Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Nhung ky nang su pham can thiet

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.58 KB, 3 trang )

Những kỹ năng cần có của giáo viên
Người GV phổ thông trong bối cảnh của cuộc cách mạng KH và CN hiện đại Theo

NGƯỜI GIÁO VIÊN PHỔ THÔNG
TRONG BỐI CẢNH CỦA
CUỘC CÁCH MẠNG KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ HIỆN ĐẠI
PGS.TS NGUYỄN ĐỨC VŨ
Trường ĐHSP-ĐH Huế
1. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại và những tác động đến giáo dục
Sau cuộc Cách mạng công nghiệp vào cuối thế kỷ XVIII, cuộc Cách mạng khoa học và kỹ thuật vào nửa
sau thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX, nhân loại đang tiến hành cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại vào cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI. Đặc trưng của cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại là
làm xuất hiện và phát triển bùng nổ công nghệ cao (với bốn trụ cột là công nghệ vật liệu, công nghệ năng
lượng, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin). Đây là các công nghệ dựa vào những thành tựu khoa học
mới nhất với hàm lượng tri thức và hàm lượng khoa học, sáng tạo cao nhất. Các công nghệ này đã tác
động mạnh mẽ và sâu sắc đến phát triển kinh tế – xã hội.
Cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ tác động ngày càng sâu sắc làm cho nền kinh tế thế giới chuyển
dần từ nền kinh tế công nghiệp sang một loại hình kinh tế mới dựa trên chất xám và kỹ thuật, công nghệ
cao, được gọi là kinh tế tri thức. Với sự thống trị của các ngành kinh tế tri thức (các ngành dựa trên hàm
lượng chất xám cao), trong nền kinh tế tri thức, vai trò của giáo dục cực kì to lớn. Một số tính toán cho thấy
rằng, trong nền kinh tế tri thức, đầu tư cho giáo dục chiếm từ 6 – 8% GDP, trình độ văn hoá trung bình của
mọi công dân phải tốt nghiệp trung học phổ thông, công nhân tri thức là thành phần chủ yếu trong cơ cấu xã
hội.
Đồng thời, cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã giảm dần ý nghĩa của khoảng cách không
gian, thúc đẩy sự phân công lao động quốc tế ngày càng sâu rộng, phát triển nhanh chóng mậu dịch quốc
tế, đầu tư trên phạm vi toàn cầu. Từ đó, dẫn tới sự hình thành nền kinh tế toàn cầu hoá, với những biểu
hiện rõ nét: thương mại quốc tế phát triển mạnh; đầu tư nước ngoài tăng trưởng nhanh; thị trường tài chính
quốc tế mở rộng; các công ty xuyên quốc gia với chi nhánh ở nhiều quốc gia khác nhau, nắm trong tay
những của cải vật chất rất lớn và chi phối nhiều ngành kinh tế quan trọng. Toàn cầu hoá kinh tế đã thúc đẩy
sản xuất phát triển và tăng trưởng kinh tế toàn cầu, đẩy nhanh đầu tư và khai thác triệt để khoa học – công


nghệ, tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa các nước. Tuy nhiên, toàn cầu hoá kinh tế còn có những mặt
tiêu cực, đặc biệt làm gia tăng nhanh chóng khoảng cách giàu nghèo. Giáo dục đứng trước các thách thức
ngày càng lớn do các mâu thuẫn tạo ra như: mâu thuẫn giữa toàn cầu và cục bộ, giữa chiến lược dài hạn
và ngắn hạn, giữa cạnh tranh và bình đẳng về cơ hội, giữa truyền thống và hiện đại, giữa sự phát triển
nhanh của tri thức và khả năng tiếp thu có hạn của con người, giữa tinh thần và vật chất….
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và nền kinh tế tri thức, sự tác động của công nghệ đã làm cho thế giới có
nhiều biến đổi sâu sắc và thường xuyên. Cùng với mạng viễn thông toàn cầu cho phép trao đổi thông tin
một cách nhanh chóng,việc tiếp cận của mỗi người với tri thức nhân loại rất tiện lợi và với khối lượng lớn.
Để thích ứng với điều đó, giáo dục phải chuyển từ việc coi trọng truyền thụ tri thức sang việc giáo dục cho
mọi người khả năng tự học, tự giải quyết vấn đề, hợp tác với nhau. Làm được điều đó, giáo dục mới cung
cấp cho xã hội hiện đại những người lao động mới phù hợp.
2. Những kỹ năng cần có của giáo viên để thích ứng với nền giáo dục trong bối cảnh của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại
a) Người giáo viên cần có kĩ năng tự học, tự nghiên cứu
Thế giới đang ở trong quá trình của cuộc Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại với những tác động sâu
sắc đến toàn bộ các mặt kinh tế và đời sống xã hội. Khối lượng tri thức nhân loại như một dòng thác khổng
lồ đang cuồn cuộn chảy trên xa lộ thông tin. Những kiến thức nhà trường chuyển giao cho sinh viên sư
phạm chỉ những cơ sở ban đầu cho một quá trình tự học, tự bồi dưỡng. Ngay người vừa được công nhận
học vị tiến sĩ cũng chỉ là người bắt đầu bước vào công tác nghiên cứu độc lập. Học là công việc suốt cả đời
của bất kỳ ai. Đối với người đi dạy, điều đó lại càng quan trọng hơn. Ngày mai, với sự phát triển nhanh
chóng của máy vi tính và công nghệ thông tin, cơ hội tiếp cận tri thức của mỗi người đều bình đẳng với
nhau. Điểm khác nhau cơ bản là khả năng tiếp cận, phát hiện và giải quyết vấn đề. Những kỹ năng đó một
phần được bồi dưỡng tiếp tục nhờ vào quá trình tự học sau khi ra trường.
Tự học cần được xem là một phẩm chất quan trọng của giáo viên (Trong thư của Chủ tịch nước Nguyễn
Minh Triết gửi các nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục và học sinh, sinh viên nhân dịp khai giảng năm học
2006-2007 có viết: “Mỗi thầy cô giáo hãy thực sự là một tấm gương sáng về đạo đức và tự học”)
Trong tương lai, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, việc học có thể được phân tán theo từng
cá nhân ở các địa điểm khác nhau. Không nhất thiết người học phải giáp mặt thầy trực tiếp. Nội dung dạy
học có thể được chuyển tải trên tất cả các phương tiện công nghệ thông tin. Người học có thể tiếp cận
thông tin ở bất kỳ mọi nơi, mọi lúc. Lúc ấy, kĩ năng tự học càng hết sức quan trọng. Ai dạy những kĩ năng

đó cho người học? Nhà trường, trước hết là các thầy cô giáo. Do vậy, giáo viên trước hết phải là người biết
tự học.
b) Giáo viên cần có kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin.
Trong thời đại công nghệ hiện nay, việc học của học sinh cũng đã có nhiều thay đổi. Thói quen học thuộc
một cách thụ động nhường chỗ cho việc tự tìm tòi, khám phá. Những băn khoăn học sinh gặp phải khi các
em tiếp xâúc với các nguồn thông tin khác nhau khiến cho các em tìm cách giải đáp. Việc học và chơi ngày
càng được gắn với máy vi tính nhiều hơn, thu hút các em nhiều hơn vào sự tìm tòi, khám phá.
Giáo viên không thể bằng lòng với những thông tin có sẵn trên các trang sách giáo khoa và tài liệu tham
khảo. Internet là nguồn thông tin không thể thiếu được của những người làm nghề dạy học. Khai thác thông
tin từ Internet phải trở thành thói quen không thể từ bỏ được của mỗi giáo viên. Rõ ràng, kỹ năng làm việc
với máy tính trở thành kỹ năng tối thiểu của tất cả mọi người, trong đó có cả giáo viên.
Máy vi tính và việc sử dụng nó trong tự học và dạy học trở thành nhu cầu thiết yếu, thói quen văn hoá đối
với mỗi giáo viên.
c) Giáo viên cần có kĩ năng hợp tác trong dạy học
Một trong 4 trụ cột của giáo dục thế kỉ 21 do UNESCO đề xướng là “học để sống cùng nhau”. Trên tầm vĩ
mô, thế giới ngày càng thu hẹp khoảng cách không gian nhờ vào công nghệ thông tin; nhiều giá trị nhân
bản phổ biến đã trở thành nét chung của nhiều dân tộc. Thế giới đòi hỏi sự liên kết toàn cầu trong nhiều lĩnh
vực. Khó có thể chấp nhận một quốc gia hay một cá nhân nào trong thời đại ngày nay đứng ngoài quỹ đạo
của việc bảo vệ môi trường, chống khủng bố… Trong phạm vi cụ thể, sự hợp tác tạo nên nhiều thành tựu
quan trọng đối với mỗi cá nhân. Kĩ năng hợp tác cần được rèn luyện ở mỗi giáo viên. Đến lượt mình, các
thầy cô giáo lại dạy cho học sinh của mình cách hợp tác trong học tập và cuộc sống.
d) Giáo viên cần luôn tự bồi dưỡng kĩ năng giải quyết vấn đề
Cuộc sống của con người, suy đến cùng, là một chuỗi liên tục giải quyết vấn đề. Càng giải quyết tốt các vấn
đề bao nhiêu, chất lượng cuộc sống của con người càng có nhiều cơ hội được nâng cao bấy nhiêu. Không
nên xem nhà trường như một “ốc đảo”, mà nên xem nhà trường chính là cuộc sống. Các vấn đề thực tế
cuộc sống được phản ánh vào nhà trường dưới một lăng kính đủ để cho người học tiếp cận theo cách phù
hợp với lứa tuổi của mình. Giải quyết các vấn đề trong các bài học ở nhà trường cũng nên xem như giải
quyết các vấn đề của cuộc sống. Nhờ vậy, các em khỏi bỡ ngỡ khi bước vào đời sống thực tế phong phú.
Đồng thời, ở một góc độ nào đó, người học khi ra trường khỏi phải mất công đào tạo tiếp từ thực tế cuộc
sống và công việc. Để làm được điều đó, giáo viên cần phải luôn tự rèn luyện và bồi dưỡng kĩ năng giải

quyết vấn đề.
3. Tổ chức các nhóm tự bồi dưỡng giáo viên theo mô hình liên môn và liên trường là một trong
những con đường tự bồi dưỡng thiết thực và hiệu quả
Từ 1995 đến nay, đội ngũ giáo viên phổ thông đã trải qua 3 chu kỳ bồi dưỡng thường xuyên. Bên cạnh đó,
việc bồi dưỡng thay sách, bồi dưỡng chuyên đề, bồi dưỡng nâng cao năng lực gần như diễn ra liên tục
hàng năm. Kết quả là trình độ chuyên môn và nghiệp vụ ngày càng được nâng cao, đáp ứng ngày càng tốt
hơn nhiệm vụ giáo dục trước nhiều yêu cầu mới của chương trình, sách giáo khoa nói riêng và việc đổi mới
giáo dục nói chung. Việc tự bồi dưỡng được xem là một nhu cầu tự thân của mỗi giáo viên, được diễn ra
thường xuyên liên tục trong suốt cả quá trình công tác của mỗi người. Ngoài các đợt bồi dưỡng được thực
hiện theo kiểu “từ trên xuống”, việc bồi dưỡng phải được tiến hành mọi nơi, mọi lúc theo kiểu “từ dưới lên”.
Giúp nhau trong tự bồi dưỡng là một trong những con đường có hiệu quả trong tự bồi dưỡng chuyên môn,
nghiệp vụ.
Ngoài việc bồi dưỡng theo tổ chuyên môn, hình thức bồi dưỡng theo mô hình “liên tổ” trong mỗi trường có
tác dụng thiết thực theo từng nội dung tự bồi dưỡng. Chẳng hạn, để nâng cao năng lực ứng dụng công
nghệ thông tin trong dạy học, các giáo viên bộ môn Tin học có nhiều ưu thế hơn trong trường. Một tổ tự
nguyện giúp đỡ nhau về công nghệ thông tin được thành lập với hạt nhân là giáo viên bộ môn Tin học sẽ có
ý nghĩa rất thiết thực, đặc biệt đối với nhiều giáo viên đang còn hạn chế về sử dụng máy tính trong dạy học.
Hình thức bồi dưỡng “liên trường” hoặc theo “cụm trường” có tác dụng rất lớn trong việc giúp đỡ nâng cao
năng lực chuyên môn giáo viên giữa các trường. Hàng tháng, hàng quý, các tổ “liên trường” hoặc “cụm
trường” cùng tiến hành dự giờ, trao đổi về một chủ đề chuyên môn,… Trong năm, thường xuyên trao đổi tài
liệu, thông tin chuyên môn,… Những việc làm ấy rất có ích đối với mỗi giáo viên. Các giáo viên giỏi có điều
kiện để trau dồi chuyên môn và giúp đỡ đồng nghiệp; các giáo viên khác có điều kiện học hỏi thêm, hoặc
được giải đáp bằng ý kiến thống nhất của tập thể về những điều còn băn khoăn,…
Tự bồi dưỡng là công việc thiết yếu của từng giáo viên. Thành lập các tổ tự bồi dưỡng liên môn, liên trường
cần nhiều đến vai trò của các tổ trưởng chuyên môn. Xây dựng các tổ bồi dưỡng “cụm trường” cần nhiều
đến vai trò của hiệu trưởng. Định hướng các chủ đề tự bồi dưỡng, hoặc sinh hoạt chuyên môn cần đến các
phòng chức năng của Sở Giáo dục và Đào tạo. Sự phối hợp có hiệu quả giữa các thành phần trên sẽ làm
cho việc tự bồi dưỡng của giáo viên ngày càng có hiệu quả hơn.
N.Đ.V
__________________

Cái na ná trong tình yêu thì có trăm nghìn
Nhưng đích thực trong tình yêu chỉ có một

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×