BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………
BỘ NỘI VỤ
……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
ĐÀO XUÂN CƯỜNG
PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC
GIA ĐÌNH- TỪ THỰC TIỄN TỈNH TUYÊN QUANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
HÀ NỘI – 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………
BỘ NỘI VỤ
……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
ĐÀO XUÂN CƯỜNG
PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC
GIA ĐÌNH- TỪ THỰC TIỄN TỈNH TUYÊN QUANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số
: 60 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS LÊ THỊ HƯƠNG
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Đào Xuân Cường
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG,
CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ............................................................................................. 8
1.1. QUAN NIỆM VỀ BẠO LỰC GIA ĐÌNH ......................................................................... 8
1.1.1. Khái niệm bạo lực gia đình .............................................................................................. 8
1.1.2. Nguồn gốc của bạo lực gia đình .................................................................................... 14
1.1.3. Đặc điểm của bạo lực gia đình ...................................................................................... 16
1.1.4. Hậu quả của bạo lực gia đình ........................................................................................ 17
1.2. PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH .................................... ….19
1.2.1. Khái niệm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình 19
1.2.2. Nội dung pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình ....................................................... 21
1.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO
LỰC GIA ĐÌNH ...................................................................................................................... 35
Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH Ở TỈNH
TUYÊN QUANG VÀ QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ..................... 42
2.1. THỰC TRẠNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH VÀ PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG
BẠO LỰC GIA ĐÌNH Ở TỈNH TUYÊN QUANG ................................................................ 42
2.1.1. Thực trạng và nguyên nhân bạo lực gia đình ở tỉnh Tuyên Quang ............................... 42
2.1.2. Thực trạng pháp luật và thi hành pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở
tỉnh Tuyên Quang ................................................................................................................... 60
2.2. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ BẢO ĐẢM
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY .................................................................................................................... 74
2.2.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện pháp luật về phòng, chống
bạo lực gia đình........................................................................................................................ 74
2.2.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ......................... 79
2.2.3. Các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ............ 84
KẾT LUẬN............................................................................................................................. 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 96
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bạo lực gia đình là vấn đề mang tính toàn cầu, gây nhức nhối cho nhân
loại, để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng cho con người, nhất là đối với phụ nữ
và trẻ em. Bạo lực gia đình đang trở thành vấn đề phổ biến, là biểu hiện của
các mối quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa người lớn và trẻ em trên
toàn thế giới; là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng tới danh dự, nhân
phẩm, sức khỏe, tính mạng của phụ nữ và trẻ em, làm suy giảm chất lượng
cuộc sống nói chung. Bạo lực gia đình đã và đang là một trở ngại lớn đối với
sự bình đẳng trong xã hội, là lực cản trên con đường xây dựng một xã hội văn
minh, hiện đại. Vì vậy, trong nhiều năm qua, sự gia tăng và mức độ nghiêm
trọng của bạo lực gia đình là mối quan tâm của nhiều quốc gia và các tổ chức
quốc tế, đặc biệt, tổ chức Liên hợp quốc đã thông qua Công ước về các quyền
dân sự và chính trị; Công ước về quyền trẻ em; Công ước về xóa bỏ tất cả các
hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ… đã thể hiện sự quan chung của
cả cộng đồng quốc tế trong vấn đề bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực gia
đình.
Ở nước ta, thúc đẩy bình đẳng giới, tôn trọng và bảo đảm quyền con
người chống lại mọi hành vi bạo lực là quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà
nước. Việt Nam đã phê chuẩn và tham gia nhiều công ước liên liên quan đến
phòng, chống bạo lực như: phê chuẩn Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức
phân biệt đối xử chống lại phụ nữ vào ngày 17/12/1982, phê chuẩn Công ước
quốc tế về quyền trẻ em ngày 20/2/1990…. Bên cạnh đó, vấn đề phòng,
chống bạo lực gia đình cũng được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp
luật do Nhà nước ban hành, theo đó đều coi bạo lực gia đình là hành vi vi
phạm pháp luật, xâm phạm đến quyền được bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh
1
dự và nhân phẩm của con người, cụ thể như: Luật Hôn nhân và gia đình; Luật
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Bộ luật Dân sự; Bộ luật Hình sự; Luật
Bình đẳng giới; đặc biệt là Luật Phòng, chống bạo lực gia đình được Quốc hội
khóa XII thông qua ngày 21/11/2007, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2008.
Những văn bản pháp luật nêu trên và các văn bản hướng dẫn thi hành là cơ sở
pháp lý quan trọng cho việc tổ chức thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo
lực gia đình và xử lý các hành vi bạo lực gia đình.
Tuy nhiên, thực tiễn pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình cũng còn
nhiều hạn chế: bất bình đẳng giới vẫn tồn tại trong hầu hết các lĩnh vực của
đời sống xã hội; định kiến giới và tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn nặng
nề trong đời sống xã hội; bạo lực gia đình vẫn diễn biến phức tạp dưới nhiều
hình thức tinh vi gây ảnh hưởng tới gia đình- tế bào của xã hội… Thực trạng
bạo lực gia đình diễn ra có nhiều nguyên nhân, và một trong số đó bắt nguồn
từ việc thực thi pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình chưa đầy đủ và
thiếu hiệu quả.
Trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, thực tiễn công tác phòng, chống bạo
lực gia đình cũng cho thấy còn những tồn tại, hạn chế nhất định như: chưa có
sự phối hợp hành động hiệu quả từ phía các cơ quan chính quyền, tổ chức,
đoàn thể trên địa bàn; các nguồn lực xã hội dành cho công tác phòng, chống
bạo lực gia đình còn thiếu; trình độ dân trí cùng với mức sống chung của
người dân chưa cao; nhận thức về pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình,
về quyền của phụ nữ trẻ em, về bình đẳng giới của người dân còn hạn chế;
tâm lý không muốn “vạch áo cho người xem lưng” của chính nạn nhân khi
có bạo lực gia đình xảy ra vẫn còn phổ biến... Tất cả những vấn đề trên đã và
đang làm cho tình trạng bạo lực gia đình diến biến phức tạp, khó kiểm soát.
2
Trong bối cảnh đó, cần thiết phải có những nghiên cứu, đánh giá đầy đủ,
nghiêm túc về những nguyên nhân phát sinh hành vi bạo lực gia đình, những
hậu quả mà hành vi đó mang lại cùng những tác động của nó tới đời sống gia
đình nói riêng cũng như ảnh hưởng tiêu cực tới xã hội nói chung. Cùng với
đó, việc nghiên cứu những quy định pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống
bạo lực gia đình cũng là vấn đề hết sức cần thiết để đánh giá toàn diện mức độ
điều chỉnh, tác động của pháp luật hiện hành đối với các quan hệ xã hội có
liên quan đến vấn đề bạo lực gia đình, từ đó phát huy những điểm tích cực
cũng như hạn chế, khắc phục những điểm còn bất cập trong thực tiễn thi hành
pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Tuyên Quang đồng thời đề
xuất những giải pháp cụ thể để từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về
phòng, chống bạo lực gia đình, không ngừng nâng cao hiệu quả của công tác
đấu tranh phòng, chống bạo lực gia đình trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang nói
riêng và trên phạm vi cả nước nói chung.
Xuất phát từ những lý do trên, vấn đề “Pháp luật về phòng, chống bạo
lực gia đình- từ thực tiễn tỉnh Tuyên Quang” đã được tác giả lựa chọn làm
đề tại luận văn thạc sỹ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bạo lực gia đình không phải là vấn đề mới mẻ, mà là hiện tượng xã hội
có tính lịch sử và tương đối phổ biến trên thế giới. Bạo lực gia đình là vấn đề
thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tác giả trong và ngoài nước.
Một số công trình nghiên cứu được công bố về vấn đề này, cụ thể như:
“Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc phòng chống bạo
lực gia đình” của Nguyễn Thị Ngọc Bích, Đại học Luật Hà Nội [2];
“Tìm hiểu và thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình” của
Nguyễn Đình Thơ [34];
3
“Bàn về ranh giới giữa xử lý hình sự và xử lý hành chính các hành vi
bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Lê Lan Chi, Viện Nhà
nước và Pháp luật [6];
“Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở nước ta hiện nay- Thực
trạng vấn đề và giải pháp” của Viện nghiên cứu Quyền con người, Học viện
Chính trị Quốc gia HCM [45];
“Bạo lực gia đình– một sự sai lệch giá trị” của tác giả Lê Thị Quý và
Đặng Vũ Cảnh Linh [29];
“Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình” của tác giả Nguyễn
Ngọc Điện [11];
“Pháp luật quốc tế về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ”
của tác giả Trần Thị Hòe [12];
“Tính hợp lý, khả thi của một số biện pháp xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình” của tác giả Phan Thị Lan
Hương [14];
“Bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em - thực trạng và nguyên nhân” của
Ngô Thị Hường, Đại học Luật Hà Nội [13];
“Tổng quan về bạo lực và pháp luật phòng, chống bạo lực đối với phụ
nữ, trẻ em” của Nguyễn Thị Kim Phụng 17]…
Ngoài ra, còn nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học,
các Luận văn, đề tài đã được nghiệm thu liên quan đến vấn đề bạo lực gia
đình. Nhìn chung, các công trình nêu trên đã phân tích, đánh giá vấn đề bạo
lực gia đình dưới nhiều góc độ khác nhau, tuy nhiên việc nghiên cứu về pháp
luật về phòng, chống bạo lực gia đình từ thực tiễn một địa bàn cụ thể là tỉnh
Tuyên Quang từ đó đề xuất những giải pháp đề hoàn thiện pháp luật về
4
phòng, chống bạo lực gia đình thì có rất ít các đề tài đề cập tới. Vì vậy, đề tài
nghiên cứu này không có sự trùng lắp với những công trình nghiên cứu đã
được công bố, các kết quả nghiên cứu trước đó chỉ có giá trị tham khảo khi
tác giả nghiên cứu đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm mục đích nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cơ
sở lý luận về pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình hiện nay; đánh giá thực
trạng bạo lực gia đình tại tỉnh Tuyên Quang, thực trạng pháp luật về phòng,
chống bạo lực gia đình hiện nay và đề xuất giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện
pháp luật và bảo đảm thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở
nước ta.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu, phân tích cơ sở lý luận của pháp luật phòng, chống bạo
lực gia đình theo những quy định hiện hành.
- Phân tích tình hình bạo lực gia đình và thực trạng pháp luật về phòng,
chống bạo lực gia đình ở tỉnh Tuyên Quang; phân tích, đánh giá những kết
quả đã đạt được, những tồn tại, hạn chế của việc thực hiện pháp luật phòng,
chống bạo lực gia đình tại Tuyên Quang và làm rõ nguyên nhân của những
hạn chế đó.
- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo
đảm thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
5
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình từ thực tiễn tỉnh Tuyên Quang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng pháp luật
phòng, chống bạo lực gia đình trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang từ năm 2010
đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm cơ
bản của Đảng và Nhà nước ta về pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình,
trên cơ sở những phương pháp nghiên cứu cụ thể: thống kê, tổng hợp, diễn
giải, quy nạp, phân tích, so sánh để phân tích và làm rõ các vấn đề khoa học
cần nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Về mặt lý luận, những vấn đề được nghiên cứu trong luận văn góp phần
làm phong phú thêm những vấn đề lý luận về pháp luật phòng, chống bạo lực
gia đình, đóng góp vào việc hoàn thiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia
đình ở nước ta hiện nay.
Về mặt thực tiễn, luận văn góp phần thay đổi phần nào nhận thức của
người dân về vấn đề bạo lực gia đình, bên cạnh đó, những giải pháp được đề
xuất vận dụng vào thực tiễn sẽ nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh
phòng, chống bạo lực gia đình trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang và có thể là
kinh nghiệm thực tiễn để tham khảo, áp dụng cho những địa phương khác trên
cả nước, đồng thời luận văn cũng là tài liệu tham khảo cho những người quan
tâm nghiên cứu về những vấn đề bạo lực gia đình.
6
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật về phòng, chống bạo lực
gia đình
Chương 2: Thực trạng pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở
tỉnh Tuyên Quang và quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm
thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ
PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH
1.1. QUAN NIỆM VỀ BẠO LỰC GIA ĐÌNH
1.1.1. Khái niệm bạo lực gia đình
Bạo lực là một hiện tượng xã hội, trong Tiếng Việt, bạo lực được hiểu
là “sức mạnh dùng để cưỡng bức, trấn áp hoặc lật đổ” [38, tr.6]. Với ý nghĩa
chung đó, bạo lực có thể được sử dụng với cả nghĩa tiêu cực (bạo lực với trẻ
em, bạo lực gia đình, bạo lực giới…) hoặc tích cực (bạo lực cách mạng, bạo
lực để trấn áp tội phạm…) Trong xã hội luôn tồn tại nhiều hình thức bạo lực,
các chủ thể có thể dùng bạo lực để giải quyết những bất hòa trong quan hệ xã
hội, tranh giành quyền lực, lợi ích, hay sử dụng bạo lực để lật đổ các phe phái
chính trị, lật đổ chính quyền… có thể nói, bạo lực là vấn đề đã ra đời và tồn
tại từ rất lâu trong lịch sử xã hội loài người. Trong những trường hợp nhất
định như chiến tranh bảo vệ Tổ Quốc, phòng vệ chính đáng thì bạo lực có vai
trò tích cực trong xã hội nhưng xét về bản chất thì bạo lực là một hiện tượng
tiêu cực trái với hòa bình, văn minh, ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội,
bị xã hội loài người lên án. Có thể thấy, bạo lực chính là một phương thức
hành xử trong các mối quan hệ xã hội và tồn tại từ rất lâu trong lịch sử xã hội
loài người, nhưng bạo lực cũng là “loại quyền lực có phẩm chất kém nhất so
với quyền lực kinh tế và quyền lực trí tuệ” [15, tr.16].
Như vậy, việc sử dụng bạo lực phụ thuộc vào mục đích sử dụng, đối
tượng sử dụng và đối tượng chịu hậu quả của bạo lực. Tuy nhiên, khi trong xã
hội không còn giai cấp bóc lột, không trong tình trạng bị giặc ngoại xâm đe
dọa… thì phần lớn hiện tượng bạo lực là biểu hiện của những vấn đề tiêu cực,
do đó nhà nước cần có những quy định pháp luật để điều chỉnh những hành vi
8
bạo lực trái pháp luật để từ đó có những biện pháp phòng, chống bạo lực
trong xã hội nói chung trong đó có vấn đề bạo lực gia đình nói riêng.
“Gia đình là tế bào của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành,
nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống
tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”[9]. Còn bạo lực gia đình là hiện tượng xã hội phát
sinh không bình thường, thể hiện những lệch chuẩn xã hội, phá vỡ môi trường
gia đình lành mạnh ấy. Bạo lực gia đình là vấn đề mang tính toàn cầu, và xã
hội Việt Nam cũng không là một ngoại lệ, gây nhức nhối cho nhân loại, nó để
lại nhiều hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, cho gia đình và cho cá nhân, nhất
là đối với phụ nữ và trẻ em. Bạo lực gia đình tạo nên những rạn nứt, đổ vỡ,
gây nên nhiều đau khổ trong đời sống gia đình, kéo theo những hậu quả nặng
nề cho xã hội. Bạo lực gia đình gần đây đã trở thành một vấn nạn, thu hút sự
quan tâm của toàn xã hội. bạo lực gia đình không chỉ xảy ra ở những nơi có
điều kiện kinh tế thấp, cuộc sống nghèo nàn, lạc hậu mà nó diễn ra ở mọi nơi
từ thành thị tới nông thôn, xảy ra ở mọi gia đình, trong các tầng lớp khác nhau
và gây ra những thiệt hại to lớn cả về vật chất và tinh thần cho gia đình và xã
hội. Bạo lực gia đình là vấn đề không mới, nó từ lâu đã là mối quan tâm của
nhiều quốc gia, là chủ đề của nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa
học. Cho tới nay, tùy từng góc độ nghiên cứu, đã có rất nhiều quan điểm, cách
hiểu khác nhau về bạo lực gia đình.
Từ góc độ giới:
Bạo lực giới là một vấn đề tồn tại từ rất lâu trong lịch sử nhưng lại là
một nội dung mới trong luật pháp quốc tế. Trước những năm 80 của thế kỷ
XX, người ta cho rằng bạo lực đối với phụ nữ thuộc về các mối quan hệ có
tính riêng tư giữa các cá nhân, các thành viên trong gia đình. Vì vậy, mọi
9
hành vi bạo lực đối với phụ nữ nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của luật pháp
quốc tế nói chung, luật quốc tế về quyền con người nói riêng. Trong những
năm gần đây, mặc dù đã đạt được nhiều tiến bộ đáng kể trong việc nâng cao
địa vị bình đẳng của phụ nữ, nhưng do nhiều yếu tố khác nhau ở nhiều nơi
trên thế giới, nạn bạo lực đối với phụ nữ vẫn diễn ra thường xuyên dưới nhiều
hình thức, mức độ khác nhau.
Theo Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA): “bạo lực trên cơ sở giới là
bạo lực giữa nam giới và phụ nữ, trong đó phụ nữ là nạn nhân và điều này bắt
nguồn từ các mối quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ. Bạo lực thường
nhằm vào phụ nữ, hoặc ảnh hưởng lớn đến phụ nữ. Bạo lực trên cơ sở giới
bao gồm những tổn hại về thân thể, tâm lý, tình dục (bao gồm cả sự đe dọa
gây đau khổ, cưỡng bức hoặc tước đoạt sự tự do xảy ra trong gia đình hoặc
trong cộng đồng) nhưng nó không bị hạn chế ở những dạng này”[28].
Theo tinh thần của Luật Bình đẳng giới năm 2006 thì bạo lực gia đình
còn được hiểu là “sự phân biệt đối xử về giới, đó là việc hạn chế, loại trừ,
không công nhận hoặc không coi trọng vai trò, vị trí của nam và nữ, gây bất
bình đẳng giữa nam và nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình”
[21].
Như vậy, bạo lực gia đình trước hết là hành vi bạo lực đối với phụ nữ,
nạn nhân chủ yếu là phụ nữ, trong phần lớn các trường hợp bạo lực gia đình
thì hầu hết là những người vợ bị chồng đánh đập, hành hạ, ngược đãi, bên
cạnh đó là những người mẹ, người con gái, người chị người em bị những
người là con, là cha, là anh đánh đập, ngược đãi, hành hạ.
Nhìn từ góc độ giới có thể hiểu: bạo lực gia đình là bất kỳ hành vi nào
của các thành viên gia đình đối với nhau trên cơ sở giới tính, được biểu hiện
dưới những hình thức nhất định, có khả năng gây ra hoặc đe dọa gây ra những
10
tổn hại nhất định về thể chất, tinh thần, kinh tế, tước đoạt hoặc hạn chế quyền
tự do của các thành viên khác trong gia đình.
Từ góc độ xã hội:
Dưới góc độ xã hội học, gia đình được coi là tế bào của xã hội. Không
giống bất kỳ nhóm xã hội nào khác, gia đình có sự đan xen các yếu tố sinh
học, kinh tế, tâm lý, văn hóa…Những mối liên hệ cơ bản của gia đình bao
gồm vợ, chồng, cha mẹ và con, ông bà và cháu, anh chị em với nhau, những
mối liên hệ khác như: cô, dì, chú, bác với cháu, cha mẹ chồng với con dâu,
cha mẹ vợ với con rể…Mối quan hệ gia đình được thể hiện ở các khía cạnh:
có đời sống tình dục, sinh con và nuôi dạy con cái, lao động tạo ra của cải vật
chất để duy trì đời sống gia đình và đóng góp xã hội. Mối liên hệ này có thể
dựa trên những căn cứ pháp lý hoặc có thể dựa trên các căn cứ thực tế một
cách tự nhiên, tự phát [16].
Vấn đề bạo lực gia đình không còn là vấn đề mới trong xã hội hiện nay,
tuy nhiên, nhận thức về vấn đề này không thật đầy đủ nếu không muốn nói là
có phần lệch lạc, hạn chế. Đối với người dân, bạo lực gia đình còn là một khái
niệm mới vì thế ít người biết đến, đại bộ phận người dân chưa có cách hiểu
đầy đủ và chính xác về vấn đề này. Đa số người dân cho rằng chỉ những hành
vi đánh đập, gây thương tích, dẫn tới kết quả nạn nhân bị tổn thương hay tử
vong mới bị coi là bạo lực gia đình, còn những hành vi xâm phạm về tinh thần
thì không phải bạo lực. Nói về bạo lực gia đình có rất nhiều ý kiến khác nhau,
cụ thể là: một nhóm chia bạo lực gia đình ra thành hai loại: loại bạo lực mạnh
và loại bạo lực nhẹ. Bạo lực mạnh xảy ra như chồng vô cớ đánh vợ với những
tổn thương về thể xác nhất định, còn bạo lực nhẹ là chỉ có hành vi ngược đãi
và thi thoảng mới xảy ra. Nhóm khác cho rằng bạo lực gia đình là hành vi tấn
công bằng vũ lực của một người (thường là đàn ông) đối với người có quan
11
hệ tình cảm với mình và có hành vi kiểm soát về tài chính cũng như các mối
quan hệ xã hội của người bị bạo lực. Có nhóm lại cho rằng chỉ những hành vi
đánh đập mà bị xử lý hành chính, thậm chí có thể cấu thành tội phạm mới là
bạo lực.
Như vậy, có thể thấy sự nhận thức về bạo lực gia đình còn có nhiều
chiều và nhiều hạn chế, từ sự nghiên cứu và phân tích tên có thể hiểu dưới
góc độ xã hội: bạo lực gia đình là hành động dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ
lực của một người đối với một người khác có quan hệ hôn nhân, huyết thống
hoặc nuôi dưỡng, gây ra hoặc đe dọa gây ra những tổn hại về thể chất, tinh
thần, kinh tế cho những người đó.
Từ góc độ pháp luật:
Khoản 2, Điều 1 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 quy
định “Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của các thành viên trong gia đình gây
tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với
thành viên khác trong gia đình”. Như vậy, khái niệm bạo lực gia đình có liên
quan chặt chẽ đến khái niệm thành viên gia đình, vì bạo lực gia đình là hành
vi chỉ xảy ra giữa những người có quan hệ nhất định, cùng là thành viên của
một gia đình.
Theo Khoản 16, Điều 3 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 quy định
“Thành viên gia đình bao gồm vợ, chồng; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, cha dượng,
mẹ kế, cha mẹ vợ, cha mẹ chồng; con đẻ, con nuôi, con riêng của vợ hoặc
chồng, con dâu, con rể; anh, chị, em cùng cha mẹ, anh, chị, em cùng cha khác
mẹ, anh, chị, em cùng mẹ khác cha, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người
cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; ông bà nội, ông bà
ngoại; cháu nội, cháu ngoại; cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột.” như vây,
bạo lực gia đình không chỉ xảy ra giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái,
12
giữa anh chị em ruột với nhau mà còn có thể xảy ra giữa ông bà, cô, dì, chú,
bác… là những người có quan hệ họ hàng thân thích mà theo luật đều là thành
viên gia đình.
Nhìn từ nhiều góc độ khác nhau nên quan điểm về bạo lực gia đình
cũng có sự khác nhau, tuy nhiên nó có một điểm chung đó là: bạo lực gia đình
là một dạng của bạo lực xã hội, là việc dùng sức mạnh để giải quyết các vấn
đề về gia đình. Nếu coi gia đình là một thiết chế xã hội đặc biệt, là hình thức
thu nhỏ của xã hội thì bạo lực gia đình cũng chính là hình thức thu nhỏ và đặc
biệt của bạo lực xã hội. Sự khác biệt giữa bạo lực gia đình với bạo lực xã hội
ở chỗ bạo lực gia đình thường diễn ra giữa những người có cùng quan hệ hôn
nhân hoặc huyết thống. Nhìn chung, cả hai hình thức bạo lực này đều có sự
đồng nhất trong nhận thức như về hậu quả, sự xâm hại của hành vi bạo lực tới
quyền và lợi ích cá nhân.
Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 của Việt Nam được
Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 2 thông qua
ngày 21 tháng 7 năm 2007, theo đó tại Điều 1, khoản 2 quy định như sau:
“bạo lực gia đìnhlà hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có
khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với các thành viên
khác trong gia đình”[22].
Như vậy, qua nghiên cứu trên cơ sở các quan điểm về bạo lực gia đình,
có thể hiểu: bạo lực gia đình trước hết phải là hành vi cố ý, chủ thể thực hiện
là thành viên gia đình, hậu quả mang lại đó là gây tổn hại hoặc có khả năng
gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với các thành viên khác trong gia
đình. Các hành vi bạo lực gia đình có thể được biểu hiện dưới dạng hành động
như hành hạ, ngược đãi, đánh đập… hoặc không hành động như bàng quan,
thờ ơ, ghẻ lạnh, bỏ mặc hay “chiến tranh lạnh”.
13
1.1.2. Nguồn gốc của bạo lực gia đình
Nguồn gốc cơ bản của bạo lực gia đình xuất phát từ 2 khía cạnh chính
đó là: từ phía cá nhân và từ phía xã hội.
Về phía cá nhân, phần lớn các hành vi bạo lực thường diễn ra trong
những gia đình có chồng (vợ) nghiện hút, cờ bạc, rượu chè, mại dâm… Theo
điều tra của Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội, nguyên nhân trực tiếp
làm nảy sinh hành vi bạo lực gia đình là do người chồng nghiện rượu, say
rượu chiếm 60% các vụ bạo lực, ngoài ra còn do hoàn cảnh kinh tế khó khăn,
không có công ăn việc làm ổn định, học vấn thấp, thiếu hiểu biết về pháp luật.
Đối với hành vi bạo lực gia đình do rượu và ma túy: khi sử dụng các
chất kích thích như rượu, ma túy… nam giới thường có xu hướng giải quyết
những khó khăn bằng hành vi bạo lực. Chẳng hạn, nhiều người thường lấy cớ
say rượu để đánh đập, hành hạ vợ con, bắt vợ phải đưa tiền để mua rượu, chơi
bạc.
Đối với bạo lực gia đình xảy ra trong những gia đình có hoàn cảnh kinh
tế khó khăn: những cặp vợ chồng phải bươn chải vất vả để kiếm sống thường
có sự căng thẳng về thần kinh hơn do đó dễ nảy sinh mâu thuẫn dẫn đến tranh
cãi trong gia đình và cuối cùng, nam giới thường sử dụng sức mạnh của mình
để gây bạo lực với vợ và con.
Tuy nhiên, không thể đổ lỗi hoàn toàn cho nghiện ngập và đói nghèo vì
có nhiều gia đình có cuộc sống vật chất đầy đủ nhưng vẫn xảy ra bạo lực gia
đình, hay ngược lại nhiều gia đình khó khăn vất vả về kinh tế mà vẫn hạnh
phúc. Bạo lực gia đình còn có nguyên nhân từ sự thiếu hiểu biết, văn hóa thấp
từ đó dẫn đến những lệch lạc trong suy nghĩ và thiếu kiểm soát trong hành
động
14
Về phía xã hội, nguồn gốc sâu xa của tình trạng bạo lực gia đình đó
là nhận thức về vấn đề bình đẳng giới còn hạn chế, bất bình đẳng giới là gốc
rễ của bạo lực gia đình, điều này có thể thấy rõ qua những nội dung:
Do ảnh hưởng nặng nề của nền văn hóa phong kiến với những quan
niệm mang đậm màu sắc định kiến giới, đó là những định kiến nằm ngay
trong truyền thống văn hóa, phong tục tập quán, chuẩn mực đạo đức bấy lâu
nay trong xã hội phương Đông như: tư tưởng trọng nam khinh nữ; chồng
chúa, vợ tôi; tư tưởng gia trưởng, độc đoán của người đàn ông; phụ nữ là
người giữ gìn hạnh phúc gia đình; ca ngợi thái quá đức hi sinh của phụ nữ;
hay quan niệm nuôi dạy con cái “yêu cho roi, cho vọt”… Những quan niệm
này đã khiến cho nam giới đương nhiên có vai trò trụ cột trong gia đình, có
quyền định đoạt mọi việc, quyền thể hiện tiếng nói của mình trong gia đình
nên họ có thể mắng chửi vợ con là điều bình thường, thậm chí có thể thượng
cẳng chân, hạ cẳng tay với vợ con cũng có thể chấp nhận được.
Nhận thức của chính bản thân người phụ nữ bị bạo lực chưa đúng đắn:
sự đấu tranh của người phụ nữ trước nạn bạo hành gia đình còn hạn chế, thiếu
thẳng thắn, còn cam chịu. Người phụ nữ còn mang nặng tư tưởng “xấu chàng
hổ ai”, họ sợ “vạch áo cho người xem lưng”, lo sợ bạn bè, hàng xóm chê cười
vì những hành vi bạo hành trong gia đình.
Ngoài ra, nhận thức của cộng đồng xã hội về vấn đề bạo lực gia đình
cũng là một nguyên nhân để hiện tượng bạo lực gia đình còn tồn tại và phát
triển. Hiện nay, cộng đồng xã hội đã quá quen với hiện tượng bạo lực gia
đình, họ coi bạo lực gia đình là chuyện thông thường, chuyện riêng tư của
mỗi gia đình theo kiểu “đèn nhà ai nhà nấy rạng”, sự can thiệp, lên án của
cộng đồng, hàng xóm, khu dân cư và ngay cả chính quyền địa phương cũng
15
chỉ mang tính nhất thời, mờ nhạt. Chính vì vậy, bạo lực gia đình vẫn hàng
ngày xảy ra trong đời sống xã hội.
Như vậy, nguồn gốc của bạo lực trong gia đình là do sự nhận thức của
mỗi cá nhân chưa đầy đủ về hành vi bạo lực gia đình. Bạo lực gia đình là biểu
hiện của sự bất bình đẳng giới, là sản phẩm của tư tưởng gia trưởng “trọng
nam khinh nữ”. Các yếu tố như tệ nạn xã hội, kinh tế thiếu thốn, mâu thuẫn
gia đình, ngoại tình…cũng chỉ là những nguyên nhân thứ yếu dẫn tới bạo lực
gia đình. Điều đáng tiếc là một bộ phận không nhỏ nam giới và phụ nữ không
nhận thấy sự bất bình đẳng này mà mặc nhiên chấp nhận nó, không có ý định
thay đổi. Vì vậy, để giải quyết được triệt để vấn đề bạo lực gia đình, chúng ta
cần phải thay đổi nhận thức của từng cá nhân cũng như của cả cộng đồng về
vấn đề bình đẳng giới.
Xóa bỏ “khoảng cách giới” là một vấn về cấp bách, thực tế đã chứng
minh rằng thực hiện sự bình đẳng về giới không chỉ đem lại lợi ích riêng cho
nữ giới mà còn vì lợi ích chung của cả hai giới, vì sự tiến bộ chung của các
thế hệ mai sau.
1.1.3. Đặc điểm của bạo lực gia đình
Thứ nhất, bạo lực gia đình là hành vi trái pháp luật, xâm phạm những
quyền cơ bản nhất của con người đó là quyền được sống, quyền được tự do,
quyền được bảo vệ và hành vi này mang màu sắc bất bình đẳng giới rõ rệt,
nạn nhân thường là người phụ nữ phải chịu đựng những tổn thương, đau đớn
về thể xác, tinh thần, tình dục, kinh tế…
Thứ hai, bạo lực gia đình là hành vi xảy ra giữa các thành viên trong
gia đình, tức là chủ thể có hành vi bạo lực và nạn nhân của hành vi bạo lực ấy
phải là thành viên trong gia đình. Thực tế cho thấy, phần lớn bạo lực gia đình
do đàn ông gây ra cho người bạn đời của họ. Các hành vi bạo lực gia đình với
16
phụ nữ thường không xảy ra đơn lẻ mà bao gồm nhiều dạng khác nhau, bạo
lực về thể chất thường đi kèm với bạo lực tinh thần, bạo lực tình dục.
Thứ ba, bạo lực gia đình được thực hiện bởi lỗi cố ý. Người thực hiện
hành vi ý thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, nhưng vẫn cố tình thực
hiện hành vi bạo lực đó bất chấp hậu quả xảy ra. Nguyên nhân của hành vi
này có thể do không kiềm chế được bản thân, có thể do được tính toán sẵn để
trả thù người thân của mình hoặc có thể để thỏa mãn sự ích kỷ của bản thân.
Nhưng trong mọi trường hợp hành vi bạo lực gia đình không thể là hành vi vô
ý của chủ thể.
Thứ tư, hậu quả của hành vi bạo lực gia đình là gây tổn hại hoặc có khả
năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với các thành viên khác
trong gia đình. Theo cách hiểu thông thường, hậu quả là những tổn hại thực tế
đã xảy ra có thể định lượng, nhưng đối với hành vi bạo lực gia đình, hậu quả
bao gồm cả những tổn hại có khả năng xảy ra trong tương lai từ hành vi bạo
lực của chủ thể. Những tổn hại thực tế hoặc tiềm ẩn đó nhằm vào cả thể chất
(đau đớn, thương tổn về thể xác, đe dọa tới tính mạng…) tinh thần (sự đau
khổ, bế tắc, trầm uất…) và kinh tế (mất thu nhập, mất việc làm, gia tăng các
chi phí…) đối với các thành viên khác trong gia đình.
1.1.4. Hậu quả của bạo lực gia đình
Bạo lực gia đình mang lại những hậu quả dai dẳng, không chỉ xâm hại
trực tiếp tới cá nhân người bị bạo hành mà còn gây ảnh hưởng tiêu cực tới trật
tự an toàn xã hội, băng hoại các mối quan hệ gia đình và xã hội, ảnh hưởng
tới thế hệ tương lai của đất nước. Hậu quả của bạo lực gia đình được xem xét
cụ thể qua các mặt:
Đối với phụ nữ: Hành vi bạo lực gây tổn hại trực tiếp tới thể chất,
sức khỏe bị hủy hoại, bị gây thương tích đau đớn, có thể bị tàn tật suốt đời, có
17
thể dẫn đến tử vong. Bạo lực cũng gây tổn hại về tinh thần, người phụ nữ cảm
thấy xấu hổ và tội lỗi, luôn bị ám ảnh bởi bạo lực, chán nản, buồn rầu, lo lắng,
sợ hãi, mất tự tin, hoang mang, trầm cảm, cảm thấy cuộc sống nặng nề, căng
thẳng và tuyệt vọng, rối loạn ăn uống, giấc ngủ. Bên cạnh đó, họ có thể bị
mang thai ngoài ý muốn do không thể sử dụng các biện pháp tránh thai, vì sợ
phản ứng của người chồng hay bạn tình, hoặc không thể từ chối quan hệ tình
dục ngoài ý muốn. Mắc các bệnh phụ khoa, mắc các bệnh lây nhiễm qua
đường tình dục kể cả HIV/AIDS và các biến chứng sản khoa khác.
Đối với gia đình: Hành vi bạo lực làm hao tốn tiền bạc vào việc
chữa trị và phục hồi sức khỏe cho người phụ nữ; phá hỏng mối quan hệ giữa
vợ và chồng, cha và con; giảm khả năng lao động của người phụ nữ; giảm
thời gian lao động do phải nghỉ việc; giảm thu nhập của gia đình. Bạo lực gia
đình còn ảnh hưởng tới sự phát triển của con cái: chứng kiến bạo lực gia đình
có ảnh hưởng sâu sắc đến việc hình thành nhân cách của trẻ em, có thể dẫn
đến việc hình thành những đứa trẻ là “bản sao” của cha mẹ chúng trong tương
lai. Khi chứng kiến cảnh bạo lực của người bố gây ra cho mẹ, những trẻ trai
có thể sử dụng bạo lực khi chúng trở thành những người đàn ông và trẻ gái có
thể trở thành nạn nhân khi các em trở thành phụ nữ, hoặc tạo cho trẻ có những
tính cách như thiếu tự tin, rụt rè, hay lo sợ. Bạo lực gia đình khiến cho những
đứa trẻ không tìm được tình yêu thương trong gia đình và có xu hướng rời xa
gia đình.
Đối với xã hội: bạo lực gia đình để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng
tới xã hội, làm giảm đi sự đóng góp về kinh tế, xã hội của người bị bạo lực
đối với xã hội; gây áp lực lên hệ thống y tế; chi phí cho chăm sóc sức khỏe do
bạo lực gia đình tăng lên; ảnh hưởng đối với vấn đề kế hoạch hóa gia đình.
Nếu thủ phạm của hành vi bạo lực gia đình không bị xử lý nghiêm thì nó
tạo thành một tiền lệ nguy hiểm rằng hành vi đó có thể chấp nhận được và
18
sẽ dẫn tới những hành động bạo lực nghiêm trọng hơn. Bên cạnh đó, bạo
lực gia đình còn làm giảm chất lượng cuộc sống của phụ nữ và trẻ em, tiêu
tốn nguồn lực rất lớn cho các cơ quan nhà nước trong việc xử lý hành vi bạo
lực gia đình.
1.2. PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH
1.2.1. Khái niệm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình
Bạo lực gia đình mang lại những hậu quả nặng nề cho gia đình và xã
hội, ảnh hưởng tới sự đóng góp của cá nhân tới sự phát triển chung của xã
hội. Những hành vi bạo lực gia đình là hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm
trực tiếp đến danh dự, nhân phẩm, tài sản, sức khỏe, tính mạng của công dân
mà đã được nhà nước quy định và bảo vệ, vì vậy Nhà nước phải xây dựng
những chế định cụ thể nhằm phòng ngừa những hành vi bạo lực gia đình và
có những biện pháp xử lý thích đáng đối với những người vi phạm, để kịp
thời điều chỉnh những quan hệ xã hội liên quan tới bạo lực gia đình, định
hướng hành vi cho công dân theo những chủ trương, đường lối và chính sách
pháp luật chung của Nhà nước.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn
bản để đề cao công tác xây dựng, phát triển gia đình thời kỳ đổi mới, không
có bạo lực, cụ thể như: Hiến pháp năm 2013 của nước CHXNCN Việt Nam;
Chỉ thị số 49/CT-TW ngày 21/2/2005 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về
xây dựng gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Nghị quyết số
48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, trong đó có pháp luật về dân số, gia đình,
trẻ em và chính sách xã hội.
Những văn bản trên đã nêu bật những mục đích cơ bản của công tác
phòng, chống bạo lực gia đình, đó là nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí,
19
trách nhiệm của gia đình và cộng đồng trong việc thực hiện tốt chủ trương,
đường lối, chính sách, pháp luật về hôn nhân và gia đình; bình đẳng giới;
phòng, chống bạo lực gia đình, ngăn chặn các tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia
đình, và xây dựng một gia đình không có bạo lực, đáp ứng những yêu cầu của
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thực hiện theo những tư tưởng chủ đạo trên đây, vấn đề phòng, chống
bạo lực gia đình đã được Nhà nước cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật có
liên quan như: Bộ luật Hình sự 2105, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em 2004; Luật Hôn nhân và gia đình 2014, Luật Xử lý vi phạm hành chính
2012, Luật Bình đẳng giới 2006, Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến
năm 2020, tầm nhìn 2030 của Chính phủ ban hành ngày 29 tháng 5 năm 2012;
Quyết định số 215/QĐ-TTg ngày 06/02/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Chương trình hành động quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình đến
năm 2020..., và đặc biệt là Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007,
Chỉ thị số 16/2008/CT-TTg ngày 30 tháng 5 năm 2008 của Thủ tướng Chính
phủ về việc triển khai thi hành Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Nghị định
số 08/2009/NĐ-CP ngày 4/2/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình… là cơ sở
pháp lý cơ bản để bảo vệ con người trước bạo hành gia đình. Những quy định
pháp luật trên đã tạo thành một hệ thống văn bản chứa đựng khá đầy đủ
những quy phạm pháp luật điều chỉnh những hành vi có liên quan đến vấn đề
bạo lực gia đình, đẩy mạnh công tác phòng, chống bạo lực gia đình, tăng
cường xây dựng gia đình mới trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Từ đó có thể khái quát: Pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình là hệ
thống các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan
hệ xã hội có liên quan tới hành vi bạo lực giữa các thành viên trong gia đình,
20
nhằm bảo vệ các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của họ, tạo điều kiện cần thiết
để xây dựng gia đình bình đẳng, hạnh phúc, văn minh, góp phần ổn định trật
tự xã hội, thực hiện các mục tiêu về quyền con người, quyền công dân theo
những chủ trương, đường lối chung đã được Đảng và Nhà nước ghi nhận.
1.2.2. Nội dung pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình
Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình không chỉ được gói gọn
trong các quy định tại Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 mà nó
còn được quy định trong nhiều văn bản và đạo luật khác nhau. Để tìm hiểu
những nội dung cơ bản của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đòi
hỏi phải có sự nghiên cứu đầy đủ, toàn diện những chế định có liên quan như:
các quy định về phòng, chống bạo lực gia đình; vấn đề bình đẳng giới; vấn đề
bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; chế độ hôn nhân gia đình…Nhìn chung,
pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình của nước ta hiện nay bao gồm
những vấn đề cơ bản sau đây:
1.2.2.1. Quy định mục tiêu cơ bản của phòng, chống bạo lực gia đình
Mục tiêu chung nhất của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đó
là “xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thực sự là tổ ấm
của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội” [9], trên cơ sở quyền bình
đẳng giới được tôn trọng, trẻ em được chăm sóc, bảo vệ và giáo dục, các
quyền con người về tinh thần, kinh tế được bảo vệ khỏi các hành vi bạo lực
gia đình.
Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 được xây dựng trên
những nội dung của Hiến pháp sửa đổi 2001 về quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân trong đó nêu rõ “gia đình là tế bào của xã hội” (Điều 64) thể hiện vị
trí quan trọng của gia đình trong sự đóng góp vào quá trình phát triển chung
của xã hội và đất nước. Để xây dựng gia đình hạnh phúc thì phải có sự quan
tâm sâu sắc tới trẻ em- những chủ nhân tương lai của đất nước- và tránh tình
21