại
nhiều cuộc gặp gỡ với các bạn bè quốc tế, chúng tôi thường nghe họ bày tỏ sự
thán phục về tốc độ phát triển nhanh chóng của thành phố Hồ Chí Minh.
Thành phố anh hùng mang tên Bác có được những đánh giá ấy, là bởi Đảng
bộ thành phố luôn đưa ra những Nghị quyết đầy sáng tạo, mang tính đột phá.
Không riêng một khu vực nào, tất cả 24 quận, huyện của thành phố hôm nay đều
có những bước tiến dài. Cơ sở hạ tầng đô thị không ngừng được cải thiện, xây
dựng mới theo hướng hiện đại hơn. Sự hình thành nhiều khu Công nghiệp, cụm
Công nghiệp đã tạo nên hình ảnh phát triển và năng động cho thành phố Hồ Chí
Minh. Đặc biệt, sự xuất hiện của Khu công nghệ cao đã đưa nền công nghiệp
thành phố phát triển theo hướng chuyên sâu và hiện đại. Bên cạnh đó, những khu
đô thị mới như: khu đô thị Thủ Thiêm, khu đô thị Nam Sài Gòn đã cho thấy sức
vươn mình đổi thay của thành phố mang tên Bác. Không bao lâu nữa, những cụm
đô thị vệ tinh cũng sẽ được hình thành ở quận 2, quận 9, Hóc Môn, Củ Chi những vùng đất mà cách đây chỉ hơn một thập kỷ, còn là những vùng đất thuần
nông.
Chỉ một vài năm trở lại đây, thành phố vui mừng khánh thành nhiều cây cầu



tạo sự liên thông mạnh mẽ giữa các quận nội thành với khu vực vùng ven, như:
Cầu Thủ Thiêm, cầu Phú Mỹ, cầu Calmet, cầu Nguyễn Văn Cừ... Mới đây, Đại lộ
Đông Tây đưa vào sử dụng vào cuối năm 2009 đã giúp người dân đi lại thuận
tiện hơn. Và sắp tới, hệ thống tàu điện ngầm Metro cũng là bước đột phá mới về
giải quyết vấn đề giao thông cho thành phố.
Từ năm 2007, khi nước ta gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, trong
bối cảnh đó, Đảng bộ thành phố luôn đồng hành cùng các doanh nghiệp bằng
những cơ chế, chính sách mới, kích thích các doanh nghiệp phát triển. Có thể
thấy rằng: thành phố ứng phó tốt với khủng hoảng kinh tế toàn cầu, là từ đường
lối lãnh đạo của Đảng, từ sự kiên định và bản lĩnh, từ những Nghị quyết của
Đảng bộ thành phố có tính đột phá. Tốc độ tăng trưởng GDP trong năm 2009 đạt
trên 8% là một con số đáng tự hào trong bối cảnh nhiều nền kinh tế lớn trên thế
giới phải chịu mức tăng trưởng âm.
Không chỉ riêng những cán bộ Đảng viên, mà ngay cả những người dân bình
thường cũng vô cùng phấn khởi bởi những thành quả mà Đảng bộ TP đã đem lại.
Song song với phát triển kinh tế, Tp HCM luôn đưa ra những quyết sách về an
sinh xã hội và đã trở thành điển hình cho các địa phương của cả nước, như các
phong trào: xây dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương, xóa đói giảm nghèo.
Những năm gần đây, trung bình mỗi năm thành phố giải quyết việc làm cho trên
200.000 người. Chuẩn nghèo của thành phố đã được nâng từ 6 triệu lên 12 triệu/
người/năm, và cơ bản, thành phố đã xóa được các hộ nghèo theo tiêu chí cũ. Có
thể nói, mọi tầng lớp nhân dân thành phố đều được thụ hưởng những thành quả
từ NQ Đảng bộ TP đề ra.
Phát triển về mọi mặt, một nỗ lực đáng ghi nhận của thành phố trên lĩnh vực
môi trường là cải thiện các dòng kênh đen nội đô, đặc biệt là kênh Nhiêu Lộc Thị Nghè. Uốn mình dọc theo các quận: Bình Thạnh, Phú Nhuận, quận 3, quận
Tân Bình, kênh Nhiêu Lộc từng là một dòng kênh đen đặc quánh, với các khu
dân cư nghèo lụp xụp hai bên, nhưng chỉ hơn 2 thập kỷ sau, con kênh này đang
xanh hơn, trong hơn và hiện dần lên một vẻ đẹp rất riêng của TP.HCM.
Trong quá trình xây dựng phát triển thành phố Hồ Chí Minh, Đảng bộ thành

phố luôn duy trì và giữ vững những thành quả của Cách mạng. Các thế hệ lãnh
đạo thành phố hôm nay luôn trung thành với lý tưởng Đảng. Qua mỗi nhiệm kỳ,
mỗi bài học kinh nghiệm, thành phố lại đón nhận thêm nhiều thành quả mới. Phó
Bí Thư Thường trực Thành Ủy Nguyễn Văn Đua cho biết: trong 2 năm 2008 2009, dù bị ảnh hưởng suy thoái kinh tế, nhưng bằng những quyết sách, sự chỉ
đạo sát với thực tiễn và nỗ lực của toàn Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân thành
phố, đã giúp thành phố vượt qua khó khăn, giữ vững tốc độ phát triển kinh tế, ổn
định đời sống nhân dân. Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Nguyễn Văn Đua
nhấn mạnh:
Tám mươi năm, một chặng đường vẻ vang với những thành quả to lớn mà
Đảng đã đem lại mùa xuân và hạnh phúc cho nhân dân, trên hết thảy, đó là niềm
tự hào, lòng biết ơn của các thế hệ hôm nay và mai sau đối với Đảng cộng sản
Việt Nam. Với Đảng bộ TP.HCM, những thành quả Kinh tế xã hội đã đạt được,
cũng như tiềm năng, nguồn lực đang khơi thông, đó là những dấu son làm rạng
ngời thành phố anh hùng. Phấn đấu "đi trước và về đích trước". Chúng tôi tự hào
về thành phố của mình sẽ có một ngày mai phát triển bền vững và giàu đẹp.
Trong xu thế hội nhập và phát triển đất nước, Chi Bộ của trường không ngừng
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, vai trò quản lý của Chính


quyền, phát huy sức mạnh đại đoàn kết của HĐSP nhà trường, luôn quyết tâm
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ CT, không ngừng nâng cao chất lượng GDĐT tại
đơn vị, tiếp tục khẳng định là 1 trong những trường tiên tiến xuất sắc hàng đầu
của TP, nỗ lực góp phần nâng cao sự nghiệp GD tại địa phương.
Xây dựng Đảng: Chi Bộ chú trọng công tác nắm bắt diễn biến tư tưởng, giáo dục
nâng cao nhận thức CT cho cán bộ, ĐV, công chức, tiếp tục phát huy thế mạnh và
khắc phục hạn chế của cấp Ủy, CBĐV tại đơn vị, chú trọng công tác bảo vệ chính
trị nội bộ, kết nạp Đảng cho đoàn viên ưu tú.
Xây dựng chính quyền vững về mọi mặt, nâng cao năng lực quản lý tại đơn vị,
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, giữ gìn đoàn kết nội bộ, thực hiện tự phê
bình và phê bình, mỗi thành viên phải chịu trách nhiệm về công việc được giao.

Công tác vận động quần chúng, nhân dân: phát huy sức mạnh đoàn kết và xây
dựng lực lượng nòng cốt làm tốt công tác tuyên truyền.
Đối với công tác giảng dạy của giáo viên: Chi bộ đẩy mạnh công tác giáo dục tư
tưởng CT, GV phải đủ phẩm chất CT và năng lực chuyên môn. Chú trọng công
tác nâng cao ý thức tự học, tự rèn luyện, nâng cao trình độ CT và trình độ CM từ
đó GV mới có thể phát huy tính sang tạo kết hợp phương pháp giảng dạy theo
hướng mới của mình









CÂU 4. Đồng chí hãy phân tích một tính cách văn hóa nổi trội của con người
Sài Gòn – thành phố Hồ Chí Minh mà mình tâm đắc? Cho biết suy nghĩ của
đồng chí về thực trạng đời sống văn hóa của người dân thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay?
A. CHỦ ĐỀ: Văn hóa con người Sài Gòn TP.HCM.
B. TRỌNG TÂM VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Văn hóa, phẩm chất con người Sài Gòn - Tp.HCM được thể hiện qua
06 tính cách:
Con người Sài Gòn Tp. HCM có một số tính cách văn hóa nổi trội như:
Yêu nước nồng nàn, kiên cường chống ngoại xâm là tính cách văn hóa, tính cách
con người, là truyền thống tốt đẹp của người dân Sài gòn -Thành phố Hồ Chí
Minh.
Tính linh hoạt, năng động, sáng tạo.
Tính trọng nghĩa, khinh tài.

Tính phóng khoáng, hiếu khách.
Tính cách dung hợp, hài hòa.
Tính thực tế.
* Trong 06 tính cách văn hóa phẩm chất con người Sài Gòn - Tp.HCM thì
tính cách Yêu nước nồng nàn, kiên cường chống ngoại xâm là tính cách văn hóa
nổi bật nhất của con người Sài Gòn - Tp.HCM
Tính yêu nước, kiên cường chống ngoại xâm của người Sài Gòn-TPHCM
không phải là một lời động viên chính trị mà là một tính cách VH. Đó là tính
cách đặc trưng nhất, là linh hồn của VH, con người SG-TPHCM. Đó là điều ổn
định vững chắc, in sâu trong ý thức, trong tình cảm, trong lối sống của con người
SG-TP.HCM. Nó được chứng minh trong suốt chiều dài lịch sử ra đời và phát
triển của TP. Cũng dễ hiểu khi ta xem xét tính cách VH SG là VH VN, văn hóa
“đồng bào”. Nếu như một nghìn năm Bắc thuộc rồi “ta vẫn là ta”, thì vào vùng
đất mới những người con của Vua Hùng đã bao dung, hoà hợp người Minh
Hương, “đồng hoá người Minh Hương”, văn hoá Pháp hay văn hoá Mỹ không


thể lung lay được con cháu Vua Hùng. Sài Gòn là nơi mấy trăm năm đương đầu
với các thế lực ngoại xâm nên ý thức dân tộc, tinh thần yêu nước trở thành cái
vốn có, trở thành chỗ đứng của họ để xử sự mọi chuyện trên đời: Ủng hộ Tây
Sơn chống quân Xiêm ở Rạch Gầm Xoài Mút mặc dù chưa hiểu nhiều về Tây
Sơn; có thái độ rõ ràng trước sai lầm của Phan Thanh Giản; khi triều đình bỏ dân
thì họ ủng hộ Trương Định Nguyên Soái Bình Tây; khi Pháp tái chiếm Sài Gòn
thì “ Nam Bộ kháng chiến”; nước nhà tạm thời bị chia cắt thì từ phong trào dân
chủ đến tiến hành chiến tranh đến cùng để thống nhất nước nhà… Chế độ trực trị
85 năm dành cho Nam Kỳ không ngăn nổi cuộc CMT8 năm 1945 tuyên cáo nước
Việt Nam thống nhất. Những người đấu tranh đổ máu chống cái quái thai “Nam
Kỳ quốc” năm 1946 chính là cư dân thành phố, cư dân Nam Bộ. Những người
hiên ngang bảo vệ CNXH ở Miền Bắc, chống chia rẽ Bắc Nam qua cuộc di cư
cưỡng bức ồ ạt 1954 cũng là cư dân thành phố, cư dân Nam Bộ.

Tính cách yêu nước nồng nàn, kiên cường chống ngoại xâm của người dân
Thành phố xuất phát và gắn liền với ý thức tình cảm hướng về cội nguồn, tri ân
tổ tiên, uống nước nhớ nguồn (trên địa bàn thành phố đến nay không dưới 10 đền
thờ Hùng Vương đủ các quy mô lớn nhỏ được xây dựng qua các thời kỳ, quanh
năm người dân khăn đóng áo dài đến cúng lễ). Tình đồng bào, ý thức dân tộc,
hướng về cội nguồn, tinh thần yêu nước là cơ sở cho chủ nghĩa anh hùng chống
ngoại xâm. Đó cũng là tính cách văn hoá nổi bật nhất của người Sài Gòn - Tp.
HCM.
Trải qua lịch sử được vun đắp bổ sung rèn luyện để trở thành truyền thống
nổi bật nhất của nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đó là truyền thống anh hùng.
Tp. HCM được tặng danh hiệu Thành phố anh hùng vào tháng 4/2005 trước thềm
Đảng bộ Thành phố lần thứ 8 nhân kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Thành phố.
Tính linh hoạt, năng động, sáng tạo.
Sài Gòn là nơi giao lưu văn hoá mọi miền, giao lưu và chọn lọc. Sài Gòn tiếp
thu lưu giữ những điều hợp lý, vận dụng để thay đổi những điều không còn hợp
lý và sự thay đổi đó diễn ra rất nhanh chóng. Nó được khẳng định, bổ sung, nhân
lên gấp bội trong điều kiện hàng trăm năm kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường
phát triển nhất nước.
- Trong lĩnh vực chống giặc ngoại xâm, người Sài Gòn – thành phố Hồ Chí Minh
nhạy cảm trong đánh giá kẻ thù và kiên quyết chống lại chúng; sáng tạo nhiều
hình thức, phương pháp đấu tranh phù hợp.
Ngày nay, trong xây dựng đất nước công nghiệp hóa-hiện đại hóa, người Sài
Gòn – thành phố Hồ Chí Minh đã sáng tạo nhiều phong trào xã hội đi đầu trong
cả nước.
Trong xây dựng đất nước, công nghiệp hóa hiện đại hóa, người Sài gòn đã
sáng tạo nhiều phong trào xã hội đi đầu trong cả nước như xóa đói giảm nghèo,
xây nhà tình nghĩa, tình thương, khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo,
phong trào “ 3 giảm”. Người Sài gòn không khi nào chịu chấp nhận những gì mà
tự nhiên có, tự nhiên cho, mặc dù tự nhiên ở đây rất hào phóng, người Sài gòn
luôn vươn tới, luôn tìm cái mới, nhạy bén trong hoạt động, sáng tạo trong tư duy,

biết thay đổi nếp sống, dám nghĩ, dám làm, sớm hình thành tác phong công
nghiệp.
Phương hướng phát triển:
1 Những điều kiện mới:
Việc xây dựng văn hóa, con người ở thành phố HCM phải tiếp nối, kế thừa,


phát huy những truyền thống tốt đẹp, những tinh hoa văn hóa dân tộc, tính cách
văn hóa, con người thành phố:
Người Sài gòn phải phù hợp với kinh tế tri thức, xã hội thông tin, phù hợp với
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thời kỳ xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN mở rộng dân chủ , thành phố
cần xây dựng nếp sống văn hóa, con người mới để tiến tới đời sống văn minh,
hiện đại.
Xây dựng văn hóa, con người thành phố trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập
quốc tế, vốn quan hệ rộng mở với khu vực và thế giới nhưng trong thời gian tới
sự quan hệ rộng mở đó xét về quy mô nó tăng lên nhiều lần, xét về nội dung thì
phong phú đa dạng hơn nhiều.
2 Phương hướng phát triển VH, CN TpHCM : Phát triển theo hướng văn
minh, hiện đại, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và các giá trị tinh
thần mang nét đặc trưng của nhân dân thành phố. Nâng cao chất lượng phong
trào “ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa trên địa bàn dân cư. Đẩy
mạnh vận động, nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng và có những giải
pháp hữu hiệu để tạo ra bước chuyển căn bản trong việc cưới, tang, lễ hội theo
hướng văn minh, tiết kiệm chống phô trương, lãng phí, bài trừ mê tín dị đoan.
Xây dựng ý thức giữ gìn môi trường và văn minh nơi công cộng
Giáo dục truyền thống yêu nước, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, danh dự của
người việt nam, công dân thành phố mang tên bác. Duy trì thường xuyên cuộc
vận động tu dưỡng đạo đức, lối sống, xây dựng văn hóa trong lãnh đạo, quản lý
và kinh tế.

Hoàn thiện quy hoạch, huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng thiết chế văn
hóa. Đầu tư có trọng điểm và nâng cao hiệu quả hoạt động Văn hóa – nghệ thuật,
tăng cường hoạt động giao lưu văn hóa, tích cực đấu tranh và ngăn chặn có hiệu
quả sự xâm nhập của văn hóa ngoại lai, độc hại.
Thành phố cần đầu tư để nâng cao hiệu quả hoạt động văn hóa nghệ thuật, tổ
chức nghiên cứu những đặc trưng văn hóa truyền thống thành phố, giới thiệu các
di sản, các sản phẩm văn hóa thành phố với bạn bè trong và ngoài nước.
C. LIÊN HỆ BẢN THÂN – CƠ QUAN ĐƠN VỊ:
Thực trạng đời sống VH con người Tp hiện nay: Cùng với sự chuyển đổi về
kinh tế, về đời sống vật chất được cải thiện, đời sống văn hoá ở Tp. HCM trong
thời gian qua cũng có nhiều biến đổi theo chiều hướng tích cực. Điều dễ nhận ra
là cái ăn, cái ở, cái mặc... tại thành phố thay đổi hầu như hàng ngày, theo chiều
hướng “đi lên”. Nhà cửa rộng hơn, cao hơn, tiện nghi hơn. Cái mặc đẹp hơn...
Cái ăn thì thật phong phú. Những khái niệm mới, những thiết chế mới như: văn
hoá mới, con người mới, xã hội mới, người tốt việc tốt, khu phố văn hoá, nhà văn
hoá, nhà truyền thống, câu lạc bộ, nhà bảo tàng, công viên, khu vui chơi giải trí,
câu lạc bộ ông bà cháu… ra đời.
Vấn đề giao lưu và hội nhập văn hoá từ bên ngoài đã đánh dấu sự phát
triển về mọi mặt của Thành phố. Dọc theo chiều dài lịch sử, nếu như trong thời
kỳ bao cấp, nước ta thực hiện chính sách bế quan tỏa cảng không có điều kiện
giao lưu, học hỏi với các quốc gia khác khiến cho nền kinh tế của chúng ta chậm
phát triển, mọi mặt của đời sống xã hội còn nhiều hạn chế thì ngày nay kể từ khi
Đảng và nhà nước chủ trương thực hiện chính sách mở cửa, cho phép giao lưu
kinh tế, văn hóa, xã hội với các nước trên thế giới. Nhờ đó mà nền kinh tế của ta
đã có nhiều khởi sắc mới. Đặc biệt là từ khi Việt Nam gia nhập WTO (ngày


11/01/2007) đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho chúng ta hội nhập kinh tế với
thế giới. (từ Bắc Mỹ, Bắc Âu, Châu Âu, Đông Nam Á) để làm giàu thêm VH của
thành phố, VH thành phố HCM là VH “mở”. Và một thành tựu đáng kể là Việt

Nam được xếp vào danh mục các nước đang trên đà phát triển.
Những khái niệm mới, những thiết chế mới như: văn hoá mới, con người mới,
xã hội mới, người tốt việc tốt, khu phố văn hoá, nhà văn hoá, nhà truyền thống,
câu lạc bộ, nhà bảo tàng, công viên, khu vui chơi giải trí, câu lạc bộ ông bà
cháu… ra đời đẩy lùi những bar rượu, hộp đêm, vũ trường, sòng bạc, … trước
đây.
Các giá trị văn hóa xưa vẫn được người dân còn lưu giữ và bảo tồn như các
kiến trúc xưa: nhà thờ Đức Bà, chợ Bến Thành, bưu điện Thành phố...
Tuy nhiên, nhìn từ 1 khía cạnh khác, tình trạng phi quy chuẩn về đạo đức và
lối sống còn tác động xấu đến trật tự và môi trường đô thị ở thành phố, gây mất
mỹ quan đô thị cũng như làm xấu đi hình ảnh tươi đẹp của Thành phố trong mắt
bạn bè quốc tế: 1 bộ phận người dân khi tham gia lưu thông còn chạy xe lấn
đường, đua xe lạng lách, vượt đèn đỏ; treo dán quảng cáo trên các trụ đèn, cột
điện; ăn mặc hở hang không phù hợp, có những bài hát dùng những ca từ phản
cảm…
Tiềm năng đồng hóa văn hóa của Thành phố là rất lớn nhưng hiện tượng một
bộ phận dân cư mà đặc biệt là giới trẻ trong đó có cả tầng lớp học sinh, sinh viên
thành phố có lối sống lệch lạc, sống thiếu lý tưởng, giảm sút niềm tin, thiếu ý
thức chấp hành pháp luật; có lối sống thực dụng, đua đòi, lãng phí, có biểu hiện
tiêu cực trong đạo đức, lối sống, cá biệt có một số thanh niên sa vào tệ nạn xã
hội, tội phạm, truy cập các trang Web độc hại, Chát Nude, đua xe, quan hệ tình
dục ở lứa tuổi thanh niên, học sinh-sinh viên…đang có chiều hướng gia tăng.
+ Cơ quan: Quan hệ với đồng nghiệp chưa thật sự thân thiện, hòa đồng, bằng
mặt không bằng lòng, còn đố kỵ nhau trong công việc
+ Địa phương: Ở khu phố, không đoàn kết, chiếm dụng khuôn viên giải trì
cho trẻ em làm nơi kinh doanh café, nước uống, bỏ rác trước nhà hàng xóm, mở
nhac, hát karaoke gây ôn ào ảnh hưởng đến hàng xóm,…
Chính vì vậy, Nghị quyết 20 của Bộ Chính trị chỉ rõ hướng phát triển văn hoá,
con người Thành phố một cách cụ thể: “Phát triển, nâng cao chất lượng và quản
lý tốt các hoạt động văn hoá quần chúng; xây dựng nếp sống văn hoá trên địa bàn

dân cư, các sinh hoạt vui chơi, giải trí lành mạnh, quan tâm nâng cao mức hưởng
thụ văn hoá của người lao động thu nhập thấp; đầu tư phát triển các hoạt động
sáng tạo văn hoá, nghệ thuật chuyên nghiệp trình độ cao; phát triển đi đôi với chỉ
đạo và quản lý chặt chẽ các hoạt động phát thanh, truyền hình, Internet, báo chí,
xuất bản…”.
Với trách nhiệm là người cán bộ công chức, thực hiện tốt quy định của pháp
luật, tuân thủ nghiêm luật giao thông khi đi đường, giữ gìn cảnh quan đô thị, bảo
vệ môi trường xung quanh. Thân thiện, hòa đồng, giúp đỡ người dân tại khu phố,
góp ý xây dựng địa phương, tổ dân phố, trở thành khu phố văn hóa, gia đình văn
hóa; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và các giá trị tinh thần mang nét
đặc trưng của nhân dân thành phố; tích cực dấu tranh tệ nạn xã hội tại địa
phương cư trú
CÂU 5. Đồng chí hãy phân tích, chứng minh vai trò, vị trí của nền kinh tế
thành phố Hồ Chí Minh đối với sự phát triển kinh tế Nam bộ và cả nước


A. CHỦ ĐỀ: Kinh tế TpHCM
B. TRỌNG TÂM VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:

Đặc điểm kinh tế TP HCM:
Là trung tâm lớn nhất nước, nằm trong khu kinh tế trọng điểm phía nam
Sớm phát triển kinh tế thị trường, kinh tế hàng hóa khi mà nhiều nơi còn
nặng kinh tế tự cung tự cấp kiểu phong kiến, luôn năng động đi trước cả nước về
đổi mới, về xây dựng nền kinh tế thị trượng theo định hướng XHCN.
Dù trong thời bình hay thời chiến, dù là thực dân cũ hay thực dân mới, dù
là thời khủng hoảng hay thời đổi mới thì kinh tế thị trường đều tăng trưởng, đều
phát triển.
Nền kinh tế của tành phố là nền kinh tế mở, gắn kết với khu vực và quốc
tế, nội dung của quan hệ là hoạt động thương mại, hoạt động ngoại thương luôn
sôi động. Sự phát triển kinh tế thành phố giữ vai trò động lực, vai trò đầu tàu cho

cả khu vực. Kinh tế thành phố chịu ảnh hưởng sớm nhất, nhanh nhất, trực tiếp
nhất của các biến động kinh tế trên thế giới, nhất là các nước xung quanh.
Tiềm năng, thế mạnh và những hạn chế kinh tế của thành phố:
Vị trí địa lý: thành phố năm ở trung tâm nam bộ, nằm trên cửa ngõ hàng hải
quốc tế, với một vùng khí hậu, sông ngòi, thủy văn, thổ nhưỡng, ... hết sức thuận
lợi cho phát triển kinh tế của thiên nhiên ban phát do đó cần phải khai thác tận
dụng triệt để, tuy nhiên ngày nay con sông Sài gòn hay vùng đất nội thành kể cả
ngoại thành không dễ dàng chứa nổi sự phát triển của dân số, của công nghiệp,
của thương mại, buộc con người phải quy hoạch, tính toán cẩn thận.
Cơ sở hạ tầng: so với cả nước thành phố có cơ sở hạ tầng phát triển kinh tế XH sớm được xây dựng và hoàn chỉnh. Hạ tầng đô thị như cấp thoát nước, xử lý
chất thải, giao thông đô thị, cấp nước công nghiệp, cung cấp điện,... từng bước
phát triển và hiện đại hóa. Hệ thống thông tin liên lạc cũng đã có bước phát triển
cao.
Cái hạn chế lớn nhất là không hiện đại hóa kịp thời, chưa theo kịp nhu cầu
phát triển kinh tế- XH. Trong thời gian qua TP đã thực hiện nhiều biện pháp
nhằm chấn chỉnh trật tự đô thị trong lĩnh vực quy hoạch, xây dựng, giao thông,
môi trường,... đã mang lại những kết quả nhất định, tuy nhiên, nhìn chung vẫn
chưa đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế và cải thiện dân sinh, làm hạn chế tốc
độ tăng trưởng kinh tế và thu hút đầu tư của thành phố.
Nguồn vốn: vốn cho phát triển kinh tế là một tiềm năng lớn 11% GDP hàng
năm của TP HCM. TP đóng góp 30% ngân sách quốc gia. Tình trạng vừa thiếu
vốn vừa lãng phí trong đầu tư dưới nhiều hình thức vẫn tồn tại, thiếu đồng bộ,
công tác quy hoạch không bắt kịp yêu cầu cuộc sống,... đã đặt ra nhiều vấn đề
bức xúc đối với doanh nghiệp và nhân dân.
Nguồn nhân lực: con người là yếu tố quyết định trong phát triển kinh tế, TP
HCM là nơi hội tụ nguồn nhân lực, có thế mạnh để thu hút và sử dụng nguồn
nhân lực. chiếm gần 40% của cả nước. Con người TP HCM có kiến thức, có tay
nghề, có kinh nghiệm quản lý, luôn năng động sáng tạo, thực sự là tiềm năng thế
mạnh để phát triển kinh tế TP.
Cơ cấu kinh tế, ngành nghề truyền thống: cơ cấu kinh tế thành phố thể hiện

một thành phố công nghiệp, TP luôn giữ vững tỷ lệ tăng trưởng cao hơn cả nước.
Các ngành nghề truyền thống chiếm ưu thế trên thị trường toàn quốc như thực
phẩm, đồ uống, cơ khí, may mặc, da giày, dệt, hóa chất, điện tử. Các khu công
nghiệp, khu chế xuất chiếm tỷ lệ cao so với cả nước, đóng vai trò quan trọng


trong đáp ứng thị trường nội địa và xuất khẩu. Thành phố Hồ Chí Minh có 03
khu chế xuất, 10 khu công nghiệp và 03 khu công nghệ cao. Năng lực sản xuất
công nghiệp chiếm 60% vùng trọng điểm.
Thương mại dịch vụ chiếm tỷ trọng cao và đang phát triển mạnh như xuất,
nhập khẩu chiếm 40% cả nước, giao thông vận tải, thông tin liên lạc, du lịch
khách sạn nhà hàng, hoạt động tại chính tín dụng, vui chơi giải trí đều đứng hàng
đầu cả nước. Nhưng hiện nay cơ cấu kinh tế đang giảm dần sức cạnh tranh, các
ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học – kỹ thuật và giá trị gia tăng còn
chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong cơ cấu GDP, dù TP đã đề ra nhiều chương trình mục
tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhưng do thiếu các giải pháp, biện pháp và sự
tập trung nguồn lực đủ mạnh nên chưa mang lại kết quả.
Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp, của sản phẩm còn
kém, chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm còn cao, năng suất lao động thấp, chất
lượng sản phẩm chưa bằng hàng hóa nước ngoài, trình độ thiết bị và công nghệ
của nhiều ngành còn lạc hậu so với các nước trong khu vực, chưa có được nhiều
sản phẩm chủ lực với nhãn hiệu – thương hiệu có uy tín trong nước và thế giới,
chưa có ngành công nghiệp phụ trợ và các dịch vụ hỗ trợ phát triển sản xuất.
Thành phố có nhiều nhiều trung tâm thương mại cả nội thương lẫn ngoại
thương. Về thương mại dịch vụ rất phong phú và đa dạng có nhiều con phố với
các dịch vụ như ăn uống, thời trang, may mặc, thẩm mỹ. Chợ và siêu thị rất
nhiều, hàng hóa phong phú đa dạng, doanh thu và lợi nhuận rất cao từ các chợ và
siêu thị
Về dịch vụ du lịch: Mỗi ngày có rất nhiều khách quốc tế đến. Nhà hàng,
khách sạn rất nhiều phục vụ cho du lịch dẫn đến doanh thu của ngành du lịch rất

cao
Thành phố Hồ Chí Minh còn là trung tâm tài chính ngân hàng, tiền tệ lớn
nhất nước. Thành phố dẫn đầu cả nước về số lượng ngân hàng. Ngân hàng phát
triển nhiều như Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng TMCP
rất nhiều, doanh số quan hệ tài chính tín dụng, doanh thu hệ thống ngân hàng
chiếm 1/3 doanh thu toàn quốc. Nhiều dịch vụ tín dụng hiện đại được đưa vào
ứng dụng, mạng lưới thanh toán thông qua thẻ ATM, dịch vụ đổi ngoại tệ cho
người nước ngoài đi du lịch… Ngoài ra còn nhiều ngân hàng do nước ngoài đầu
tư vào Việt Nam tập trung tại Thành phố chiếm số lượng khá nhiều.
Thành phố HCM là trung tâm bưu chính viễn thông lớn nhất nước, phát
triển nhanh có nhiều bưu điện, điện thoại, mạng internet, doanh thu bưu chính
viễn thông rất lớn.
Thành phố là đầu mối giao thông vận tải của cả miền, cửa ngõ giao thương
và giao lưu quốc tế với kim ngạch xuất khẩu bình quân hàng năm chiếm trên
40% kim ngạch của cả nước và chiếm 77% của vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam
Thành phố duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao, liên tục, xứng đáng là
đầu tàu kinh tế của cả nước, đầu kéo kinh tế của vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam. Sức mạnh kinh tế của Thành phố góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh
kinh tế cả nước. Nguyên Tổng bí thư Nông Đức Mạnh nhận định: “ … mỗi thuận
lợi hay khó khăn, mỗi thành công hay không thành công, mỗi bước đi nhanh hay
chậm, bền vững hay thiếu bền vững của Thành phố đều có ảnh hưởng trực tiếp
đến nhịp phát triển chung của khu vực và cả nước…”. Hơn 26 năm đổi mới, phát
triển, Thành phố đóng góp rất lớn cho sự phát triển kinh tế của khu vực và cả


nước với gần 20% tổng sản phẩm GDP, gần 30% tổng giá trị sản phẩm công
nghiệp, trên 40% kim nghạch xuất khẩu của cả nước, trên 30% tổng thu ngân
sách quốc gia. Tính trung bình Thành phố tăng trưởng 1% GDP sẽ làm cho cả
nước tăng được 0,2% GDP, 0,3% giá trị sản xuất công nghiệp, 0,4% kim nghạch

xuất khẩu, 0,3% nguồn thu ngân sách…
39 năm nhìn lại, quá trình phấn đấu, trưởng thành, những thành quả đạt
được, những đóng góp của Thành phố thật to lớn, thật xứng đáng với danh hiệu “
thành phố Hồ Chí Minh – Thành phố anh hùng”
* Các giải pháp để phát triển kinh tế của Thành phố
- Một là, khai thác tốt nhất tiềm năng, lợi thế, tiếp tục đẩy mạnh chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh.
Chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ phát triển theo chiều rộng sang phát
triển theo chiều sâu, tăng năng suất tổng hợp, tiến bộ khoa học- công nghệ,
nguồn nhân lực chất lượng cao.
- Hai là, tiếp tục phát triển 9 nhóm ngành dịch vụ: tài chính- tín dụngngân hàng- bảo hiểm; thương mại; vận tải, kho bãi, dịch vụ cảng- hậu cần hàng
hải và xuất nhập khẩu; bưu chính - viễn thông và công nghệ thông tin – truyền
thông; kinh doanh tài sản- bất động sản; dịch vụ thông tin tư vấn, khoa học- công
nghệ; du lịch; y tế; giáo dục – đào tạo.
- Ba là, tiếp tục tập trung phát triển 4 ngành công nghiệp có hàm lượng
khoa học - công nghệ và giá trị gia tăng cao: cơ khí, điện tử - công nghệ thông
tin, hóa dược – cao su, chế biến tinh lương thực thực phẩm và các ngành công
nghệ sinh học, công nghiệp sạch, tiết kiệm năng lượng, công nghiệp phụ trợ
- Bốn là, phát triển nông nghiệp đô thị hiện đại, hiệu quả, bền vững; tăng
cường ứng dụng công nghệ sinh học, công tác dự báo, tập trung sản xuất giống
cây trồng, giống vật nuôi, rau ăn toàn, cây kiểng, cá kiểng. Tiếp tục đẩy mạnh
việc thực hiện chiến lược biển. Chỉ đạo xây dựng mô hình nông thôn mới văn
minh, giàu đẹp.
- Năm là, tạo môi trường thuận lợi và bình đẳng để phát triển các thành
phần kinh tế; tiếp tục sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động doanh
nghiệp nhà nước, bổ sung cơ chế; chính sách hỗ trợ phát triển, nâng cao chất
lượng kinh tế tập thể với nòng cốt là các hợp tác xã; tạo điều kiện thuận lợi cho
kinh tế tư nhân phát triển; hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận nguồn
vốn, thông tin công nghệ và thị trường. Phát triển đồng bộ 5 loại thị trường chính
yếu: tài chính, hàng hóa –dịch vụ, công nghệ, bất động sản, lao động; đổi mới,

nâng cao vai trò, hiệu lực quản lý nhà nước trong cơ chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Phát huy vai trò của Thành phố trong vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam.
- Sáu là, huy động, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, đặc biệt là phát
huy đội ngũ trí thức để khoa học – công nghệ thực sự là động lực nâng cao chất
lượng tăng trưởng; bổ sung cơ chế, chính sách ưu tiên thu hút đầu tư vào công
nghiệp công nghệ cao, công nghệ sạch; Phát triển thương mại điện tử; các mô
hình phân phối, giao dịch hiện đại vào hoạt động thương mại. Quy hoạch phát
triển trung tâm hội chợ triển lãm thương mại có tầm cỡ khu vực.
- Bảy là, tập trung xây dựng, tạo bước đột phá về hệ thống kết cấu hạ tầng.
Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác quy hoạch, thiết kế đô
thị, quản lý quy hoạch – kiến trúc, quy hoạch xây dựng nông thôn mới, quản lý
đô thị. Nâng cao chất lượng các dịch vụ đô thị theo hướng xã hội hóa


- Tám là, đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động khoa học –
công nghệ, gắn kết giữa các cơ sở nghiên cứu, đào tạo và sản xuất- kinh doanh.
Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ. Tăng đầu tư để
phát triển khoa học – công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và xây
dựng những trung tâm khoa học công nghệ tiêu biểu. Có chính sách bồi dưỡng,
thu hút, trọng dụng các chuyên gia khoa học – công nghệ trong và ngoài nước.
Với những thành tựu đạt được, thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục
khẳng định vị trí, vai trò đầu tàu kinh tế của cả nước. Với truyền thống kiên
cường, năng động, sáng tạo của mình, Đảng bộ và nhân dân thành phố Hồ
Chí Minh tự tin bước vào nhiệm kỳ mới.
Năm năm nhìn lại
Dưới ánh sáng của Nghị quyết 01 năm 1982 của Bộ Chính trị (khóa V),
xác định vị trí, vai trò của TP Hồ Chí Minh đối với khu vực phía nam cũng như
cả nước và Nghị quyết 20 năm 2002 của Bộ Chính trị (khóa IX) về phương
hướng nhiệm vụ phát triển TP Hồ Chí Minh đến năm 2010. Nghị quyết Đại hội

lần thứ X của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ 8. Nhiệm kỳ
vừa qua, Đảng bộ và nhân dân TP Hồ Chí Minh đã phát huy truyền thống cách
mạng kiên cường, phấn đấu bền bỉ, năng động sáng tạo, vượt qua nhiều khó khăn
thử thách, giành những thắng lợi to lớn, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: chính
trị, kinh tế, xã hội, xây dựng Đảng, an ninh quốc phòng, hợp tác với các tỉnh,
thành phố trong cả nước, mở rộng quan hệ hữu nghị với nhiều thành phố trên thế
giới, nâng thành phố lên tầm cao mới.
Để thực hiện có hiệu quả các nghị quyết của Đảng, ngay từ đầu nhiệm kỳ
Thành ủy TP Hồ Chí Minh đã đề ra nhiều giải pháp, biện pháp đồng bộ cụ thể và
phù hợp từng năm và cho cả nhiệm kỳ nhằm hoàn thành các chỉ tiêu phát triển
kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân thành phố.
Năm năm qua, nhất là nửa sau của nhiệm kỳ, thành phố đứng trước nhiều
thời cơ lớn nhưng cũng phải đương đầu với không ít thách thức đan xen, đòi hỏi
thành phố phải có những quyết sách đúng, trúng và kịp thời để đưa thành phố
tiếp tục phát triển. Chính những lúc khó khăn nhất Đảng bộ TP Hồ Chí Minh đã
thể hiện rõ bản lĩnh chính trị của mình. Cùng với những chủ trương và các giải
pháp của Đảng và Nhà nước, thành phố chủ động xoay chuyển tình hình, từng
bước vượt qua khó khăn thách thức. Năm 2007: Nỗ lực kiềm chế lạm phát. Năm
2009: Tập trung ngăn chặn đà suy giảm kinh tế. Năm 2010: Thực hiện các giải
pháp kích thích tăng trưởng và từng bước phục hồi kinh tế. Nhờ thực hiện quyết
liệt các giải pháp, biện pháp đề ra, thành phố vượt qua khó khăn một cách thuyết
phục. Chín tháng đầu năm 2010, kinh tế thành phố đã lấy lại nhịp điệu tăng
trưởng như trước thời kỳ khủng hoảng, hầu hết các chỉ tiêu về kinh tế đều đạt và
vượt kế hoạch đề ra và tăng so với cùng kỳ.
Năm năm qua, kinh tế tiếp tục phát triển và đạt được mức tăng trưởng cao.
GDP bình quân đạt 11%/năm. Tuy chưa đạt chỉ tiêu nghị quyết đề ra (12%)
nhưng cũng là mức tăng khá cao so với bối cảnh chung. Nếu đặt sự phát triển
kinh tế của thành phố dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế
toàn cầu cuối năm 2007 đầu năm 2008 thì mới thấy hết sự năng động, sáng tạo và
cố gắng vượt bậc của đảng bộ và nhân dân thành phố.

Năm 2010 quy mô kinh tế thành phố bằng 1,7 lần năm 2005, GDP bình
quân đầu người đạt 2.800 USD, bằng 1,68 lần năm 2005 (1.660 USD). Chương
trình hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế bước đầu đạt kết quả tích cực, từng bước


tạo chuyển biến về chất trong cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng các
ngành có giá trị gia tăng và hàm lượng khoa học - công nghệ cao. Các ngành dịch
vụ có tốc độ tăng trưởng 12%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế chung.
Trong đó, các ngành dịch vụ như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch, bưu
chính - viễn thông, vận tải - cảng - kho bãi, khoa học - công nghệ, giáo dục và y
tế chất lượng cao tiếp tục phát triển có lợi thế cạnh tranh, chất lượng cao, giá trị
gia tăng khá. Giá trị sản xuất công nghiệp giai đoạn 2006-2010 bằng 1,85 lần giai
đoạn 2001 - 2005. Bốn ngành công nghiệp mũi nhọn của thành phố là cơ khí chế
tạo, điện tử - công nghệ thông tin, hóa chất, chế biến tinh lương thực, thực phẩm
chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong sản xuất công nghiệp. Nông nghiệp tuy chỉ
chiếm hơn 1% GDP của thành phố nhưng cũng đang chuyển dịch tích cực theo
hướng nông nghiệp đô thị, sản xuất giống cây, giống con và các sản phẩm có chất
lượng, hiệu quả kinh tế, đáp ứng yêu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu.
Năm 2009 doanh thu bình quân 1 ha đất nông nghiệp đạt 138,5 triệu đồng/năm,
bằng 2,2 lần năm 2005.
Nền kinh tế nhiều thành phần ngày càng khẳng định sức sống mạnh mẽ.
Qua sắp xếp, đổi mới, tuy số lượng và tỷ trọng đóng góp của các doanh nghiệp
Nhà nước trong cơ cấu kinh tế thành phố giảm, nhưng quy mô và hiệu quả lại
tăng lên, phát huy được vai trò chủ đạo trong việc ổn định sản xuất, phát triển thị
trường trong nước, bình ổn thị trường, nhất là trong giai đoạn khó khăn do suy
thoái kinh tế toàn cầu. Khu vực kinh tế tập thể phát triển ngày càng đa dạng các
hình thức tổ chức và hoạt động, nhất là trong lĩnh vực dịch vụ phục vụ nông
nghiệp và thương mại. Kinh tế tư nhân ngày càng phát triển nhanh, cả loại hình
doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và các
cơ sở kinh doanh cá thể, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế, giải quyết việc

làm và thu ngân sách. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đang chuyển dần
sang các ngành thâm dụng vốn và khoa học - công nghệ, từng bước đầu tư phát
triển kết cấu hạ tầng và bảo vệ môi trường, đóng góp ngày càng nhiều vào quá
trình CNH, HĐH tại thành phố.
Nhiệm kỳ vừa qua, thành phố tập trung nguồn lực thực hiện 12 chương
trình, công trình trọng điểm và năm chương trình, công trình mang tính đòn bẩy
do Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ 8 đề ra, đến nay nhiều công
trình đã hoàn thành đưa vào sử dụng đã phát huy tác dụng tích cực, đáp ứng nhu
cầu phát triển kinh tế, xã hội và cải thiện chất lượng sống cho nhân dân.
Năm năm qua, tổng vốn đầu tư xã hội tăng gấp ba lần so với nhiệm kỳ
trước với mức bình quân 24,6%/năm. Thành phố đã thực hiện nhiều giải pháp để
đẩy mạnh đầu tư kết cấu hạ tầng đô thị, như đa dạng hóa các hình thức huy động
vốn, hình thành cơ chế huy động phát hành trái phiếu đô thị, áp dụng hình thức
BOT, BOO, BT, đổi đất lấy hạ tầng, định giá quyền sử dụng đất, xã hội hóa một
số dịch vụ đô thị tạo thêm nhiều kênh huy động vốn quan trọng, thu hút các thành
phần kinh tế tham gia vào kết cấu hạ tầng đô thị, giảm áp lực đầu tư từ ngân sách.
Nhiều công trình công cộng như cầu, đường, trường, bệnh viện, khu vui chơi giải
trí được xây dựng từ nguồn vốn này. Thu ngân sách trên địa bàn thành phố năm
sau đều cao hơn năm trước, giai đoạn 2005-2010 gấp 2,5 lần giai đoạn 20012005, hằng năm đều vượt chỉ tiêu nộp ngân sách Trung ương giao và đóng góp
hơn 30% ngân sách quốc gia. Năm loại thị trường (hàng hóa và dịch vụ, tài
chính, công nghệ, bất động sản, lao động) phát triển khá nhanh, góp phần huy
động vốn cho đầu tư. Thành phố tiếp tục phát triển thị trường trong nước và xuất


khẩu, giải quyết việc làm. Nhiệm kỳ vừa qua hơn một triệu lao động có việc làm
mới, trong đó có gần nửa triệu lao động được đào tạo nghề. Kinh tế đối ngoại tiếp
tục được mở rộng trên cả ba lĩnh vực xuất nhập khẩu, thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) và nguồn vốn viện trợ phát triển (ODA) là nhân tố quan trọng
thúc đẩy kinh tế thành phố tăng trưởng. Môi trường kinh doanh và đầu tư tiếp tục
được cải thiện qua những tiến bộ trong cải cách hành chính và các chính sách ưu

đãi đầu tư lĩnh vực công nghệ cao, kết cấu hạ tầng, bảo vệ môi trường đã từng
bước tạo lập được môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế
và giữ vai trò trung tâm thúc đẩy sự phát triển kinh tế cho cả khu vực phía nam.
Thành phố tích cực mở rộng quan hệ hợp tác phát triển kinh tế - xã hội với các
tỉnh, thành phố, kết quả tuy còn khiêm tốn, nhưng đã mở ra hướng đi tích cực.
Có thể nói vị trí, vai trò của thành phố đối với khu vực và cả nước theo
Nghị quyết số 20 - NQ/T.Ư của Bộ Chính trị về phương hướng nhiệm vụ phát
triển TP Hồ Chí Minh và Nghị quyết số 53 - NQ/T.Ư của Bộ Chính trị về phát
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh vùng Đông-Nam Bộ và vùng
kinh tế trọng điểm phía nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 ngày
càng được khẳng định trên nhiều lĩnh vực: đóng góp vào quy mô và tốc độ tăng
trưởng kinh tế; thu ngân sách Nhà nước; kim ngạch xuất khẩu; tổng mức luân
chuyển hàng hóa; huy động vốn đầu tư; dịch vụ, du lịch, khoa học - công nghệ;
đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH của khu vực và đất nước.
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, các hoạt động khoa học - công nghệ, văn
hóa, giáo dục, y tế bảo vệ và chăm sóc sức khỏe người dân cũng đã đạt được
những kết quả đáng mừng. An ninh - quốc phòng được bảo đảm có tác dụng tích
cực tới các lĩnh vực khác. Mỗi người dân thành phố đều có quyền tự hào về
những đóng góp của mình đối với sự phát triển chung của TP Hồ Chí Minh hôm
nay.
Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh nhận thức rằng nhiệm kỳ vừa qua, tuy
kinh tế tăng trưởng khá cao nhưng vẫn chưa tương xứng với vị trí, vai trò, tiềm
năng và lợi thế của mình. Chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh chưa
cao, nhiều nguồn lực quan trọng và những yếu tố thuận lợi, thế mạnh của thành
phố chưa được khai thác và sử dụng có hiệu quả. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đặc
biệt là trong công nghiệp và dịch vụ còn chậm. Các ngành kinh tế mũi nhọn có
hàm lượng khoa học - công nghệ cao và các dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn,
chuyển giao công nghệ... chưa thật sự phát triển đúng yêu cầu và phục vụ đắc lực
cho nhu cầu phát triển. Kết cấu hạ tầng ngày càng quá tải, gây bức xúc cho người
dân, cản trở mục tiêu tăng trưởng kinh tế và cải thiện dân sinh. Quy hoạch và

quản lý đô thị còn lúng túng bị động chưa theo kịp tốc độ phát triển. Chất lượng
giáo dục, đào tạo và nguồn nhân lực chưa tương xứng với yêu cầu phát triển và
hội nhập. Khoa học và công nghệ chưa thật sự là động lực thúc đẩy kinh tế - xã
hội...
Thành phố đã gắn kết chặt chẽ với các tỉnh, thành phố chung quanh và
một số địa phương trong nước, nhưng chưa thật sự thể hiện rõ vai trò trung tâm
thúc đẩy sự phát triển của kinh tế cho cả vùng kinh tế trọng điểm phía nam. Có
thể nói, đây là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng tới hiệu quả và sức cạnh
tranh của kinh tế thành phố và cũng là thách thức khá lớn đối với kinh tế thành
phố trong nhiệm kỳ tiếp theo. Nguy cơ "bị" đuổi kịp và "tụt hậu" về kinh tế đối
với một số địa phương khác không phải là không có.
Giữ vững vai trò hạt nhân "đầu tàu" kinh tế


Từ nhiều năm nay, TP Hồ Chí Minh luôn tự hào giữ vai trò quan trọng
trong phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và thực tiễn đã khẳng định điều đó.
Với lợi thế vượt trội so với các thành phố lớn khác của cả nước về tiềm lực kinh
tế, TP Hồ Chí Minh đóng vai trò hạt nhân của vùng kinh tế trọng điểm phía nam,
nơi tạo ra một phần tư tổng sản phẩm quốc nội (GDP); một phần ba giá trị sản
lượng công nghiệp, 30% tổng thu ngân sách quốc gia, hơn 30% tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu, thu hút một phần ba tổng số dự án FDI. Chỉ tính riêng lĩnh vực
tài chính - ngân hàng, thành phố có mạng lưới thương mại cổ phần năng động
hoạt động khắp nước, chiếm 30% tổng dư nợ cho vay và vốn huy động của các
ngân hàng cả nước. Nếu cộng thêm số vốn trên thị trường chứng khoán và số vốn
huy động của thị trường bảo hiểm thì tổng tài sản tài chính của TP Hồ Chí Minh
chiếm gần 50% tổng tài sản tài chính của cả nước. Ngoài những lợi thế trên,
thành phố còn hội tụ nhiều yếu tố khác đặc biệt là đội ngũ trí thức đông đảo nguồn nhân lực quan trọng chất lượng cao và hệ thống các trường cao đẳng, đại
học, viện nghiên cứu... để trở thành một trung tâm công nghiệp, khoa học công
nghệ, giáo dục - đào tạo, y tế và tài chính lớn trong khu vực. Nằm giữa miền
Đông và Tây Nam Bộ, thành phố có đường hàng không, cảng biển, hệ thống

đường bộ thuận tiện kết nối trực tiếp với các nước trong khu vực và thế giới.
Kinh tế thành phố phát triển đóng góp ngày càng lớn vào nền kinh tế đất nước.
Chỉ tính riêng giai đoạn 2006-2010, thành phố đóng góp hơn 20% GDP cả nước,
hơn 30% ngân sách quốc gia, gần 30% giá trị sản xuất công nghiệp, 30% tổng
mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ, 40% kim ngạch xuất nhập khẩu. Mức thu nhập
bình quân của người dân thành phố năm 2010 gấp khoảng 2,5 lần so với bình
quân cả nước.
Những kết quả đạt được trên đây đã góp phần để thành phố tiếp tục giữ
vững vai trò "đầu tàu" kinh tế của khu vực và cả nước và là cơ sở để thành phố
có thêm nguồn lực đầu tư phát triển, đóng góp ngày càng lớn vào sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước.
Để giữ vững vai trò đầu tàu kinh tế của cả nước, TP Hồ Chí Minh xác định
rõ hướng đi tới của mình, đó là tập trung nâng cao chất lượng tăng trưởng, xây
dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng, phát triển bền vững. Ngoài ra cũng cần phải nhìn
nhận sâu hơn nữa về những bất cập, yếu kém tồn tại và những vấn đề mới nảy
sinh trong quá trình phát triển để Đảng bộ và nhân dân thành phố đồng lòng,
đồng sức xốc tới.
Những thành tựu đạt được trong nhiệm kỳ qua của Đảng bộ TP Hồ Chí
Minh là căn cứ thực tiễn để khẳng định sự đúng đắn trong đường lối phát triển
kinh tế - xã hội mà Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng và Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ thành phố lần thứ 8 nhiệm kỳ 2006-2010 đã đề ra.
Kế thừa thành tựu của các nhiệm kỳ trước và từ thực tiễn sinh động của
nhiệm kỳ vừa qua về phát triển kinh tế, xã hội, Thành ủy TP Hồ Chí Minh quyết
tâm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của đảng bộ thành phố phát huy
sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn
diện, xây dựng thành phố trở thành một thành phố xã hội chủ nghĩa, văn minh,
hiện đại, đầu tàu kinh tế của cả nước, xứng đáng được mang tên Chủ tịch Hồ Chí
Minh vĩ đại.
C. LIÊN HỆ BẢN THÂN – CƠ QUAN ĐƠN VỊ:
* Liên hệ thực tiễn kinh tế Quận Phú Nhuận:



Quận Phú Nhuận là 1 trong những trung tâm Thành phố HCM, thế mạnh
của Quận PN là thương mại, dịch vụ; trong đó chủ yếu là buôn bán thực hiện trao
đổi sản phẩm với nhau. Bên cạnh đó với phần đông là dân lao động, có đông
người buôn bán có nhiều kinh nghiệm, nhạy bén trong sản xuất- kinh doanh, phát
triển mạnh về sản xuất tiểu thủ công nghiệp.
Kinh tế Quận PN phát triển ổn định, doanh thu thương mại, dịch vụ tăng
bình quân 26,2%/năm. Có thể nói, trên cơ sở định hướng phát triển kinh tế, thông
qua việc triển khai thực hiện các giải pháp cụ thể, Quận PN đã phát huy nội lực,
thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội
địa phương. Quận PN tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng “
thương mại- dịch vụ - công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp”, đẩy mạnh thực hiện
đề án: “ Các giải pháp phát huy nội lực, thu hút đầu tư, chuyển dịch kinh tế”.
Thực hiện chương trình hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế đạt kết quả tích
cực, quận 6 đã đề ra nhiều giải pháp đồng bộ nhằm khai thác tiềm năng các thành
phần kinh tế; huy động có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư phát triển thương mại –
dịch vụ; tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi như: cải
tiến thủ tục hành chính trong đăng ký kinh doanh, quản lý thuế; quy hoạch mạng
lưới chợ- siêu thị- trung tâm thương mại, hình thành các tuyến đường chuyên
doanh dịch vụ tài chính – ngân hàng… để các đơn vị kinh tế tư nhân, tập thể mở
rộng sản xuất, kinh doanh. Thu hút đầu tư phát triển 3 cụm trung tâm thương mại
– dịch vụ được tập trung thực hiện đạt hiệu quả khá tốt
Cụm trung tâm thương mại CO.op mart – sự hình thành khu dân cư mới,
các tuyến đường chuyên kinh doanh vật liệu xây dựng, trang trí nội thất, các công
trình vui chơi giải trí kết hợp với khu dân cư đã tạo được diện mạo mới, thu hút
và thúc đẩy hoạt động thương mại – dịch vụ quận chuyển biến tích cực, các cơ sở
sản xuất kinh doanh tang, tổng vốn kinh doanh tang góp phần vào chuyển dịch cơ
cấu kinh tế các phường nói riêng và quận phú nhuận nói chung.




×