Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (867.07 KB, 32 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ HUYỀN CHINH

ẢNH HƢỞNG CỦA BÁO ĐIỆN TỬ ĐỐI VỚI LỐI SỐNG
CỦA GIỚI TRẺ VIỆT NAM HIỆN NAY

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60320101

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Bùi Hoài Sơn

Hà Nội – 2016


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

6

1. Lý do lựa chọn đề tài 6
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 8
2.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài trên thế giới

8

2.2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài tại Việt Nam


10

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

12

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

12

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

13

4.2. Phạm vi nghiên cứu

13

5. Phương pháp nghiên cứu

14

5.1. Cơ sở lý luận

12

13


14

Luận văn đã dựa trên cơ sở lý luận: 14
5.2. Phương pháp cụ thể

14

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

16

6.1. Ý nghĩa lý luận của đề tài 16
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
7. Kết cấu của luận văn

17

17

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ BÁO ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM

1.1. Một số khái niệm công cụ liên quan đến luận văn
1.1.1. Khái niệm báo điện tử 18
1.1.2. Khái niệm giới trẻ

19

1.1.3. Khái niệm lối sống

22


18

18


1.2. Quan điểm lý thuyết trong nghiên cứu về ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối
sống của giới trẻ ở Việt Nam hiện nay Error! Bookmark not defined.
1.3. Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của báo điện tử ở Việt Nam
Error! Bookmark not defined.
1.3.1. Quá trình hình thành và phát triển

Error! Bookmark not defined.

1.3.2. Sự khác biệt giữa báo điện tử và trang thông tin điện tử
not defined.
1.3.3. Đặc điểm của báo điện tử
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Error! Bookmark

Error! Bookmark not defined.

Error! Bookmark not defined.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ẢNH HƯỞNG CỦA BÁO ĐIỆN TỬ ĐỐI VỚI LỐI SỐNG CỦA GIỚI TRẺ VIỆT NAM
HIỆN NAY
Error! Bookmark not defined.

2.1. Giới thiệu về các tờ báo trong diện khảo sát


Error! Bookmark not defined.

2.1.1. Báo điện tử Vietnamnet Error! Bookmark not defined.
2.2.2. Báo điện tử VnExpress Error! Bookmark not defined.
2.2.3. Báo điện tử Dân trí

Error! Bookmark not defined.

2.2.4. Báo điện tử Tuổi Trẻ Online

Error! Bookmark not defined.

2.2.5. Báo điện tử Thanhnien.vn

Error! Bookmark not defined.

2.2. Thực trạng sử dụng báo điện tử trong giới trẻ hiện nay Error! Bookmark not
defined.
2.2.1. Mục đích sử dụng báo điện tử Error! Bookmark not defined.
2.2.2. Địa điểm và phương tiện sử dụng báo điện tử
defined.

Error! Bookmark not

2.2.3. Thời gian sử dụng báo điện tử Error! Bookmark not defined.
2.3. Nhận diện và đánh giá tác động của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ hiện
nay Error! Bookmark not defined.
2.3.1. Nhận diện tác động của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ Error!
Bookmark not defined.

2.3.2. Đánh giá tác động của báo điện tử đến lối sống của giới trẻ Error! Bookmark
not defined.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Error! Bookmark not defined.


CHƯƠNG 3: XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ TÍCH CỰC CỦA BÁO ĐIỆN TỬ
TRONG VIỆC XÂY DỰNG LỐI SỐNG CỦA GIỚI TRẺ VIỆT NAM HIỆN NAY Error! Bookmark not defined.

3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát huy vai trò của báo điện tử trong việc
xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam nói chung, giới trẻ nói riêng
Error! Bookmark not defined.
3.2. Xu hướng phát triển và tác động của báo điện tử đến lối sống của giới trẻ trong
tương lai Error! Bookmark not defined.
3.3. Giải pháp phát huy vai trò của báo điện tử trong việc xây dựng lối sống của giới trẻ
hiện nay Error! Bookmark not defined.
3.3.1. Giải pháp phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội để nâng cao nhận thức
của giới trẻ khi đọc báo điện tử
Error! Bookmark not defined.
3.3.2. Hoàn thiện cơ chế, chính sách, nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về báo chí
nói chung và báo điện tử nói riêng Error! Bookmark not defined.
3.3.3. Một số giải pháp cụ thể khác Error! Bookmark not defined.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
KẾT LUẬN

Error! Bookmark not defined.

Error! Bookmark not defined.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

24

Error! Bookmark not defined.


DANH MỤC VIẾT TẮT

BTV

Biên tập viên

CNH

Công nghiệp hóa

HĐH

Hiện đại hóa

KHXH&NV

Khoa học Xã hội và Nhân văn

KT – XH

Kinh tế - Xã hội


MXH

Mạng xã hội

Nxb

Nhà xuất bản

PGS.TS

Phó Giáo sư, Tiến sĩ

PT-TH

Phát thanh - Truyền hình

PTTT

Phương tiện truyền thông

TBT

Tổng Biên tập

Ths.

Thạc sĩ

XHCN


Xã hội Chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Báo điện tử là một loại hình báo chí non trẻ, ra đời sau loại hình báo in, báo phát
thanh và báo hình nhưng sự ảnh hưởng cũng như phát triển của báo điện tử trong thời đại
công nghệ thông tin hiện nay thì không một loại hình báo chí nào sánh bằng. Ngoài
những đặc trưng riêng, báo điện tử còn mang những vai trò của báo chí nói chung trong
xã hội như: Là kênh tạo lập, định hướng và hướng dẫn dư luận; Là kênh chủ yếu cung
cấp kiến thức thông tin về tình hình thời sự trong nước và quốc tế cho nhân dân; Là một
công cụ hữu hiệu để quản lý, điều hành và cải cách xã hội; Là một định chế với những
quy tắc và chuẩn mực riêng của mình và có những quan hệ mật thiết với các định chế
khác trong xã hội; Là một bộ phận hữu cơ không thể thiếu trong đời sống hàng ngày của
mọi cá nhân, là phương tiện cung cấp thông tin, kiến thức và giải trí cho người dân.
Chính những vai trò trên đã làm cho báo điện tử có sự ảnh hưởng vô cùng lớn đối
với người dân nói chung, đặc biệt là giới trẻ. Đây là những người thường xuyên tiếp cận
với internet nói chung và báo điện tử nói riêng do đặc thù về điều kiện sống, công việc,
nhận thức và hành vi.
Theo báo cáo về tình hình internet tại khu vực Đông Nam Á tính đến cuối tháng
7/2013 của hãng nghiên cứu thị trường comScore, với 16,1 triệu người dùng internet
hàng tháng, Việt Nam là quốc gia có dân số trực tuyến lớn nhất tại khu vực ASEAN.
Cũng theo thống kê của comScore, Việt Nam còn là quốc gia có lượng người dùng
internet ở độ tuổi trẻ nhất khu vực, với 42% người sử dụng ở độ tuổi 15 – 24, độ tuổi
người dùng internet từ 25 đến 34 chiếm 32%. Theo Trung tâm internet Việt Nam
(VNNIC), người dùng internet ở nước ta nhìn chung có trình độ học vấn tương đối khá, là
học sinh, sinh viên, trí thức, công chức, viên chức. Khi ngồi trước máy tính, người đọc
thường có nhu cầu học tập, tìm kiếm thông tin bổ ích qua các báo, tạp chí và trang thông
tin điện tử chính thống trong nước và các tờ báo điện tử và các trang mạng xã hội
(MXH), các trang web nước ngoài.

Giới trẻ luôn là một trong những nhóm công chúng đích của truyền thông đại
chúng. Ngày nay, sự phát triển của khoa học công nghệ và sự ra đời của các sản phẩm


công nghệ số đã giúp cho báo điện tử dễ dàng hơn trong việc tiếp cận với giới trẻ. Với sự
phong phú, đa dạng về mặt thông tin trong mọi lĩnh vực từ chính trị, xã hội, kinh tế, văn
hóa, giải trí, thể thao, công nghệ… các báo điện tử đã thu hút hàng triệu lượt truy cập mỗi
ngày. Với sức lan tỏa nhanh của báo điện tử, mọi thông tin từ các ngõ ngách đời sống, xã
hội đều được truyền tải tới bạn đọc từng giây, từng phút. Chính vì thế, báo điện tử có
những tác động mạnh mẽ, sâu sắc tới sự phát triển trí tuệ, hình thành nhân sinh quan, thế
giới quan và bồi đắp tình cảm nhân văn cho giới trẻ.
Với thế giới của báo điện tử, giới trẻ được sống trong nhịp đập nóng hổi của thời
đại, quốc gia, cộng đồng. Thông qua báo điện tử, giới trẻ có cái nhìn tích cực hơn, quan
tâm hơn và những phản ứng kịp thời với những sự kiện chính trị - kinh tế - văn hóa – xã
hội của thế giới, của đất nước và của địa phương nơi mình đang sống. Báo điện tử nói
riêng và báo chí nói chung có sức mạnh tập hợp sự quan tâm của cộng đồng vô cùng to
lớn.
Đặc trưng nổi bật của báo điện tử chính là ở sự đa dạng, phong phú, cập nhật thông
tin một cách nhanh chóng, chân thực nên giới trẻ cũng tìm thấy cho mình được nguồn tri
thức hữu ích, rèn luyện kỹ năng sống của mình mà không phải bất cứ cuốn sách nào,
người thầy nào có thể đáp ứng được. Một số những trang báo chuyên ngành còn có vai
trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động trao đổi, nghiên cứu thông tin khoa học của giới
trẻ. Chính báo chí nói chung và đặc biệt là báo điện tử nói riêng đã tạo nên một thế hệ
“công dân toàn cầu” (Global citizen) ở Việt Nam.
Tuy nhiên, tuổi trẻ thì có sự thông minh, nhanh nhạy trọng việc nắm bắt và cập
nhật công nghệ thông tin nhưng lại thiếu kinh nghiệm sống, yếu khả năng giữ vững lập
trường và chưa đủ tinh tế để nhận biết những thông tin thiếu chính thống. Bởi vậy, sự
nhanh nhạy, chân thực một cách không sàng lọc với thông tin của báo điện tử rất dễ
khiến giới trẻ như “lạc lối” nếu không được định hướng, giáo dục. Tuy nhiên, trong quá
trình hoạt động thực tiễn, chịu sự tác động không nhỏ của kinh tế thị trường và sức ép

từ doanh số, báo điện tử đang dần xuất hiện những dấu hiệu tiêu cực trong việc đưa tin,
làm ảnh hưởng tới lối sống, suy nghĩ và hành vi của giới trẻ.


Tháng 12/2010, một nhóm thiếu niên ở TP Vinh (Nghệ An) bị bắt vì hành vi phá
máy ATM để trộm tiền. Nguyên nhân là những em này đã học lỏm phương pháp phá máy
ATM để trộm tiền được miêu tả rất tỉ mỉ trên các tờ báo. Sự việc cho thấy mặt trái của
thông tin báo chí đối với giới trẻ.
Bên cạnh những tờ báo nghiêm túc, có không ít tờ báo thu hút độc giả bằng những
bài báo có nhan đề giật gân, nội dung khai thác những đề tài kịch tính, thị hiếu tầm
thường, dục vọng thấp kém của con người. Những bạn trẻ không có bản lĩnh, thiếu nền
tảng tri thức và nhân cách sẽ dễ dàng bị lôi cuốn bởi những bài báo có tính giải trí rẻ tiền,
vô bổ và thậm chí là độc hại. Nhiều nhà báo đã phải tâm sự, đôi khi những bài báo công
phu, tâm đắc nhất của họ về một đề tài thời sự nóng hổi thì lượng người đọc không đáng
kể, trong khi đó, một thông tin dạng “chó cắn xe” lại trở thành tin nhiều người đọc nhất.
Việc các ngôi sao, người mẫu, diễn viên thường xuyên xuất hiện với tần suất dày
đặc bằng các chiêu trò lố lăng dễ khiến giới trẻ bị ngộ nhận đó là những giá trị thời
thượng được xã hội tôn vinh, kích thích giới trẻ học đòi theo những điều phù phiếm, sao
nhãng và coi nhẹ giá trị chân chính của cuộc sống. Không ít bạn trẻ bị ảnh hưởng cách sử
dụng ngôn ngữ thiếu trong sáng, thiếu chính xác, lạm dụng tiếng nước ngoài trên báo chí.
Sự ảnh hưởng, tác động của báo điện tử đối với thế hệ trẻ là một vấn đề rất lớn
nhưng lại chưa được quan tâm đúng mực. Đến nay cũng chưa có bất cứ công trình nghiên
cứu công phu, nghiêm túc nào về nhu cầu, thị hiếu cũng như những ảnh hưởng của báo
điện tử đối với việc hình thành lối sống của giới trẻ. Lãnh đạo của các tòa soạn cũng chưa
nhận thức hết vai trò của báo điện tử trong việc ảnh hưởng tới lối sống của giới trẻ; các
phóng viên, BTV cũng chưa làm tốt chức năng, nhiệm vụ và đạo đức trong quá trình sáng
tạo tác phẩm.
Nhận thức rõ tầm quan trọng về sự ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối sống của
giới trẻ, trong khả năng hữu hạn của bản thân, tác giả đã lựa chọn đề tài “Ảnh hưởng của
báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ Việt Nam hiện nay” làm đề tài cho luận văn thạc

sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài trên thế giới


Sự phát triển của báo điện tử gắn liền với sự bùng nổ mạnh mẽ của mạng internet và
các PTTT khác. Tất cả đều có sự ảnh hưởng nhất định đối với người dân nói chung và
đặc biệt là người trẻ hoặc trẻ em nói riêng. Trong cuốn sách “Bùng nổ truyền thông – Sự
ra đời một ý thức hệ mới” của hai tác giả Philippe Breton và Serge Proulx đã khẳng định,
sự ra đời của điện tử học và sự phát triển của khoa học công nghệ đã có tác động mạnh
mẽ đối với hệ thống truyền thông (hệ thống các media). Nhờ đó mà các media trở nên dễ
dàng hơn trong việc tiếp cận công chúng, đồng thời dễ dàng làm ảnh hưởng tới tư tưởng,
nhận thức của công chúng. Bởi vậy, tùy thuộc vào nền văn hóa khác nhau, thể chế chính
trị khác nhau mà hệ thống media được sử dụng một cách linh hoạt, phù hợp với tiêu chí
hoạt động của từng tổ chức, cá nhân sử dụng.
Bài viết “Study Shows How internet Use Affects Today’s Youth” của tác giả
Michael Harper đăng trên cho thấy: các thanh thiếu niên ngày
nay đang tích cực sử dụng internet thông qua các thiết bị thông tin hiện đại trong cuộc
sống của mình. Bên cạnh việc cung cấp một lượng thông tin phong phú, internet cũng
mang lại sự lạc hướng về thông tin đối với giới trẻ. Điều này cho thấy, internet nói chung
và loại hình báo điện tử nói riêng đã có ảnh hưởng nhất định đối với giới trẻ.
Ngoài ra còn có thể kể tới một số công trình nghiên cứu, bài viết khác về sự ảnh
hưởng của internet, của các phương tiện truyền thông đại chúng đối với lối sống, hành vi
của giới trẻ. Đơn cử như: “The Impact of Social Media on Children, Adolescents, and
Families” (Tạm dịch: Ảnh hưởng của mạng xã hội đối với trẻ em, thanh thiếu niên và gia
đình) của hai tác giả Gwenn Schurgin O'Keeffe, Kathleen Clarke-Pearson (đăng trên
đã phân tích về thực trạng sử dụng MXH của thanh
thiếu niên Mỹ; “Impact of media use on children and youth” (Tạm dịch: “Tác động của
việc sử dụng phương tiện truyền thông đối với trẻ em và thanh thiếu niên) được đăng trên
đã có những phân tích sâu sắc về sự ảnh hưởng của các

PTTT đại chúng như: tivi, trò chơi điện tử, video âm nhạc, Internet… đối với trẻ em và
thanh thiếu niên; “Effects of Media on Teens: A Look at the Research” (Tạm dịch: Ảnh
hưởng của phương tiện truyền thông đối với giới trẻ: Một góc nhìn nghiên cứu) của hai
tác giả Alison Burkhardt và Daniel White Hodge đăng trên website của trường Đại học


North Park ngày 01/05/2012, trong đó đã chỉ ra rằng, PTTT đại chúng đã đưa ra những
“chỉ số” để những người trẻ định hình cái gì là “bình thường” và “không bình thường”,
củng cố kiến thức, giúp họ nhận thức rõ về bản thân và những người xung quanh mình.
2.2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài tại Việt Nam
Tuy ra đời muộn hơn so với các loại hình báo chí khác nhưng báo điện tử lại nhanh
chóng có được chỗ đứng nhất định, vững vàng trong lòng bạn đọc. Trải qua gần 20 năm
hình thành và phát triển, báo điện tử đã có những đóng góp to lớn cho sự phát triển của
báo chí nói riêng và đời sống xã hội nói chung. Bởi vậy, báo điện tử đã trở thành đề tài
nghiên cứu của rất nhiều người từ học sinh – sinh viên cho đến các cử nhân, thạc sĩ,
nghiên cứu sinh hay các nhà nghiên cứu, các phóng viên, BTV…
Trước hết, về mặt lý luận và những vấn đề cơ bản của báo điện tử như: sự ra đời và
phát triển của báo điện tử, khái niệm và đặc trưng của báo điện tử, phương thức sáng tạo
tác phẩm báo điện tử… phải kể đến các cuốn sách tiêu biểu như:“Báo mạng điện tử
những vấn đề cơ bản” – TS. Nguyễn Thị Trường Giang chủ biên (Nxb Chính trị - Hành
chính, Hà Nội – 2011); “Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo” – TS. Nguyễn Thị Trường
Giang chủ biên (Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội – 2011); “Báo mạng điện tử - Đặc
trưng và phương pháp sáng tạo” – TS. Nguyễn Trí Nhiệm, TS. Nguyễn Thị Trường
Giang đồng chủ biên (Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội – 2014); “Các thủ thuật
làm báo điện tử” do Vũ Kim Hải, Đinh Thuận biên soạn.
Trong cuốn sách “Tác nghiệp báo chí trong môi trường truyền thông hiện đại” –
TS Nguyễn Thành Lợi, Nxb Thông tin và Truyền thông, tháng 06/2014 đã giới thiệu
những nét khái quát nhất về các vấn đề khá mới mẻ đang được nghiên cứu rộng rãi trên
thế giới nhiều năm – nhiều thập kỷ qua như: truyền thông xã hội, các lý thuyết về truyền
thông, hội tụ truyền thông, xu hướng tòa soạn báo hội tụ và những kỹ năng cần thiết trong

viết báo đa phương tiện. Cuốn sách đã khẳng định tầm quan trọng của internet và các
thiết bị truyền thông hiện đại đối với báo chí.
Trong cuốn “Phương tiện truyền thông mới và những thay đổi văn hóa xã hội ở Việt
Nam” – Bùi Hoài Sơn, Nxb Khoa học Xã hội năm 2008 đã khẳng định: “Dù biết rằng,
công nghệ luôn luôn là công nghệ, nó không hoàn toàn tốt cũng không hoàn toàn xấu, mà


chỉ giúp con người trở nên thuận tiện hơn trong cuộc sống hàng ngày, tuy nhiên, các
phương tiện truyền thông mới đã khiến nhân loại lo lắng về một khả năng con người trở
thành nạn nhân của máy móc”. Hay trong cuốn “Ảnh hưởng của internet đối với hành vi
của thanh niên Hà Nội”, Nxb Khoa học Xã hội (2006), tác giả trên có viết: “Trên thực tế,
đối với bất kỳ một công nghệ mới nào, bản chất của công nghệ đều mang tính trung tính.
Việc con người sử dụng nó trong những hoàn cảnh cụ thể và vì những mục đích cụ thể sẽ
quyết định nó có lợi hay có hại đối với bản thân người sử dụng hay lợi ích của toàn bộ xã
hội”. Tuy nhiên, cả hai tài liệu nghiên cứu này mới chỉ đề cập tới sự ảnh hưởng của mạng
internet mà vẫn chưa nói tới báo điện tử hay báo chí đối với lối sống của giới trẻ.
Trong các đề tài nghiên cứu khóa luận, luận văn và luận án tiến sĩ tại Khoa Báo chí
và Truyền thông – Đại học KHXH&NV cũng đã đề cập tới sự ảnh hưởng của báo chí đối
với giới trẻ ở Việt Nam. Cụ thể: “Báo chí với quá trình hình thành nhân cách của học
sinh - sinh viên” (Luận văn thạc sĩ Truyền thông đại chúng của Lại Thị Hải Bình, năm
2006) có chỉ ra rằng, báo chí với chức năng và vai trò định hướng dư luận xã hội đã có sự
tác động tới quá trình hình thành nhân cách của học sinh – sinh viên, nhất là đối với các
loại hình báo chí hiện đại.
“Báo chí với việc rèn luyện đạo đức của sinh viên” (Luận văn thạc sĩ Truyền thông
đại chúng của Trương Thị Tuyên, năm 2008) đã trình bày cơ sở lý luận của báo chí với
việc rèn luyện đạo đức của sinh viên, mối quan hệ giữa báo chí và sinh viên. Tìm hiểu
thực trạng báo chí với việc rèn luyện đạo đức của sinh viên qua hệ thống báo chí cho sinh
viên; nội dung chuyển tải và hình thức thể hiện của của hệ thống báo chí cho sinh viên.
“Công chúng thế hệ Net với các phương tiện truyền thông đại chúng” (Luận văn
thạc sĩ Truyền thông đại chúng của Hoàng Thị Thu Hà, năm 2011) đã chỉ ra được sự ảnh

hưởng của các PTTT hiện đại đối với thế hệ trẻ, những người có khả năng tiếp thu công
nghệ nhanh chóng.
Tuy nhiên, trong các đề tài trên, báo điện tử đóng vai trò như một trong những
PTTT nên luận văn không chỉ ra chi tiết, cũng không có những thông tin mang tính chất
nghiên cứu chuyên về loại hình này đối với giới trẻ hiện nay.


Tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền, đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về báo chí
nói chung và báo điện tử nói riêng, trong đó cũng có nói tới sự ảnh hưởng của chúng đối
với người trẻ. Đơn cử: “Thực trạng tiếp nhận báo mạng điện tử của học sinh phổ thông
trung học ở nội thành Hà Nội hiện nay” – Luận văn Thạc sĩ của Phạm Duy Đức, năm
2013; “Báo mạng điện tử đối với việc phát triển hỗ trợ kỹ năng mềm cho sinh viên Thành
phố Hồ Chí Minh” – Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Minh Châu, năm 2014; “Tương
tác giữa tòa soạn và công chúng báo mạng điện tử (Khảo sát báo Vietnamnet.vn,
VnExpress.net và Tuoitre.com.vn từ 01/2006 đến 01/2011) – Luận văn Thạc sĩ của
Nguyễn Hoàng Quỳnh Hương… Tuy có đề cập tới các vấn đề cơ bản nhất của báo điện
tử và giới trẻ nhưng những luận văn này chưa tập trung đề cập tới sự ảnh hưởng của loại
hình này tới lối sống của giới trẻ Việt Nam hiện nay.
Trong khả năng giới hạn của mình, tác giả luận văn đã cố gắng đọc và tìm hiểu về
các tài liệu nghiên cứu trên, coi đó là những kiến thức bổ sung để làm sáng tỏ những ảnh
hưởng của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu của luận văn hướng tới làm sáng tỏ các lý thuyết về báo điện tử,
nêu bật lên mối quan hệ của loại hình báo chí này đối với lối sống của giới trẻ đặt dưới
góc độ báo chí. Trên cơ sở khảo sát các tờ báo điện tử: /> (để
ngắn gọn, tác giả sẽ gọi tên các báo điện tử trên lần lượt là: VnExpress, Dân Trí,
Vietnamnet, Tuổi Trẻ Online, Thanh niên Online) trong thời gian 6 tháng, luận văn sẽ chỉ
ra thực trạng ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ Việt Nam hiện nay;
đánh giá về vai trò và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng ảnh hưởng của

báo điện tử đối với giới trẻ.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, tác giả luận văn đã thực hiện những nhiệm
vụ như sau:
- Làm rõ một số vấn đề mang tính lý luận liên quan đến đề tài như: khái niệm về báo
điện tử, khái niệm về ảnh hưởng, khái niệm về giới trẻ, khái niệm về lối sống; nội dung về


sự ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ; đồng thời phân tích những ảnh
hưởng của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ hiện nay.
- Khảo sát thực trạng sử dụng và ảnh hưởng của thông tin trên các tờ báo điện tử:
VnExpress, Dân Trí, Vietnamnet, Tuổi Trẻ Online, Thanh niên Online. Từ đó đưa ra
những nhận xét, phân tích, đánh giá về ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối sống của
giới trẻ Việt Nam hiện nay.
- Thông qua kết quả khảo sát thực tế và những nghiên cứu chuyên sâu, luận văn sẽ
đề xuất những giải pháp cho tòa soạn báo điện tử nhằm nâng cao chất lượng thông tin,
nâng cao mức ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ hiện nay, góp phần
vào việc định hướng lối sống tích cực cho giới trẻ.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn xác định đối tượng nghiên cứu chính là những tác động tích cực và tiêu
cực của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt không gian: Tác giả tiến hành khảo sát nội dung tin, bài và phản hồi trên
các tờ báo điện tử: VnExpress, Dân Trí, Vietnamnet, Tuổi Trẻ Online, Thanh niên
Online. Lý do tác giả luận văn lựa chọn các báo này là bởi: Đối với ba trang báo
VnExpress, Dân Trí, Vietnamnet đều là những báo điện tử lớn, chính thống, có lượng độc
giả đông đảo bao gồm cả độc giả trẻ ở cả trong nước và nước ngoài. Đây cũng là những
báo có hàm lượng thông tin cao, thông tin có tính xác thực, uy tín và đáng tin cậy.
Đối với các báo Tuổi Trẻ Online, Thanh niên Online, luận văn tiến hành khảo sát là

bởi đây là hai phiên bản điện tử hoàn hảo, tin cậy của báo in Tuổi Trẻ và Thanh Niên. Cả
hai báo đều có cơ quan chủ quản lần lượt là Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp
Thanh niên Việt Nam, cơ quan có liên quan trực tiếp đến người trẻ.
Như vậy, với sự lựa chọn gồm cả báo điện tử chính thống, phiên bản điện tử hoàn hảo
của báo in, luận văn đã có sự đa dạng trong việc lựa chọn đối tượng khảo sát.
- Về mặt thời gian: Luận văn tiến hành khảo sát trên các báo điện tử VnExpress,
Vietnamnet, Dân Trí, Tuổi Trẻ Online, Thanh Niên Online từ 01/01/2016 – 30/06/2016.


Dù thời gian khảo sát không dài nhưng với số lượng tin bài thường xuyên cập nhật lớn
cũng giúp cho người thực hiện luận văn có cái nhìn toàn diện về sự tác động của báo điện
tử đối với lối sống của giới trẻ Việt Nam hiện nay.
Tác giả cũng tiến hành khảo sát bằng bảng hỏi với những bạn trẻ có độ tuổi từ 15 –
28 tuổi, làm việc ở các lĩnh vực khác nhau như: học sinh – sinh viên, kinh doanh – buôn
bán, nhân viên văn phòng,… để làm rõ sự khác biệt trong sở thích tiếp cận thông tin,
nhận thức, hành vi của họ sau khi tiếp nhận thông tin. Từ đó đi sâu vào nghiên cứu sự tác
động của báo điện tử đối với giới trẻ.
Trong khả năng giới hạn của mình, cũng như điều kiện thời gian và kinh phí không
cho phép, tác giả tập trung khảo sát giới trẻ sinh sống chủ yếu ở thành phố lớn là Hà Nội.
Sở dĩ như vậy là bởi, đây là thành phố hiện đại và phát triển bậc nhất cả nước, tập trung
đông đảo lực lượng lao động đến từ nhiều tỉnh thành. Đây cũng được coi là cái nôi của
văn hóa, có nhịp sống sôi động, trẻ trung và thường xuyên đổi mới.
Mặc dù công nghệ và internet giờ đã trở nên phổ biến, cập nhật đến từng ngõ nhỏ
nhưng để tiếp cận được với báo điện tử thường xuyên, liên tục thì đòi hỏi độc giả phải có
trình độ nhất định và biết về công nghệ thông tin. Do đó, những người trẻ tuổi sinh sống
và làm việc tại các thành phố lớn sẽ đáp ứng được tiêu chí này nhiều hơn so với những
người trẻ ở khu vực khác.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn đã dựa trên cơ sở lý luận:

- Nền tảng lý luận: Chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về báo chí, truyền thông.
- Lý luận báo chí, lý luận truyền thông.
5.2. Phương pháp cụ thể
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp: Phân tích thông tin từ nguồn tài liệu sẵn
có (bao gồm các cuốn sách, tài liệu tham khảo; sử dụng các nguồn tài liệu do tòa soạn
báo cung cấp. Vận dụng để khái quát hóa và lý thuyết hóa các vấn đề đơn lẻ khảo sát
được.


- Phương pháp phân tích nội dung văn bản trong nghiên cứu báo chí – truyền
thông: Luận văn xem xét có hệ thống các tài liệu dưới dạng văn bản viết như: các quy
định, Nghị định, Thông tư, kế hoạch, báo cáo… để lấy thông tin và số liệu cho quá trình
viết luận văn. Bên cạnh đó, tác giả cũng phân tích nội dung tin, bài trên các báo điện tử
khảo sát: VnExpress, Dân Trí, Vietnamnet, Tuổi Trẻ Online, Thanh niên Online. Dựa vào
kết quả thu được, tác giả đã tiến hành phân tích, đánh giá, tổng kết những kết quả nghiên
cứu, từ đó đưa ra những luận cứ, luận điểm giúp hoàn thiện vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn trực tiếp lãnh đạo tòa soạn, phóng viên
chuyên phụ trách chuyên mục dành cho giới trẻ của một số báo điện tử, chuyên gia văn
hóa, học sinh THPT về thực trạng ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ
Việt Nam hiện nay.
- Phương pháp định lượng: Thông qua việc lập bảng hỏi và khảo sát đối tượng là
giới trẻ về việc đọc báo điện tử hàng ngày, về cách thức tiếp cận và xử lý thông tin của
giới trẻ trên báo điện tử. Từ đó, đề tài xác định được phương hướng giải quyết các vấn đề
nghiên cứu.
5.3. Khung phân tích luận văn
Từ những phương pháp nghiên cứu như trên, tác giả luận văn đã tự xây dựng cho
mình một khung phân tích luận văn theo mô hình như sau:



Theo khung phân tích này, báo điện tử đóng vai trò là nơi tạo ra thông tin (nguồn)
về các lĩnh vực trong cuộc sống. Những thông tin này tiếp cận với giới trẻ thông qua các
PTTT đại chúng, giới trẻ cũng tiếp cận thông tin trên báo điện tử dưới nhiều hình thức
khác nhau và cũng xử lý thông tin theo cách riêng của mình. Những thông tin trên báo
điện tử, gián tiếp hoặc trực tiếp tác động đến nhận thức của giới trẻ. Chính những nhận
thức này là yếu tố tạo nên lối sống cho giới trẻ, được thể hiện qua: Cách thức tiếp nhận
thông tin, cách thức thể hiện bản thân, cách thức học tập và làm việc, cách thức giải trí và
thói quen sinh hoạt hàng ngày.
Khung phân tích luận văn là cái nhìn tổng quan nhất về sự ảnh hưởng của báo điện
tử đối với lối sống của giới trẻ. Khung phân tích này sẽ được diễn giải chi tiết trong các
chương của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận của đề tài


Đề tài làm rõ những khái niệm và vấn đề lý luận liên quan đến việc sự ảnh hưởng
của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ Việt Nam hiện nay. Đồng thời, đề tài cũng
góp phần đưa ra những giải pháp, cách thức cụ thể nhằm nâng cao sự ảnh hưởng tích cực
của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Về mă ̣t thực tiễn , luận văn đem đế n cái nhin
̀ sơ lươ ̣c về th ực trạng ảnh hưởng của
báo điện tử bao gồm cả ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp, ảnh hưởng tích cực và tiêu cực
đối với lối sống của giới trẻ Việt Nam hiện nay. Từ đó, những người làm báo điện tử, đặc
biệt là những phóng viên, BTV chuyên về những chuyên mục dành cho giới trẻ sẽ thấy
được ưu và nhược điểm của những thông tin khi đưa lên báo. Luận văn cũng đưa ra
những giải pháp cụ thể trong việc truyền tải, tiếp nhận và quản lý thông tin trên báo điện
tử nhìn từ nhiều khía cạnh khác nhau.
Ngoài ra, luận văn là tài liệu tham khảo phục vụ cho sinh viên báo chí, đặc biệt là
sinh viên chuyên ngành báo điện tử; phóng viên, BTV báo điện tử và những người quan

tâm tới lĩnh vực này. Đồng thời, nghiên cứu cũng sẽ hữu ích đối với những cơ quan báo
điện tử muốn tham khảo về sự ảnh hưởng của thông tin trên báo điện tử tới công chúng
của mình.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo và phụ lục thì luận văn
gồm có 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và tổng quan về báo điện tử ở Việt Nam
Chƣơng 2: Thực trạng ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ Việt
Nam hiện nay
Chƣơng 3: Xu hướng phát triển và giải pháp phát huy vai trò tích cực của báo điện
tử trong việc xây dựng lối sống của giới trẻ hiện nay


CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ BÁO ĐIỆN TỬ Ở VIỆT
NAM
1.1. Một số khái niệm công cụ liên quan đến luận văn
1.1.1. Khái niệm báo điện tử
Báo điện tử là một loại hình báo chí ra đời muộn hơn báo in, phát thanh và truyền
hình. Trước đây, khi một sự kiện xảy ra thì “phát thanh đưa tin, truyền hình minh họa,
báo in phân tích và giải thích”. Nhưng giờ đây, báo điện tử có thể đảm đương nhiệm vụ
của cả phát thanh, truyền hình lẫn báo in một cách dễ dàng. Bản thân nó mang trong mình
sức mạnh của PTTT đại chúng truyền thống, cùng kết hợp với mạng internet nên có
nhiều ưu điểm vượt trội, trở thành kênh truyền thông vô cùng hiệu quả, đặt các PTTT đại
chúng vào cuộc đua quyết liệt.
Báo điện tử có ưu thế ở khả năng tương tác qua lại giữa tờ báo và công chúng, giữa
công chúng với công chúng, tạo điều kiện thuận lợi thiết lập các diễn đàn báo chí; báo
điện tử còn có ưu thế về khả năng đa phương tiện, tính thời sự, khả năng lưu giữ, tìm
kiếm và truy xuất thông tin nhanh chóng, dễ dàng.
Sự ra đời và phát triển của internet đã tạo tiền đề cho sự ra đời và phát triển của báo
điện tử. Được ra đời vào những năm 90 của thế kỷ XX, từ tờ điện tử đầu tiên là Chicago

Tribune ra đời vào tháng 5/1992 báo điện tử đã có sự phát triển một cách chóng mặt khi
chỉ 8 năm sau đó (đầu năm 2000) trên thế giới đã thống kê được con số lên tới 8.474 tờ
báo điện tử. Bắt đầu từ năm 2000 trở đi, các hãng thông tấn lớn trên thế giới như: AFP,
Reuter… các đài truyền hình như: CNN, NBC… các tờ báo như New York Times,
Washington Post... đều có tờ báo điện tử của mình và coi đó là phương tiện để phát triển
thêm công chúng báo chí.
Tại Việt Nam, chỉ một tháng sau khi Việt Nam nối mạng internet, ngày 31/12/1997,
tạp chí Quê hương có địa chỉ: đã trở thành tờ báo điện tử đầu
tiên ở nước ta. Sự kiện này có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đánh dấu sự ra đời của báo
điện tử tại Việt Nam, từ đó đến nay, số lượng báo điện tử tại nước ta đã có sự phát triển
mạnh mẽ.
Trên thế giới và ở Việt Nam đang tồn tại rất nhiều cách gọi khác nhau đối với loại
hình báo chí này: Báo điện tử (Electronic Journal), báo trực tuyến (Online Newspaper),


báo mạng (Cyber Newspaper), báo chí internet (Internet Newspaper) và báo mạng điện
tử.
Báo điện tử là khái niệm thông dụng nhất hiện nay, nó gắn liền với tên gọi của
nhiều tờ báo điện tử thuộc cơ quan báo in như: Quê Hương điện tử, Nhân Dân điện tử,
Lao Động điện tử... Ngay trong các văn bản pháp quy của Nhà nước cũng sử dụng thuật
ngữ “báo điện tử”.
Trong nghị định 55/2001/NĐ-CP ngày 23/08/2001 của Chính phủ về Quản lý và
cung cấp dịch vụ internet, ở Điều 12 có ghi: Dịch vụ thông tin trên internet là một loại
hình dịch vụ ứng dụng internet, bao gồm dịch vụ phát hành báo chí (báo in, báo hình, báo
điện tử), phát hành xuất bản phẩm trên internet và dịch vụ cung cấp các loại hình điện tử
khác trên internet.
Trong Điều 3, Chương 1 của Luật số 12/1999/QH10 ngày 12/06/1999 về Sửa đổi bổ
sung một số điều của Luật Báo chí được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam thông qua ngày 28/12/1989 cũng có ghi thuật ngữ “báo điện tử (được thực hiện trên
mạng thông tin máy tính) bằng tiếng Việt, tiếng các dân tộc thiểu số Việt Nam, tiếng

nước ngoài” để chỉ loại hình báo chí này.
Báo điện tử là loại hình báo chí được xây dựng dưới hình thức một trang web và
phát hành dựa trên nền tảng internet. Báo điện tử được xuất bản bởi tòa soạn điện tử, còn
người đọc báo dựa trên máy tính, điện thoại di động, máy tính bảng... có kết nối internet.
Khác với báo in, tin tức trên báo điện tử được cập nhật thường xuyên, tin ngắn và thông
tin từ nhiều nguồn khác nhau. Nó cũng khác so với trang thông tin điện tử về tần suất cập
nhật. Báo điện tử cho phép mọi người trên khắp thế giới tiếp cận tin tức nhanh chóng
không phụ thuộc vào không gian và thời gian, sự phát triển của báo điện tử đã làm thay
đổi thói quen đọc tin và ít nhiều có ảnh hưởng đến việc phát triển báo giấy truyền thống.
Trong phạm vi giới hạn của đề tài cũng như khả năng của tác giả, luận văn sử dụng
khái niệm báo điện tử được dẫn theo khái niệm của TS. Nguyễn Thị Trường Giang (Báo
mạng điện tử - Những vấn đề cơ bản): “Báo điện tử là một loại hình báo chí được xây
dựng dưới hình thức của một trang web và phát hành trên mạng internet” [7, tr. 53].
1.1.2. Khái niệm giới trẻ


Giới trẻ Việt Nam hiện nay đã và đang nhận được sự quan tâm của toàn xã hội. Họ
là những người sẽ kế cận và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Lịch sử dân tộc đã
chứng minh, ở bất cứ thời đại nào, giới trẻ - thanh niên cũng là lực lượng “đứng mũi chịu
sào” trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Do có những nét đặc thù về tâm sinh lý nên giới trẻ được coi là lực lượng nhạy cảm
và năng động trong xã hội hiện đại. Tuổi trẻ chính là giai đoạn đẹp nhất của cuộc đời với
mong muốn được cống hiến, sáng tạo nhưng cũng là lúc dễ bị lôi kéo và cám dỗ nhất.
“Giới trẻ” là cụm từ không hề mới mẻ và xa lạ. Tùy thuộc vào lĩnh vực nghiên cứu
mà có thể đưa ra những định nghĩa khác nhau về giới trẻ.
Về phương diện sinh học: Người trẻ là người nằm trong lứa độ trẻ, từ thiếu niên
(dưới 15 tuổi) đến tuổi bầu cử (trên 18 tuổi). Giới trẻ là một cộng đồng gồm những người
trẻ.
Về phương diện văn hóa, xã hội: Giới trẻ là những người mà nhận thức không còn
ấu trĩ con trẻ nữa nhưng cũng chưa đủ chín muồi của một người trưởng thành, chín muồi

về mọi phương diện. Người trẻ là người đang trong phát triển, hoàn thiện để có một nhận
thức viên mãn và tương thích với đại đa số trong cộng đồng.
Trong Từ điển Di sản Hoa Kỳ và Bách khoa toàn thư Britannica cũng đã đưa ra
định nghĩa, người trẻ là người nằm trong độ tuổi chuyển giao phát triển sinh lý và tâm lý,
thể chất và tinh thần, tiến trình diễn ra giữa thời kỳ thiếu niên và người trưởng thành
(người lớn). Quá trình chuyển giao này liên quan đến thay đổi về phương diện sinh học
(ví dụ như dậy thì), xã hội và tâm lý, trong đó những thay đổi về sinh lý và tâm lý thường
dễ nhận thấy hơn.
Từ điển Oxford lại giải thích, thời điểm kết thúc độ tuổi “trẻ” và bắt đầu trở thành
“người lớn” được quy ước ở mỗi nước một khác thậm chí khác nhau ở ngay trong một
quốc gia, căn cứ vào các quyền công dân và quyền con người. Cách xác định một người
còn “trẻ” hay “trưởng thành” thông qua việc xác định đủ tuổi cho một quyền gì đó cụ thể
chẳng hạn như có chứng minh thư nhân dân, có bằng lái xe, có quyền quan hệ tình dục,
nhập ngũ, bầu cử, hay lập gia đình.
Theo UNESCO (phương diện văn hoá - xã hội), “người trẻ” nên được hiểu là những
người thuộc giai đoạn chuyển giao từ sự phụ thuộc của trẻ em đến sự độc lập của người


lớn và nhận thức về sự tương thuộc (phụ thuộc lẫn nhau) giữa các thành viên trong một
cộng đồng. Người trẻ hay tuổi trẻ là một phạm trù tương đối, linh hoạt hơn là chiếu theo
độ tuổi cố định. UNESCO không có một độ tuổi cố định để xác định “giới trẻ” mà tuỳ
vào bối cảnh, lĩnh vực và phạm vi.
Trong khi Hiến chương Thanh niên châu Phi (AYC) cho rằng “người trẻ” là những
người thuộc độ tuổi từ 15 đến 35 thì Liên Hợp Quốc (UN) xác định “giới trẻ” là những
người thuộc độ tuổi từ 15 - 24. Tất cả các báo cáo, thống kê của Liên Hợp Quốc đều căn
cứ vào định nghĩa này, chẳng hạn như sách trắng của Liên Hợp Quốc về dân số, giáo dục,
việc làm và y tế.
Theo điều I, Luật Thanh niên quy định: Thanh niên là công dân Việt Nam đủ mười
sáu tuổi đến ba mươi tuổi [32, tr. 1].
Theo từ điển tiếng Việt “Thanh niên là người còn trẻ, đang ở độ tuổi trưởng thành”

[29, tr. 1029]. Khái niệm này bao hàm: Thanh niên là người có độ tuổi còn trẻ và độ tuổi
đó đang trưởng thành. Khái niệm này hoàn toàn được hiểu theo lứa tuổi.
Trong cuốn sách Quản lý Nhà nước về công tác thanh niên trong thời kỳ mới, đồng
chí Vũ Trọng Kim đã đưa ra khái niệm thanh niên như sau: “Thanh niên là một nhóm
nhân khẩu - xã hội đặc thù bao gồm những người trong một độ tuổi nhất định, có quan
hệ gắn bó mật thiết với mọi giai cấp, tầng lớp xã hội, có mặt trong mọi lĩnh vực hoạt
động xã hội, có vai trò lớn trong hiện tại và giữ vai trò quyết định sự phát triển trong
tương lai của xã hội” [30, tr. 14].
Từ những khái niệm trên, trong phạm vi khả năng của mình, tác giả luận văn đưa ra
khái niệm về giới trẻ như sau: Giới trẻ là những người ở độ tuổi từ 16 – 30 tuổi, có những
đặc điểm tâm sinh lý khác biệt, có tâm tư, nguyện vọng và hoài bão theo lứa tuổi và theo
giới tính. Giới trẻ Việt Nam có mặt trên khắp đất nước, trong các giai cấp và tầng lớp xã
hội, thuộc các ngành nghề khác nhau như: học sinh – sinh viên, lực lượng vũ trang, công
nhân, nông dân, văn nghệ sĩ… Giới trẻ Việt Nam là những người có vai trò quan trọng
trong sự phát triển của xã hội và đất nước.


Với đề tài nghiên cứu “Ảnh hưởng của báo điện tử đối với lối sống của giới trẻ Việt
Nam hiện nay”, trong khả năng giới hạn của mình, tác giả luận văn muốn đề cập tới “giới
trẻ” là những bạn trẻ công dân Việt Nam, có độ tuổi từ 16 – 28 tuổi.
Vậy giới trẻ có đặc điểm tâm sinh lý và thể chất nhƣ thế nào?
Trong cuốn “PR – công cụ phát triển của báo chí” (Nxb Trẻ), PGS. TS Đỗ Thị Thu
Hằng đã nhận định: “Ở độ tuổi này cho phép thanh niên có thể đảm nhận được mọi công
việc trong hoạt động học tập, lao động và giao tiếp xã hội... Tuy nhiên, với độ tuổi trên
dưới 20, do sự hưng phấn cường độ cao của hệ thần kinh cộng với sức mạnh thể chất
đang trên đà phát triển nên thanh niên độ tuổi này còn có biểu hiện hưng phấn nhiều hơn
ức chế, dẫn đến đặc điểm tâm lý sôi nổi, nhiệt tình nhưng có pha chút bồng bột, dễ bắt
chước, dễ kích động và dễ ngộ nhận...
Nhân cách của thanh niên đang trong giai đoạn hoàn thiện và định hình, rõ nét
nhất là hệ thống thái độ và định hướng giá trị, từ đó hình thành thế giới quan, nhân sinh

quan, niềm tin và lý tưởng. Tình cảm, trách nhiệm và nghĩa vụ công dân của thanh niên
có bước chuyển biến mới. So với tuổi thiếu niên, nhận thức chính trị - xã hội của thanh
niên, sự định hình và hoàn thiện các thuộc tính nhân cách diễn ra với tốc độ nhanh,
cường độ mạnh, cùng với sự tác động của cảm xúc có phân cực rõ ràng. Khả năng chịu
sự tác động của bên ngoài một cách nhanh nhạy, có thẩm định và tự điều chỉnh, khả
năng thích ứng xã hội cao, nếu có hướng dẫn đúng” [14, tr. 209].
Với những đặc điểm tâm sinh lý đang trong giai đoạn hình và phát triển, giới trẻ
đang đối mặt với nhiều nguy cơ và thách thức. Bởi vậy, việc chăm lo giáo dục đạo đức,
tư tưởng và lối sống cho giới trẻ là vô cùng cấp thiết, cần được chú trọng quan tâm.
Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn trong Di chúc: “Đảng cần phải chăm lo
giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên, đào tạo họ trở thành những người kế thừa
xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho
đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.
1.1.3. Khái niệm lối sống
Lố i số ng (đa ̣o đức và chuẩ n giá tri ̣xã hô ̣i ) là những yếu tố cơ bản trong đời sống xã
hô ̣i của mỗi con người và mỗi nề n văn hóa . Chúng gắn liền với các cơ sở kinh tế , chính
trị, tư tưởng và mo ̣i mă ̣t của đời số ng vâ ̣t chấ t , tinh thầ n của toàn xã hô ̣i. Mỗi xã hô ̣i trong


từng thời kỳ lich
̣ sử nhấ t đinh,
̣ đều có lối sống, đa ̣o đức cũng như các thước đo giá tri ̣quy
đinh
̣ trâ ̣t tự và sự phát triể n ổ n đinh
̣ cho cả cô ̣ng đồ ng , đồ ng thời chi phố i các mố i quan
hê ̣ giữa người này với người khác , giữa nhóm xã hô ̣i này với nhóm xã hô ̣i khác , giữa mỗi
con người với toàn thể đời số ng xã hô ̣i.
Ở một bình diện chung nhất, lối sống là một phạm trù thuộc lĩnh vực văn hóa. Khi
nói về phạm trù “lối sống”, có rất nhiều quan niệm khác nhau do cách tiếp cận khác
nhau.

Tâm lý học coi các yếu tố khí chất, tính cách, nhân cách là thuộc tính cơ bản của lối
sống. Vì thế, khi nói “tính cách người Anh”, “tính cách người Việt” thì điều đó có nghĩa
kiểu hành vi, kiểu ứng xử, kiểu suy nghĩ và cách biểu hiện cảm xúc, tình cảm này là đã
mang tính chất đặc trưng cho mỗi nhóm xã hội và cả cộng đồng người đó rồi.
Nhân học, dân tộc học nhấn mạnh đến yếu tố văn hóa của lối sống. Chính vì thế
theo cách tiếp cận này, mỗi dân tộc cụ thể đều có một lối sống đặc trưng bởi hệ giá trị,
chuẩn mực, phong tục tập quán, truyền thống, thói quen thể hiện qua cách ăn, mặc, lao
động, nghỉ ngơi, sinh hoạt, ứng xử và giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày. Mỗi lối sống
chứa đựng bản sắc văn hóa của dân tộc, nhờ vậy có thể nhận diện và phân biệt được
người dân tộc này với người dân tộc khác.
Xã hội học thì lại cho rằng, lối sống là một phạm trù xã hội học dùng để chỉ kiểu
hành vi, kiểu quan hệ xã hội tương ứng với vị thế - vai trò và cấu trúc xã hội nhất định.
Lối sống qui định đặc điểm của tư duy, cách giao tiếp, ứng xử của con người trong các
lĩnh vực lao động sản xuất, văn hóa xã hội, chính trị tư tưởng và đời sống sinh hoạt hàng
ngày. Nhưng bản thân lối sống lại bị qui định bởi cấu trúc xã hội, phân tầng xã hội và hệ
thống xã hội. Theo từ điển tóm tắt xã hội học (Liên Xô cũ): lối sống là những hình thức
hoạt động sống (cá nhân, nhóm, tầng lớp) điển hình với những quan hệ xã hội cụ thể
trong lịch sử.
Từ phạm vi rộng lớn ấy, có thể thấy: Lối sống là một thói quen có định hướng, có
chất lượng lý tưởng. Nó là cách thể hiện tổng hợp tất cả các cấu trúc, nền văn hóa, đặc
trưng văn hóa của một người hay một cộng đồng, là một yếu tố xã hội. Nó là tiêu chí
đầu tiên, tổng hợp nhất thể hiện chất lượng văn hóa và trí tuệ của con người.


Như vậy, lối sống là một phạm trù xã hội khái quát toàn bộ hoạt động sống của các
dân tộc, các giai cấp các nhóm xã hội, các cá nhân trong những điều kiện của một hình
thái kinh tế xã hội nhất định và biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống: trong lao động
và hưởng thụ, trong quan hệ giữa người với người, trong sinh hoạt tinh thần và văn hóa.
Lối sống là phức hợp những mẫu hình nhận thức và hành động biểu hiện như sự lặp lại,
phổ biến, ổn định dưới dạng thức hoạt động đặc trưng cho một dân tộc, một quốc gia,

một giai cấp, một tập đoàn xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
Ở đây, những chuẩn mực, giá trị, những truyền thống, tập quán có vai trò hết sức
lớn đến phương thức hoạt động, tu duy cách ứng xử của người ta trong xã hội. Tất cả tạo
thành cơ sở của khuôn mẫu hành vi của mỗi người, mỗi nhóm và tập đoàn người khác
nhau trong xã hội. Nói cách khác, lối sống là tổng thể các nét căn bản đặc trưng cho hoạt
động của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội trong những điều kiện xã hội nhất
định về mặt lịch sử. Nó là những cách thức, phép tắc tổ chức và điều khiển đời sống cá
nhân, cộng đồng đã được thừa nhận rộng rãi và trở thành thói quen.
Từ những khái niệm khác nhau như trên có thể đưa ra một khái niệm chung tổng
quát như sau: Lối sống là tổng hợp toàn bộ các mô hình, cách thức và phong cách sống
của con người thể hiện trong mọi phương thức cũng như lĩnh vực hoạt động, từ sản xuất,
tiêu dùng, sinh hoạt đến thái độ, hành vi, cách tư duy, lối ứng xử giữa con người với con
người, giữa chủ thể với đối tượng, giữa điều kiện với phương tiện và mục đích sống.
Trong lối sống tổng hoà những nét cơ bản, khắc hoạ những đặc điểm cuộc sống của các
cá nhân, các nhóm người, của giai cấp, dân tộc trong một xã hội nhất định. [28, tr. 2324].
Một số nhận biết về tiêu chí lối sống:
Lối sống thể hiện văn minh nhân loại và truyền thống văn hóa của một dân tộc, cả
các giá trị phổ quát và cả các giá trị phù hợp với điều kiện lịch sử của từng DANH
MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Thị Hải Bình (2006), Báo chí với quá trình hình thành nhân cách của học
sinh – sinh viên, Luận văn thạc sĩ, Khoa Báo chí và Truyền thông – Đại học KHXH&NV,
Đại học Quốc gia Hà Nội.


2. Nguyễn Thị Minh Châu (2014), Báo mạng điện tử đối với việc hỗ trợ phát triển
kỹ năng mềm cho sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Báo chí
và Tuyên truyền.
3. Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (2001), Xã hội học, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội.
4. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2005), Chỉ thị số 52 CT/TW về Phát triển và

Quản lý báo điện tử.
5. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2015), Nghị quyết Hội nghị lần thứ IX về
Xây dựng và Phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước.
6. Phạm Duy Đức (2013), Thực trạng tiếp nhận báo mạng điện tử của học sinh
phổ thông trung học ở nội thành Hà Nội hiện nay, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền.
7. PGS.TS Phạm Duy Đức (2015), Quan điểm của Đảng, Nhà nước về phát triển
văn hóa, xây dựng con người trong giai đoạn mới, bài đăng trên Tạp chí Đảng Cộng sản,
số 9 năm 2015.
8. Fred S.Siebert, Theodore Peterson, Wilbur Schramm (2014), Lê Ngọc Sơn
(dịch), Bốn học thuyết truyền thông, Nxb Tri thức.
9. Nguyễn Thị Trường Giang (2011), Báo mạng điện tử - Những vấn đề cơ bản,
Nxb Chính trị Hành chính, Hà Nội.
10. Nguyễn Thị Trường Giang (2011), Đạo đức nhà báo, Nxb Chính trị Hành chính.
11. Nguyễn Thị Trường Giang (2014), Tổ chức diễn đàn trên báo mạng điện tử,
Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
12. Hoàng Thị Thu Hà (2011) Công chúng thế hệ Net với các Phương tiện truyền
thông đại chúng, Luận văn thạc sĩ, Khoa Báo chí và Truyền thông – Đại học
KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội.
13. Nguyễn Văn Hà (2012), Giáo trình Cơ sở lý luận báo chí, Nxb Đại học Quốc
gia TP.HCM.


×