Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

Giải quyết điểm nóng khiếu kiện liên quan đến đất đai ở nông thôn đồng bằng bắc bộ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.94 KB, 48 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHẠM XUÂN NGUYÊN

GIẢI QUYẾT ĐIỂM NÓNG KHIẾU KIỆN LIÊN QUAN ĐẾN
ĐẤT ĐAI
Ở NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ TRONG THỜI KỲ
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ

Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 603120

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS Nguyễn Bình Ban

HÀ NỘI, 2009


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

3

Chương 1: MỘT SỐ NHẬN THỨC VỀ “ĐIỂM NÓNG” VÀ GIẢI QUYẾT
“ĐIỂM NÓNG” KHIẾU KIỆN LIÊN QUAN ĐẾN ĐẤT ĐAI Ở NÔNG THÔN

8


1.1. Nhận thức về “điểm nóng” khiếu kiện liên quan đến đất đai ở nông
thôn

8

1.2. Nhận thức về giải quyết “điểm nóng” khiếu kiện liên quan đến đất
đai ở nông thôn

23

Chương 2: THỰC TRẠNG “ĐIỂM NÓNG” VÀ GIẢI QUYẾT “ĐIỂM
NÓNG” KHIẾU KIỆN LIÊN QUAN ĐẾN ĐẤT ĐAI Ở NÔNG THÔN

41

ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ

2.1. Thực trạng “điểm nóng” khiếu kiện liên quan đến đất đai ở nông
thôn đồng bằng Bắc Bộ

41

2.2. Thực trạng giải quyết “điểm nóng” khiếu kiện liên quan đến đất
đai ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ

63

Chương 3: DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI
QUYẾT “ĐIỂM NÓNG” KHIẾU KIỆN LIÊN QUAN ĐẾN ĐẤT ĐAI Ở


78

NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ, THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HOÁ,
HIỆN ĐẠI HOÁ

3.1. Dự báo tình hình chung liên quan đến ANNT

78

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết “điểm nóng” khiếu kiện liên
quan đến đất đai ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ

83

3.3. Một số kiến nghị

108

KẾT LUẬN

111

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

113

1


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn 20 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, nƣớc ta đã thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội và đạt đƣợc những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Kinh tế tăng trƣởng khá nhanh, đời sống nhân dân đƣợc cải thiện rõ rệt. Hệ
thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng đƣợc củng cố và
phát triển. Thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, ổn định đời sống
nhân dân, song sự ổn định đó chƣa vững chắc, chƣa đáp ứng yêu cầu xã hội ở
trình độ cao. Bƣớc vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nƣớc, nhiệm vụ bảo vệ
ANTT hết sức khó khăn, phức tạp, đặc biệt là ở vùng nông thôn. Dƣới tác động
của nền kinh tế thị trƣờng và hội nhập quốc tế, quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn hiện nay đang gặp nhiều lúng túng, tự phát, thiếu tính
bền vững. Nhiều vấn đề bức xúc trong nông nghiệp, nông thôn, nông dân chƣa
đƣợc giải quyết, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn rất nghiêm trọng. Ổn
định chính trị - xã hội ở nông thôn vừa là điều kiện đảm bảo đẩy mạnh CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn; vừa trực tiếp góp phần quyết định việc giữ vững
ổn định chính trị - xã hội trên phạm vi cả nƣớc. Ở một số tỉnh nhƣ Thái Bình, Hà
Nội, Nam Định, Đồng Nai, Cần Thơ... tình hình ANNT có lúc, có nơi trở thành
“điểm nóng” đã tác động, ảnh hƣởng rất xấu đến tình hình an ninh trong cả nƣớc.
Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục đẩy mạnh chiến lƣợc “Diễn biến hoà bình”, gây
bạo loạn, lật đổ; sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn
giáo”…hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nƣớc ta, làm cho tình hình chính trị
- xã hội ở nông thôn càng trở nên phức tạp, khó lƣờng.

2


Muốn ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn, đòi hỏi phải tiến hành nhiều
biện pháp, trong đó phải chú trọng đến công tác nghiên cứu, tổng kết vấn đề
ANNT nói chung và việc tranh chấp, khiếu kiện của nhân dân nói riêng. Vì vậy,
việc nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề “Giải quyết điểm nóng khiếu kiện

liên quan đến đất đai ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ trong thời kỳ Công nghiệp
hoá, hiện đại hoá” là cần thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề giữ vững ổn định chính trị - xã hội nói chung và việc giải quyết
“điểm nóng” khiếu kiện ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ trong thời kỳ CNH, HĐH
nói riêng là vấn đề rất quan trọng, nóng hổi, thu hút nhiều nhà khoa học và cán bộ
thực tiễn quan tâm nghiên cứu, trong đó phải kể đến một số công trình, bài viết nhƣ:
- “Báo cáo tình hình nguyên nhân và những biện pháp, bài học về giải quyết
điểm nóng tại Thái Bình” của Ban Nội chính Tỉnh uỷ Thái Bình, số 85/CB/NC ngày
19/10/1998.
- “Hệ thống chính trị và sự ổn định chính trị trong những năm đổi mới thành quả và kinh nghiệm” của tác giả Hoàng Chí Bảo đăng trên Tạp chí Lý luận
chính trị, số 4.2005 [09, tr.45-49].
- “An ninh nông thôn trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta
hiện nay” của Bộ Công an do Nhà xuất bản Công an nhân dân ấn hành.
- “Một số nhân tố chủ yếu có khả năng gây mất ổn định chính trị ở nước
ta hiện nay” trong Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ của Học viện chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh.
- “Công an tỉnh với việc tham gia giải quyết các vụ việc về đất đai giải phóng
mặt bằng” trong Tập san của Công an tỉnh Hà Nam số 1-2007 [08, tr.5-7].

3


- “Kinh nghiệm phối hợp giữa ngành Công an và Kiểm sát tỉnh Thái Bình
trong điều tra, xử lý các vụ vi phạm pháp luật ở điểm nóng” đăng trên Tạp chí
Công an nhân dân số 12-2000 [15, tr.29-30].
- “Một số biện pháp giải quyết tình trạng khiếu nại, tố cáo vượt cấp hiện
nay” của tác giả Nhật Nguyệt đăng trên Tạp chí Công an nhân dân số 10-2006
[10, tr.57-59].
Nghiên cứu nội dung các công trình trên thấy các tác giả đã phân tích, lý

giải một số vấn đề về ổn định, mất ổn định; vai trò của ổn định chính trị đối với
việc đẩy mạnh CNH, HĐH; những nhân tố đảm bảo ổn định chính trị, nguyên
nhân và một số kinh nghiệm giải quyết... Song vấn đề phòng ngừa, ngăn chặn, xử
lý “điểm nóng” khiếu kiện liên quan đến đất đai ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ
chƣa đƣợc các tác giả nghiên cứu một cách toàn diện, cụ thể, sâu sắc. Vì vậy, đề
tài “Giải quyết điểm nóng khiếu kiện liên quan đến đất đai ở nông thôn đồng bằng
Bắc Bộ trong thời kỳ CNH, HĐH” với tƣ cách là một luận văn Thạc sĩ Chính trị
học là công trình đầu tiên nghiên cứu về vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích của luận văn:
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về “điểm nóng” khiếu
kiện liên quan đến đất đai ở nông thôn, luận văn đƣa ra phƣơng hƣớng và giải
pháp nhằm phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý có hiệu quả “điểm nóng” khiếu kiện
liên quan đến đất đai ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH.
- Nhiệm vụ của luận văn:
+ Làm rõ một số vấn đề lý luận về “điểm nóng” và giải quyết “điểm
nóng” khiếu kiện liên quan đến đất đai ở nông thôn.

4


+ Phân tích thực trạng “điểm nóng” và giải quyết “điểm nóng” khiếu
kiện liên quan đến đất đai ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ.
+ Dự báo và giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết “điểm nóng” khiếu
kiện liên quan đến đất đai ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu:
“Điểm nóng” khiếu kiện và chủ trƣơng, giải pháp giải quyết “điểm nóng”

khiếu kiện liên quan đến đất đai ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ trong thời kỳ
CNH, HĐH.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung, đề tài tập trung nghiên cứu:
+ Các hoạt động tranh chấp, khiếu kiện liên quan đến đất đai gây
phƣơng hại đến ANTT ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ;
+ Âm mƣu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề này để
chống phá ta;
+ Các biện pháp giải quyết “điểm nóng” khiếu kiện liên quan đến đất đai
gây phƣơng hại đến ANTT ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. Tập chung chủ yếu
nghiên cứu công tác của cơ quan Công an (trong mối quan hệ với các cấp Đảng và
chính quyền địa phƣơng).
- Về địa bàn: các tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ.
- Về thời gian: từ năm 1998 đến nay - là thời gian tình hình ANNT nói
chung và tình hình tranh chấp, khiếu kiện liên quan đến đất đai có nhiều diễn
biến phức tạp. Đây cũng là thời điểm triển khai thực hiện Chỉ thị số 08/1998-

5


CT/BNV(A11) ngày 18/4/1998 của Bộ trƣởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an)
“Về công tác Công an góp phần đảm bảo ANNT trong tình hình mới”.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc nghiên cứu dựa trên phƣơng pháp chung là phƣơng pháp
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin. Sử dụng và vận
dụng phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể nhƣ:
- Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp;
- Phƣơng pháp thống kê, so sánh;
- Phƣơng pháp tiếp cận hệ thống;
- Phƣơng pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn;

- Phƣơng pháp chuyên gia;
- Phƣơng pháp đàm thoại;
- Phƣơng pháp điều tra xã hội học...
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
+ Thống nhất nhận thức về “điểm nóng” và giải quyết “điểm nóng” khiếu
kiện liên quan đến đất đai ở nông thôn.
+ Đƣa ra giải pháp có hệ thống nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết “điểm
nóng” khiếu kiện liên quan đến đất đai ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ trong thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc
cấu trúc 3 chƣơng; 7 tiết, 112 trang.

6


Chương 1. MỘT SỐ NHẬN THỨC VỀ “ĐIỂM NÓNG” VÀ GIẢI QUYẾT
“ĐIỂM NÓNG” KHIẾU KIỆN LIÊN QUAN ĐẾN ĐẤT ĐAI Ở NÔNG THÔN.

1.1. Nhận thức về “điểm nóng” khiếu kiện liên quan đến đất đai ở
nông thôn
1.1.1. Khái niệm “điểm nóng” khiếu kiện liên quan đến đất đai ở nông thôn
1.1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của “điểm nóng”
Theo "Đại Từ điển tiếng Việt" của tác giả Nguyễn Nhƣ ý, do Nhà xuất bản
Văn hoá - thông tin phát hành năm 1999 thì “điểm nóng” là “nơi đang ở trong
tình trạng căng thẳng do mâu thuẫn, xung đột gay gắt”. [06; tr.632].
Nhị Lê thì “điểm nóng” là một khái niệm chỉ "nơi xảy ra đấu tranh trong
nội bộ nhân dân ở mức độ cao, thậm chí gay gắt về vấn đề nào đó, trên một địa
bàn nhất định (từ quy mô thôn, xóm, bản trở lên…), vƣợt qua giới hạn giải quyết
tại chỗ, đòi hỏi cấp bách phải có sự tham gia của các cấp uỷ đảng, chính quyền

và sự can thiệp của các cơ quan pháp luật từ cơ sở trở lên".
Viện khoa học chính trị - Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thì
“điểm nóng xã hội” là "đời sống ở trong trạng thái không bình thƣờng, bất ổn
định, rối loạn, diễn ra sự xung đột, chống đối giữa các lực lƣợng và những hành vi
không còn tự kiềm chế đƣợc đã vƣợt ra ngoài khuôn khổ của luật pháp và chuẩn
mực văn hoá, đạo đức, diễn ra tại một địa điểm, trong một thời gian nhất định và
có khả năng lan toả ra nhiều nơi khác".
Ban Nội chính Trung ƣơng Đảng thì "điểm nóng" ở cơ sở nông thôn là
"hiện tƣợng chính trị- xã hội xảy ra ở địa bàn thôn, xã; bắt nguồn từ những mâu
thuẫn nội bộ kéo dài dẫn đến tranh chấp, xung đột gay gắt; lôi cuốn đông ngƣời

7


tham gia; có nhiều hành vi cực đoan, quá khích, vi phạm pháp luật nghiêm trọng;
hoạt động của tổ chức Đảng, chính quyền cơ sở giảm sút hoặc tê liệt; gây mất ổn
định về ANTT xã hội và đời sống nhân dân địa phƣơng" [03, tr.15].
“Điểm nóng xã hội” có thể diễn ra ở những địa bàn và trong những lĩnh vực
khác nhau. Nó có thể phát sinh ở khu vực nông thôn, miền núi hay thành thị, ở các xí
nghiệp hay trƣờng học; có thể diễn ra trong lĩnh vực kinh tế, chính trị hay xã
hội…“Điểm nóng” xảy ra ở các khu vực trên đƣợc gọi chung là “điểm nóng xã hội”.
Nhƣ vậy, “điểm nóng” là một khái niệm chung cho các vấn đề liên quan tới
chính trị - xã hội; “điểm nóng” ở nông thôn thực ra là một khái niệm mới xuất
hiện, khi những vấn đề phức tạp về ANNT diễn ra từ những năm 1980 trở lại đây.
Đó là những vấn đề nhƣ: tranh chấp đất đai, khiếu kiện đông ngƣời diễn ra phức
tạp; lợi dụng dân chủ trong khiếu tố để gây rối, xâm phạm TTATXH; tôn giáo
phát triển theo hƣớng thích nghi thời đại, hoạt động lấn lƣớt chính quyền; tội
phạm, tai nạn và tệ nạn xã hội gia tăng. Những nguyên nhân chủ quan, khách quan
đó là các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể trong hệ thống chính trị không giải
quyết kịp thời, để các mâu thuẫn diễn ra kéo dài, ngày càng gay gắt trở thành các

“điểm nóng”. Nếu không giải quyết kịp thời “điểm nóng”, các thế lực thù địch và bọn
tội phạm, phần tử xấu sẽ lợi dụng đẩy lên trở thành “điểm nóng chính trị - xã hội”.
Để kịp thời giải quyết những vấn đề có liên quan đến “điểm nóng”, Đảng
và Nhà nƣớc ta đã ban hành rất nhiều văn bản chỉ đạo nhƣ: Chỉ thị 21/CT-TW
ngày 10/10/1997 của Bộ Chính trị “Về một số công việc cấp bách ở nông thôn
hiện nay”; Chỉ thị số 30/CT-TW ngày 18/02/1998 “Về xây dựng và thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở”; Chỉ thị 763/TTg ngày 15/09/1997 của Thủ tƣớng
Chính phủ “Về phát huy dân chủ, giải quyết tốt khiếu nại, tố cáo có đông ngƣời
tham gia, thu, quản lý và sử dụng đúng mục đích các khoản đóng góp của công

8


dân”; Chỉ thị 35/TTg ngày 09/10/1998 của Thủ tƣớng Chính phủ “Về tăng cƣờng
hiệu lực giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân tại các cơ quan Trung ƣơng và
nhà riêng của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nƣớc”; Nghị định số
26/1999/NĐ-CP ngày 19/04/1999 của Chính phủ về các hoạt động tôn giáo…
Bộ Công an với chức năng là cơ quan tham mƣu cho Đảng, Nhà nƣớc về
giải quyết tình hình ANNT cũng đã ra nhiều văn bản nhƣ: Chỉ thị
08/1998/CT/BNV(A11) ngày 18/04/1998 của Bộ trƣởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ
Công an) “Về công tác Công an góp phần đảm bảo ANNT”; Quyết định số
205/1998/QĐ/BNV(A11) ngày 18/04/1998 của Bộ trƣởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ
Công an) ban hành quy định về công tác Công an góp phần đảm bảo ANNT và
quy trình công tác Công an tham gia giải quyết “điểm nóng”.
Qua các văn bản này, khái niệm “điểm nóng” đƣợc thống nhất là: một địa
bàn, một khu vực tập trung mâu thuẫn cao độ, bùng nổ thành các cuộc tranh
chấp, gây rối, xung đột gây hậu quả xấu về chính trị, kinh tế, xã hội, ANTT.
Qua nghiên cứu thấy "điểm nóng" có những dấu hiệu đặc trưng
Đời sống xã hội trong trạng thái không bình thƣờng, bất ổn định, có lúc rối loạn.
Diễn ra trong không gian và thời gian nhất định, có khả năng lan toả sang nơi khác.

Các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng ở cơ sở yếu kém;
nội bộ mất đoàn kết hoặc bị vô hiệu hoá, mất vai trò lãnh đạo, quản lý, điều
hành; các phong trào quần chúng bị tê liệt.
Tụ tập đông ngƣời, thống nhất mục tiêu hành động, chống đối có tổ chức, có
số cầm đầu, số kích động, tự lập ra các tổ chức và hoạt động trái phép.
Các phần tử xấu lợi dụng tình hình, kích động một bộ phận quần chúng có
hành vi quá khích, vi phạm pháp luật.

9


“Điểm nóng” để lại những thiệt hại lớn về vật chất, tinh thần cho nhân dân
địa phƣơng; xâm hại đến ANTT, kỷ cƣơng, pháp luật. “Điểm nóng” chƣa phải là
mâu thuẫn địch - ta. Mặc dù vậy, đây là những mâu thuẫn đã phát triển đến đỉnh
cao - một trong những yếu tố ảnh hƣởng không nhỏ cho sự ổn định chính trị của
đất nƣớc, nếu không giải quyết dứt điểm thì các thế lực thù địch, bọn tội phạm có
thể lợi dụng gây hậu quả khôn lƣờng. Vì vậy, khi giải quyết “điểm nóng” cần chú
ý cả yếu tố nội bộ, yếu tố địch và yếu tố tội phạm.
1.1.1.2. Khái niệm tranh chấp, khiếu kiện liên quan đến đất đai
Cũng theo "Đại Từ điển tiếng Việt" của tác giả Nguyễn Nhƣ ý thì tranh
chấp là “giành nhau một cách giằng co cái không rõ thuộc về bên nào hoặc đấu
tranh giằng co khi có ý kiến bất đồng, thƣờng là trong vấn đề quyền lợi giữa hai
bên [06; tr.1124].
Tranh chấp đất đai là một hiện tƣợng thƣờng xảy ra trong đời sống xã hội.
Trong xã hội tồn tại sự đối kháng giữa các giai cấp, tranh chấp đất đai là một
biểu hiện mâu thuẫn đối kháng giữa các giai cấp mà thực chất là cuộc xung đột
giữa các giai cấp đối kháng.
Dƣới chế độ ta, Nhà nƣớc là ngƣời đại diện cho toàn thể nhân dân lao
động đứng ra thực hiện quyền sở hữu duy nhất đối với đất đai. Vì vậy, tranh
chấp đất đai trong thời kỳ này mang nội dung kinh tế cũng nhƣ ý nghĩa chính trị

khác với tranh chấp đất đai trong xã hội có giai cấp đối kháng.
Các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật đất đai không phải lúc nào
cũng thống nhất với nhau về tất cả các vấn đề trong quan hệ pháp luật. Vì thế, sẽ
xuất hiện những ý kiến khác nhau, những mâu thuẫn, những bất đồng nhất định,
đƣợc thể hiện trên thực tế bằng những hành động cụ thể, ngƣời ta gọi hiện tƣợng
đó là sự tranh chấp.

10


Nhƣ vậy, tranh chấp đất đai là tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể tham gia quan
hệ pháp luật đất đai về quyền và nghĩa vụ trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai.
Khiếu kiện là “việc phản kháng lại quyết định hành chính hoặc hành vi
hành chính mà chủ thể khiếu kiện cho rằng bản thân hoặc ngƣời thân do mình
bảo hộ bị vi phạm do quyết định hay hành vi trái pháp luật (thuộc phạm vi quản
lý Nhà nƣớc) của các cơ quan hoặc nhân viên Nhà nƣớc”[15, tr.677].
Khiếu kiện đông người là “việc lôi kéo, tụ tập nhiều ngƣời cùng đến cơ
quan, trụ sở, doanh nghiệp hoặc cá nhân để đƣa đơn, thƣ khiếu nại, tố cáo, yêu
cầu giải quyết một hoặc nhiều vấn đề về quyền lợi bị vi phạm hay có liên quan
đến việc thực thi chính sách, pháp luật… gây ảnh hƣởng đến TTATXH. Trên
thực tế, các vụ khiếu kiện đông ngƣời thƣờng dễ bị kẻ xấu lợi dụng kích động,
dẫn đến quá khích, gây mất trật tự công cộng. Nếu không đƣợc giải quyết hợp lý,
dứt điểm, các vụ khiếu kiện đông ngƣời có thể trở thành “điểm nóng” phức tạp
về an ninh, trật tự”[15, tr.679].
Trƣớc Hiến pháp năm 1980, do Nhà nƣớc ta còn duy trì ba hình thức sở hữu
đối với đất đai là sở hữu Nhà nƣớc, sở hữu tập thể, sở hữu tƣ nhân nên có thể tồn
tại các tranh chấp, khiếu kiện về quyền sở hữu đất đai hoặc tranh chấp, khiếu kiện
về quyền quản lý, sử dụng đất đai. Tuy nhiên, sau Hiến pháp năm 1980, Nhà nƣớc
trở thành chủ sở hữu duy nhất toàn bộ đất đai trên cả nƣớc, vì thế không thể có
tranh chấp, khiếu kiện về quyền sở hữu đất đai mà chỉ có thể nảy sinh tranh chấp,

khiếu kiện về quyền quản lý hoặc sử dụng đất đai.
Chủ thể của quan hệ tranh chấp đất đai là chủ thể của quá trình quản lý hoặc
sử dụng đất đai, các bên tham gia tranh chấp không phải là chủ sở hữu đất đai họ chỉ
đƣợc Nhà nƣớc giao đất cho quản lý, sử dụng trong khuôn khổ pháp luật quy định.

11


Đối tƣợng của tranh chấp đất đai là quyền quản lý và sử dụng một loại tài
sản đặc biệt, không thuộc quyền sở hữu của các bên tranh chấp mà thuộc quyền
sở hữu của Nhà nƣớc.
Tranh chấp đất đai không chỉ ảnh hƣởng trực tiếp đến lợi ích của các bên
tham gia tranh chấp mà ảnh hƣởng đến lợi ích của Nhà nƣớc. Khi xảy ra tranh
chấp, trƣớc hết, một bên không thực hiện đƣợc những quyền của mình, sau đó
ảnh hƣởng đến việc thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nƣớc.
Tranh chấp đất đai xảy ra sẽ tác động không tốt đến tâm lý, tinh thần của
các bên, gây nên tình trạng mất ổn định, bất đồng trong nhân dân, làm cho những
quy định của Luật Đất đai cũng nhƣ đƣờng lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nƣớc không đƣợc thực hiện một cách triệt để.
Trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN ở nƣớc ta, quản lý đất đai
là lĩnh vực hết sức nhạy cảm, tập trung sự quan tâm của các ngành, các cấp chính
quyền và các tầng lớp nhân dân. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, đến nay, những
tồn tại trong quan hệ pháp luật đất đai vẫn chƣa đƣợc giải quyết triệt để, nhiều
phát sinh mới luôn đƣợc đặt ra trong quá trình quản lý và sử dụng. Những năm
qua, tranh chấp, khiếu kiện liên quan đến đất đai xảy ra tƣơng đối phổ biến ở
phạm vi rộng trên cả nƣớc. Quy mô tranh chấp, khiếu kiện đa dạng; tính chất,
mức độ cũng hết sức phức tạp, liên quan đến nhiều cá nhân, tổ chức, tầng lớp
trong xã hội. Hậu quả để lại đã và đang tác động tiêu cực đến nhiều lĩnh vực của
đời sống kinh tế - xã hội, trong đó có lĩnh vực ANTT.
1.1.2. Đặc điểm “điểm nóng” khiếu kiện liên quan đến đất đai ở nông thôn

“Điểm nóng” tranh chấp, khiếu kiện đất đai tác động trực tiếp đến ANCT
và TTATXH trên địa bàn, ảnh hƣởng không nhỏ đến ANQG, nhất là các vụ việc
phức tạp, kéo dài. Tuy nhiên, để hiểu đầy đủ về mức độ ảnh hƣởng của nó đối

12


với ANQG, chúng ta cần nhận thức về những dấu hiệu đặc trƣng của tranh chấp,
khiếu kiện đất đai. Qua nghiên cứu thực tiễn cho thấy:
Phần lớn các vụ việc phức tạp về tranh chấp, khiếu kiện đất đai có đông
người tham gia đều liên quan đến công tác giải phóng mặt bằng, xây dựng các
khu công nghiệp, công trình phúc lợi xã hội hoặc có liên quan đến tôn giáo.
Đây là đặc trƣng dễ nhận thấy nhất về tranh chấp, khiếu kiện đất đai. Nhƣ
chúng ta biết, khi xây dựng các khu công nghiệp, các khu đô thị và các công
trình phúc lợi xã hội, Nhà nƣớc và địa phƣơng cần phải thu hồi một diện tích lớn
đất đai, liên quan đến nhiều hộ dân. Việc thu hồi đất ảnh hƣởng trực tiếp đến đời
sống của nhân dân, đó là nơi cƣ trú, là đất sản xuất nông nghiệp để nuôi sống
ngƣời nông dân. Do họ có chung một mục đích là đòi quyền lợi liên quan đến
việc thu hồi đất, nên những ngƣời này thƣờng dễ dàng tìm đến nhau để bàn bạc,
thống nhất về nội dung, hình thức, biện pháp để khiếu kiện. Vì vậy, nếu các cơ
quan chức năng không giải thích đúng về chủ trƣơng của Đảng, Nhà nƣớc và địa
phƣơng để quần chúng nhân dân nhận thức rõ tầm quan trọng cũng nhƣ lợi ích
trong quá trình xây dựng các khu công nghiệp, các công trình phúc lợi công
cộng; thêm vào đó là quá trình thực hiện các chính sách đền bù không thoả đáng,
không đúng quy định của Nhà nƣớc, sẽ dẫn đến tình trạng đông ngƣời tập trung
khiếu nại đòi quyền lợi, tố cáo những hành vi vi phạm trong quá trình giải phóng
mặt bằng thu hồi đất.
Các vụ việc tranh chấp đất đai có liên quan đến tôn giáo cũng thƣờng lôi
kéo số đông quần chúng giáo dân, tín đồ tham gia. Hầu hết các vụ việc loại này
đều xuất phát từ nhu cầu tín ngƣỡng, tôn giáo chung của một bộ phận không nhỏ

quần chúng nhân dân ở một vùng nhất định. Bên cạnh đó, họ thƣờng đƣợc sự hỗ
trợ về tinh thần của các chức sắc tôn giáo hoặc những ngƣời có uy tín. Vì có

13


chung mục đích, lại đƣợc sự hậu thuẫn cả về vật chất và tinh thần, nên quần
chúng giáo dân, tín đồ dễ dàng đƣợc tập hợp, lôi kéo để tham gia khiếu kiện.
Các vụ tranh chấp, khiếu kiện đất đai thường gắn liền với ANNT, an ninh tôn giáo.
Thực hiện chủ trƣơng CNH, HĐH đất nƣớc, Đảng và Nhà nƣớc ta đã kêu
gọi đầu tƣ và xây dựng nhiều khu công nghiệp, khu kinh tế, đồng thời xây dựng
các cơ sở hạ tầng kèm theo nhƣ đƣờng giao thông, các khu đô thị, khu tái định
cƣ mới… Do các khu đô thị cũ trƣớc đây vốn chật hẹp về đất, lại để tránh tình
trạng ô nhiễm môi trƣờng, nên hầu hết các dự án phát triển kinh tế đều đƣợc đƣa
về các vùng ngoại biên của thành thị, hoặc các vùng nông thôn. Khi đó, cần thu
hồi một diện tích lớn về đất đai để có thể triển khai đƣợc các dự án này. Vì
những nguyên nhân khác nhau, có thể do không đồng tình với giá đền bù, hỗ trợ
để giải phóng mặt bằng, hoặc có thể xuất phát từ những sai phạm của cơ quan
chức năng trong quá trình thực hiện chủ trƣơng thu hồi đất, đã nảy sinh mâu
thuẫn và dẫn đến tranh chấp giữa nhân dân với các cơ quan, tổ chức, doanh
nghiệp về quyền và lợi ích trong việc quản lý, sử dụng đất. Mặc dù tính chất
phức tạp có thể ít hay nhiều, nhƣng hầu hết khi tiến hành giải phóng mặt bằng,
đều xuất hiện tình trạng mâu thuẫn, tranh chấp về đất đai.
Bên cạnh đó, quyền tự do tín ngƣỡng của nhân dân ngày càng đƣợc Đảng,
Nhà nƣớc quan tâm. Theo đó những nhu cầu chính đáng trong sinh hoạt tôn giáo,
tín ngƣỡng đƣợc tạo điều kiện nhƣ Nhà nƣớc cho phép xây sửa, tôn tạo, mở rộng
khuôn viên nơi thờ tự… Song lợi dụng vấn đề này, nhiều nơi đã tiến hành các
hoạt động đòi lại cơ sở vật chất của tôn giáo trƣớc đây đã hiến cho Nhà nƣớc,
hoặc đƣợc Nhà nƣớc trƣng dụng để sử dụng làm các công trình phúc lợi xã hội.
Do nhiều nguyên nhân, nguyện vọng đòi lại đất của tôn giáo không thực hiện

đƣợc, hoặc thực hiện chƣa đúng với yêu cầu, nguyện vọng, nên một số đối tƣợng

14


là chức sắc tôn giáo hoặc ngƣời có uy tín đã tập hợp số đông quần chúng giáo
dân, tín đồ tham gia khiếu kiện đòi lại đất.
Tranh chấp, khiếu kiện đất đai thường gây hậu quả tiêu cực cho đời sống
xã hội, gây thiệt hại về người và của, uy tín ảnh hưởng của Đảng, Nhà nước…
Các hoạt động tranh chấp, khiếu kiện đều gây hậu quả thiệt hại về kinh tế
cho một hoặc nhiều bên tham gia. Tranh chấp, khiếu kiện đất đai cũng vậy,
nhƣng rõ nét hơn là nó thƣờng gây hậu quả tiêu cực cho đời sống xã hội, gây
thiệt hại cả về ngƣời và của. Đây cũng là đặc trƣng cơ bản của các vụ tranh chấp,
khiếu kiện về đất đai.
Với mục đích đòi quyền lợi cho cá nhân, cho tập thể, nhiều ngƣời đã bỏ
thời gian, tiền bạc, bỏ lao động sản xuất để tham gia tranh chấp, khiếu kiện liên
quan đến việc quản lý, sử dụng đất đai. Có nhiều nguyên nhân khác nhau, hoặc
do quá bức xúc vì cho rằng lợi ích của bản thân gắn liền với đất đai bị xâm phạm
dẫn đến đòi quyền lợi một cách thái quá, hoặc do bị các đối tƣợng xấu, số đầu
đơn khiếu kiện kích động, lôi kéo… nên ở một số nơi đã xuất hiện tình trạng tụ
tập đông ngƣời, kéo đến các trụ sở tiếp dân từ cơ sở đến Trung ƣơng, gây nên
tình trạng phức tạp về ANTT. Thậm chí, trong nhiều vụ tranh chấp, khiếu kiện
đất đai, một số đối tƣợng quá khích còn có những hoạt động chống ngƣời thi
hành công vụ, cản trở việc thực hiện các chủ trƣơng, chính sách, dẫn đến tình
trạng chậm trễ trong quá trình thi công các công trình kinh tế, xã hội. Đã có
những trƣờng hợp bị bắt và bị xử lý trƣớc pháp luật, phải chịu những hình phạt
nghiêm khắc. Song song với quá trình đó, các cơ quan chức năng phải mất thời
gian, lực lƣợng để giải quyết tranh chấp, khiếu kiện, cũng nhƣ kinh phí của Nhà
nƣớc phải tiêu tốn trong quá trình thực hiện. Qua theo dõi ở đồng bằng Bắc Bộ,
trong buổi tiếp dân theo định kỳ hàng tháng, thƣờng xuyên có hàng trăm lƣợt


15


ngƣời (trong đó phần lớn là liên quan đến tranh chấp, khiếu kiện về đất đai) đến
đề nghị đƣợc tiếp; có những trƣờng hợp đã có quyết định giải quyết cuối cùng
của UBND tỉnh, nhƣng vẫn thƣờng xuyên đến để tiếp tục khiếu kiện.
1.1.3. Nguyên nhân hình thành “điểm nóng” khiếu kiện liên quan đến
đất đai ở nông thôn
“Điểm nóng” tranh chấp, khiếu kiện đất đai xảy ra ở đồng bằng Bắc Bộ
thời gian vừa qua thƣờng do một số nguyên nhân sau:
1.1.3.1. Những nguyên nhân chủ quan
Nhận thức của cán bộ và nhân dân về tính chất phức tạp cũng như tác
động, ảnh hưởng đến ANTT của các vụ tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai
còn chưa đầy đủ.
Nhận thức đầy đủ về tính chất phức tạp của tranh chấp, khiếu kiện liên
quan đến đất đai (nhất là trong tình trạng “đất chật, ngƣời đông”, giá cả đất đai
theo đúng nghĩa “tấc đất, tấc vàng” nhƣ hiện nay), cũng nhƣ tác động, ảnh hƣởng
của nó đến ANTT là tiền đề quan trọng trong công tác phòng ngừa, ngăn chặn và
giải quyết dứt điểm các vụ việc tranh chấp, khiếu kiện về đất đai. Tuy nhiên, trên
thực tế, mặc dù Đảng và Nhà nƣớc ta đã có những chủ trƣơng, chính sách trong
công tác quản lý, sử dụng đất đai; trong giải quyết tranh chấp, khiếu kiện trên
lĩnh vực này, song các vụ việc phức tạp liên quan đến đất đai vẫn xảy ra ở nhiều
địa phƣơng. Có thể nói, trong nhiều năm qua, ở một số nơi, cán bộ, đảng viên
(nhất là ở cấp cơ sở) chƣa nhận thức đúng đắn về tính chất phức tạp của các vụ
tranh chấp, khiếu kiện về đất đai; chƣa lồng ghép việc giải quyết các vụ việc về
đất đai với công tác đảm bảo ANCT trên địa bàn. Nhiều ngƣời cho rằng việc thu
hồi đất để xây dựng các công trình phát triển kinh tế - xã hội là chủ trƣơng của
Đảng và Nhà nƣớc, nên nhân dân phải chấp hành, mà không tính toán đến những


16


yếu tố phức tạp có thể xảy ra trong quá trình giải phóng mặt bằng, chƣa thực sự
quan tâm đến lợi ích của nhân dân sau khi bị thu hồi đất. Bên cạnh đó, việc
buông lỏng trong công tác quản lý đất đai đã dẫn đến những sai phạm trong quá
trình cấp, thu hồi đất… Khi những vụ việc phức tạp xảy ra, cấp uỷ, chính quyền
ở nhiều nơi lúng túng, bị động, nên đã không thể giải quyết dứt điểm từ cơ sở.
Trong khi đó, một bộ phận không nhỏ quần chúng lại nhận thức đơn giản,
thiếu hiểu biết về chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc trong việc thu
hồi đất nhằm mục đích phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho đông đảo các tầng lớp nhân dân. Họ chỉ biết đòi
quyền lợi, kể cả quyền lợi không chính đáng khi bị thu hồi đất, mà không nhận
thấy hết tính chất phức tạp, hậu quả tiêu cực đến đời sống xã hội nói chung, ANTT
nói riêng từ những vụ việc tranh chấp, khiếu kiện về đất đai. Tất cả những yếu tố
trên đã làm nảy sinh những vụ việc tranh chấp liên quan đến đất đai, dẫn đến tình
trạng tụ tập đông ngƣời kéo đến trụ sở của các cơ quan Đảng, Nhà nƣớc khiếu kiện.
Trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ cơ sở còn nhiều yếu kém.
Đây là một yếu tố tác động không nhỏ đến tình trạng tranh chấp, khiếu
kiện về đất đai. Khi trình độ, năng lực của cán bộ cơ sở đƣợc nâng lên thì việc
triển khai thực hiện các chủ trƣơng, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nƣớc sẽ thuận lợi, dễ đi vào thực tế cuộc sống.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, ở nhiều địa phƣơng, trình độ
của một bộ phận không nhỏ cán bộ cơ sở còn hạn chế, vẫn còn tác phong làm
việc quan liêu, thái độ hách dịch, cửa quyền, dẫn đến những sai phạm trong quá
trình thực hiện các chủ trƣơng, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc về
đất đai nhƣ cấp bán đất trái thẩm quyền; lợi dụng chủ trƣơng, chính sách thu hồi,

17



đền bù đất đai để thu lợi cá nhân; giải quyết các vụ tranh chấp đất đai không
đúng, có sự thiên lệch…
Vai trò và hoạt động của các tổ chức Đảng, đoàn thể trong hệ thống chính
trị ở cơ sở còn yếu.
Các tổ chức Đảng, đoàn thể ở cơ sở có vị trí quan trọng đối với việc triển
khai các chủ trƣơng, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, cũng nhƣ giữ vững sự
ổn định về ANTT. Nó đóng vai trò là cầu nối, đồng thời là nút chặn cuối cùng
trong quá trình thực thi các chủ trƣơng, chính sách, pháp luật. Chủ trƣơng, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc có đƣợc thực thi đúng đắn, hiệu quả hay
không cũng xuất phát từ cơ sở.
Tuy nhiên, trên thực tế, ở nhiều nơi thuộc đồng bằng Bắc Bộ, do những
nguyên nhân khác nhau, các tổ chức Đảng, đoàn thể không phát huy đƣợc hết vai
trò của mình. Công tác phát triển đảng ở những tổ chức Đảng ngoài cơ quan Nhà
nƣớc chậm, ý thức phấn đấu của đảng viên không cao, khả năng tập hợp quần
chúng hạn chế, do đó không phát huy đƣợc tác dụng khi xảy ra tranh chấp, khiếu
kiện. Các đoàn thể mặc dù đầy đủ theo hệ thống ngành dọc (Đoàn thanh niên,
Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh…) song hầu nhƣ hoạt động không hiệu quả.
Nghiêm trọng hơn, do trình độ, năng lực của cán bộ, đảng viên trong các tổ chức
này còn hạn chế, đã dẫn đến những sai lầm trong việc tổ chức thực hiện chủ
trƣơng, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc nói chung; chủ trƣơng,
chính sách về đất đai nói riêng, đặc biệt trong quá trình giải quyết các vụ việc
tranh chấp, khiếu kiện đất đai ở cơ sở. Từ đó, đã làm mất lòng tin của nhân dân
vào vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị ở địa phƣơng, thậm chí còn
bị nhân dân phản đối, cô lập. Ở những nơi có tranh chấp, khiếu kiện phức tạp về
đất đai, hệ thống chính trị thƣờng không phát huy hiệu quả, không những không

18



giải quyết đƣợc tranh chấp, không vận động đƣợc sự đồng tình, ủng hộ của nhân
dân, mà có nơi, có lúc còn làm cho tình hình phức tạp hơn.
Công tác phòng ngừa, phát hiện các vụ việc tranh chấp, khiếu kiện đất đai
còn kém hiệu quả.
Đối với công tác đảm bảo ANCT và TTATXH, biện pháp phòng ngừa là
vô cùng quan trọng. Phát hiện sớm các yếu tố tác động, nảy sinh các vụ việc để
giải quyết kịp thời là một trong các yếu tố quyết định. Làm tốt công tác phòng
ngừa, phát hiện, không để xảy ra các vụ việc phức tạp sẽ giảm thiểu những ảnh
hƣởng, tác động tiêu cực đến đời sống xã hội. Đối với các vấn đề liên quan đến
tranh chấp, khiếu kiện về đất đai cũng vậy, nếu làm tốt công tác phòng ngừa,
phát hiện kịp thời những dấu hiệu có thể nảy sinh tranh chấp, khiếu kiện trên lĩnh
vực này, chúng ta có thể tiến hành các biện pháp ngăn chặn, giải quyết dứt điểm,
không để xảy ra hoặc hạn chế đến mức thấp nhất những hậu quả tiêu cực.
Tuy nhiên, thực tế những năm qua, ở nhiều địa phƣơng thuộc đồng bằng
Bắc Bộ, công tác phòng ngừa, phát hiện đối với loại vụ việc này còn có hạn chế.
Nhiều vụ việc chƣa đƣợc phát hiện kịp thời và sau đó là chƣa chủ động giải
quyết dứt điểm từ cơ sở. Bên cạnh đó, xu hƣớng giải quyết thƣờng nhằm vào vào
ngƣời khiếu kiện, chƣa tìm hiểu rõ nguyên nhân, nguyên cớ dẫn đến sự việc,
thậm chí có hiện tƣợng bao che cho cán bộ làm sai, dẫn đến những bức xúc, lây
lan trong quần chúng nhân dân. Công tác nắm tình hình của lực lƣợng Công an
còn thiếu kịp thời, dẫn đến việc tham mƣu cho cấp uỷ, chính quyền các cấp, phối
hợp với các ngành tham gia giải quyết không hiệu quả.
1.1.3.2. Những nguyên nhân khách quan
Tác động của mặt trái cơ chế thị trường.

19


Cơ chế thị trƣờng đã làm thay đổi cách nghĩ, cách làm trong đại bộ phận
quần chúng nhân dân, góp phần không nhỏ trong việc đƣa đất nƣớc ta thoát khỏi

đói nghèo, lạc hậu; làm thay đổi diện mạo của đất nƣớc vốn mang nặng tính chất
nông nghiệp. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, cơ chế thị trƣờng cũng tác
động, ảnh hƣởng tiêu cực đến đời sống xã hội.
Dƣới tác động của cơ chế thị trƣờng, đã hình thành lối sống thực dụng ở
một bộ phận dân cƣ, chỉ quan tâm đến lợi ích kinh tế, mà không quan tâm đến lợi
ích chung của toàn xã hội, thậm chí bất chấp pháp luật, cản trở việc thi hành các
chủ trƣơng, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nƣớc và của địa
phƣơng. Nhiều trƣờng hợp cán bộ, đảng viên bị suy thoái về phẩm chất đạo đức,
lối sống, tìm kẽ hở của luật pháp cũng nhƣ lợi dụng chức vụ, quyền hạn để mƣu
cầu lợi ích cá nhân. Bên cạnh đó, quá trình chuyển hoá từ sản xuất nông nghiệp
sang sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trƣờng đã kéo theo tình trạng đội ngũ cán
bộ quản lý kinh tế, quản lý xã hội (nhất là ở cơ sở) chƣa thích ứng kịp thời với
phƣơng thức mới, dễ dẫn tới những xung đột trong quá trình giải quyết các vấn
đề liên quan đến nhu cầu, lợi ích của quần chúng. Dân chủ đƣợc mở rộng, tự do
cá nhân đƣợc tôn trọng, nhƣng trình độ của nhân dân còn hạn chế, dẫn đến suy nghĩ,
hành động vƣợt quá giới hạn cho phép. Những yếu tố đó đã góp phần làm nảy sinh
nhiều vụ việc tranh chấp, khiếu kiện đất đai, thậm chí phức tạp, kéo dài, làm ảnh
hƣởng đến ANTT, khi mà đất đai đã và đang trở thành một loại hàng hoá có giá trị.
Đất nƣớc ta đang ở trong thời kỳ kinh tế có những bƣớc phát triển mạnh
mẽ. Những chính sách của Đảng và Nhà nƣớc nhằm thúc đấy kinh tế phát triển
đã tạo điều kiện cho nhiều ngƣời trở nên giàu có, dẫn đến khoảng cách giàu nghèo gia tăng. Sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội đã tạo ra tâm lý bất bình, tự
ty trong một bộ phận nhân dân còn có đời sống vật chất khó khăn. Bất bình đẳng

20


về thu nhập dẫn đến bất bình đẳng về mức sống, bất bình đẳng về xã hội dễ tạo
ra sự bất bình đẳng về tâm lý. Điều này cũng đã tác động, ảnh hƣởng đến quá
trình thu hồi đất của nhân dân, đặc biệt là đất nông nghiệp. Có một bộ phận nông
dân cho rằng Nhà nƣớc thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị

hay các công trình phúc lợi công cộng cũng chỉ phục vụ cho những ngƣời giàu
có, còn họ thì mất đất, không có việc làm, không có thu nhập. Từ đó, họ không
đồng tình với chính sách thu hồi đất, cản trở việc thu hồi đất, cũng nhƣ khi bị
cƣỡng chế thu hồi thì khiếu kiện đòi quyền lợi.
Tác động của vấn đề tăng dân số, thất nghiệp, thiếu việc làm.
Giải phóng mặt bằng, thu hồi đất đai, nhất là ở vùng nông thôn, đã nảy
sinh vấn đề phức tạp về giải quyết công ăn, việc làm cho một bộ phận quần
chúng nhân dân làm nông nghiệp. Không có đất canh tác, trong khi trình độ văn
hoá, trình độ chuyên môn thấp; yêu cầu công việc ở các khu công nghiệp đòi hỏi
phải có trình độ cao, các doanh nghiệp lại không muốn mất thời gian, kinh phí để
đào tạo mới nên ngƣời dân không tự tìm kiếm đƣợc công ăn, việc làm. Mặc dù
Đảng, Nhà nƣớc đã có chính sách hỗ trợ để đào tạo nghề, tạo điều kiện thu hút
nhân dân ở các vùng bị thu hồi đất vào làm việc trong các khu công nghiệp, song
phần lớn lại không đáp ứng đƣợc yêu cầu về trình độ chuyên môn, không tự
chuyển đổi đƣợc ngành nghề, nên khi bị thu hồi đất đã trở thành thất nghiệp. Bên
cạnh đó, dân số tăng nhanh nên nhu cầu về đất ở, đất canh tác tăng theo. Thiếu
việc làm, dẫn đến thu nhập thấp, càng làm cho việc giải quyết các vấn đề tranh
chấp đất đai trở nên khó khăn, phức tạp.
Sự tác động của các thế lực thù địch và bọn phản động.
Các thế lực thù địch và bọn phản động chƣa bao giờ từ bỏ âm mƣu, ý đồ,
hoạt động phá hoại các chủ trƣơng, chính sách nhằm mục đích cuối cùng là xoá

21


bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nƣớc. Ở một số địa phƣơng, đã
phát hiện có sự tiếp tay của các thế lực thù địch từ bên ngoài thông qua một số
phần tử cực đoan, chống đối ở trong nƣớc, kích động quần chúng nhân dân khiếu
kiện. Mặt khác, diễn biến của các vụ tranh chấp, khiếu kiện nói chung; các vụ
tranh chấp, khiếu khiện về đất đai nói riêng có những đặc điểm, yếu tố phù hợp

với âm mƣu, ý đồ của địch nhƣ lôi kéo đông ngƣời tham gia, gây phức tạp tình
hình về ANTT, vô hiệu hoá vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nƣớc. Ở đồng
bằng Bắc Bộ, mặc dù chƣa phát hiện dấu hiệu hoạt động của các thế lực thù địch
ở ngoài nƣớc, song đã xuất hiện hiện tƣợng các đối tƣợng khiếu kiện có quan hệ
với số đối tƣợng cơ hội chính trị, trả lời phỏng vấn của báo chí, phát thanh nƣớc
ngoài, sau đó đƣợc tán phát trên mạng Internet, gây dƣ luận không tốt trong nhân
dân. Ngoài ra, không loại trừ có sự tác động của các thế lực tôn giáo từ nƣớc
ngoài trong việc kích động quần chúng giáo dân, tín đồ đòi lại đất đai, cơ sở vật
chất của các tôn giáo trƣớc đây. Đây cũng là vấn đề cần quan tâm trong quá trình
phòng ngừa, ngăn chặn và giải quyết các vụ việc tranh chấp, khiếu kiện về đất đai.
1.2. Nhận thức về giải quyết “điểm nóng” khiếu kiện liên quan đến
đất đai ở nông thôn
1.2.1. Cơ sở chính trị của giải quyết “điểm nóng” khiếu kiện liên quan
đến đất đai ở nông thôn
1.2.1.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về quản lý, sử
dụng đất đai
Trong những năm qua, tình hình tranh chấp, khiếu kiện về đất đai diễn
biến khá phức tạp ở nhiều địa phƣơng trên cả nƣớc (trong đó có các tỉnh thuộc
khu vực đồng bằng Bắc Bộ). Công tác giải quyết loại vụ việc này trên thực tế
cũng đã và đang gặp nhiều khó khăn, vƣớng mắc cả về phƣơng diện lý luận cũng

22


nhƣ thực tiễn. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do chúng ta
chƣa nghiên cứu, vận dụng linh hoạt, có hiệu quả các quan điểm, chủ trƣơng của
Nhà nƣớc trong công tác quản lý, sử dụng đất đai vào quá trình giải quyết.
Có thể nói, Đảng và Nhà nƣớc đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị, văn bản luật
và dƣới luật quy định về các vấn đề có liên quan đến đất đai, song tựu chung lại
thấy một số quan điểm.

Đất đai thuộc sở hữu của Nhà nước. Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ
đất đai theo quy hoạch và theo pháp luật, đảm bảo sử dụng đúng mục đích, có
hiệu quả. Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài.
Vấn đề này đã đƣợc quy định trong Hiến pháp nƣớc Cộng hoà XHCN Việt
Nam năm 1992. Theo Điều 17 của Hiến pháp thì “đất đai, rừng núi, sông hồ,
nguồn nƣớc, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và
vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nƣớc đầu tƣ vào các xí nghiệp, công trình
thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại
giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của
Nhà nƣớc, đều thuộc sở hữu toàn dân”[12, tr.19]. Điều 18 của Hiến pháp cũng
quy định “Nhà nƣớc thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp
luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà nƣớc giao đất cho các
tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài”[12, tr.19].
Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2005 của nƣớc ta cũng quy định: “Đất đai
thuộc hình thức sở hữu Nhà nƣớc, do Chính phủ thống nhất quản lý. Quyền sử
dụng đất của cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, chủ thể khác đƣợc xác lập do Nhà
nƣớc giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất. Quyền sử dụng
đất của cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, chủ thể khác cũng đƣợc xác lập do đƣợc

23


ngƣời khác chuyển quyền sử dụng đất phù hợp với quy định của Bộ luật này và
pháp luật về đất đai”.
Điều 5 Luật Đất đai quy định về sở hữu đất đai nhƣ sau:
1. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nƣớc đại diện chủ sở hữu.
2. Nhà nƣớc thực hiện quyền định đoạt đối với đất đai.
3. Nhà nƣớc thực hiện quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất đai thông qua
các chính sách tài chính về đất đai.
4. Nhà nƣớc trao quyền sử dụng đất cho ngƣời sử dụng đất thông qua hình

thức giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất đối với ngƣời đang sử
dụng đất ổn định, quy định quyền và nghĩa vụ của ngƣời sử dụng đất”.
Đối với việc quản lý nhà nƣớc về đất đai, Điều 6 của Luật Đất đai quy
định: “Nhà nƣớc thống nhất quản lý về đất đai. Nhà nƣớc có chính sách đầu tƣ cho
việc thực hiện các nhiệm vụ quản lý Nhà nƣớc về đất đai, xây dựng hệ thống quản
lý đất đai hiện đại, đủ năng lực, bảo đảm quản lý đất đai có hiệu lực và hiệu quả”.
Ngoài ra, Nhà nƣớc cũng quy định rõ về trách nhiệm hình sự của các cá
nhân trong quản lý, sử dụng đất đai. Theo Điều 173 Bộ luật hình sự nƣớc
CHXHCN Việt Nam năm 1999 quy định “tội vi phạm các quy định về sử dụng
đất đai” thì:
1. Ngƣời nào lấn chiếm đất hoặc chuyển quyền sử dụng đất, sử dụng đất
trái với các quy định của Nhà nƣớc về quản lý và sử dụng đất đai gây hậu quả
nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về
tội này, chƣa đƣợc xoá án tích mà còn vi phạm thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng
đến năm mƣơi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ
ba tháng đến ba năm.

24


×