Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Chuyên Đề Vi Phạm Pháp Luật Và Nghiệp Vụ Xử Lý Vi Phạm Trong Nhà Trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.16 KB, 48 trang )

1


Ở các nước có nền giáo dục phát triển, vấn đề an ninh trường học,
nhất là ở các trường trung học luôn được xem là một nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu song song với nhiệm vụ dạy - học của nhà trường. Ở nước ta,
trong những năm gần đây, vấn đề an ninh trường học dù được quan tâm
hơn, tuy nhiên, nhiều vụ việc vi phạm pháp luật do các em học sinh thực
hiện đã gây ra hoang mang, lo lắng cho gia đình, nhà trường và xã hội.
Trước thực trạng an ninh trường học bị xâm hại, bạo lực học đường
ngày càng gia tăng, trở thành điểm nóng của ngành giáo dục, lãnh đạo các
trường đã có sự chủ động, phối hợp với lực lượng công an và gia đình thực
hiện nhiều biện pháp giáo dục các em học sinh chấp hành pháp luật, phòng
ngừa tội phạm và tệ nạn xã hội. Tuy nhiên, những kết quả đạt được chưa
tương xứng, việc xử lý, chấn chỉnh những sai phạm của các em học sinh
còn chậm, thiếu tính răn đe, học sinh vi phạm pháp luật, đặc biệt vi phạm
pháp luật về hình sự ngày càng có chiều hướng gia tăng với nhiều hành vi
như đánh nhau, gây rối trật tự công cộng, trộm, cướp tài sản, xâm hại sức
khỏe, tính mạng cho đến tội phạm ma túy,...
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, song, có thể nhìn
nhận vấn đề này xuất phát từ một số nguyên nhân cơ bản: mặt trái của sự
phát triển kinh tế thị trường là các hiện tượng tiêu cực xã hội đã tác động
trực tiếp đến môi trường sinh hoạt và học tập của các em học sinh; kỷ
cương, kỷ luật và công tác quản lý học sinh trong các trường học chưa
được thực hiện một cách nghiêm túc; một số biện pháp giáo dục, rèn luyện
đối với học sinh về đạo đức, lối sống, phẩm chất hiệu quả chưa cao; học
sinh chưa được rèn luyện kỹ năng ứng phó với vấn đề bạo lực học đường;
kỹ năng giải quyết của của thầy cô giáo khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm
chưa được trang bị hoặc còn lúng túng.
Tăng cường an ninh trường học, hạn chế và giải quyết tốt bạo lực
học đường cũng như ngăn chặn đến mức thấp nhất hành vi vi phạm pháp


luật trong học sinh đang là một nhiệm vụ cấp bách của ngành giáo dục
hiện nay. Có thể nói, đây là một vấn đề mà ngành giáo dục cũng như các
trường học không thể giải quyết được một cách cơ bản và triệt để nếu
không có những giải pháp đúng đắn.
Từ góc độ quản lý giáo dục, các nhà nghiên cứu cho rằng để giải
quyết một hiện tượng của học đường cần phải tìm hiểu và giải quyết từ
nguồn gốc, nguyên nhân xuất hiện hiện tượng đó. Do vậy, lãnh đạo nhà
trường có trách nhiệm nhận thức đúng, đầy đủ vấn đề an ninh trường học,
tình hình học sinh trong nhà trường và khả năng vi phạm pháp luật trong
học sinh để từ đó có biện pháp giáo dục cho học sinh ý thức chấp hành
pháp luật; nội quy, quy chế của ngành và Trường học; không để học sinh bị
kẻ xấu kích động, lôi kéo vào các hoạt động vi phạm pháp luật, gây rối an
ninh trật tự, bảo vệ an toàn tính mạng, tài sản, sức khỏe của học sinh.

2


Để góp phần giúp nhà trường phân định các hành vi vi phạm pháp
luật trong học sinh cũng như nghiệp vụ xử lý vi phạm kỷ luật trong nhà
trường, nâng cao hiệu quả quản lý nhà trường, tài liệu này giới thiệu một số
nội dung cơ bản về vi phạm pháp luật, trách nhiệm pháp lý, các hành vi vi
phạm pháp luật thường gặp trong nhà trường và nghiệp vụ xử lý vi phạm
kỷ luật của học sinh.
1. VI PHẠM PHÁP LUẬT
1.1. Khái niệm vi phạm pháp luật
Hầu hết các tài liệu nghiên cứu về vấn đề vi phạm pháp luật (pháp
luật đại cương; lý luận chung về nhà nước và pháp luật…) đều có quan
điểm tương đối giống nhau về vi phạm pháp luật, điều này cho thấy khoa
học pháp lý bàn về vấn đề vi phạm pháp luật ở nước ta đã thể hiện sự hoàn
thiện và thống nhất cao trong nhận thức và thực tiễn đấu tranh phòng,

chống các hiện tượng vi phạm pháp luật.
Vi phạm pháp luật chỉ là một hiện tượng xã hội mang tính tiêu cực;
là những hành vi phản ứng tiêu cực của một số cá nhân hoặc tổ chức, đi
ngược lại với ý chí nhà nước được thể hiện trong các quy phạm pháp luật.
Những phản ứng tiêu cực này gây hại cho nhà nước, xã hội và công dân, do
vậy chúng luôn bị nhà nước, xã hội và công dân lên án, đấu tranh đòi hỏi
phải loại bỏ chúng ra khỏi đời sống xã hội.
Khoa học pháp lý ở nước ta hiện nay, vi phạm pháp luật được định
nghĩa như sau: Vi phạm pháp luật là hành vi (thể hiện dưới dạng hành
động hoặc không hành động), trái pháp luật, có lỗi do chủ thể có năng lực
trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại hoặc đe dọa xâm hại các quan hệ
xã hội được pháp luật bảo vệ.
1.2. Dấu hiệu cơ bản của vi phạm pháp luật
Trên thực tế, khi chúng ta nhìn thấy người điều khiển phương tiện
giao thông vượt đèn đỏ, hai học sinh đánh nhau …thường thì chúng ta nhận
định đó là vi phạm pháp luật, tuy nhiên dưới góc độ khoa học pháp lý, để
kết luận một hành vi có vi phạm pháp luật hay không cần phải xem xét rất
nhiều yếu tố. Những yếu tố đó được gọi là các dấu hiệu cơ bản của vi phạm
pháp luật.
Một hành vi chỉ được xem là vi phạm pháp luật khi và chỉ khi có đầy
đủ bốn dấu hiệu sau đây:
Thứ nhất, vi phạm pháp luật là hành vi nguy hiểm cho xã hội
Vi phạm pháp luật trước hết là hành vi của con người hoặc là hoạt
động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội…gây nguy hiểm hoặc
có khả năng gây nguy hiểm cho xã hội. Khi xác định vi phạm pháp luật thì

3


dấu hiệu hành vi là không thể thiếu được. Nói cách khác, không có hành vi

nguy hiểm của con người thì không có vi phạm pháp luật.
Cần lưu ý rằng, vi phạm pháp luật luôn luôn là hành vi xác định
của con người, được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành
động. Hành vi đó là những phản ứng, cách ứng xử được biểu hiện ra bên
ngoài của chủ thể pháp luật trong những hoàn cảnh, điều kiện nhất định.
Ví dụ: học sinh A gây thương tích cho học sinh B (hành vi vi phạm
thể hiện dưới dạng hành động) hoặc học sinh A không cứu giúp bạn trong
trường hợp bạn gặp nguy hiểm về tính mạng (hành vi vi phạm thể hiện
dưới dạng không hành động).
Pháp luật là quy tắc hành vi của con người cho nên pháp luật không
điều chỉnh suy nghĩ, tình cảm hoặc những đặc tính cá nhân khác của con
người. Nói cách khác, những gì còn trong suy nghĩ hay chưa biểu hiện
thành những hình thức hành vi cụ thể thì không bị coi là vi phạm pháp luật,
bởi vì ý nghĩ trên thực tế không thể kiểm tra, không thể đo được bằng quy
phạm pháp luật.
Thứ hai, vi phạm pháp luật phải là hành vi trái pháp luật, xâm hại
đến các quan hệ xã hội được pháp luật xác lập và bảo vệ
Vi phạm pháp luật là hành vi nguy hiểm cho xã hội của các chủ thể
pháp luật đồng thời hành vi đó phải trái với các quy định của pháp luật,
xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật xác lập và bảo vệ.
Hành vi trái pháp luật là hành vi không phù hợp với các quy định của
pháp luật như làm một việc mà pháp luật cấm, không thực hiện những gì
mà pháp luật yêu cầu hoặc sử dụng quyền vượt quá giới hạn cho phép của
pháp luật.
Ví dụ: học sinh điều khiển xe ôtô, môtô khi chưa có bằng lái (làm
một việc mà pháp luật cấm), không tố giác tội phạm (không làm một việc
mà pháp luật yêu cầu), thầy giáo tạm giữ học sinh (sử dụng quyền vượt quá
giới hạn cho phép).
Những hành vi trái với các quy định của các tổ chức xã hội, trái với
tập quán hoặc trái với đạo đức…nhưng không trái với quy định của pháp

luật hoặc những gì mà pháp luật không cấm, không bảo vệ thì dù có làm
trái cũng không bị coi là vi phạm pháp luật.
Như vậy, tính trái pháp luật là dấu hiệu không thể thiếu của hành vi
bị coi là vi phạm pháp luật.
Thứ ba, vi phạm pháp luật phải là hành vi có lỗi của chủ thể.
Dấu hiệu trái pháp luật chỉ là biểu hiện bên ngoài của hành vi, để xác
định vi phạm pháp luật cần phải xem xét cả mặt chủ quan của hành vi,

4


nghĩa là phải xác định trạng thái tâm lý của chủ thể khi thực hiện hành vi
trái pháp luật, nói cách khác là phải xác định lỗi của chủ thể.
Lỗi là yếu tố chủ quan thể hiện thái độ của chủ thể đối với hành vi
trái pháp luật của mình.
Trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật, người ta
nhận thấy rằng lỗi là yếu tố không thể thiếu được để xác định vi phạm pháp
luật, bởi vì nếu một hành vi trái pháp luật được thực hiện do những điều
kiện, hoàn cảnh khách quan và chủ thể đó không thể ý thức hoặc không thể
lựa chọn cách xử sự nào khác theo yêu cầu của pháp luật thì hành vi đó
không thể coi là có lỗi, không bị xem là vi phạm pháp luật.
Ví dụ: học sinh A chạy xe đạp bên phải đường, chấp hành đúng Luật
giao thông nhưng bất thình lình có một cháu bé chạy băng ngang đường
làm A không kịp xử lý nên đã đụng vào cháu bé. Hành vi của học sinh A
xảy ra do sự kiện bất ngờ, khách quan nên không mặc dù A có đụng xe vào
cháu bé nhưng hành vi của A không bị coi là có lỗi nên không bị xem là vi
phạm pháp luật.
Nói tóm lại, tất cả mọi vi phạm pháp luật trước hết phải là hành vi
trái pháp luật, nhưng ngược lại, không phải tất cả mọi hành vi trái pháp luật
đều bị coi là vi phạm pháp luật. Chỉ những hành vi trái pháp luật nào có lỗi

(được chủ thể thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý) mới bị coi là vi phạm
pháp luật.
Thứ tư, vi phạm pháp luật phải do chủ thể có năng lực trách nhiệm
pháp lý thực hiện.
Năng lực trách nhiệm pháp lý là khả năng chịu trách nhiệm pháp lý
của chủ thể do nhà nước quy định. Thông thường, nhà nước chỉ quy định
sự độc lập phải gánh chịu trách nhiệm về hành vi của mình đối với những
người có khả năng tự lựa chọn được cách xử sự và có tự do ý chí, nói cách
khác người đó phải có khả năng nhận thức, điều khiển được hành vi của
mình, có điều kiện lựa chọn và quyết định cách xử sự cho mình và chịu
trách nhiệm độc lập về hành vi của mình. Do vậy, pháp luật chỉ quy định
trách nhiệm pháp lý cho những người đã đạt được một độ tuổi nhất định, có
khả năg lý trí và có tự do ý chí. Độ tuổi phải chịu trách nhiệm pháp lý của
con người được pháp luật quy định khác nhau trong mỗi loại quan hệ xã
hội khác nhau hoặc phụ thuộc vào tầm quan trọng, tính chất của quan hệ xã
hội đó. Đối với người do mất khả năng nhận thức hoặc khả năng lựa chọn,
điều khiển hành vi của mình ở thời điểm khi thực hiện hành vi đó thì pháp
luật cũng quy định họ không có năng lực trách nhiệm pháp lý, do vậy họ
không phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với trường hợp đó.

5


Vì vậy, những hành vi mặc dù trái pháp luật nhưng do người mất trí,
bệnh tâm thần hoặc người theo quy định của pháp luật không phải chịu
trách nhiệm pháp lý thực hiện thì vẫn không bị coi là vi phạm pháp luật.
Ví dụ: người bị bệnh tâm thần vào trường học đập phá tài sản, gây
rối trật tự trường học.
Qua phân tích trên, chúng ta nhận thấy rằng, một hành vi bị coi là vi
phạm pháp luật khi đáp ứng đồng thời cả bốn dấu hiệu nêu trên. Chỉ cần

thiếu một trong bốn dấu hiệu trên thì hành vi đó không bị xem là vi phạm
pháp luật. Chúng ta cần lưu ý rằng mọi hành vi vi phạm pháp luật đều trái
pháp luật, nhưng trái lại không phải mọi hành vi trái pháp luật đều vi phạm
pháp luật.
1.3. Cấu thành của vi phạm pháp luật
Vi phạm pháp luật được cấu thành bởi 4 yếu tố: mặt khách quan, mặt
chủ quan, chủ thể và khách thể vi phạm pháp luật.
1.3.1. Mặt khách quan của vi phạm pháp luật
Là những biểu hiện ra bên ngoài của vi phạm pháp luật và được nhận
thức chủ yếu bằng trực quan sinh động bao gồm: hành vi trái pháp luật, sự
thiệt hại của xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và sự
thiệt hại của xã hội, công cụ thực hiện hành vi vi phạm, thời gian, địa điểm
thực hiện hành vi vi phạm, phương thức, thủ đoạn thực hiện hành vi vi
phạm …
- Hành vi trái pháp luật: bất kỳ một vi phạm pháp luật nào cũng
được cấu thành bởi hành vi trái pháp luật, nghĩa là nếu trong thực tế không
tồn tại hành vi trái pháp luật của cá nhân hoặc hoạt động trái pháp luật của
tổ chức cụ thể nào đó thì không có vi phạm pháp luật xảy ra.
Hành vi trái pháp luật thể hiện dưới dạng hành động hoặc không
hành động, không phù hợp với quy định của pháp luật, gây thiệt hại hoặc
đe dọa gây thiệt hại cho xã hội như làm những việc pháp luật cấm, không
làm những việc pháp luật bắt buộc, vượt quá thẩm quyền cho phép…
Ví dụ:
+ Làm những việc pháp luật cấm: học sinh gian lận trong thi cử; học
sinh điều khiển phương tiện giao thông khi chưa đủ tuổi quy định hoặc
không có bằng lái.
+ Không làm những việc pháp luật bắt buộc phải làm: thấy học sinh A
đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, mặc dù có điều kiện cứu
bạn A nhưng học sinh B đã không cứu dẫn đến học sinh A chết (bị xem là
vi phạm pháp luật hình sự khi học sinh A đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự).

+ Vượt quá thẩm quyền cho phép: Cô giáo B cho lớp trưởng khám
người học sinh X vì nghi ngờ học sinh X lấy tiền của bạn trong lớp.
6


- Hậu quả (sự thiệt hại) do hành vi trái pháp luật gây ra cho xã hội: là
những tổn thất thực tế về mặt vật chất hay tinh thần mà xã hội phải gánh
chịu.
Hành vi trái pháp luật ở những mức độ khác nhau đều nguy hiểm
và gây hại cho xã hội. Tính nguy hiểm của hành vi trái pháp luật thể hiện
ở chỗ nó đã hoặc có nguy cơ gây ra những thiệt hại về vật chất, về tinh
thần và những thiệt hại khác cho xã hội. Mức độ nguy hiểm của hành vi
trái pháp luật được xác định phụ thuộc vào tính chất và mức độ thiệt hại
thực tế hoặc nguy cơ gây hại cho xã hội mà hành vi trái pháp luật đó gây
ra.
Ví dụ:
+ Học sinh A cố ý làm hư hỏng chiếc xe đạp của học sinh B. Hành vi
của học sinh A đã gây thiệt hại về mặt vật chất cho học sinh B.
+ Học sinh A đã đánh học sinh B gây thương tích 11%. Hành vi của
học sinh A đã gây thiệt hại về mặt thể chất, tinh thần cho học sinh B.
+ Học sinh A đã tung tin xấu, vu khống học sinh B lấy trộm tài sản
nhà trường. Hành vi của học sinh A đã gây thiệt hại về mặt tinh thần cho
học sinh B.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với sự thiệt hại
mà nó gây ra cho xã hội: mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật
với sự thiệt hại mà nó gây ra cho xã hội thể hiện ở chỗ sự thiệt hại của xã
hội là do chính hành vi trái pháp luật đó trực tiếp gây ra, nói cách khác, sự
thiệt hại của xã hội xảy ra là hậu quả tất yếu của hành vi trái pháp luật. Nếu
giữa hành vi trái pháp luật và sự thiệt hại của xã hội không có mối quan hệ
nhân quả thì sự thiệt hại của xã hội không phải do hành vi trái pháp luật đó

trực tiếp gây ra mà có thể là do một nguyên nhân khác.
Ngoài ra, trong mặt khách quan của vi phạm pháp luật còn có các
yếu tố khác như thời gian, địa điểm, cách thức vi phạm…
1.3.2. Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật
Là những biểu hiện tâm lý bên trong của chủ thể vi phạm pháp luật
bao gồm các yếu tố:
- Lỗi của chủ thể vi phạm pháp luật
Lỗi là trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi của mình và hậu
quả do hành vi đó gây ra. Lỗi thể hiện thái độ tiêu cực của chủ thể vi phạm.
Phụ thuộc vào mức độ tiêu cực trong thái độ của chủ thể, khoa học pháp lý
chia lỗi thành hai loại: lỗi cố ý và lỗi vô ý.
+ Lỗi cố ý: cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp

7


Lỗi cố ý trực tiếp: chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi
của mình gây ra và mong muốn điều đó xảy ra.
Ví dụ: Do mâu thuẫn, học sinh A dùng dao đâm học sinh B dẫn đến
học sinh B tử vong (khi học sinh A cầm dao đâm bạn đã nhận thức được rằng
hành vi của mình rất nguy hiểm, có thể dẫn đến chết người, nhưng học sinh A
vẫn thực hiện và mong muốn đâm học sinh B cho đến chết).
Lỗi cố ý gián tiếp: chủ thể vi phạm nhận thấy trước hành vi nguy
hiểm cho xã hội do mình gây ra tuy không mong muốn nhưng để mặc cho
hậu quả đó xảy ra.
Ví dụ: Do mâu thuẫn, học sinh C dùng cây đánh vào đầu học sinh D
làm học sinh D bất tỉnh, sau đó C bỏ đi. Học sinh C nhận thức được rằng
hành vi của mình rất nguy hiểm và nếu không kịp thời cấp cứu thì D sẽ
chết, nhưng C đã không cứu và để mặc cho D chết.

+ Lỗi vô ý: vô ý vì quá tự tin và vô ý do cẩu thả
Lỗi vô ý vì quá tự tin: chủ thể vi phạm nhận thấy trước hậu quả nguy
hiểm cho xã hội do mình gây ra nhưng hy vọng, tin tưởng hậu quả đó
không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Ví dụ: học sinh A chạy xe mô tô trên đường với vận tốc 70km/h.
Học sinh A tự tin rằng với tài lái xe của mình sẽ không gây tai nạn giao
thông hoặc nếu có gặp chướng ngại vật thì A cũng có thể xử lý được. Tuy
nhiên chạy được một đoạn, A đã đụng vào chị B đang đi đường. Vậy, việc
A tông vào chị B không phải A cố ý mà là vô ý do quá tự tin vào khả năng
lái xe của mình.
Lỗi vô ý do cẩu thả: chủ thể vi phạm đã không nhận thấy trước được
hậu quả nguy hiểm cho xã hội do mình gây ra, mặc dù có thể hoặc cần phải
nhận thấy trước hậu quả đó.
Ví dụ: Bảo vệ nhà trường được Hiệu trưởng phân công mé các nhánh
cây trong sân trường. Hôm nọ, sau khi mé nhánh cây, bảo vệ đã để cây
thang ở sân trường. Giờ ra chơi, các em học sinh đã ngồi chơi dưới gốc cây
chẳng may cây thang ngã, đập vào đầu một học sinh gây chấn thương sọ
não. Vậy hành vi của bảo vệ nhà trường được xem là lỗi vô ý do cẩu thả.
- Động cơ vi phạm
Là động lực thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
Thông thường khi thực hiện vi phạm pháp luật chủ thể thường được thúc
đẩy bởi một động cơ nhất định nào đó như vụ lợi, trả thù…
Ví dụ: Do học sinh A học giỏi, được thầy cô thường biểu dương,
khen ngợi, học sinh B đã ganh ghét nên thù hận trong lòng. Một ngày nọ,
học sinh B đã rủ một nhóm bạn đón đường đánh, cắt tóc, quay video cảnh
8


nhóm bạn đánh học sinh A và tung lên mạng nhằm thỏa mãn sự thù ghét
của cá nhân.

- Mục đích vi phạm
Là kết quả cuối cùng mà trong suy nghĩ của mình chủ thể mong
muốn đạt được khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Mục đích vi phạm
của chủ thể cũng thể hiện tính chất nguy hiểm của hành vi. Tuy nhiên cần
lưu ý rằng không phải lúc nào mục đích mà chủ thể vi phạm mong muốn
đạt đến cũng trùng khớp với kết quả thực tế đạt được.
Ví dụ: học sinh A muốn gây thương tích cho học sinh B (chủ yếu để
dằn mặt) nhưng kết quả thực tế là học sinh B chết, vậy cái chết của B nằm
ngoài mong muốn của A. Hoặc ngược lại, A muốn giết B chết nhưng sau
khi gây án xong, A tưởng B chết nên bỏ đi, B may mắn được người khác
cứu sống nên việc B không chết cũng nằm ngoài mong muốn của A.
1.3.3. Chủ thể của vi phạm pháp luật
Chủ thể của vi phạm pháp luật là các cá nhân, tổ chức có năng lực
trách nhiệm pháp lý, tức là theo quy định pháp luật thì họ phải chịu trách
nhiệm đối với hành vi trái pháp luật của mình.
Thực tiễn đấu tranh và xử lý vi phạm pháp luật cho thấy, ở mỗi loại
vi phạm pháp luật đều có cơ cấu chủ thể riêng.
1.3.4. Khách thể của vi phạm pháp luật
Khách thể của vi phạm pháp luật là những quan hệ xã hội được pháp
luật bảo vệ nhưng bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại. Những quan hệ xã
hội khác nhau thì có tính chất và tầm quan trọng khác nhau, do vậy, tính
chất và tầm quan trọng của khách thể cũng là những yếu tố để xác định
mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật.
Việc xác định khách thể của vi phạm pháp luật có ý nghĩa quan
trọng, giúp chúng ta xác định được loại quan hệ pháp luật cụ thể, nhờ đó
mà tránh áp dụng sai pháp luật trong quá trình xử lý (hạn chế tình trạng
hình sự hóa quan hệ hành chính, hình sự hóa quan hệ dân sự hoặc ngược
lại…).
1.4. Phân loại vi phạm pháp luật
Ngày nay, hiện tượng vi phạm pháp luật trong xã hội rất đa dạng nên

tùy thuộc vào cách tiếp cận khác nhau nó được phân loại thành nhiều dạng
khác nhau như căn cứ vào các loại quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ thì
vi phạm pháp luật được phân loại thành vi phạm hình sự, vi phạm pháp luật
lao động, vi phạm pháp luật dân sự, vi phạm pháp luật hành chính…Nếu
căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi có thể phân loại
thành tội phạm và các vi phạm pháp luật khác.

9


Tuy nhiên, các tài liệu nghiên cứu về pháp luật nói chung, vi phạm
pháp luật nói riêng hiện nay đều thống nhất phân loại vi phạm pháp luật
được chia thành bốn loại cơ bản sau: vi phạm pháp luật hình sự; vi phạm
pháp luật hành chính; vi phạm pháp luật dân sự và vi phạm kỷ luật.
1.4.1 Vi phạm pháp luật hình sự (còn gọi là tội phạm)
1.4.1.1. Khái niệm tội phạm
Theo điều 8- Bộ luật hình sự Việt Nam sửa đổi, bổ sung năm 2009
thì:“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ
luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách
cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc
phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản,
các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực
khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”.
1.4.1.2. Các dấu hiệu của tội phạm
Có 4 dấu hiệu cơ bản: tính nguy hiểm cho xã hội; tính có lỗi; tính trái
pháp luật hình sự và tính phải chịu hình phạt.
+ Tính nguy hiểm cho xã hội: là đặc điểm quan trong nhất của tội
phạm, quyết định các dấu hiệu khác của tội phạm. Tính nguy hiểm cho xã

hội mang tính khách quan: con người chỉ có thể nhận thức, đánh giá được
hành vi thông qua tổng hợp tình tiết.
Hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi đã gây ra, đe dọa gây ra
những thiệt hại đáng kể cho những quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo
vệ. Mức độ thiệt hại đáng kể do pháp luật quy định và định lượng hóa. Đó
chính là hậu quả của tội phạm.
+ Tính có lỗi : Lỗi là thái độ chủ quan của một người đối với hành vi
nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của hành vi đó thể hiện dưới dạng cố ý
hoặc vô ý.
Một người bị coi là có lỗi khi thực hiện một hành vi nếu hành vi đó
là kết quả của sự tự lựa chọn và quyết định của chủ thể trong khi chủ thể đó
có đủ điều kiện để lựa chọn và quyết định một xử sự khác phù hợp với đòi
hỏi của xã hội.
+ Tính trái pháp luật hình sự : Điều 8- Bộ luật hình sự 1999 quy
định: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ
luật hình sự.
Như vậy một hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ có thể bị coi là tội
phạm nếu hành vi ấy được quy định trong Bộ luật hình sự. Dấu hiệu này là
cơ sở để đảm bảo cho đường lối đấu tranh phòng, chống tội phạm được
10


thống nhất, đảm bảo cho các quyền dân chủ của công dân không bị các
hành vi xử lý tùy tiện. Đồng thời là động lực để thúc đẩy các nhà lập pháp
kịp thời bổ sung, sửa đổi Luật theo sát sự thay đổi của tình hình kinh tế,
chính trị, xã hội của đất nước.
Tính trái pháp luật hình sự là một dấu hiệu về mặt hình thức pháp lý
phản ánh tính nguy hiểm cho xã hội, là dấu hiệu về nội dung chính trị, xã hội của
tội phạm.
+ Tính phải chịu hình phạt : là hậu quả pháp lý quy kết kèm theo.

Tội phạm có tính chịu hình phạt không có nghĩa là việc áp dụng và
thi hành hình phạt trên thực tế là có tính bắt buộc đối với mọi trường hợp
phạm tội. Trên thực tế có trường hợp phạm tội nhưng không phải chấp
hành hình phạt cụ thể, đó là những trường hợp có tội nhưng được miễn
trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, miễn chấp hành hành hình phạt tù có
điều kiện...
1.4.1.3. Phân loại tội phạm
- Tội ít nghiêm trọng: Là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội
mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù;
- Tội nghiêm trọng: Là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà
mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù;
- Tội rất nghiêm trọng: Là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội
mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm
tù;
- Tội đặc biệt nghiêm trọng: Là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn
cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên
mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình(1).
1.4.1.4. Cấu thành tội phạm
Cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính đặc
trưng cho một loại tội cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự.
Các trường hợp phạm tội cụ thể của một loại tội có thể khác nhau về
mức độ nguy hiểm cho xã hội nhưng tất cả các trường hợp đó đều có những
biểu hiện giống nhau ở bốn yếu tố cấu thành tội phạm, những biểu hiện
giống nhau này được coi là những dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho
một loại tội phạm. Tổng hợp những dấu hiệu chung này tạo thành cấu
thành tội phạm.
Thông thường, cấu thành tội phạm có các đặc điểm, dấu hiệu sau :
- Các dấu hiệu cấu thành tội phạm đều do luật định. Dưới những
hình thức khác nhau, các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm đều được quy
(1)


Điều 8 – Bộ luật Hình sự Việt Nam sửa đổi năm 2009

11


định trong Bộ luật hình sự. Do đó, các cơ quan giải thích hoặc áp dụng
pháp luật không được phép thêm hoặc bớt bất cứ một dấu hiệu nào của cấu
thành tội phạm bởi vì điều đó sẽ làm mở rộng hoặc thu hẹp phạm vi của
cấu thành tội phạm.
- Các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm có tính đặc trưng. Các dấu
hiệu được quy định trong mỗi cấu thành tội phạm phải phản ánh được đúng
tính chất đặc trưng của loại tội đó, cho phép phân biệt loại tội này với các
loại tội khác. Tính chất đặc trưng của các dấu hiệu đó đảm bảo nó bao quát
đúng phạm vi điều chỉnh của mình chứ không thể nhầm lẫn dẫn đến tình
trạng hiểu rộng ra hoặc thu hẹp đi. Tính chất đó cũng không cho phép có sự
trùng lặp của hai cấu thành tội phạm.
- Các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm có tính bắt buộc. Tất cả các
dấu hiệu được quy định trong mỗi cấu thành tội phạm đều có tính bắt buộc
khi xác định tội phạm. Người áp dụng pháp luật không được phép bỏ qua
bất cứ dấu hiệu nào trong cấu thành tội phạm và cũng không thể kết luận
một người nào đó phạm tội nếu trường hợp của họ không thoả mãn các dấu
hiệu trong cấu thành tội phạm.
a. Phân loại cấu thành tội phạm
- Căn cứ vào mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, chia cấu
thành tội phạm thành 3 loại:
+ Cấu thành tội phạm cơ bản: là cấu thành tội phạm chỉ có dấu hiệu
định tội tức là những dấu hiệu mô tả tội phạm cho phép phân biệt loại tội
này với loại tội khác.
+ Cấu thành tội phạm tăng nặng: là cấu thành tội phạm mà ngoài dấu

hiệu định tội còn có thêm từ một đến nhiều tình tiết làm cho mức độ nguy
hiểm của tội phạm tăng lên một cách đáng kể so với trường hợp bình
thường.
+ Cấu thành tội phạm giảm nhẹ: là cấu thành tội phạm mà ngoài dấu
hiệu định tội còn có thêm từ một đến nhiều tình tiết làm cho mức độ nguy
hiểm của tội phạm giảm nhẹ so với trường hợp bình thường.
- Căn cứ vào cấu trúc của cấu thành tội phạm chia 2 loại:
+ Cấu thành tội phạm vật chất: là cấu thành tội phạm có các dấu hiệu
của mặt khách quan là hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm
cho xã hội và mối quan hệ nhân quả giữa các hành vi và hậu quả.
+ Cấu thành tội phạm hình thức: là cấu thành tội phạm mà luật quy
định chỉ cần có dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội thì tội phạm đã hoàn
thành.
b. Ý nghĩa của cấu thành tội phạm

12


- Cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự. Chỉ
trong trường hợp hành vi của một người thoả mãn dấu hiệu của một cấu
thành tội phạm nhất định thì người đó mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
Ngược lai, nếu hành vi của họ không thoả mãn một cấu thành tội phạm cụ
thể nào thì họ không thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Cấu thành tội phạm là căn cứ pháp lý để định tội. Các cấu thành
tội phạm không trùng nhau vì vậy để xác định được tội danh với một
trường hợp cụ thể người áp dụng chỉ cần đối chiếu các dấu hiệu của trường
hợp đó với các dấu hiệu của các cấu thành tội phạm cụ thể. Nếu thoả mãn
dấu hiệu của cấu thành tội phạm nào thì hành vi đó được định tội theo tên
của tội danh của cấu thành tội phạm đó.
c. Các yếu tố của cấu thành tội phạm

Thứ nhất: Khách thể của tội phạm
- Khách thể của tội phạm là những quan hệ được Luật hình sự bảo vệ
khi bị xâm hại. Nghiên cứu khách thể của tội phạm có ý nghĩa lớn trong
việc xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật cụ thể trong thực tiễn. Việc
nghiên cứu khách thể của tội phạm có ý nghĩa trong việc xây dựng các
chương trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự ; thấy được toàn diện
những quan hệ xã hội nào được Luật hình sự bảo vệ.
- Các loại khách thể:
+ Khách thể chung: là hệ thống quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích
của giai cấp thống trị được giai cấp này bảo vệ bằng hệ thống quy phạm
pháp luật hình sự. Bất cứ một hành vi phạm tội nào đều xâm phạm khách
thể chung.
+ Khách thể loại: là một nhóm quan hệ có cùng tính chất bị một nhóm
tội phạm xâm hại và cần thiết phải bảo vệ bằng một nhóm quy phạm pháp luật
hình sự.
+ Khách thể trực tiếp: là một quan hệ xã hội cụ thể bị một hành vi
phạm tội cụ thể xâm hại đến.
Thứ hai: Mặt khách quan của tội phạm
Khi xâm phạm vào khách thể, người phạm tội bao giờ cũng phải
thực hiện những hành vi cụ thể để tác động vào đối tượng, làm thay đổi
trạng thái bình thường của quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ và gây
ra những thiệt hại về mặt vật chất hoặc tinh thần hoặc đe dọa gây ra những
thiệt hại có thể nhận biết được. Đó chính là biểu hiện của mặt khách quan.
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện ra bên ngoài của tội
phạm, là những hành vi tác động vào những quan hệ xã hội được Luật Hình
sự bảo vệ và gây nên hoặc đe dọa gây nên những thiệt hại nhất định cho
những quan hệ đó.
13



- Những dấu hiệu của mặt khách quan:
+ Dấu hiệu hành vi
Hành vi nguy hiểm cho xã hội là những hành vi đã gây ra hoặc đe
doạ gây ra những thiệt hại đáng kể cho những quan hệ xã hội được Luật
hình sự bảo vệ. Hành vi đó phải đầy đủ các điều kiện:
. Phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội.
. Là hoạt động có ý thức và có ý chí.
. Phải là hành vi trái pháp luật hình sự.
. Hành vi nguy hiểm đó phải được quy định trong Bộ Luật hình sự và
có thể thực hiện dưới hình thức hành động hoặc không hành động.
Hành động phạm tội là hình thức thể hiện của hành vi nguy hiểm cho
xã hội. Hành vi nguy hiểm này tác động vào đối tượng tác động của tội
phạm làm biến dạng tình trạng bình thường của đối tượng gây thiệt hại cho
quan hệ xã hội với tư cách là khách thể bảo vệ của Luật Hình sự thông qua
việc người phạm tội thực hiện một việc làm mà pháp luật cấm.
Không hành động phạm tội là một hình thức của hành vi phạm tội làm
biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động gây thiệt hại cho quan
hệ xã hội với tư cách là khách thể bảo vệ của Luật Hình sự thông qua việc chủ
thể đó không làm một việc mà pháp luật yêu cầu phải làm.
+ Dấu hiệu hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
Hậu quả nguy hiểm của tội phạm là những thiệt hại do hành vi phạm
tội gây ra hoặc đe dọa gây ra cho những quan hệ xã hội được Luật Hình sự
bảo vệ thể hiện dưới dạng thiệt hại về thể chất, vật chất hay tinh thần.
Dấu hiệu hậu quả chỉ bắt buộc trong cấu thành tội phạm vật chất và
trong một số trường hợp luật định. Trong cấu thành tội phạm hình thức thì
hậu quả không là dấu hiệu bắt buộc.
+ Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu
quả nguy hiểm cho xã hội.
Hành vi nguy hiểm cho xã hội phải xảy ra trước hậu quả về mặt thời
gian; Giữa hành vi phạm tội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội phải có mối

quan hệ nội tại và tất nhiên.
+ Những dấu hiệu khác.
Những dấu khác trong mặt khách quan của tội phạm thường không
phải là dấu hiệu bắt buộc (trừ một số trường hợp luật định) bao gồm: Công
cụ, phương tiện phạm tội; Thời gian, địa điểm thực hiện hành vi phạm tội;
Phương pháp, thủ đoạn thực hiện hành vi phạm tội…
- Ý nghĩa của mặt khách quan
14


Mặt khách quan của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành của
tội phạm. Nó có ý nghĩa trong việc xác định tội danh, xác định hậu quả, xác
định động cơ, mục đích phạm tội.
Thứ 3: Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể có đủ năng lực trách nhiệm
hình sự và ở độ tuổi theo quy định của pháp luật, đã thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội (được quy định trong Bộ luật hình sự) với lỗi cố ý hoặc vô
ý.
Chủ thể của vi phạm pháp luật hình sự chỉ là những cá nhân.
Người được coi là chủ thể của tội phạm phải là người cụ thể, đang
sống; có đủ năng lực trách nhiệm hình sự; đạt độ tuổi theo quy định của Bộ
luật hình sự; đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Năng lực trách nhiệm hình sự là những điều kiện cần thiết để xác
định một người được coi là có lỗi khi thực hiện một hành vi nguy hiểm cho
xã hội. Chỉ những người có năng lực trách nhiệm hình sự mới có thể trở
thành chủ thể của tội phạm. Một người được coi là có năng lực trách nhiệm
hình sự khi có khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của
mình.
Người bị hạn chế về khả năng nhận thức hoặc phạm tội trong tình
trạng dùng các chất kích thích thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.

Ngoài ra trong Bộ luật hình sự còn quy định một số điều kiện cho
chủ thể của một số tội cụ thể như: điều kiện về chức vụ, quyền hạn; điều
kiện về nghề nghiệp, điều kiện về độ tuổi, giới tính, quan hệ gia đình…
Những chủ thể có thêm những dấu hiệu này gọi là chủ thể đặc biệt.
Khi xem xét chủ thể của tội phạm nói chung, còn phải xem xét một
số đặc điểm nhân thân người phạm tội như: tiền án, tiền sự, địa vị xã hội,
quá trình công tác, thái độ chính trị, ý thức chấp hành pháp luật…của chủ
thể đó.
Theo quy định tại Điều 12 Bộ Luật Hình sự Việt Nam sửa đổi năm
2009 thì: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi
tội phạm; người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng.
Thứ 4: Mặt chủ quan của tội phạm
Mặt chủ quan của tội phạm chính là những diễn biến bên trong phản
ánh trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và
đối với hậu quả gây ra.
Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm: Lỗi, động cơ, mục đích; trong
đó lỗi là dấu hiệu bắt buộc phải có. Người phạm tội chỉ có thể phạm tội với
15


lỗi cố ý hoặc vô ý, không thể phạm tội mà không có lỗi. Nói một cách khác
là, nếu một người nào đó mặc dù đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội, nhưng không có lỗi thì không phạm tội.
Mặt chủ quan của tội phạm không những có ý nghĩa bắt buộc trong
cấu thành tội phạm mà còn có ý nghĩa trong việc xác định tội danh, xác
định phạm tội này hay phạm tội khác, đánh giá tính chất nguy hiểm của
hành vi phạm tội, làm cơ sở để quyết định mức độ xử lý cho phù hợp.
1.4.2. Vi phạm pháp luật hành chính

14.2.1. Khái niệm vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà không
phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm
hành chính.
1.4.2.2. Các dấu hiệu của vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính có các dấu hiệu sau:
- Là hành vi trái pháp luật hành chính
Vi phạm hành chính là hành vi trái pháp luật. Tính trái pháp luật của
hành vi thể hiện ở hai trường hợp sau :
Một là: thực hiện những hành vi mà pháp luật hành chính cấm.
Ví dụ: Học sinh chạy xe vượt đèn đỏ, chạy vào đường cấm.
Hai là: không thực hiện những hành vi mà pháp luật buộc phải thực
hiện.
Ví dụ: Không mở đèn xe khi lưu thông vào buổi tối.
- Là hành vi có lỗi.
- Chủ thể vi phạm pháp luật hành chính phải có năng lực chịu trách
nhiệm hành chính.
Năng lực chịu trách nhiệm hành chính là năng lực hành vi theo pháp
luật về trách nhiệm hành chính, thể hiện ỏ độ tuổi bị xử phạt hành chính và
không thuộc trường hợp miễn truy cứu trách nhiệm hành chính.
1.4.2.3. Cấu thành của vi phạm hành chính
Xét về mặt lý luận, vi phạm hành chính là một dạng cụ thể của vi
phạm pháp luật nên hành vi vi phạm hành chính cũng có đầy đủ bốn yếu tố
cấu thành đó là: mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể của
hành vi vi phạm.
- Thứ nhất: Mặt khách quan của vi phạm hành chính

16



Là hệ thống những dấu hiệu được pháp luật dự liệu trước đặc trưng
cho mặt bên ngoài của vi phạm, bao gồm: hành vi trái pháp luật, tính nguy
hiểm cho xã hội của hành vi, hậu quả, mối liên hệ nhân quả giữa hành vi và
hậu quả, thời gian, địa điểm, phương thức và phương tiện vi phạm.
- Thứ hai: Mặt chủ quan của vi phạm hành chính
Thể hiện ở yếu tố lỗi của người vi phạm (thái độ, động cơ, ý chí của
người vi phạm đối với hành vi của họ và đối với hậu quả của hành vi).
- Thứ ba: Chủ thể của vi phạm hành chính
Là cá nhân hoặc tổ chức có năng lực trách nhiệm hành chính. Dấu
hiệu chung của các chủ thể gồm hai yếu tố: độ tuổi và năng lực chịu trách
nhiệm hành chính.
- Thứ tư: Khách thể của vi phạm hành chính
Là quan hệ xã hội trong hoạt động hành chính, được điều chỉnh bởi
những quy phạm pháp luật hành chính và một số ngành luật khác.
Khách thể chung: của vi phạm hành chính là những quan hệ xã hội
được điều chỉnh bởi những ngành luật khác nhau nhưng được bảo vệ bởi
chế tài hành chính.
Khách thể loại: là một bộ phận có tính độc lập tương đối của khách
thể chung khi chia khách thể chung thành những bộ phận khác nhau căn cứ
vào ngành, lĩnh vực hoạt động hành chính như : nông nghiệp, công nghiệp,
giao thông, văn hóa, giáo dục...
Khách thể nhóm: là nhóm những quan hệ xã hội trong cùng một loại
được bảo vệ bởi chế tài hành chính. Ví dụ : nhóm quan hệ về trật tự công
cộng.
Khách thể trực tiếp : là quan hệ xã hội cụ thể mà một vi phạm hành
chính xâm hại tới.
Trong thực tiễn xây dựng pháp luật ở nước ta, khi ban hành văn bản
quy định về hành vi vi phạm hành chính, nhà nước chia khách thể loại của
vi phạm hành chính tương ứng với sự phân ngành chức năng của nhà nước.

1.4.3. Vi phạm pháp luật dân sự
1.4.3.1. Khái niệm vi phạm pháp luật dân sự
Vi phạm pháp luật dân sự là những hành vi trái pháp luật, có lỗi, xâm
hại tới những quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân có liên quan tới tài sản,
quan hệ phi tài sản...
1.4.3.2. Các dấu hiệu của vi phạm pháp luật dân sự
Vi phạm pháp luật dân sự có các dấu hiệu sau:
- Là hành vi trái pháp luật dân sự.
17


- Là hành vi có lỗi.
- Do chủ thể phải có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện.
1.4.3.3. Cấu thành của vi phạm pháp luật dân sự
Cũng giống như cấu thành tội phạm và cấu thành vi phạm hành chính,
cấu thành của hành vi vi phạm pháp luật dân sự cũng được hợp thành từ bốn
yếu tố: chủ thể, khách thể, mặt chủ quan và mặt khách quan.
Thứ nhất: Chủ thể vi phạm pháp luật dân sự
Chủ thể vi phạm pháp luật dân sự bao gồm cá nhân (công dân Việt
Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch) và pháp nhân, hộ gia đình,
tổ hợp tác (trường học, công ty, cơ quan nhà nước, hợp tác xã…).
Đối với chủ thể lá cá nhân, cơ sở để xác định hành vi vi phạm khi cá
nhân đó có năng lực chủ thể, bao gồm năng lực pháp luật dân sự và năng
lực hành vi dân sự.
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có
quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự (Khoản 1 – điều 14 Bộ luật dân sự 2005).
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng
hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự (Điều 17 – Bộ
luật Dân sự 2005). Theo quy định người (cá nhân) từ đủ 18 tuổi trở lên có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp bị tuyên bố mất năng lực

hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Thứ hai: Khách thể vi phạm pháp luật dân sự
Đó là quan hệ tài sản và nhân thân phí tài sản được pháp luật dân sự
bảo vệ nhưng đã bị hành vi vi phạm dân sự xâm hại đến.
Quan hệ tài sản là quan hệ giữa người với người thông qua một tài
sản. Điều 163 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định tài sản bao gồm vật, tiền,
giấy tờ có giá trị và các quyền tài sản.
Quan hệ nhân thân là quan hệ giữa người với người về một giá trị
nhân thân của cá nhân hay các tổ chức bao gồm hai nhóm:
- Quan hệ nhân thân gắn với tài sản
- Quan hệ nhân thân không gắn với tài sản như danh dự, nhân phẩm,
uy tín cá nhân, danh dự, úy tín của tổ chức; quyền đối với họ tên; thay đổi
họ tên; quyền xác định dân tộc, thay đổi dân tộc; quyền đối với hình ảnh, bí
mật đời tư…
Nói cách khác, khách thể của vi phạm pháp luật dân sự là những lợi
ích vật chất, lợi ích tinh thần mà pháp luật bảo vệ cho các chủ thể trong
quan hệ pháp luật dân sự nhưng bị hành vi vi phạm xâm hại tới, nó có thể

18


là bộ phận của thế giới vật chất, cũng có thể là những giá trị tinh thần, được
chia thành 5 nhóm sau :
+ Tài sản;
+ Hành vi và các dịch vụ;
+ Kết quả của hoạt động tinh thần sáng tạo;
+ Quyền sử dụng đất;
+ Các giá trị nhân thân.
Thứ ba: Mặt khách quan của vi phạm pháp luật dân sự
Mặt khách quan là những biểu hiện ra bên ngoài của chủ thể vi phạm

dân sự như:
- Hành vi trái pháp luật dân sự
- Có thiệt hại xảy ra
- Có mối quan hệ giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật dân sự.
Thứ 4: Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật dân sự
Mặt chủ quan của chủ thể vi phạm pháp luật dân sự cũng bao gồm
lỗi, động cơ và mục đích.
Lỗi trong vi phạm dân sự bao gồm lỗi cố ý và vô ý xâm hại đến quan
hệ tài sản và quan hệ nhân thân phi tài sản.
1.4.4. Vi phạm kỷ luật
1.4.4.1. Khái niệm vi phạm kỷ luật
Là những hành vi có lỗi, trái với những nội quy, quy chế, quy tắc xác
lập trật tự trong nội bộ một cơ quan, tổ chức, tức là không thực hiện đúng
kỷ luật lao động, học tập, công tác hoặc phục vụ được đề ra trong nội bộ cơ
quan, tổ chức đó.
1.4.4.2. Đặc điểm của vi phạm kỷ luật
- Là hành vi của cán bộ, công chức, viên chức (trong cơ quan) hoặc
công nhân (công ty, xí nghiêp, học sinh, sinh viên (trường học)…
- Hành vi đó trái với kỷ luật lao động, học tập.
- Hành vi đó có chứa đựng lỗi cố ý hoặc vô ý.
- Hành vi đó phải chịu trách nhiệm kỷ luật.
1.4.4.3. Các yếu tố cấu thành vi phạm kỷ luật
- Chủ thể của vi phạm kỷ luật: là những cá nhân có quan hệ ràng
buộc với chính cơ quan, tổ chức có thẩm quyền áp dụng trách nhiệm pháp
lý đối với hành vi vi phạm kỷ luật.

19


Ví dụ giữa cán bộ, viên chức với cơ quan; giữa công nhân với xí

nghiệp; giữa học sinh với trường học.
- Khách thể của vi phạm kỷ luật: Là những quan hệ xã hội được nội
quy, quy chế, quy tắc, điều lệ của cơ quan, tổ chức của chủ thể vi phạm bảo
vệ nhưng đã bị chủ thể hành vi xâm hại đến.
- Mặt khách quan của vi phạm kỷ luật:
Là hệ thống những dấu hiệu được pháp luật dự liệu trước đặc trưng
cho mặt bên ngoài của vi phạm, bao gồm: hành vi trái với kỷ luật lao động,
học tập, chứa đựng lỗi cố ý hoặc vô ý và buộc phải chịu trách nhiệm kỷ
luật.
- Mặt chủ quan của vi phạm kỷ luật:
Thể hiện ở yếu tố lỗi của người vi phạm (thái độ, động cơ, ý chí của
người vi phạm đối với hành vi của họ và đối với hậu quả của hành vi).
2. TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ VÀ PHÂN LOẠI TRÁCH NHIỆM
PHÁP LÝ
2.1. Khái niệm trách nhiệm pháp lý
Thuật ngữ “trách nhiệm” được dùng theo nhiều nghĩa khác nhau tùy
thuộc vào lĩnh vực hoặc ngữ cảnh cụ thể. Trong lĩnh vực pháp lý, “trách
nhiệm” được sử dụng theo hai nghĩa: tích cực và tiêu cực.
Với nghĩa tích cực, “trách nhiệm” được hiểu là nghĩa vụ (nói đến
những điều pháp luật yêu cầu phải làm trong hiện tại và tương lai); với
nghĩa tiêu cực, từ “trách nhiệm” được hiểu là hậu quả bất lợi mà cá nhân, tổ
chức phải gánh chịu khi không thực hiện hay thực hiện không đúng quyền
và nghĩa vụ đựơc giao hoặc vi phạm pháp luật. Hậu quả bất lợi đó là những
bất lợi về vật chất hay tinh thần do cán bộ hoặc cơ quan có thẩm quyền của
Nhà nước áp dụng buộc chủ thể vi phạm phải gánh chịu. Đó cũng là sự
trừng phạt mà Nhà nước dành cho chủ thể vi phạm nhằm đạt được mục
đích răn đe, phòng ngừa và trừng trị các hành vi vi phạm pháp luật.
Sở dĩ, nhà nước phải quy định trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể vi
phạm pháp luật là vì: thứ nhất, trong quy phạm pháp luật, nhà nước đã đưa
ra những cách xử sự có tính khuôn mẫu mà chủ thể được phép hoặc buộc

phải lựa chọn khi ở hoàn cảnh, điều kiện đã dự liệu. Và chủ thể khi ở vào
hoàn cảnh, điều kiện đã được dự liệu thì chỉ được phép hoặc buộc phải lựa
chọn cho mình cách xử sự phù hợp từ những cách xử sự mà quy phạm pháp
luật đã dự liệu cho trường hợp đó; thứ hai, các chủ thể pháp luật (trong
trạng thái bình thường) luôn hoạt động có lý trí và có tự do ý chí. Vì vậy họ
có đủ khả năng và phải chịu trách nhiệm về cách xử sự đã lựa chọn của
mình. Nếu chủ thể chọn cách xử sự trái với quy định của nhà nước đã thể
hiện trong quy phạm thì chủ thể phải chịu trách nhiệm về những việc làm
20


của mình, phải chịu trách nhiệm pháp lý. Như vậy, trách nhiệm pháp lý chỉ đặt
ra đối với những chủ thể có lý trí và tự do ý chí.
Hiện nay có nhiều khái niệm về trách nhiệm pháp lý. Có quan điểm
cho rằng, trách nhiệm pháp lý là hậu quả bất lợi (sự trừng phạt) đối với chủ
thể vi phạm pháp luật, thể hiện ở mối quan hệ đặc biệt giữa nhà nước với
chủ thể vi phạm pháp luật, được các quy phạm pháp luật xác lập và điều
chỉnh, trong đó chủ thể vi phạm pháp luật phải chịu những hậu quả bất lợi,
những biện pháp cưỡng chế được quy định ở chế tài các quy phạm pháp
luật.
Quan điểm khác cho rằng, trách nhiệm pháp lý là sự phản ứng tiêu cực
của nhà nước đối với chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, kết quả
là chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật phải gánh chịu những hậu
quả bất lợi, thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần so với tình trạng ban đầu của
họ.
Khoa học pháp lý đưa ra khái niệm chung nhất về trách nhiệm pháp lý
như sau:
Trách nhiệm pháp lý là hậu quả bất lợi (sự trừng phạt) đối với chủ thể
vi phạm pháp luật, thể hiện ở mối quan hệ đặc biệt giữa nhà nước với chủ
thể vi phạm pháp luật, được các quy phạm pháp luật xác lập và điều chỉnh,

trong đó chủ thể vi phạm pháp luật phải chịu những hậu quả bất lợi, những
biện pháp cưỡng chế được quy định ở chế tài các quy phạm pháp luật.
2.2. Đặc điểm của trách nhiệm pháp lý
- Cơ sở của trách nhiệm pháp lý là vi phạm pháp luật.
Trách nhiệm pháp lý chỉ xuất hiện khi trong thực tế xảy ra vi phạm
pháp luật. Nếu trong thực tế không có vi phạm pháp luật thì không được truy
cứu trách nhiệm pháp lý. Trách nhiệm pháp lý chỉ được phép áp dụng đối
với chủ thể vi phạm pháp luật. Không truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với
các hành vi trái pháp luật được thực hiện trong các trường hợp: chủ thể
không có năng lực trách nhiệm pháp lý; do sự kiện bất ngờ; do phòng vệ
chính đáng; được thực hiện phù hợp với tình thế cấp thiết.
Chỉ các cơ quan nhà nước, cán bộ có thẩm quyền hay các chủ thể
được pháp luật trao quyền thì mới có quyền truy cứu trách nhiệm pháp lý
đối với chủ thể vi phạm pháp luật.
- Trách nhiệm pháp lý liên quan mật thiết với cưỡng chế nhà nước.
Trách nhiệm pháp lý luôn gắn liền với những biện pháp cưỡng chế
được quy định trong chế tài của các quy phạm pháp luật, cho nên truy cứu
trách nhiệm pháp lý thực chất là áp dụng những biện pháp cưỡng chế đã
được quy định trong bộ phận chế tài của các quy phạm pháp luật đối với
các chủ thể đã không thực hiện đúng phần quy định.
21


Tuy nhiên, cần lưu ý rằng không phải biện pháp cưỡng chế nhà nước
nào cũng xuất phát từ trách nhiệm pháp lý, trên thực tế có một số biện pháp
cưỡng chế nhà nước được áp dụng không liên quan gì tới trách nhiệm pháp
lý. Chẳng hạn như một học sinh bị nhiễm vi rút cúm A/H1N1 nên nhà
trường đã áp dụng biện pháp cưỡng chế cách ly đối với em học sinh đó mặc
dù em học sinh này chẳng thực hiện hành vi vi phạm pháp luật nào.
Truy cứu trách nhiệm pháp lý là một quá trình hoạt động phức tạp và

rất khó khăn của các cơ quan nhà nước, các nhà chức trách trong việc xem
xét, tìm hiểu sự việc bị coi là vi phạm pháp luật, ra quyết định giải quyết vụ
việc và tổ chức thực hiện quyết định đó.
2.3. Mục đích của việc truy cứu trách nhiệm pháp lý
Mọi hiện tượng vi phạm pháp luật đều có hại cho xã hội, nó trực
tiếp hoặc có nguy cơ gây ra những thiệt hại nhất định về mặt vật chất
hay tinh thần cho cá nhân, tổ chức, xâm hại đến các quan hệ xã hội được
pháp luật bảo vệ. Vì thế, việc truy cứu trách nhiệm pháp lý là nhằm mục
đích:
- Bảo vệ chế độ xã hội, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và
nghĩa vụ hợp pháp của công dân, tổ chức; bảo vệ trật tự pháp luật, tạo
điều kiện cho những quan hệ xã hội phát triển đúng hướng, đảm bảo cho
quá trình điều chỉnh pháp luật được tiến hành bình thường và có hiệu
quả.
- Nhằm trừng phạt đối với chủ thể vi phạm pháp luật, buộc họ phải
gánh chịu những hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng chế được quy
định trong chế tài các quy phạm pháp luật. Ngoài mục đích này, truy cứu
trách nhiệm pháp lý còn nhằm mục đích phòng ngừa, cải tạo và giáo dục
những chủ thể vi phạm pháp luật; răn đe những chủ thể khác phải kiềm chế,
giữ mình không vi phạm pháp luật; giáo dục ý thức tôn trọng và thực hiện
nghiêm minh pháp luật và các quy tắc của cuộc sống cộng đồng, làm cho
mọi người tin vào công lý, tích cực đấu tranh, phòng chống vi phạm pháp
luật, từng bước hạn chế và loại trừ vi phạm pháp luật trong đời sống xã hội.
2.4. Căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp lý
Để truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với tổ chức hay cá nhân nào đó
cần xác định được cơ sở thực tiễn và cơ sở pháp lý làm căn cứ cho việc
truy cứu trách nhiệm pháp lý.
- Cơ sở thực tiễn cho việc truy cứu trách nhiệm pháp lý là phải có
hành vi vi phạm pháp luật xảy ra.
- Cơ sở pháp lý cho việc truy cứu trách nhiệm pháp lý là những quy

định pháp luật hiện hành có liên quan đến vi phạm pháp luật đó và thẩm
quyền, trình tự, thủ tục để giải quyết vụ việc đó.

22


Khi xác định cơ sở thực tiễn cần xác định từng yếu tố cấu thành của
vi phạm pháp luật. Trước hết phải tiến hành xác định trong thực tế đã xảy
ra hành vi trái pháp luật nguy hiểm, nếu không xác định được hành vi trái
pháp luật nguy hiểm trong thực tế thì không được truy cứu trách nhiệm
pháp lý.
Tiếp đến là đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi trái pháp luật đó
thông qua việc xác định hậu quả (sự thiệt hại) về vật chất, về tinh thần và
những thiệt hại khác nếu có do hành vi đó gây ra cho xã hội. Một hành vi
trái pháp luật nhưng gây nguy hiểm cho xã hội không nhiều (thiệt hại
không đáng kể hoặc nguy cơ gây hại cho xã hội hấp) thì không bị truy cứu
trách nhiệm pháp lý. Trong một số trường hợp, mức độ nguy hiểm của
hành vi còn là căn cứ để xác định loại trách nhiệm pháp lý cần truy cứu.
Ví dụ: căn cứ vào mức độ thương tích của người bị hại mà cơ quan
có thẩm quyền ra quyết định truy cứu trách nhiệm hình sự hay trách nhiệm
hành chính.
Cần làm rõ mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với hậu
quả, không được suy diễn về hậu quả; không thể bắt chủ thể vi phạm pháp
luật phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại mà hành vi trái pháp luật của
họ không trực tiếp gây ra.
Để cải tạo, giáo dục chủ thể vi phạm pháp luật có hiệu quả, khi truy
cứu trách nhiệm pháp lý trong một số trường hợp cụ thể phải xác định thời
gian, địa điểm và cách thức mà chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp
luật. Mục đích của việc này là cơ sở nhằm lựa chọn biện pháp cưỡng chế
chính xác, phù hợp với mục đích cần truy cứu trách nhiệm pháp lý và đạt

hiệu quả cao trong công tác cải tạo, giáo dục chủ thể vi phạm pháp luật.
Việc xác định lỗi, động cơ, mục đích của việc vi phạm pháp luật
trong nhiều trường hợp khi truy cứu trách nhiệm pháp lý là rất cần thiết, nó
cho phép lựa chọn biện pháp cưỡng chế thích hợp.
Về nguyên tắc, trách nhiệm pháp lý chỉ áp dụng đối với các chủ thể
có năng lực trách nhiệm pháp lý khi họ thực hiện hành vi trái pháp luật, có
lỗi tức là chủ thể hành vi đó có khả năng nhận thức được hậu quả nguy
hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra nhưng do cố ý hoặc vô ý gây
ra. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, pháp luật còn cho phép truy cứu
trách nhiệm pháp lý đối với cả những hành vi trái pháp luật được thực hiện
do những nguyên nhân khách quan hoặc trường hợp thiệt hại do những
nguồn nguy hiểm cao độ như phương tiện giao thông vận tải cơ giới, vũ
khí, chất nổ…gây ra và một số trường hợp khác trong quan hệ dân sự mặc
dù không có lỗi, chủ thể vẫn phải chịu trách nhiệm pháp lý.
Ví dụ: cha mẹ hay người gám hộ phải chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do hành vi của con mình (dưới 15 tuổi) gây ra.

23


Khi xác định chủ thể vi phạm pháp luật cần phải chú ý tới năng lực
trách nhiệm pháp lý của chủ thể trong mỗi trường hợp cụ thể. Nếu chủ thể
là cá nhân thì phải xem người đó đã đạt được độ tuổi theo quy định của
pháp luật phải chịu trác nhiệm pháp lý trong trường hợp đó hay chưa?,
trạng thái tâm lý của họ như thế nào ở thời điểm họ thực hiện hành vi trái
pháp luật đó. Nếu chủ thể là tổ chức thì phải chú ý tới tư cách pháp nhân
hoặc địa vị pháp lý của tổ chức đó.
Khi xem xét khách thể vi phạm pháp luật cần chú ý tới tính chất và
tầm quan trọng của khách thể để đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi vi
phạm pháp luật.

Khi xác định cơ sở pháp lý cho việc truy cứu trách nhiệm pháp lý đối
với trường hợp vi phạm pháp luật đó cần chú ý tới trước hết là thẩm quyền
của cơ quan chức trách trong việc giải quyết vụ việc, trình tự, thủ tục để
giải quyết vụ việc đó, các biện pháp mà pháp luật quy định có thể áp dụng
đối với chủ thể vi phạm …Ngoài việc xác định các vấn đề đó còn phải xem
xét cả thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với trường hợp vi phạm
cụ thể đó và những trường hợp được miễn trách nhiệm pháp lý (nếu có) khi
tiến hành truy cứu trách nhiệm pháp lý.
2.5. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lý
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lý là thời hạn do pháp luật quy
định mà khi thời hạn đó kết thúc thì chủ thể vi phạm pháp luật sẽ không bị
truy cứu trách nhiệm pháp lý.
Thời hạn là một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này
đến thời điểm khác. Khoảng thời gian đó có thể tính bằng giờ, ngày, tuần,
tháng, năm hoặc bằng một sự kiện nào đó.
Đối với các loại vi phạm pháp luật khác nhau thì thời hiệu truy cứu
trách nhiệm pháp lý được quy định khác nhau. Pháp luật của nhiều nước
không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với một số loại
vi phạm pháp luật quá nguy hiểm gây thiệt hại lớn cho xã hội.
Ví dụ: Bộ luật hình sự Việt Nam không áp dụng thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, các
tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh.
Trong lĩnh vực giáo dục, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hành chính
đối với các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục là một
năm, kể từ thời điểm thực hiện hành vi vi phạm…
Trách nhiệm pháp lý sẽ chấm dứt khi xảy ra sự kiện pháp lý thích
ứng như có quyết định ân xá, thời hạn trừng phạt đã kết thúc, nộp phạt
xong.
2.6. Phân loại trách nhiệm pháp lý
24



Căn cứ vào mối quan hệ của trách nhiệm pháp lý với các ngành luật,
có các loại trách nhiệm pháp lý sau: trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành
chính, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm kỷ luật…
2.6.1. Trách nhiệm hình sự
2.6.1.1. Khái niệm
Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm pháp lý của một người thực hiện
tội phạm phải chịu sự tác động của biện pháp cưỡng chế đặc biệt của Nhà
nước (hình phạt) do Bộ luật hình sự quy định. Đây là loại trách nhiệm pháp
lý nghiêm khắc nhất do Tòa án áp dụng đối với chủ thể có hành vi phạm
tội.
2.6.1.2. Cơ sở của trách nhiệm hình sự
Cơ sở của trách nhiệm hình sự là hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội
này phải đã được thực hiện và gây hậu quả hoặc đe dọa gây hậu quả nguy
hiểm cho xã hội.
Trách nhiệm hình sự không đặt ra đối với:
- Những ý nghĩ, niềm tin và quan điểm của con người.
- Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy
hiểm cho xã hội không đáng kể và không bị coi là tội phạm.
Điều 2 Bộ luật hình sự quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã
được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”.
2.6.1.3. Các hình thức trách nhiệm hình sự
Đối với người phạm tội (tội phạm) trách nhiệm pháp lý áp dụng đối
với họ là hình phạt. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất
của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm
tội.
Hình phạt do Nhà nước đặt ra và được quy định trong Bộ luật hình
sự, mỗi hình phạt tương ứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
do hành vi phạm tội gây ra.

Mục đích của hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà
còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp
luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới.
Hiện nay, hệ thống hình phạt trong Bộ luật hình sự được chia làm hai
phần: hình phạt chính và hình phạt bổ sung.
a. Hình phạt chính:
- Cảnh cáo;
- Phạt tiền;

25


×