Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

BÀI ĐỌC NHÓM: MÔN KINH TẾ QUẢN LÝ THỦY HẢI SẢN BÀI SỐ 1A: OVERFISHING IN THE PHIPIPINE MARINE FISHERIES SECTOR

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.35 KB, 33 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ TÀI NGUYÊN MƠI TRƯỜNG

BÀI ĐỌC NHĨM: MƠN KINH TẾ QUẢN LÝ THỦY HẢI SẢN

BÀI SỐ 1A: OVERFISHING IN THE PHIPIPINE MARINE
FISHERIES SECTOR
Thành Viên Nhóm:
1. Bồ Thụy Ngọc Thuận

14120179

2. Nguyễn Kim Ngân

14120032

3. Nguyễn Thị Cẩm Tiên

14120055

GVHD: TS. Phạm Thị Ánh Ngọc
Thành phố Hồ Chí Minh
Tháng 03/2017


NỘI DUNG


I. Vấn đề nghiên cứu:


Mục tiêu chính của bài viết là để giải quyết vấn đề khai thác quá mức trong ngành thủy
sản ở Philipines, thông qua việc tiếp cận ngành (ví dụ: thủy sản thương mại, thủy sản địa
phương và tổng thể nghề cá biển). Cách tiếp cận này có thể giúp hoạch định chính sách và
quản lý nghề cá ngành thủy sản. Người ta hy vọng rằng kết quả cho thấy có hay khơng sự
tồn tại đánh bắt quá mức thực sự là vấn đề của ngành.
Bài viết này cũng cố gắng cung cấp, đưa ra những dữ liệu bị hạn chế trước đó, một số
đánh giá sơ bộ cho rằng có thể cắt giảm nỗ lực đánh cá để kiểm soát khai thác quá mức
trong tương lai. Nghiên cứu này còn nhằm cung cấp sơ bộ các chi phí xã hội, mặc dù một
phần, có thể giảm nỗ lực đánh bắt trong nghề cá biển.
II. Lý thuyết và phương pháp nghiên cứu:
1. Lý thuyết:
1.1. Lý thuyết cơ bản
Đánh bắt quá mức có thể được phân thành bốn loại (Pauly 1987).


Thứ nhất là đánh bắt quá mức tăng trưởng, xảy ra khi cá được đánh bắt ngay cả

trước khi chúng có cơ hội để phát triển.
• Thứ hai là đánh bắt quá mức trên sẽ tiếp tục xảy ra đến khi số cá trưởng thành


bị bắt với số lượng lớn, vì thế mà sinh sản bị suy yếu.
Thứ ba là hệ sinh thái đánh bắt quá mức diễn ra khi sự suy giảm một trữ lượng cá

phong phú, do cá không được bù đắp bởi sự gia tăng trữ lượng của các lồi khác.
• Thứ tư là đánh bắt quá mức kinh tế xảy ra khi tăng nỗ lực đánh cá dẫn đến mức lợi
nhuận dưới mức tối đa mong muốn.
Trong số các loại đánh bắt quá mức này, đánh bắt quá mức kinh tế có thể là sự quan
tâm hàng đầu để quản lý nghề cá và các nhà hoạch định vì nguồn lợi thủy sản chủ yếu
được xem như nguồn lực kinh tế (ví dụ, cung cấp thực phẩm và việc làm).

Nói tóm lại, lý thuyết này bắt đầu với biển như một nguồn tài nguyên thủy sản không
thuộc sở hữu của ai và được mở khai thác cho tất cả mọi người. Trước khi các doanh
nghiệp và cá nhân vào ngành thủy sản, thì trữ lượng của cá là P được giả định tăng trưởng
3


với tốc độ thuần tự nhiên là r, giữa hai khoảng thời gian. r này tương đương với việc cá trẻ
tham gia trữ lượng cộng với sự tăng trưởng của cá ban đầu trong trữ lượng, trừ đi tỷ lệ tử
vong cá tự nhiên.
Khi ngư dân và các doanh nghiệp bước chân vào việc đánh bắt thủy sản, tình hình mới
được mở ra. Theo định nghĩa, r là bây giờ cũng khối lượng cá, y, sản lượng được đánh bắt
bởi ngư dân. Ngồi ra, kể từ khi có sự đánh bắt của con người đã làm tăng thêm tỷ lệ tử
vong của cá, dẫn đến việc giảm P. Điều này cho thấy mối quan hệ giữa nỗ lực cá, E, và P
là tỷ lệ nghịch.
Có mối quan hệ hình U tồn tại giữa r hoặc y và E. Trong mối quan hệ này, việc đánh
bắt cá bởi con người đạt tối ưu về mặt sinh học, gọi là năng suất bền vững tối đa (MSY).


Ở mức độ nỗ lực thấp, với trữ lượng cá rất cao, nguyên nhân gây ra quá tải trong

đánh bắt và làm tăng trưởng chậm.
• Khi mức nỗ lực đánh bắt tăng lên, trữ lượng giảm và số người đánh bắt giảm đi,


nguyên nhân gây ra sự tăng trưởng nhanh hơn.
Cuối cùng, tại mức nỗ lực quá nhiều, lúc có trữ lượng nhỏ hơn để tái tạo và sự
tăng trưởng chậm lại.

Để minh họa cho các lý thuyết kinh tế, tổng doanh thu (TR), được tạo ra bằng cách
nhân số cá được đánh với giá cá trên một đơn vị cá. Tổng chi phí (TC) có nguồn gốc bằng

cách nhân nỗ lực khai thác với giá trên một đơn vị nỗ lực . Nếu giá của cá và nỗ
lực được giả định không đổi, kết quả đường cong TR sẽ được hình chữ U trong khi các
đường cong TC là một đường thẳng dốc lên (Hình 4).
Hình 4. Các lý thuyết kinh tế cơ bản của việc đánh bắt quá mức

4


Ban đầu khi E tăng, TR cũng tăng nhưng ở một tỷ lệ giảm. Tiếp tục tăng trong E mang
lại mức độ TR đầu tiên đạt tối ưu kinh tế, năng suất kinh tế tối đa tại MEY. Tại MEY, điều
kiện kinh tế để đạt tối đa hóa về lợi nhuận . Từ quan điểm kinh tế, MEY là mức độ khai
thác hấp dẫn nhất cho ngành thủy sản.
Nếu ngư dân muốn làm việc hiệu quả, đánh bắt cá nên dừng lại ở MEY nơi lợi
nhuận đang ở tối đa. Tuy nhiên, với điều kiện tự do tiếp cận, đánh bắt cá tiếp tục vượt
MEY vì ngày càng nhiều ngư dân bị thúc đẩy bởi lợi nhuận, gia nhập vào ngành thủy
sản. Tình trạng này đẩy mức độ đánh bắt tối ưu kinh tế quá khứ thành tối ưu tiếp theo là
MSY, mà như đã đề cập là tối ưu sinh học của ngành thủy sản.
Tại MSY, lợi nhuận tích cực vẫn cịn tồn tại vì TR vẫn lớn hơn TC. Điều này làm tình
hình đánh cá vẫn tiếp tục cho đến khi, cuối cùng, sản lượng truy cập mở (OAY) là đạt. Tại
điểm này, lợi nhuận tích cực đã biến mất và khơng có động lực để tiếp tục đánh bắt cá, xa
hơn nữa việc đánh bắt sẽ dừng lại. Các OAY là điểm cân bằng dài hạn của ngành thủy
sản.
1.2. Mơ hình:
Có bốn loại mơ hình chung có thể được áp dụng trong phân tích đánh bắt quá mức. Gồm





Những lồi đơn lẻ và mơ hình giá cố định,

Lồi duy nhất và mơ hình biến giá cả,
Nhiều lồi và mơ hình giá liên tục
Nhiều lồi và các mơ hình biến giá cả.
5


Những lồi đơn lẻ và mơ hình giá cố định đã được lựa chọn cho nghiên cứu này chủ
yếu do những hạn chế về số liệu.
Có hai lồi duy nhất và mơ hình giá cố định được sử dụng phổ biến trong nghiên
cứu thực nghiệm, mơ hình Gordon-Schaefer (GS), và Fox Model.
Về mặt tốn học, mơ hình GS được quy định là:
Y = aE + bE2 + u

(1)

hoặc là
Y/E = a + bE + u

(2)

Trong đó: Y là lượng cá đánh bắt, E được định nghĩa là trước đó, một là đánh chặn, b là
hệ số và u là phương sai. Mặt khác, mơ hình Fox được quy định là:
Y = Eec+dE+u

(3)

hoặc là
Y/E = ec+dE+u

(4)


Trong đó: c và d là đánh chặn và hệ số tương ứng; e là viết tắt của số mũ, và các biểu
tượng khác đều giống nhau như trước.
2. Phương pháp nghiên cứu:
2.1. Phương pháp thống kê mô tả:
Số liệu thứ cấp: Thu thập các văn bản pháp lý và chính sách pháp luật, chính sách
kinh tế xã hội, số liệu thống kê kinh tế - xã hội (giá trị, sản lượng cá, xuất khẩu, nhập
khẩu qua các năm, …), các tài liệu nghiên cứu đã xuất bản liên quan đến địa bàn nghiên
cứu.
2.2. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu :
Kết quả xử lý và phân tích được thể hiện theo dạng phân tích, mơ tả bằng bảng và biểu
đồ, đồ thị thực hiện trên phần mềm Excel.


Phân tích đánh giá các thơng tin về kinh tế,
6




Phân tích đánh giá các thơng tin về xã hội: Phân tích đánh giá các thơng tin về
thể chế chính sách, những tồn tại vướng mắc về chế độ chính sách trong quản lý
thủy hải sản.

• Phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và nguy cơ trong việc sử dụng và quản lý
tài nguyên thiên đa dạng sinh học, mức độ tác động đánh bắt quá mức của người
dân vào ngành thủy sản Philipin.
2.3. Phương pháp quan sát trực quan thực địa:
Bằng các phương tiện sẵn có, tiến hành đến nơi nghiên cứu quan sát hiện trạng thực tế
đang diễn ra ở đây. Đồng thời, ghi lại những hình ảnh minh hoạ cho bài nghiên cứu.

2.4. Phương pháp phân tích:
Từ những số liệu đã thu thập được phân tích đánh giá, thiết kế mơ hình cần thiết, tính tốn
chi phí để thấy được sự cần thiết phải thay đổi hiện tại, từ đó rút ra kết luận.
2.5. Phỏng vấn chuyên gia:
Điều tra các vấn đề liên quan đến chính sách khai thác, thị trường, hoạt động đánh bắt và
sử dụng tài nguyên của ngư dân dưới tác động của đánh bắt quá mức.
2.6. Phương pháp luận:
Kế thừa các tư liệu và phân tích các tài liệu thứ cấp
- Các thành quả của các cơng trình nghiên cứu đến tính đa dạng sinh học, trữ lượng cá tại
Vùng biển Philipin.
- Những tài liệu đã có về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của vùng nghiên cứu là
Philipin.
- Cơ cấu ngành nghề, cơ cấu chi phí, thị trường, hàng hoá và dịch vụ v.v... liên quan đến
đánh bắt thủy hải sản.
- Thu thập tình hình đưa ra kiến nghị.

7


3. Liên hệ thực tế môn học:
Thông qua cơ sở lý thuyết, Phương pháp nghiên cứu được áp dụng trong nghiên cứu
này có sự liên hệ/liên quan đến những lý thuyết, phương pháp mà nhóm đã được biết
trong mơn Kinh tế Thuỷ Sản và các môn khác đã học là:
Phân tích kinh tế trong khai thác tài ngun thủy sản







Sự tăng trưởng tài nguyên hải sản
Tốc độ tăng trưởng và trữ lượng
Sản lượng khai thác, nỗ lực đánh bắt và trữ lượng
Mức đánh bắt đạt hiệu quả kinh tế cao nhất
Chính sách điều chỉnh trong ngành thủy sản

Phân tích kinh tế trong ni trồng thủy sản




Lý thuyết sản xuất
Hàm sản xuất và ứng dụng trong phân tích kinh tế thủy sản
Phân tích kinh tế trong ni trồng thủy sản

4. Vận dụng trong nghiên cứu đề tài:
Nhóm phát hiện thấy có sự vận dụng sáng tạo (hoặc đơn giản hoá) về lý thuyết,
phương pháp nghiên cứu được áp dụng trong nghiên cứu này giải quyết vấn đề nghiên
cứu của đề tài:
Thông qua bài đọc hiểu nghiên cứu “Đánh bắt quá mức trong ngành thủy sản
Philipin”, nhóm thấy:
Mơ hình nghiên cứu bài chỉ áp dụng trường hợp: Những loài đơn lẻ và mơ hình giá cố
định đã được lựa chọn cho nghiên cứu này chủ yếu do những hạn chế về số liệu. Cụ thể là
khi vận dụng mơ hình Gordon-Schaefer (GS), và Fox Model chỉ xét hai loài đơn lẻ. Đây
là sự đơn giản hóa vấn đề nghiên cứu vì ở biển có rất nhiều lồi và giá cả thì ln biến
động theo thị trường. Sự đơn giản hóa này giúp việc nghiên cứu dễ dàng hơn.
Sự vận dụng sáng tạo trong việc áp dụng các lý thuyết kinh tế trong đánh bắt cá.
Thông qua lý thuyết cho thấy được mức sản lượng nào là đạt bền vững về mặt sinh học,
mức đánh bắt đạt hiệu quả cao nhất về mặt kinh tế. Kết hợp minh họa bằng đồ thị thể hiệ
mối quan hệ giữa nỗ lực đánh bắt, sản lượng và trữ lượng, để thấy được những mức nỗ

8


lực mà tại đó khai thác hiệu quả về mặt kinh tế, bền vững sinh học, điểm lợi nhuận bằng
0.
III. Kết quả nghiên cứu:
1. Kết quả cho thủy sản thương mại
1.1. Ước lượng GS và Fox mơ hình cho thủy sản thương mại
Kết quả của việc ước tính các đặc điểm kỹ thuật sinh học của các mơ hình GS và Fox
được cung cấp trong bảng 7. Cả hai mô hình có những dấu hiệu và ý nghĩa các hệ số cho
thấy thương mại thủy sản bị đánh bắt quá mức.
Bảng 7. Kết quả hồi quy cho các mơ hình Gordon-Schaefer và Fox trong Thủy sản
thương mại Philippin, 1948-1994.
Đặc điểm kỹ
thuật
Đánh bắt= nỗ
lực a+ nỗ lực b
Đánh bắt= nỗ
lực xuất khẩu
(nỗ lực c+d)

Mơ hình
GordonSchaefer
Fox

A1
8572*
-21.676
4588*


A2

Điều chỉnh R2

-2.338E -07
(-8.654)
-0.000000888

0.85
0.76

1.2 Bền vững tối đa,tối đa kinh tế và tự do truy cập trong thủy sản thương mại
Sử dụng các kết quả của mô hình GS trong Bảng 7 và các giá trị cho giá cá tra và chi
phí của nỗ lực cho ngành thủy sản thương mại: MEY, E MEY, MSY, EMSY, OAY và mức
EOAY được tính tốn (Bảng 8).
Bảng 8: Các chỉ số chính Sử dụng kết quả Gordon-Schaefer trong lĩnh vực thuỷ sản
thương mại ở Philippines năm 1994.

Chỉ số

Tần suất
đánh bắt

Tổng doanh
thu

Nỗ lực

9


Tổng giá

Thuê kinh tế
tối đa


Tối đa
bền vững

785,706

39,082,565,98 1,833,191
1

29,409,879,384

Điểm tối
đa kinh
tế
Điểm
khai thác
tự do

674,476

33,549,785,67 1,143,447
5

18,344,318,773 15,205,466,902


735,579

36,688,637,54 2,286,894
6

36,388,637,546



9,672,686,597

Như đã nêu, MSY là tại 785.706 tấn trị giá P39.084 tỷ và sản xuất ở mức độ nỗ lực

của 1.833.191 mã lực.
• Mặt khác, MEY đã được tại 674.476 tấn trị giá P33.550 tỷ và sản xuất ở mức độ
nỗ lực của 1.143.447.
• OAY là tại 737.579 tấn trị giá P36.687 tỷ và sản xuất ở mức độ nỗ lực 2.286.894.
Các số liệu trong Bảng 4 cho thấy rằng mức này vẫn chưa xảy ra, ngụ ý rằng với
điều kiện tự do tiếp cận, sự mở rộng thêm của ngành có thể sẽ xảy ra.
Các kết quả tính tốn của mơ hình GS của ngành thủy sản thương mại được minh họa
trong hình 5.
Hình 5. Kết quả ước lượng của Gordon-Schaefer Model cho Thủy sản Thương mại,
1948-1994

10


1.3. Kinh tế cho thuê trong thương mại thủy sản
Bảng 8. MER sẽ được tạo ra khi các thủy sản thương mại đang hoạt động ở mức MEY
là P15.205 tỷ đồng mỗi năm. Mặt khác, nếu hoạt động ở MSY, ER là P9.673 tỷ USD mỗi

năm. Về số lượng với mức giá trung bình của cá năm 1994 là P49,742 mỗi tấn, MER là
305.677 tấn mỗi năm.
Ước tính số tiền trên của MER từ thủy sản thương mại, nói chung là phù hợp với kết
quả nghiên cứu trước đây. Dalzell et al. (1987) xác định rằng MER từ nghề cá nổi nhỏ là
khoảng 366.000 tấn. Mặt khác, Silvestre và Pauly (1986) ước tính các MER trung bình
162.500 tấn mỗi năm. Khi tổng hợp, các MER từ cá nổi nhỏ và thủy sản đáy là ở 528.500
tấn.
Khó biết được bao nhiêu nổi nhỏ và cá đáy được bắt trong thủy sản thương mại. Tuy
nhiên, trung bình của thương mại đánh bắt thủy sản đối với tổng lượng đánh bắt là 47%.
Sử dụng điều này như một cơ sở thô, thủy sản thương mại của MER đến từ các cá nổi nhỏ
và thủy sản đáy là khoảng 248.395 tấn một năm.
Khơng có thơng tin về MER từ đánh cá nổi lớn, ít hơn phần đến từ thủy sản thương
mại. Tuy nhiên, nó có thể được giả định rằng sự khác biệt giữa con số 248.395 tấn so với
nghiên cứu trước đây và con số 305.677 tấn tính trong nghiên cứu này đại diện cho thuê
kinh tế từ việc đánh bắt cá nổi lớn.

1.4. Yêu cầu giảm nỗ lực của đánh bắt trong thủy sản thương mại
Dựa trên các kết quả trên, lực khai thác cần phải được giảm từ mức năm 1994 của
2.091.899 mã lực. Xét về tỷ lệ phần trăm, nỗ lực trong ngành thủy sản thương mại sẽ phải
được giảm khoảng 45% để đi đến MEY. Để đạt được MSY, mặt khác, nó sẽ phải được hạ
xuống khoảng 12%.

11


2. Kết quả cho Thủy sản địa phương
2.1 Ước lượng GS và Fox mơ hình cho Thủy sản địa phương
Kết quả của việc ước lượng các mơ hình GS và Fox cho thủy sản địa phương được thể
hiện trong Bảng 9. Cả hai mẫu GS và Fox có những dấu hiệu và ý nghĩa cho các hệ số
ngụ ý rằng thủy sản địa phương được đánh bắt quá mức.

Bảng 9: Các dự đốn của mơ hình
Đặc điểm kỹ thuật
Mơ hình
Đánh bắt= nỗ lực a1 Gordon+ a2 nỗ lực
Schaefer
Đánh bắt= Nỗ lực Fox
( a1 + a2)

A1
5536*
-15.42
3761*
-5.202

A2
-7.24E -08
(-10.145)
-4.6E-07
(-15.044)

Điều chỉnh R2
0.55
0.83

2.2. Bền vững tối đa,tối đa kinh tế và tự do truy cập trong Thủy sản địa phương
Để thống nhất, mơ hình GS một lần nữa đã được sử dụng để ước tính MSY, MEY và
OAY cho thủy sản địa phương (Bảng 10).

Bảng 10: Các chỉ số chính Sử dụng kết quả Gordon-Shaefer Model ở Philippin năm
1994

Chỉ số
Tối đa bền
vững
Điểm tối
ưu kinh tế
Điểm khai
thác tự do

Tần suất
1,058,263

Tổng doanh thu
29,895,929,282

Nỗ lực
Tổng giá
3,823,204 30,669,745,856

Thuê kinh tế
(773,816,575)

779,824

22,030,031,369

1,862,123 14,937,950,032

7,092,081,338

1,057,554


29,875,900,064

3,724,246 29,875,900,064

-

12




MSY là tại 1.058.263 tấn trị giá P29.89 tỷ đồng và đạt được ở mức độ nỗ lực của

3.823.204 mã lực.
• MEY đã ở 779.824 tấn trị giá P22 tỷ đồng và đạt được ở mức độ nỗ lực của


1.862.123 mã lực.
OAY là tại 1.057.554 tấn trị giá P29.87 và đạt được ở mức độ nỗ lực của 3.724.246
mã lực.

Một minh họa của mơ hình GS cho thủy sản địa phương được trình bày trong Hình 6.
Một tình huống khá độc đáo trong thủy sản địa phương là các OAY đã đạt được trước khi
MSY đã đạt được, trái ngược với tình hình ở thủy sản thương mại.
Hình 6. Kết quả ước lượng của Gordon-Schaefer Model cho các Thủy sản địa
phương, 1948-1994

2.3. Kinh tế cho thuê của thủy sản địa phương
Bảng 10. Nếu hoạt động ở MEY, MER thủy sản địa phương là khoảng P7.095 tỷ đồng

mỗi năm. Nếu hoạt động ở MSY, ER là tiêu cực tại P.77 tỷ USD mỗi năm.
Một lần nữa, kết quả này phù hợp với những nghiên cứu trước đây. MER ước lượng
từ biển và thủy sản đáy nhỏ là tại 528.500 tấn. Giả sử trung bình của thủy sản địa phương
bắt để đánh bắt thủy sản biển là 53% thì MER của thủy sản địa phương đến từ các cá nổi
nhỏ và thủy sản đáy là khoảng 280.105 tấn một năm.

13


Khơng có thơng tin về các MER từ đánh cá nổi lớn, có thể giả định rằng các lồi cá nổi
lớn chủ yếu được đánh bắt bởi các ngư dân thương mại. Do đó, MER ngoại suy của
280.105 tấn cho cá nổi nhỏ và thủy sản nước lợ gần đáy có thể xem là th tồn bộ ngư
nghiệp địa phương.
2.4. Giảm nỗ lực đánh bắt trong thủy sản địa phương
Để đạt được mức độ bền vững, các nỗ lực khai thác thủy sản địa phương đã được hạ
xuống từ mức 6.343.329 mã lực vào năm 1994 (Bảng 5). Tỷ lệ phần trăm tốt là lực khai
thác sẽ phải giảm 71% để đạt được MEY. Mặt khác, để có được đến cấp độ MSY, nó sẽ
phải được giảm 40%. (Cần lưu ý, kể từ khi MSY rơi ngồi mức OAY, nó không phải là
một mục tiêu quản lý mong muốn trong trường hợp này)

3. Kết quả cho toàn ngành đánh bắt
3.1 Ước lượng GS và mẫu Fox cho toàn ngành đánh bắt
Bảng 11 trình bày kết quả của việc ước lượng các mơ hình GS và Fox cho ngành thủy
sản biển tổng thể. Cả hai mơ hình có dấu hiệu ý nghĩa và hệ số trong đó đã được dự kiến,
ngụ ý rằng vấn đề đánh bắt quá mức xảy ra cho tồn ngành đánh bắt. (Kết quả này, dự
đốn cho cả thủy sản thương mại, thủy sản địa phương đã đánh bắt q mức)
Bảng 11: Ước lượng của mơ hình GS và FOX cho tổng thể đánh bắt thủy hải sản

Đặc điểm kỹ
thuật

Đánh bắt= nỗ
lực a1 + a2 nỗ
lực
Đánh bắt= Nỗ
lực ( a1 + a2)

Mơ hình
GordonSchaefer
Fox

A1

A2

Điều chỉnh R2

6552*
-17.054

-5.95E -08
(-10.043)

0.66

0.389*
-6.039

-0.000000299
(-14.647)


0.62

14


3.2. Bền vững tối đa,tối đa kinh tế và tự do truy cập trong toàn ngành đánh bắt thủy
sản
Các ước tính về MSY, MEY và OAY cho nghề cá biển được cung cấp trong bảng 12.
Bảng 12: Các ước tính của MSY, MEY và OAY cho nghề cá biển

Chỉ số
Tối đa
bền vững
Điểm tối
ưu kinh
tế
Điểm
khai thác
tự do


Tần suất
Tổng doanh
đánh bắt
thu
1,803,72 70,338,140,38
7
6
1,403,72 54,739,791,579
8


Nỗ lực

Tổng giá

Thuê kinh tế

5,505,88 66,246,776,471 4,091,363,915
2
2,913,07 35,050,078,856 19,689,712,722
2

1,797,62 70,100,157,713
4

5,826,14 70,100,157,713
3

MSY là tại 1.803.727 tấn trị giá P70.3 tỷ và đến mức độ nỗ lực của 5.505.882 mã
lực. Trái ngược với các con số sản lượng và nỗ lực trong Bảng 6, MSY đã đạt được

trong những năm cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90.
• Các MEY là tại 1.403.728 tấn trị giá P54.7 tỷ đồng và tạo ra ở mức độ nỗ lực của
2.913.072 mã lực. Trái ngược với con số trong Bảng 6, mức này đã đạt được trong
những năm đầu 80.
• Cuối cùng, các OAY là tại 1.797.624 tấn trị giá P70.1 tỷ đồng và đạt được ở mức
độ nỗ lực của 5.826.143 mã lực. So với số liệu trong Bảng 6, điều này đã đạt được
trong những năm 90.
Một minh họa của mơ hình GS cho nghề cá biển tổng thể được thể hiện trong hình 7.
Hình 7. Kết quả ước lượng của Gordon-Schaefer cho tổng thể nghề cá biển, 19481994


15


3.3. Kinh tế cho thuê ở toàn ngành đánh cá
Các tính tốn tổng doanh thu, tổng chi phí và tiền th kinh tế sử dụng mơ hình GS
cũng được thể hiện trong Bảng 12. Tại MEY, MER ở toàn ngành cá biển là P19.689 tỷ
đồng mỗi năm. Tại MSY, ER là P4.091 tỷ USD mỗi năm.
Các MEY và MSY mức tạo ra cho nghề cá biển tổng thể chuyển hướng một chút từ
tổng các mức MEY và MSY bắt nguồn cho thủy sản thương mại và thành phố (Bảng 8 và
10). Kết quả này đã được dự kiến cho sự khác biệt về giá đánh bắt cá và nỗ lực cá trong
sử dụng các tính tốn. Tại các giả định giá trung bình năm 1994 cho các lồi cá biển của
P38,996 mỗi tấn, các MER mà có thể có số tiền 504.916 tấn. Một lần nữa, con số này nói
chung là phù hợp với các nghiên cứu trước đó.
3.4. Giảm nỗ lực đánh bắt cho toàn ngành
Các kết quả cho thấy nỗ lực khai thác thủy sản biển ở toàn ngành đã được giảm từ mức
8.435.228 mã lực vào năm 1994 (Bảng 6). Đặc biệt, nỗ lực khai thác sẽ phải giảm 65% để
đạt được MEY. Mặt khác, nó sẽ phải giảm 35% để đạt được MSY.
4. Tác động của thuê mướn nhân công đến giảm nỗ lực đánh bắt trong toàn ngành.
Giảm cường lực khai thác để đạt được MSY hoặc MEY sẽ nâng cao năng suất thủy sản
biển. Tuy nhiên, nó cũng sẽ dẫn đến tình trạng thất nghiệp của ngư dân sẽ phải rời khỏi
16


ngành thủy sản. Đây là một vấn đề lớn trong cả nước, các nơi còn lại của nền kinh tế có
thể khơng có đủ chỗ để chứa các ngư dân chuyển nghề.
Những hạn chế trong dữ liệu về việc làm, gây khó khăn để ước tính chính xác tác dụng
của việc làm giảm nỗ lự. Các kết quả được trình bày ở bảng 13. Có hai phương pháp tính
tốn được sử dụng: đầu tiên, bằng cách sử dụng các kết quả trước đó cho thủy sản thương
mại và đơ thị cá nhân và sau đó tổng hợp; và thứ hai, bằng cách sử dụng các kết quả trực

tiếp từ ngề cá toàn ngành cá biển.
Bảng 13: Tác động việc làm giảm nổ lực đánh bắt thủy hải sản
Khu vực

Thương mại
Địa phương
Tổng
Tổng thể

Năng suất tối đa bền vững
% giảm Sản lượng
Giảm
của ngư
việc làm
dân
13
319,937
38,392
40
397,163 158,865
197,258
35
717,100 250,185

Tối đa bền vững kinh tế
% giảm
Sản lượng
Giảm việc
của ngư dân
làm

45
71

319,937
397,163

65

717,100

143,972
281,986
425,957
466,115

Để đạt được MSY:
Nỗ lực sẽ được giảm 12% trong nghề cá thương mại và 40% trong thủy sản địa
phương. Tổng cộng có khoảng 197.258 ngư dân mất việc.
• Đối với tổng thể ngư dân biển, nỗ lực sẽ được giảm 35 % để đạt được MSY. Điều


này có nghĩa là 250.985 ngư dân sẽ bị mất việc làm.
Mặt khác, để đi đến MEY:


Nỗ lực phải được hạ xuống 45 % trong nghề cá thương mại và 71 % trong thủy sản

địa phương. Tổng cộng có khoảng 425.957 ngư dân mất việc.
• Đối với tổng thể ngư dân biển, nỗ lực sẽ được giảm 65% để có MEY. Điều này có
nghĩa là 466.115 người sẽ bị thất nghiệp.

Nói tóm lại, một số lượng lớn các ngư dân sẽ bị mất việc làm khi bền vững đạt được
trong nghề cá biển. Do đất nước đã có một vấn đề thất nghiệp trầm trọng, mối quan tâm
về quản lí thủy sản không thể bỏ qua.

17


5. Liên hệ kết quả này với việc giải quyết vấn đề nghiên cứu:
Thông qua các kết quả nghiên cứu cho: Thủy sản thương mại, thủy sản địa phương và
toàn ngành đánh bắt cho thấy việc đánh bắt, khai thác cá đang diễn ra quá mức và có thể
cạn kiệt.
Mặc dù tổng sản lượng của ngành chiếm khoảng năm phần trăm của tổng Sản phẩm
quốc gia (GDP), sản xuất thủy sản đáp ứng hơn hai phần ba số tiêu thụ protein động vật
của quốc gia, xuất khẩu thủy sản đã được phát triển ở mức giá rất cao hàng năm, đặc biệt
là về mặt giá trị.
Tuy nhiên, cần phải có chính sách can thiệp vào ngành thủy sản Philipin để đảm bảo
nguồn tài nguyên bền vững, đảm bảo sản lượng cho thế hệ tương lai. Sự can thiệp chủ yếu
nhất là thông qua mức nỗ lực đánh bắt (Effort). Theo nghiên cứu, mức nỗ lực đánh bắt ở
Toàn ngành thủy sản Philipin liên tục tăng từ năm 1948-1994 với mức nỗ lực tương ứng
là 69,505 và 8,435,228 (Bảng 6). Kết quả cũng cho thấy, nỗ lực khai thác sẽ phải giảm
65% để đạt được MEY. Mặt khác, nó sẽ phải giảm 35% để đạt được MSY.
Giải quyết vấn đề khai thác quá mức cũng cần lưu ý đến tình trạng thất nghiệp. Dựa
vào kết quả Bảng 13, đối với tổng thể ngư dân biển, nỗ lực giảm 35 % để đạt được MSY
thì sẽ có 250.985 ngư dân mất việc làm. Nỗ lực giảm 65% để có MEY thì sẽ có 466.115
ngư dân bị thất nghiệp.
Vì vậy nếu khơng muốn một số lượng lớn các ngư dân sẽ bị mất việc làm khi bền vững
đạt được trong nghề cá biển. Cần có các biện pháp quản lý chặt chẽ, giải quyết hiệu quả
những vấn đề nan giải, sự can thiệp của chính quyền trong việc đề ra chủ trương chính
sách hợp lý đảm bảo nghề Thủy sản phát triển bền vững.
IV. Kết luận và kiến nghị của nghiên cứu:

1. Kết luận:
Từ các kết quả tính tốn, nghiên cứu tạo ra các kết luận sau đây về việc đánh bắt quá
mức trong ngành thủy sản biển:

18


a. Ngành thủy sản biển và hai phân ngành của nó, thương mại và thủy sản địa phương đã
đánh bắt quá mức.
b. Nhìn chung, cấp MEY và MSY trong ngành thủy sản biển và các phân ngành của nó đã
đạt được ở đầu những năm 80 và 90.
c. Có thể có được đặc lợi kinh tế đáng kể nếu ngành thủy sản biển được điều hành ở mức
bền vững. Nếu hoạt động ở MEY, và xét một cách tổng thể, MER từ ngành thủy sản biển
sẽ là P19.689 tỷ đồng.
d. Phải giảm đáng kể nỗ lực đánh cá để đạt được mức độ bền vững trong khai thác thủy
sản. Xét một cách tổng thể, đối với nghề cá biển, nỗ lực phải được giảm 65 phần trăm.
e. Bởi vì phải giảm đáng kể nỗ lực đánh bắt cá để đạt được sự bền vững trong khai thác
thủy sản, thất nghiệp có lẽ là một tác động phụ tiềm ẩn nghiêm trọng. Tính chung, khoảng
466.000 ngư dân biển sẽ bị thất nghiệp.
2. Kiến nghị:
2.1.Kiến nghị đối với thủy sản thương mại:
Thứ nhất, việc khai thác quá mức cần được giải quyết ngay lập tức bằng cách kiểm
soát tổng lực đánh bắt. Hiện nay, Chương trình Ngành Thuỷ sản (FSP) đang trong quá
trình sáng tạo ra một chương trình để thực hiện giảm nỗ lực.
Thứ hai, cần nâng cao mức thu lệ phí cấp giấy phép hiện đang áp dụng trong thủy sản
thương mại. Sử dụng hệ thống giấy phép để giúp giảm bớt nỗ lực đánh bắt cá trong dài
hạn.
Thứ ba, cần tổ chức chương trình bồi dưỡng những kỹ năng cần thiết cho các ngư dân
chuyển sang các lĩnh vực kinh tế khác.
Thứ tư, cần có biện pháp giảm săn bắt cá bởi tàu nước ngoài trong vùng biển địa

phương. Phải xử phạt nghiêm những người vi phạm theo qui định pháp luật.
Cuối cùng, mặc dù ngành thủy sản thương mại như một tổng thể bị đánh bắt quá mức,
trong đó được phân ra thành các ngành (ví dụ: khu vực đánh bắt cá cụ thể và các loài
thương mại), mà hiện nay vẫn còn được khai thác. Sự phát triển của các tiểu ngành này
19


phải được ưu tiên trong quản lý nghề cá. Đó là thách thức của chính phủ để có thể kiểm
sốt khai thác quá mức ở cấp quốc gia đồng thời thúc đẩy phát triển hơn nữa trong nghề
đánh cá thương mại tại cùng một thời điểm.
2.2.Kiến nghị đối với thủy sản địa phương:
Thứ nhất, để ngư dân thành phố có thể sinh sống được khi họ rời khỏi ngư nghiệp và
chuyển sang lĩnh vực kinh tế khác thì các chương trình sinh kế quy mơ nhỏ phải được
thúc đẩy bởi các chính phủ trong khu vực ven biển phối hợp với các đơn vị chính quyền
địa phương và các tổ chức phi chính phủ. Những hoạt động này cần phải được thực hiện
trên cả nước để giúp giảm tác động của lực khai thác ở cấp quốc gia.
Thứ hai, để tìm kiếm các sinh kế thay thế thì việc xúc tiến du lịch sinh thái tại các khu
vực nông thôn ven biển là cần thiết. Các ngư dân làm việc trong khu du lịch sinh thái, thì
nỗ lực đánh bắt cá sẽ giảm. Một tùy chọn khác mà chính phủ có thể xem xét là thúc đẩy
phát triển cơng nghiệp ở các khu vực nông thôn ven biển. Các ngành công nghiệp và các
hoạt động kinh tế khác mà sử dụng các ngư dân thành phố, thì các ngư dân sẽ ít tham gia
vào các hoạt động đánh bắt cá …
Thứ ba, chương trình khuyến khích của các nguồn tài nguyên và môi trường giáo dục
trong cộng đồng ngư dân là một phương tiện làm giảm lực đánh bắt. Khi ngư dân thành
phố nhận thức được mối nguy hiểm mà đánh bắt quá mức gây ra đối với phúc lợi của họ,
khi đó họ sẽ thực hiện các hoạt động đánh bắt cá bền vững. Các dự án giáo dục ngày càng
nhiều và nâng cao nhận thức trong ngành thủy sản là một bước tiến lớn phải liên tục được
hỗ trợ bởi chính phủ.
Cuối cùng, cần vận hành hiệu quả Bộ Luật Chính quyền địa phương (LGC) ở các khu
vực nông thôn ven biển sẽ thúc đẩy giảm nỗ lực đánh bắt ở thủy sản địa phương. Củng cố

hệ thống quản lý hiệu quả, chẳng hạn như những người có liên quan đến quyền và tiếp
cận tài sản ven biển; quy định, pháp lệnh; giám sát, lập chính sách và thực thi; thúc đẩy
việc khai thác bền vững nguồn lợi thủy sản khu vực.

20


2.3. Kiến nghị đối với ngành thủy sản biển:
Đối với ngành thủy sản biển , việc đánh bắt quá mức không chỉ do sự gia tăng nỗ lực
đánh bắt mà còn bởi những việc làm của các bánh răng phá hủy và kỹ thuật của ngư dân.
Do đó, để giúp bảo tồn nguồn lợi thủy sản biển, thực thi có hiệu quả pháp luật thủy sản,
các quy định liên quan đến bánh răng phá hủy phải được theo đuổi.
Trong khi việc giảm cường lực khai thác phải là mục tiêu chính trong nghề cá biển, tác
động của cắt giảm như vậy về vốn chủ sở hữu cũng quan trọng không kém. Do đó, đối
với nghề cá biển tổng thể, sự cân bằng mạnh mẽ giữa hiệu quả và công bằng các mục tiêu
phải được duy trì. Ví dụ, giảm cường lực khai thác sẽ dẫn đến sự độc quyền của ngành
thủy sản của vài nhà khai thác lớn, sau đó phát triển bền vững trong lĩnh vực này sẽ đã đạt
được ở một mức giá dốc.
Các kết luận, kiến nghị của tác giả sẽ giúp ích gì cho sự phát triển hay công tác quản lý
hoặc nghiên cứu trong ngành thuỷ hải sản, quản lý tài nguyên?
Các kết luận của bài đề cập đến nhìu vấn đề cần được quan tâm và giải quyết của
ngành thủy sản Philipin nói riêng và thủy sản thế giới nói chung cũng như là các kiến
nghị của tác giả đã định hướng, đưa ra nhìu giải pháp để giải quyết việc đánh bắt thủy sản
quá mức hiện nay.
Để giảm tình trạng khai thác thủy sản quá mức hiện nay, cần thông qua các biện pháp
làm giảm nỗ lực đánh bắt của ngư dân như sáng lập, tổ chức các hiệp hội, chương trình
bảo vệ, tuyên truyền nhằm điểu chỉnh khai thác thủy sản cụ thể là đánh bắt cá bảo đảm
phát triển bền vững; xây dựng hệ thống cấp giấy phép đánh bắt cũng như mức lệ phí giấy
phép phù hợp với tình trạng nguồn tài nguyên đã, đang và sẽ cạn kiệt; kiểm soát phương
tiện đánh bắt của ngư dân tránh gây hại đến môi trường; nâng cao nhận thức của ngư dân

thông qua các hội thảo chuyên ngành; áp dụng biện pháp mạnh đối với các tàu đánh bắt
cá trái phép…các biện pháp trên của tác giả góp phần đáng kể vào sự phát triển bền vững
và nghiên cứu trong ngành thủy hải sản.
Khuyến khích ngư dân chuyển sang các lĩnh vực kinh tế khác, tuy nhiên, chính phủ
cần có nhìu chính sách hỗ trợ họ như cho vay vốn không lãi suất hoặc lãi suất thấp, xúc
21


tiến các dự án xây dựng khu du lịch bên cạnh việc khai thác thủy sản ở vùng biển mà họ
sinh sống, xem xét thúc đẩy phát triển dịch vụ, công nghiệp ở khu vực nông thôn ven biển
tạo ra nhìu cơ hội việc làm từ đó làm giảm nỗ lực đánh bắt từ họ, hạn chế tình trạng thất
nghiệp do giảm nỗ lực đánh bắt… đây là một số giải pháp mà tác giả đưa ra giúp ích cho
các nước thực hiện tốt cơng tác quản lí.
Cần củng cố, hoàn thiện các bộ luật liên quan đến đánh bắt, khai thác thủy sản, sử
dụng nguồn tài nguyên ở cấp địa phương cũng như trung ương, quy định rõ quyền và
nghĩa vụ của những người liên quan để quản lý có hiệu quả nguồn tài nguyên, góp phần
khai thác bền vững nguồn lợi thủy sản…
V. Nhận xét, đánh giá của nhóm:
1. Ưu điểm, hạn chế của nghiên cứu:
1.1. Ưu điểm:
Nghiên cứu cho ta cái nhìn tổng quát về những nguồn lợi mà ngành thủy sản mang lại,
bên cạnh đó là những thách thức ngành đang phải đối mặt cần được các cấp quản lý gấp
rút giải quyết.
Phương pháp nghiên cứu, mơ hình và dữ liệu tác giả sử dụng trong bài được trình bày
cụ thể, rõ ràng.
Ngành khai thác thủy sản mang lại nguồn lợi kinh tế đáng kể cho Philipin, góp phần
cải thiện đời sống người dân.
Kết luận của tác giả đưa ra các vấn đề quan trọng của ngành thủy sản biển cần được
giải quyết đặc biệt là việc khai thác, đánh bắt thủy sản quá mức.
Bài đưa ra nhìu kiến nghị hữu ích như việc chuyển đổi một phần việc khai thác thủy

sản sang đầu tư du lịch sinh thái, phát triển công nghiệp, dịch vụ khu vực ven biển…
1.2. Hạn chế:
Một số khía cạnh cần nghiên cứu khơng có số liệu (khơng có thơng tin về động cơ mã
lực của tàu đánh bắt giai đoạn 1948-1987…).
22


Bài nghiên cứu chưa đề cập cụ thể đến các khó khăn mà ngư dân có thể gặp phải khi
chuyển sang lĩnh vực kinh tế khác.
Tác giả chưa đề cập đến các vấn đề môi trường, đa dạng hệ sinh thái biển liên quan
đến khai thác, đánh bắt thủy sản như phương tiện đánh bắt không đảm bảo, ô nhiễm môi
trường biển do hoạt động của ngư dân…
2. Đánh giá của nhóm:
So với những điều kiện trong ngành thuỷ hải sản ở Việt Nam ta thấy có những nét
tương đồng với ngành khai thác thuỷ sản ở Philippines, phù hợp với điều kiện ở Việt Nam
( ngành thuỷ hải sản cả 2 nước đang được chú trọng và quan tâm đầu tư của các cơ quan
liên quan, thu hút nhiều nhân lực, vốn.)
Có khả năng áp dụng và vận dụng phương pháp nghiên cứu này vào thực tế Việt Nam
nhưng khơng phải hồn tồn mà cần có những thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tế
của Việt Nam. Các vấn đề khó khăn như:



Vấn đề về quy hoạch nuôi trồng thủy sản chưa được quan tâm cụ thể,
Chưa có các biện pháp ngăn ngừa việc đánh bắt trái phép cũng như việc đánh bắt



bằng bom mìn gây chết và biến mất vài loài quý hiếm hoặc sinh sản ít,
Người dân các vùng ven biển đánh bắt cá còn nghèo và khó khăn trong việc đầu tư


vốn và cơng nghệ,
• Việc khai thác q mức, khơng có kế hoạch và kiểm soát một cách chặt chẽ, cũng
dẫn đến việc có những lỗ thủng lớn trong ngành .
• Vấn đề ô nhiễm môi trường do các chất thải trong quá trình ni trồng chưa được
xử lý đã xả ra mơi trường
Các thuận lợi được nêu tương tự như phần nghiên cứu ở trên. Tuy nhiên cũng có
những đóng góp đáng kể từ các chính sách nước nhà ( chính sách cấm khai thác, đánh bắt
cá, hải sản trong mùa sinh sản của các lồi ở Ninh Thuận,…) , chính phủ cần tiếp tục cố
gắng và đưa ra các chính sách phù hợp với đặc điểm từng vùng và từng địa phương.

23


-----– HẾT —-----

24


TÀI LIỆU THAM KHẢO

Cục Nghề cá và Nguồn lợi Thủy sản (1991). 1990 hồ sơ Thủy sản Philippine.
Thống kê Thủy sản của Philippines. Quezon City, Philippines.
Cục nghiên cứu nông nghiệp (1991). Chương trình nghiên cứu Thủy sản quốc
gia. Sở Nơng nghiệp, Diliman, thành phố Quezon.
Cục Thống kê nông nghiệp Thủy sản Thống kê. Quezon City, Philippines.
Thống kê Lựa chọn thủy sản. Quezon City, Philippines.
Cunningham, S., MR Dunn và D. Whitmarsh (1985). Kinh tế thủy sản: Giới
thiệu. Mansell xuất bản Ltd, London.
Dalzell, P., P. Corpuz, R. Ganaden và D. Pauly (1987). Ước tính năng suất bền

vững và Thuê kinh tế tối đa từ Philippine nhỏ Tầng nổi Thuỷ sản. ICLARM Giấy
kỹ thuật Series, Vol.10, Số 3.
Fox, W.J. (1970). Một thặng dư-Năng suất mẫu mũ cho Tối ưu hóa Exploited cá
quần. Giao dịch của Hiệp hội Thủy sản Hoa Kỳ. Florida, Vol. 99, Số 1, tháng
Giêng, trang 80-88.
Gordon, H. (1953). Lý thuyết kinh tế của tài nguyên thông thường tài sản: Các
nghề cá. Tạp chí Kinh tế chính trị. Vol. 62, trang 124-142.
Guerrero, R. C. III (1989). Nguồn lợi thuỷ sản biển: Sự suy giảm và quản lý.
Giấy trình bày tại Hội thảo khu vực về hệ sinh thái và ổn định sản, Khoa học Xã
hội quốc gia Philippines, ngày 1-2, 1988. Los Banos, Laguna.
Israel, D. C. và C. P. Banzon (1996). Đánh bắt quá mức trong ngành thủy sản
biển Philippines.Phân tích phân tách. Chương trình Kinh tế và Mơi trường Đơng
Nam Á. Báo cáo cuối cùng.
Karim, M. N. A. (1985). Chi tiêu năng lượng của một nhóm các sinh viên tại
Trường Đại học Pertanian Malaysia. Pertanika8 (1). trang 155-157.
25


×