Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Chân dung con người việt nam trên báo in hiện nay (khảo sát tin, bài về người tốt, việc tốt trên các báo tuổi trẻ, lao động, đại đoàn kết năm 2014 đến hết tháng 3 2015)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (882.59 KB, 34 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------------------

TRƯƠNG THỊ YẾN

CHÂN DUNG CON NGƯỜI VIỆT NAM
TRÊN BÁO IN HIỆN NAY
(Khảo sát tin, bài về người tốt, việc tốt trên các báo
Tuổi trẻ, Lao động, Đại đoàn kết năm 2014 đến hết tháng 3/2015)

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60 32 01 01

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Linh Khiếu

Hà Nội - 2016


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................6
Chƣơng 1: CHÂN DUNG CON NGƢỜI VIỆT NAM TRÊN BÁO IN – NHỮNG
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN .................................................................................13
1.1. Một số khái niệm ..................................................................................... 13
1.1.1. Báo in ......................................................................................................13
1.1.2. Chân dung con ngƣời..............................................................................15
1.1.3. Ngƣời tốt, việc tốt ...................................................................................16
1.2. Vai trò của báo chí trong tuyên truyền về ngƣời tốt, việc tốt .................. 19
1.3. Một số tiêu chí của ngƣời tốt, việc tốt trên báo chí hiện nay .................. 23
1.3.1. Tiêu chí ngƣời tốt, việc tốt .....................................................................23
1.3.2. Tiêu chí ngƣời tốt, việc tốt trên báo chí . Error! Bookmark not defined.


Tiểu kết chƣơng 1 ........................................... Error! Bookmark not defined.
Chƣơng 2: CHÂN DUNG CON NGƢỜI VIỆT NAM TRÊN BÁO TUỔI TRẺ,
LAO ĐỘNG, ĐẠI ĐOÀN KẾT................................ Error! Bookmark not defined.
2.1. Giới thiệu về các tờ báo lựa chọn khảo sátError! Bookmark not defined.
2.1.1. Báo Tuổi trẻ ............................................ Error! Bookmark not defined.
2.1.2. Báo Lao động ......................................... Error! Bookmark not defined.
2.1.3. Báo Đại đoàn kết .................................... Error! Bookmark not defined.
2.2. Thực trạng các tác phẩm về chân dung con ngƣời trên báo in ......... Error!
Bookmark not defined.
2.2.1. Số lƣợng và tần suất ............................... Error! Bookmark not defined.
2.2.2. Nội dung ................................................. Error! Bookmark not defined.
2.2.3. Hình thức ................................................ Error! Bookmark not defined.
2.3. Đánh giá thực trạng tuyên truyền về chân dung con ngƣời trên báo in Error!
Bookmark not defined.
2.3.1. Ƣu điểm .................................................. Error! Bookmark not defined.
2.3.2. Hạn chế ................................................... Error! Bookmark not defined.


Tiểu kết chƣơng 2 ........................................... Error! Bookmark not defined.
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG, HIỆU
QUẢ TUYÊN TRUYỀN CHÂN DUNG CON NGƢỜI TRÊN BÁO IN........ Error!
Bookmark not defined.
3.1. Giải pháp về nhận thức ............................ Error! Bookmark not defined.
3.2. Giải pháp từ cơ quan báo chí ................... Error! Bookmark not defined.

3.2.1. Tăng cƣờng sự xuất hiện của bài viết về ngƣời tốt, việc tốtError! Bookmark not de
3.2.2. Đổi mới hình thức trình bày ................... Error! Bookmark not defined.
3.2.3. Nâng cao hiệu quả của ảnh minh họa ..... Error! Bookmark not defined.
3.3. Giải pháp với nhà báo .............................. Error! Bookmark not defined.
3.3.1. Nâng cao kiến thức, năng lực và vốn sốngError! Bookmark not defined.

3.3.2. Rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ ................. Error! Bookmark not defined.

3.3.3. Trau dồi đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm xã hội của nhà báoError! Bookmark
3.4. Một số kiến nghị ...................................... Error! Bookmark not defined.
3.4.1. Với các cơ quan lãnh đạo, quản lý báo chíError! Bookmark not defined.
3.4.2. Đối với cơ quan báo chí.......................... Error! Bookmark not defined.
3.4.3. Đối với Hội Nhà báo Việt Nam .............. Error! Bookmark not defined.
Tiểu kết chƣơng 3 ........................................... Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN ............................................................... Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................29
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNH

: Công nghiệp hóa

CNXH : Chủ nghĩa xã hội
HĐH

: Hiện đại hóa

HTX

: Hợp tác xã

NTVT


: Ngƣời tốt, việc tốt

NXB

: Nhà xuất bản

TNCS

: Thanh niên Cộng sản

TP

: Thành phố

XHCN : Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Tần suất xuất hiện các tin, bài về ngƣời tốt, việc tốt trên báo inError! Bookmark no
Bảng 2.2: Mức độ đánh giá của độc giả về tiêu chí yêu nƣớc của ngƣời tốt,
việc tốt thể hiện trên báo in..................... Error! Bookmark not defined.
Bảng 2.3: Mức độ đánh giá của độc giả về tiêu chí nhân ái, nghĩa tình của
ngƣời tốt, việc tốt thể hiện trên báo in .... Error! Bookmark not defined.
Bảng 2.4: Mức độ đánh giá của độc giả về tiêu chí đoàn kết, vì cộng đồng của
ngƣời tốt, việc tốt thể hiện trên báo in .... Error! Bookmark not defined.
Bảng 2.5: Mức độ đánh giá của độc giả về tiêu chí lao động giỏi, cần cù, sáng
tạo của ngƣời tốt, việc tốt thể hiện trên báo inError! Bookmark not defined.
Bảng 2.6: Mức độ đánh giá của độc giả về tiêu chí tài năng, trí tuệ, dám nghĩ
dám làm của ngƣời tốt, việc tốt thể hiện trên báo inError! Bookmark not defined.

Bảng 2.7: Mức độ đánh giá của độc giả về tiêu chí nghị lực vƣợt lên số phận
của ngƣời tốt, việc tốt thể hiện trên báo inError! Bookmark not defined.
Bảng 2.8: Mức độ đánh giá của độc giả về tiêu chí dũng cảm, bản lĩnh của
ngƣời tốt, việc tốt thể hiện trên báo in .... Error! Bookmark not defined.


DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ các nội dung tuyên truyền về ngƣời tốt, việc tốt trên báo inError! Bookmar
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu các thể loại báo chí đƣợc sử dụng trong tuyên truyền về
ngƣời tốt, việc tốt trên báo in .............. Error! Bookmark not defined.
Biểu đồ 2.3: Tỷ lệ sử dụng ảnh minh họa trong các tin, bài về ngƣời tốt, việc
tốt trên báo in ...................................... Error! Bookmark not defined.


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong sự nghiệp đổi mới đất nƣớc hiện nay, con ngƣời đƣợc coi là nhân tố quan
trọng hàng đầu để thực hiện nhiệm vụ CNH, HĐH đất nƣớc vì mục tiêu dân giàu, nƣớc
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Bởi vậy việc đào tạo, xây dựng nhân tố con ngƣời
đƣợc xác định là nhiệm vụ quan trọng của Đảng, Nhà nƣớc ta. Vấn đề đặt ra là cần xác
định rõ những chuẩn mực của con ngƣời Việt Nam hiện nay, đâu là chân dung con ngƣời
cần hƣớng tới xây dựng, phát triển?
Viết về con ngƣời là đề tài sinh động và giàu sức sống của báo chí. Chân dung con
ngƣời trên báo chí cũng đƣợc phản ánh đa dạng ở nhiều khía cạnh, góc nhìn khác nhau.
Dù ở khía cạnh nào, thì con ngƣời khi xuất hiện trên báo chí đều có sự ảnh hƣởng nhất
định đến con ngƣời trong xã hội. Điều này đặt ra yêu cầu với báo chí, đó là làm thế nào
để những ảnh hƣởng đó có tác dụng tích cực, góp phần vào mục tiêu xây dựng con ngƣời
mới đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nƣớc. Muốn vậy, thì con ngƣời xuất hiện
trên báo chí phải là những con ngƣời có “đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực

làm việc” nhƣ Đảng ta xác định trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định “Đào tạo con người là vấn đề
chiến lược, phong trào“người tốt, việc tốt” chính là một biện pháp quan trọng của chiến
lược đào tạo con người đó” [51, tr.387]. Ngƣời cũng cho rằng: Những gƣơng ngƣời tốt,
làm việc tốt muôn hình muôn vẻ là vật liệu quý để xây dựng con ngƣời. Nhƣ vậy, có thể
khẳng định ngƣời tốt, việc tốt (NTVT) có vai trò quan trọng trong việc xây dựng, phát
triển con ngƣời; là đại diện cho những yếu tố tiêu biểu, tích cực của con ngƣời cần đƣợc
nhân rộng, lan tỏa trong xã hội.
Cùng với việc coi trọng vai trò của gƣơng NTVT, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng xác
định tầm quan trọng của việc tuyên truyền rộng rãi những tấm gƣơng đó trên báo chí. Từ
năm 1954, Ngƣời đã yêu cầu báo Đảng và báo của các đoàn thể mở ra chuyên mục
“Ngƣời tốt việc tốt” để tuyên truyền rộng rãi gƣơng tốt trong quần chúng nhân dân.
Ngƣời cho rằng “Lấy gương ngươi tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một
trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng
con người mới, cuộc sống mới” [32, tr. 558]. Tiếp thu tƣ tƣởng của Ngƣời, trong Luật
Báo chí nƣớc ta cũng quy định rõ một trong những nhiệm vụ của báo chí là: “Phát hiện,
nêu gương người tốt, việc tốt, nhân tố mới; đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm
pháp luật và các hiện tượng tiêu cực xã hội khác”. Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc thực
hiện nhiệm vụ này của báo chí thời gian qua còn nhiều hạn chế. Báo chí dƣờng nhƣ đang
tập trung quá nhiều vào việc khai thác các thông tin tiêu cực, thậm chí cả thông tin xấu
6


mà thiếu vắng hình ảnh những tấm gƣơng tốt của con ngƣời. Trong báo cáo công tác báo
chí hàng năm của Hội Nhà báo Việt Nam những năm gần đây cũng đã gọi tên rõ những
hạn chế của báo chí, đó là tình trạng xa rời tôn chỉ mục đích, thiên về khai thác mặt trái,
giật gân, hình ảnh phản cảm nhằm câu khách vì mục tiêu kinh tế; thiếu thông tin phản
ánh tích cực, gƣơng NTVT. Trƣớc thực tế đó, việc tuyên truyền về NTVT trên báo chí
nói chung, báo in nói riêng càng trở nên quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết.
Với những vấn đề đặt ra nhƣ trên, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu “Chân

dung con người Việt Nam trên báo in hiện nay” thông qua việc khảo sát các tin, bài về
NTVT nhằm làm rõ vấn đề: chân dung con ngƣời Việt Nam tiên tiến, tiêu biểu, tích cực
đã đƣợc tuyên truyền nhƣ thế nào trên báo in hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về chân dung con ngƣời trên báo chí, đặc biệt là NTVT đã có các công
trình nghiên cứu trƣớc đây nhƣ:
“Tuyên truyền gương thanh niên tiêu biểu trên nhật báo của Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh (Khảo sát báo Tiền phong và Thanh niên từ tháng 6/2012 đến tháng 6/2013”)
(Luận văn Thạc sĩ Báo chí - Dƣơng Thị Mai): Trong công trình nghiên cứu này, tác giả
đã khảo sát, tìm hiểu và phân tích thực trạng việc tuyên truyền gƣơng thanh niên tiêu biểu
trên Báo Thanh niên và Tiền phong. Qua khảo sát của tác giả cho thấy: Đa phần các tin,
bài đã tập trung phản ánh những tấm gƣơng thanh niên tiêu biểu trên các lĩnh vực nhƣ:
tham gia phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, phong trào sáng tạo trẻ và nghiên
cứu khoa học; trong học tập, văn hóa, thể dục, thể thao; trong tình nguyện vì cộng
đồng… Đây là những nội dung khi đƣợc phản ánh trên báo đã tạo tác động mạnh mẽ đến
nhận thức và hành động của thanh niên. Theo nghiên cứu của tác giả, việc viết về gƣơng
thanh niên tiêu biểu đƣợc nhiều phóng viên chia sẻ đây là một đề tài khó viết và bị đánh
giá là khô khan, khó thu hút đƣợc độc giả khiến nhà báo phải loay hoay lựa chọn cách thể
hiện về nội dung, hình thức và cách đặt vấn đề. Có xu hƣớng mất cân đối giữa tỷ lệ tin,
bài về gƣơng thanh niên tiêu biểu và những tin, bài viết về thanh niên chƣa tốt làm tác
động không nhỏ tới nhận thức của thanh niên nói chung. Tác giả đƣa ra 3 giải pháp về
nhận thức, nguồn lực và chế độ, chính sách nhằm nâng cao hiệu quả công tác tuyên tryền
gƣơng thanh niên tiêu biểu trên hai tờ báo.
“Hình ảnh người chiến sĩ công an thủ đô qua báo chí Hà Nội (Khảo sát báo An
ninh thủ đô, HàNộimới, chuyên mục “truyền hình ATV” và chuyên mục “Truyền hình Vì
an ninh Thủ đô” của Đài Phát thanh truyền hình Hà Nội từ tháng 1 đến tháng 6/2012)”
(Luận văn Thạc sĩ Báo chí - Bùi Ngọc Mai): Trong nghiên cứu này, tác giả đã khảo sát
thực tế, chỉ ra những ƣu nhƣợc điểm của báo chí Thủ đô trong việc tuyên truyền hình ảnh
7



ngƣời chiến sĩ công an. Qua khảo sát cho thấy báo chí đã phản ánh khá rõ nét về hình ảnh
ngƣời chiến sĩ công an Thủ đô trên các mặc công tác, góp phần xây dựng đƣợc hình ảnh
đẹp về ngƣời chiến sĩ công an, giúp độc giả, khán giả hình dung ra đƣợc phần nào các
mặt hoạt động của lực lƣợng công an Thủ đô. Tuy vậy, báo chí mới chỉ khắc họa chủ yếu
hình ảnh ngƣời chiến sĩ công an Thủ đô qua công cuộc đấu tranh trấn áp tội phạm, còn
coi nhẹ hình ảnh ngƣời chiến sĩ công an trong việc thƣờng ngày. Báo chí tập trung chủ
yếu vào công việc mà chƣa khắc họa đƣợc đời sống tinh thần, đạo đức, lối sống của
ngƣời chiến sĩ công an. Báo chí thiên về biểu dƣơng hình ảnh ngƣời chiến sĩ công an mà
coi nhẹ phê phán, đấu tranh với những biểu hiện chƣa tốt, nhất là đối với báo chí của
công an Hà Nội. Về hình thức, báo chí Hà Nội đã sử dụng đƣợc nhiều thể loại bài viết đa
dạng, phong phú trong việc xây dựng hình ảnh về ngƣời chiến sĩ công an Thủ đô.
“Thông tin về điển hình tiên tiến trong phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc trên
báo in ngành công an (Khảo sát 3 báo: An ninh Thủ đô, Công an Nhân dân, Công an
Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 1 đến tháng 12/2012)” (Luận văn Thạc sĩ Báo chí Nguyễn Kim Anh): Nghiên cứu đã phản ánh tình hình thông tin về điển hình tiên tiến
trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trên 3 đầu báo chính của ngành công
an, đồng thời nêu rõ sự tác động mà thông tin các báo đem lại có tác dụng và hiệu quả
nhƣ thế nào đối với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Nhiều tấm gƣơng sáng
đƣợc các báo đề cập, nhiều tập thể đƣợc tuyên dƣơng xứng đáng, tuy nhiên còn chủ yếu
tập trung vào những tập thể, cá nhân điển hình trong ngành công an, chƣa chú trọng đến
những tập thể, cá nhân điển hình ngoài ngành. Có bài viết còn phản ánh chung chung,
chƣa thực sự chuyên sâu vào các điển hình tập thể và cá nhân. Tác giả đƣa ra 4 nhóm giải
pháp: về nguồn tài chính, về tổ chức cán bộ, về nghiệp vụ, về phối hợp giữa báo in ngành
công an với các cơ quan báo chí khác.
Bên cạnh đó, có nhiều công trình nghiên cứu cụ thể về vấn đề tuyên truyền NTVT
trên báo chí nhƣ: "Người tốt việc tốt" trên báo chí hiện nay, thực trạng và vấn đề đặt ra
(Khảo sát trên các báo: Nhân dân, Quân đội nhân dân, HàNộimới, Lao động từ năm
2004 - 2006)” (Luận văn Thạc sĩ Báo chí - Bùi Thị Thu Trang): Trong công trình nghiên
cứu này, tác giả có những thống kê về số lƣợng, dung lƣợng các bài viết về NTVT trên 4

tờ báo đƣợc khảo sát; nêu rõ các khía cạnh về nội dung, hình thức thể hiện, những thành
công, hạn chế, nguyên nhân và các giải pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả tuyên
truyền về NTVT trên các báo. Nghiên cứu này của tác giả đã nêu khá cụ thể về thực trạng
tuyên truyền về ngƣời tốt việc tốt trên một số tờ báo giai đoạn 2004-2006.
“Phóng sự Báo Lao động trong chức năng biểu dương khẳng định nhân tố mới,
điển hình tiên tiến trong cuộc đổi mới” (Khóa luận Cử nhân Báo chí - Nguyễn Thị Tuyết
Lan). Trong nghiên cứu này, tác giả đã tập trung khảo sát các bài phóng sự trên Báo Lao
động viết về chủ đề biểu dƣơng nhân tố mới, điển hình tiên tiến; từ đó có những nhận xét,
8


đánh giá về chất lƣợng, hiệu quả tuyên truyền qua hình thức phóng sự của Báo Lao động.
Nghiên cứu của tác giả khá cụ thể tuy nhiên mới chỉ hạn chế trong một thể loại (phóng
sự) và trong phạm vi một tờ báo (Báo Lao động), chƣa có những nghiên cứu ở phạm vi
rộng hơn.
Một số công trình nghiên cứu khác có liên quan đến đề tài nhƣ: “Nhân tố con
người được tuyên truyền trên báo Nhân dân năm 2000 - 2002” (Khóa luận Cử nhân Báo
chí - Nguyễn Thị Na); “Hình ảnh con người mới Việt Nam trong quá trình công nghiệp
hóa - hiện đại hóa đất nước” (Khóa luận Cử nhân Báo chí - Phí Thanh Hƣờng); “Tuyên
truyền về điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt trên báo chí hiện nay” (Khóa luận Cử
nhân Báo chí - Nguyễn Thị Thu Hà).
Từ các góc độ khác nhau, các công trình nghiên cứu này đã nêu lên thực trạng
tuyên truyền về hình ảnh con ngƣời, những NTVT, điển hình tiên tiến trên báo chí. Các
công trình nghiên cứu cũng đã đề xuất nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng về hình
thức, nội dung và hiệu quả tuyên truyền. Tuy nhiên đến nay chƣa có công trình nghiên
cứu nào về chân dung con ngƣời Việt Nam đƣợc thể hiện qua các tin, bài về NTVT trên
các báo Tuổi trẻ, Lao động, Đại đoàn kết.

3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu

Trên cơ sở khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng các tác phẩm về NTVT trên
báo in thời gian qua, luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất
lƣợng và hiệu quả tuyên truyền NTVT trên báo in hiện nay, góp phần làm sáng rõ chân
dung tiêu biểu, tích cực của con ngƣời Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện đƣơ ̣c mu ̣c tiêu trên, luâ ̣n văn cầ n thƣ̣c hiê ̣n 3 nhiê ̣m vu ̣ sau:
Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề lý luận chung xung quanh việc tuyên truyền về
NTVT trên báo in để làm cơ sở cho những nghiên cứu của đề tài luận văn.
Thứ hai, khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng tác phẩm báo chí viết về NTVT
trên báo in hi ện nay; nhƣ̃ng thành công , hạn chế và những vấn đề đang đặt ra đối với
tuyên truyề n NTVT trên báo in .
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằ m nâng cao chất lƣợng và hiê ̣u quả
tuyên truyền về NTVT trên báo in hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Chân dung con ngƣời Việt Nam đƣợc thể hiện qua báo in hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu
9


Chân dung con ngƣời Việt Nam trên báo chí đƣợc phản ánh đa dạng, nhiều chiều,
có chân dung con ngƣời tích cực, tiêu biểu và cũng có những chân dung tiêu cực, đáng phê
phán. Tuy nhiên, chân dung con ngƣời Việt Nam tiêu biểu, tiên tiến luôn là đề tài đƣợc
khuyến khích trên báo chí, với mục tiêu hƣớng đến là góp phần lan tỏa cái tốt đẹp, cái nhân
văn ra cộng đồng, góp phần xây dựng con ngƣời Việt Nam thời kỳ mới với những đặc
trƣng tiêu biểu đáp ứng yêu cầu phát triển đất nƣớc.
Trong công tác tuyên truyền nói chung và trên báo in nói riêng, chân dung con
ngƣời tiên tiến, tiêu biểu, tích cực đƣợc biểu hiện đầy đủ, rõ nét nhất những phẩm chất tốt
đẹp của mình qua các tấm gƣơng NTVT trong mọi ngành nghề, lĩnh vực của đời sống xã

hội. Bởi vậy, trong khuôn khổ luận văn này chúng tôi chỉ giới hạn nghiên cứu chân dung
con ngƣời Việt Nam ở khía cạnh con ngƣời tích cực, tiêu biểu đƣợc tuyên truyền qua
những tin, bài NTVT trên báo in.
- Đối tƣợng khảo sát: 3 tờ nhật báo Tuổi trẻ, Lao động, Đại đoàn kết
- Thời gian kháo sát: Từ tháng 1/2014 đến tháng 3/2015.

5. Cơ sở lý luậ n vầ phương pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh, đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc ta về vai trò,
tính chất và nhiệm vụ của báo chí trong xây dựng và phát triển con ngƣời, tôn vinh
NTVT.
Các phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn gồm:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tác giả sử dụng nguồn thông tin, các kết quả
nghiên cứu trƣớc đó đã đƣợc công bố để làm sáng tỏ cho vấn đề mình nghiên cứu. Đây
chính là những lí thuyết cơ sở cho việc đánh giá các kết quả khảo sát thực tế và tìm kiếm
những giải pháp khoa học cho vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích văn bản: Là phƣơng pháp dùng để thu thập, xử lý số
lƣợng và phân tích các tác phẩm về NTVT trên các báo Tuổi trẻ, Lao động, Đại đoàn kết
trong thời gian từ tháng 1/2014 đến hết tháng 3/2015.
- Phương pháp điều tra xã hội học:
Để tiến hành phƣơng pháp này, tác giả sử dụng bảng hỏi anket để thu thập thông
tin từ độc giả - những ngƣời tiếp nhận tác phẩm về NTVT trên báo in.
Với 200 bảng hỏi, tác giả lựa chọn mẫu theo cụm 3 tỉnh, thành là Hà Nội, TP. Hồ
Chí Minh và Thái Nguyên theo yếu tố vùng miền và dân cƣ. Hà Nội và TP. Hồ Chí
Minh là hai thành phố lớn đại diện cho 2 miền Nam - Bắc; là nơi tập trung của nhiều cơ
quan, đơn vị, trƣờng học; có số dân cƣ đông, đa dạng về thành phần xã hội; số lƣợng
báo in đƣợc phát hành chiếm tỷ lệ cao so với các tỉnh, thành khác. Thái Nguyên là tỉnh
10



đại diện cho khu vực miền núi, đồng thời cũng là thành phố tập trung nhiều khu công
nghiệp, trƣờng đại học, cao đẳng, có thành phần dân cƣ đa dạng.
Các mẫu chọn cụ thể nhƣ sau:
200 mẫu

Hà Nội
(80 mẫu)

Cán bộ,
công chức,
giảng viên,
nhà báo

(50 mẫu)

Học sinh,
sinh viên
(30 mẫu)

TP. Hồ Chí
Minh
(60 mẫu)

Cán bộ,
công chức,
giảng viên,
nhà báo
…..
(30 mẫu)


Học sinh,
sinh viên
(30 mẫu)

Thái Nguyên
(60 mẫu)

Cán bộ,
công chức,
giảng viên,
nhà báo

(30 mẫu)

Học sinh,
sinh viên
(30 mẫu)

Kết quả: Tổng số 200 phiếu phát ra, thu về đƣợc 180 phiếu hợp lệ (đạt 90%).

6. Ý nghĩâ lý luận và thực tiễn củâ luận văn
Về mặt lý luận
Luận văn góp phần làm rõ mô ̣t số vấ n đề lý luâ ̣n chung trong vi
ệc báo chí tuyên
truyền làm sáng rõ chân dung con ngƣời Việt Nam thông qua tuyên truyền về NTVT.
Về mặt thực tiễn
- Luận văn góp phầ n làm rõ mô ̣t số ƣu điểm, hạn chế của việc truyên truyền về
NTVT trên báo in. Đồng thời, đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất
lƣợng và hiệu quả tuyên truyền về NTVT trên báo in hiện nay.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo đối với nhƣ̃ng ngƣời quan tâm

đến vấn đề tuyên truyền về chân dung con ngƣ ời, NTVT trên báo chí , nhấ t là đố i với sinh
viên báo chí, cán bộ, phóng viên, biên tập viên báo chí về đề tài này.

7. Kết cấu củâ Luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
đƣợc kết cấu gồm 3 chƣơng:
11


- Chƣơng 1: Chân dung con ngƣời Việt Nam trên báo in - Những vấn đề lý luận cơ
bản.
- Chƣơng 2: Chân dung con ngƣời Việt Nam trên các báo Tuổi trẻ, Lao động, Đại
đoàn kết.
- Chƣơng 3: Một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lƣợng, hiệu quả
tuyên truyền về chân dung con ngƣời trên báo in.

12


Chương 1:
CHÂN DUNG CON NGƯỜI VIỆT NAM TRÊN BÁO IN
– NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Báo in
a) Khái niệm
Báo in là loại hình báo chí xuất hiện sớm nhất trong các loại hình báo chí, hình
thức thể hiện đƣợc in trên giấy, có hình ảnh minh họa, là một trong 4 loại hình báo chí:
Báo in, báo nói, báo hình, báo mạng điện tử. Báo in là phƣơng tiện truyền thông cơ bản
không thể thiếu trong đời sống xã hội.
Đến nay, đã có nhiều quan niệm khác nhau về báo in:

Theo tác giả Hà Huy Phƣợng: Báo in là thuật ngữ chỉ một loại hình báo chí định
kỳ thông tin thời sự các sự kiện, các vấn đề trong đời sống xã hội thông qua việc sử dụng
ngôn ngữ chữ viết và kỹ thuật in ấn để truyền tải thông tin.
Theo tác giả Dƣơng Xuân Sơn: Báo chí in bao gồm báo và tạp chí là những ấn
phẩm định kỳ chuyển tải nội dung thông tin mang tính thời sự và đƣợc phát hành rộng rãi
trong xã hội.
Theo Luật Báo chí (2016): Báo in là loại hình báo chí sử dụng chữ viết, tranh,
ảnh, thực hiện bằng phƣơng tiện in để phát hành đến bạn đọc, gồm báo in, tạp chí in.
b) Đặc trưng, đặc điểm của báo in
Báo in là ấn phẩm định kỳ chuyển tải nội dung thông tin mang tính thời sự và
đƣợc phát hành rộng rãi trong xã hội. Định kỳ của báo in có nhiều loại khác nhau nhƣ:
hàng ngày, thƣa kỳ (2, 3, 5 ngày một số), hàng tuần. Định kỳ của báo in chính là sự xuất
hiện theo chu kỳ đều đặn và cố định của sản phẩm báo. Chu kỳ xuất hiện của báo in có ý
nghĩa quan trọng vì nó quy định thời điểm mà công chúng đón nhận sản phẩm báo in.
Tính thời sự của báo in đƣợc hiểu là sự phản ánh nhanh chóng những sự kiện mới
xảy ra, vấn đề mới nảy sinh hoặc vừa mới đƣợc phát hiện trong đời sống xã hội. Mỗi tờ
báo in có công chúng tiếp nhận khác nhau và công chúng thực hiện phƣơng thức tiếp
nhận theo những hƣớng khác nhau.
Báo in chuyển tải nội dung thông tin thông qua văn bản in gồm: chữ in, hình vẽ,
tranh ảnh, sơ đồ, biểu đồ… Toàn bộ các yếu tố thể hiện nội dung thông tin của các tác
13


phẩm báo in xuất hiện đồng thời trƣớc mắt ngƣời đọc hầu nhƣ ngay trên cùng một trang
báo. Sự đồng hiện của báo in đƣợc thể hiện bằng những thông tin cùng xuất hiện đồng
thời trên trang báo in thông qua việc trình bày tổ chức trang báo, bao gồm các phần: tên
chuyên mục, tiêu đề, tít, sapô hoặc những dòng chữ gây chú ý, tít phụ cùng sự hỗ trợ của
hình vẽ, tranh ảnh, sơ đồ, biểu đồ… Công chúng đọc một bài báo in có thể do tít và sapô
hấp dẫn hay cũng có thể do tranh ảnh, biểu đồ minh họa gây chú ý cho họ. Cũng chính vì
vậy mà có thể nói sự đồng hiện thông tin của bài viết trên cùng một trang báo in là một

trong những lợi thế nhất định của báo in. Công chúng có thể cùng lúc lƣớt mắt trên toàn
bộ bài báo và sau đó có thể tìm những thông tin thú vị hoặc cần thiết cho mình. Cũng
chính sự đồng hiện các yếu tố thể hiện của một bài báo trên một trang báo cũng làm ảnh
hƣởng lớn đến công tác biên tập nội dung tít, sapô và phần chính văn của một bài báo in.
Do phƣơng thức thông tin đặc thù trên, báo in có những đặc điểm ƣu việt sau:
Thứ nhất, ngƣời đọc hoàn toàn chủ động trong việc tiếp nhận thông tin từ báo in.
Sự chủ động bao gồm từ việc bố trí thời điểm đọc, lựa chọn trình tự đọc đến việc chủ
động về tốc độ đọc, cách thức đọc khi trong tay có một tờ báo in cụ thể. Buổi sáng ngƣời
ta có thể mua một tờ báo in của một cơ quan báo chí nào đó, đọc lƣớt qua các tin tức,
bình luận quan trọng rồi chiều tối về nhà mới đọc tiếp những bài báo dài và đáng quan
tâm nhƣ phóng sự, phản ánh, các loại ký… Khi đọc các tờ báo in, ngƣời ta hoàn toàn có
thể đọc lƣớt nhanh những nội dung quen thuộc, đọc kỹ hay đọc lại những nội dung phức
tạp mà đọc lần đầu chƣa rõ. Đặc điểm này tạo cho báo in khả năng thông tin những nội
dung sâu sắc, phức tạp. Nhà báo có thể trình bày, lý giải các nội dung thông tin với những
mối quan hệ đan chéo, những biểu hiện trên nhiều bình diện, nhiều tầng lớp khác nhau.
Những thông tin có thể đƣợc tổ chức theo nhiều cách khác nhau mà ngƣời đọc vẫn có thể
hiểu, miễn là những thông tin, nội dung bài viết là bổ ích, đáp ứng đƣợc nhu cầu của
ngƣời đọc.
Thứ hai, vì sự tiếp nhận thông tin báo in của công chúng là quá trình chủ động, đòi
hỏi ngƣời đọc phải tập trung cao độ, phải huy động sự làm việc tích cực của trí não. Vì
thế làm tăng khả năng ghi nhớ thông tin, giúp ngƣời đọc có thể nhận thức sâu sắc những
mối quan hệ bên trong phức tạp. Nội dung thông tin đề cập các vấn đề, sự kiện trong cả
một chu kỳ xuất bản. Thông tin về các vấn đề, sự kiện thời sự diễn ra trong chu kỳ sau đó
chỉ có thể đƣợc đề cập trong sản phẩm đƣợc xuất bản vào thời điểm định kỳ sau. Vì thế
trong báo in bao giờ cũng tồn tại một khoảng thời gian trống thông tin, hay nói cách khác,
độ nhanh, tính thời sự của báo in bị hạn chế hơn so với các loại hình phát thanh và truyền
hình và đặc biệt là báo mạng điện tử.
Hơn nữa nguồn thông tin từ báo in đảm bảo sự chính xác và độ xác định cao. Dù
thông tin chậm hơn so với các loại hình báo chí khác nhƣng đảm bảo sự chính xác về


14


thông tin vì đã đƣợc kiểm định. Báo in có thể làm tài liệu, minh chứng cho các công trình
nghiên cứu khoa học.

1.1.2. Chân dung con người
Chân dung là thuật ngữ đƣợc sử dụng nhiều trong lĩnh vực nghệ thuật nhƣ hội họa,
điêu khắc, nhiếp ảnh, văn học... Và từ lâu khái niệm chân dung cũng đƣợc sử dụng phổ
biến trong lĩnh vực báo chí.
Theo Từ điển Tiếng Việt,“chân dung” đƣợc định nghĩa là “tác phẩm hội họa, điêu
khắc, nhiếp ảnh thể hiện đúng diện mạo, thần sắc, hình dáng một ngƣời nào đó” [34,
tr.193]. Theo định nghĩa này, chân dung con ngƣời đƣợc hiểu là diện mạo, thần sắc và hình
dáng của con ngƣời đƣợc thể hiện thông qua một bức tranh, ảnh hay một tác phẩm điêu
khắc có hình khối cụ thể. Ngƣời xem có thể nhìn thấy trực tiếp diện mạo, thần sắc, hình
dáng đó, dễ dàng hình dung ra con ngƣời có thật ngoài thực tế.
Trong lĩnh vực văn học, khái niệm chân dung cũng đƣợc sử dụng khi nói về một
thể loại văn học lấy con ngƣời làm đối tƣợng chủ yếu để phản ánh. Trong cuốn Từ điển
thuật ngữ văn học, các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đã đƣa ra
khái niệm chân dung văn học nhƣ sau: Nhà văn phát huy sở trƣờng quan sát, lựa chọn chi
tiết, cử chỉ, ngôn luận, kể cả tác phẩm, tƣ thế, hồi tƣởng để dựng lại bộ mặt tinh thần của
một con ngƣời, thƣờng là nhà văn, nghệ sĩ, các nhà hoạt động xã hội nổi tiếng. Hay nhƣ
nhà văn Tô Hoài định nghĩa: Chân dung văn học là việc dựng lại những bóng dáng thần
thái văn nhân, những câu nói cái cƣời, bƣớc đi dáng đứng của họ mà mình từng thấy từng
biết.
Chân dung con ngƣời trong văn học, nghệ thuật khác với chân dung con ngƣời
trong lĩnh vực báo chí. Chân dung con ngƣời trong văn học, nghệ thuật có thể mang yếu
tố hƣ cấu, còn trong báo chí, chân dung đó phải là ngƣời thật, việc thật, đƣợc phản ánh
chân thực thông qua tác phẩm báo chí. Việc dùng báo chí để khắc họa chân dung con
ngƣời không giống nhƣ ngƣời họa sĩ vẽ chân dung, coi chân dung là mục đích cuối cùng.

Mà khái quát hơn, sâu sắc hơn là nhà báo làm toát lên chân dung một con ngƣời với cuộc
sống thực của họ, từ đó khái quát lên thành những vấn đề xã hội, những thông điệp xã hội
muốn gửi tới độc giả.
Bàn về khái niệm của thể loại ký chân dung - thể loại báo chí tiêu biểu khi phản
ánh chân dung con ngƣời, tác giả Đức Dũng quan niệm: Con ngƣời trong tác phẩm ký
chân dung phải có địa chỉ sát thực, tiêu biểu, đáp ứng đƣợc yêu cầu tuyên truyền thời sự.
Con ngƣời phải đƣợc đặc tả ở diện mạo, dáng vẻ bề ngoài hoặc thông qua những hành
động, những việc làm tiêu biểu.
Trong cuốn Tác phẩm báo chí, khi nói về chân dung con ngƣời trong thể loại phóng
sự báo chí, các tác giả cho rằng: “Mỗi bức chân dung cụ thể có thể nói lên một mảng hiện
thực nào đó: hoặc minh chứng cho một truyền thống lịch sử, một phong tục tập quán, một
15


nếp nghĩ, nếp làm ăn của một địa phƣơng, một tộc ngƣời hoặc một khuynh hƣớng xã hội
nào đó. Chân dung con ngƣời có thể là tích cực hoặc tiêu cực, hạnh phúc hay bất hạnh,
đáng biểu dƣơng hay đáng phê phán…” [10, tr. 181].
Trong khái niệm về thể loại ký chân dung, tác giả Dƣơng Xuân Sơn cho rằng: Ký
chân dung là một thể loại thuộc thể ký báo chí có đối tƣợng phản ánh là những con ngƣời
hay một tập thể ngƣời có thật, đƣợc coi là tiêu biểu vào những thời điểm nhất định, đáp
ứng yêu cầu thông tin thời sự. Đó là những con ngƣời hay tập thể ngƣời có hành động, việc
làm hoặc suy nghĩ nội tâm đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng. [38, tr. 84].
Nhƣ vậy, có thể hiểu khái niệm chân dung con người trên báo chí là những con
ngƣời có thật đƣợc báo chí phản ánh thông qua tác phẩm báo chí. Qua đó, không chỉ diện
mạo, thần sắc, hình dáng của con ngƣời đƣợc thể hiện, mà cả tính cách, phẩm chất, lối
sống, năng lực, thể trạng, hoàn cảnh, địa vị xã hội và các mối quan hệ xã hội của con
ngƣời đó cũng đƣợc bộc lộ. Trên báo in, chân dung con ngƣời đƣợc thể hiện thông qua
ngôn ngữ hình ảnh (ảnh báo chí) và ngôn ngữ chữ viết (bài báo).
Chân dung con ngƣời trên báo chí đƣợc phản ánh đa dạng, nhiều chiều, có những
chân dung tích cực, tiêu biểu và cũng có những chân dung đáng phê phán. Nhƣng về cơ

bản, chân dung con ngƣời đó phải đáp ứng đƣợc các yêu cầu, đó là có tính chân thực, tiêu
biểu, điển hình và tính thời sự.

1.1.3. Người tốt, việc tốt
Đầu tháng 6/1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc với một số cán bộ Ban Tuyên
huấn Trung ƣơng Đảng về việc làm và xuất bản loại sách Người tốt việc tốt. Ngƣời đã
nói: “Nhân dân ta rất anh hùng, ra ngõ gặp anh hùng… Có thể nói trong mỗi nhà đều có
anh hùng, nhƣ thế ra ngõ mới gặp anh hùng chứ! Nhìn lại lịch sử mấy nghìn năm của ông
cha ta, ta cũng thấy điều đó. Cứ mỗi lần có những thử thách lớn thì nhân dân ta lại tỏ rõ
khí phách, nêu cao phẩm chất tốt đẹp của mình… Cho nên Bác nghĩ: cần có những phần
thƣởng để khuyến khích, động viên, cổ vũ mọi ngƣời hăng hái làm tròn nhiệm vụ. Từ
ngày hòa bình lập lại, Bác có yêu cầu báo của Đảng và của các đoàn thể mở ra mục
Người mới việc mới để làm việc đó đi đôi với phong trào thi đua ở các cấp, các ngành.
Bây giờ nên gọi là Người tốt việc tốt cho đúng hơn” [32, tr. 547-548]. Nhƣ vậy, khái
niệm NTVT trên báo chí lần đầu tiên đƣợc nhắc đến do Chủ tịch Hồ Chí Minh, để nói
đến những ngƣời có đóng góp cho phong trào cách mạng của nhân dân ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm: Bất cứ ai, hễ làm việc gì mà nổi lên tinh thần
chí công vô tƣ, mình vì mọi ngƣời, dù rất nhỏ, dù ở bất cứ lĩnh vực nào, ở tầng lớp nào,
trong giới nào, ở lứa tuổi nào đều đƣợc coi là gƣơng NTVT. Đó có thể là “cháu gái tên
Xuân ở Quảng Bình đã chiến đấu dũng cảm, góp phần bắn rơi máy bay Mỹ”, là “các cháu
bé Việt Nam nhặt đƣợc của rơi đem trả”, là bộ đội “không những biết đánh giặc giỏi mà
còn biết đỡ đẻ cho dân”, là các cụ già Việt Nam “cùng con cháu đánh giặc giữ nƣớc,
16


xung phong chăm sóc sức khỏe thƣơng bệnh binh, đỡ đầu lớp mẫu giáo, trông nom vƣờn
trẻ, gƣơng mẫu trồng cây, trồng rừng. Có những cụ ông, cụ bà chuyên nhận nuôi những
con trâu ghẻ, trâu gầy của hợp tác xã thành những con trâu béo khỏe có thể kéo cày, kéo
gỗ đƣợc”… Ngƣời tốt, việc tốt trong quan niệm của Bác còn là: “Hai cô con gái đi đƣờng
thấy cái hố nhỏ ở vỉa hè đã rủ nhau đi lấy đất lấp lại cho đồng bào khỏi vấp ngã. Một

ngƣời nông dân đi giữa trời mƣa thấy bao gạo của Nhà nƣớc không có gì che phủ, đã cởi
tấm nilông của mình ra đậy gạo cho Nhà nƣớc. Cụ già Việt kiều trở về Tổ quốc để cùng
chia sẻ những khó khăn, cùng gánh vác công việc đánh Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã
hội”…
Có thể thấy, những NTVT theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là những
con ngƣời rất bình dị, đời thƣờng, làm những việc nhỏ nhƣng có ích cho xã hội. Đó là
những ngƣời yêu nƣớc, có đạo đức trong sáng, có lòng dũng cảm, gan dạ, có tình đoàn
kết, sẻ chia, nhân hậu… Đó là những nét đẹp truyền thống của con ngƣời Việt Nam, là
những nét vẽ tạo nên chân dung tiêu biểu của con ngƣời Việt Nam trong truyền thống văn
hóa của dân tộc.
Bƣớc sang thời kỳ đổi mới đất nƣớc, khái niệm NTVT đƣợc hiểu theo nghĩa rộng
hơn: bên cạnh những giá trị truyền thống của con ngƣời Việt Nam, NTVT hiện nay cần
phải có tri thức, biết đƣa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào cuộc sống, có bản lĩnh chính trị
vững vàng, chủ động năng động, sáng tạo trong tình hình mới, biết làm nên sự nghiệp từ
bàn tay trí óc của mình, giúp ích cho xã hội, cho đất nƣớc.
Nhà báo Nguyễn Uyển trong bài tham luận “Báo chí với việc nêu gương tốt việc
tốt” cho rằng: Từ lâu tổ hợp từ này đã đƣợc dùng để chỉ những điển hình về con ngƣời và
sự việc tiêu biểu xuất hiện trong nhân dân lao động và đƣơng nhiên những điển hình ấy
phải phù hợp với xu thế phát triển chung của lịch sử. Mới, tốt có nghĩa là tiên tiến và
thƣờng đƣợc biểu hiện ở một số điểm nhƣ sau: Ngƣời tiên tiến, việc tiên tiến, biện pháp
tiên tiến. Hai vế cụm từ “ngƣời tốt, việc tốt” có liên quan với nhau nhƣng không đồng
nhất với nhau. Nói ngƣời tốt (qua việc tốt), tức là phải xem xét dƣới nhiều khía cạnh.
Ngƣợc lại, khi nói việc tốt chỉ cần nêu sâu sự việc không cần biết lai lịch.
Ông Vũ Hồ, trong bài viết “Trao đổi kinh nghiệm viết gương tốt” thì cho rằng:
Ngƣời tốt đƣợc nêu phải là một tấm gƣơng có tác dụng tốt trong việc giáo dục đƣờng lối,
nhiệm vụ cách mạng của Đảng, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, xây dựng đạo đức mới,
con ngƣời mới, phục vụ tốt yêu cầu từng thời kỳ của công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo
17



tƣ tƣởng, có tác dụng góp phần vào sự chiến thắng của cái tiên tiến đối với cái lạc hậu,
cái tốt đối với cái xấu, chủ nghĩa tập thể với chủ nghĩa cá nhân. Họ là ngƣời có tƣ tƣởng
và hành động tiên tiến, có thành tích xuất sắc (trƣớc hết là các anh hùng, dũng sỹ quyết
thắng, chiến sỹ thi đua…), đƣợc quần chúng - trƣớc hết là quần chúng ở chính nơi đó
công tác công nhận, xứng đáng đƣợc nêu gƣơng về nhiều mặt hoặc về một mặt nào đó.
Trong Lời tựa sách Tâm sáng, chí bền của Thông tấn xã Việt Nam, khái niệm
NTVT đƣợc nêu nhƣ sau: Nhân vật đƣợc coi là ngƣời tốt việc tốt phải là “Những cá nhân,
tập thể trung thành với sự nghiệp cách mạng, đi đầu trong đổi mới, dũng cảm, cần cù,
sáng tạo, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của bản thân, đơn vị, gƣơng mẫu trong đời sống
hàng ngày”. Có rất nhiều đề tài cho thể loại gƣơng NTVT nhƣ: Xây dựng nếp sống văn
minh; Gia đình văn hóa; Hộ gia đình làm kinh tế giỏi; gia đình hiếu học, tấm gƣơng sản
xuất giỏi; tấm gƣơng đi đầu trong phong trào thi đua… Đó là những ngƣời có địa chỉ xác
thực, có những hành động và việc làm tiêu biểu, đủ sức thuyết phục.
Ở một phạm vi rộng hơn, NTVT chính là những tấm gƣơng điển hình tiên tiến,
những nhân tố mới trong đời sống xã hội hiện nay. Theo Từ điển tiếng Việt định nghĩa:
“Điển hình là có tính tiêu biểu nhất, bộc lộ rõ bản chất của một nhóm hiện tƣợng, đối
tƣợng”, “tiên tiến là ở vị trí hàng đầu, vƣợt hẳn trình độ phát triển chung, đạt thành tích
cao, có tác dụng đối với phong trào thi đua”. Nhƣ vậy, điển hình tiên tiến trên báo chí có
thể hiểu đƣợc là: Những tấm gƣơng cụ thể, sinh động (cá nhân hoặc tập thể) có tính chất
điển hình, tiêu biểu nhất trong sản xuất và đời sống, vƣợt hẳn trình độ phát triển chung,
đạt thành tích cao, có tác dụng cổ vũ tinh thần thi đua lao động sản xuất, tổ chức cuộc
sống của đông đảo nhân dân.
Về khái niệm điển hình tiên tiến và nhân tố mới, PGS.TS. Nguyễn Văn Dững
trong cuốn Báo chí và dư luận xã hội cho rằng: “Cần phân biệt giữa điển hình tiên tiến và
nhân tố mới. Nếu điển hình tiên tiến đƣợc coi là mô hình hay cách thức tổ chức sản xuất,
tổ chức cuộc sống có hình hài khá toàn diện để mọi ngƣời, mọi nơi học tập và làm theo,
thì nhân tố mới, đúng nhƣ tên gọi của nó, chỉ là một nhân tố mới, một khía cạnh tích cực,
nổi trội, chứ chƣa phải là mô hình hoàn chỉnh của sự vật hay hiện tƣợng” [9, tr. 307].
Nhƣ vậy, có thể hiểu về khái niệm NTVT nhƣ sau: Người tốt, việc tốt là những
con người có phẩm chất, đạo đức tốt cùng những việc làm hay, cử chỉ đẹp có lợi ích cho

đất nước, xã hội, được coi là những tấm gương để tuyên truyền, giáo dục có hiệu quả và
18


cần được nhân rộng ra. Đó là những con người mẫu mực, tiêu biểu cho con người của
một giai đoạn lịch sử nhất định.

1.2. Vâi trò củâ báo chí trong tuyên truyền về người tốt, việc tốt
Ngƣời tốt, việc tốt có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Bởi nếu mỗi ngƣời,
mỗi ngày cố gắng làm những việc tốt thì cái tốt sẽ trở thành phổ biến, sẽ lấn át đƣợc cái
xấu, cái xấu sẽ bị đẩy lùi nhƣờng chỗ cho cái tốt nảy nở và phát triển, cả xã hội sẽ trở nên
tốt đẹp, văn minh. Muốn cho cái tốt ngày càng nảy nở, phát triển thì những gƣơng NTVT
phải đƣợc tuyên truyền rộng rãi trong quần chúng nhân dân để mọi ngƣời cùng học tập,
noi theo. Đây là vai trò và cũng là nhiệm vụ quan trọng của báo chí nói chung, báo in nói
riêng.
Báo chí là phƣơng tiện thông tin tác động đến đông đảo công chúng nhất, một
cách thƣờng xuyên liên tục nhất, trên phạm vi rộng lớn nhất. Do vậy, mọi hoạt động của
báo chí luôn gắn liền với vấn đề thu phục, tập hợp lực lƣợng và “tranh thủ bạn đồng minh
chính trị” theo cách nói của V.I.Lê-nin. Khi đề cập đến chức năng của báo chí, V.I.Lê-nin
đã khẳng định: “Báo chí là người tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể, và tổ chức tập
thể”, điều này càng phù hợp với thời đại bùng nổ thông tin hiện nay. Với nội dung thông
tin có định hƣớng đúng đắn, chân thật, có sức thuyết phục, báo chí có khả năng hình
thành dƣ luận xã hội, dẫn đến hành động xã hội, phù hợp với sự vận động của hiện thực
theo những chiều hƣớng có chủ định. Với vai trò là chiến sĩ tiên phong trên mặt trận tƣ
tƣởng, báo chí xã hội chủ nghĩa có trách nhiệm xây dựng dƣ luận xã hội lành mạnh, động
viên quần chúng tích cực hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.
Để thực hiện sứ mệnh của mình, nhiệm vụ đặt ra cho báo chí là khẳng định yếu tố
tích cực, phát hiện và phản ánh cái mới trong sự nghiệp xây dựng CNXH, phê phán
những tàn dƣ của chế độ cũ, những quan niệm, lối sống lỗi thời trong nội bộ nhân dân,
phát huy trí tuệ tài năng và tiềm lực của đất nƣớc nhằm đặt ra và giải quyết những nhiệm

vụ chính trị to lớn. Việc thông tin một cách liên tục, phong phú, đa dạng, nhiều chiều về
những tấm gƣơng NTVT có tác dụng tác động đến nhận thức của công chúng xã hội bằng
thực tiễn cuộc sống, trên cơ sở đó góp phần định hƣớng dƣ luận xã hội, làm thay đổi nhận
thức, thái độ và hành vi của con ngƣời. Bằng những điển hình tiên tiến, những gƣơng
NTVT, báo chí không dừng lại ở tác dụng cổ động, tuyên truyền mà mở ra thực hiện
chức năng to lớn là góp phần tổ chức và chỉ đạo phong trào cách mạng của quần chúng,
tạo ra hiệu quả thiết thực.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc nêu gƣơng NTVT, Ngƣời coi
đó là những tấm gƣơng có giá trị lớn trong việc cổ vũ các hoạt động cách mạng và phong
trào cách mạng. Ngƣời viết: “một tấm gƣơng sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn
19


văn tuyên truyền”, vì vậy những tấm gƣơng NTVT tiêu biểu cần phải đƣợc giới thiệu
rộng rãi trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng. Ngƣời lƣu ý công tác tuyên truyền và
báo chí phải nêu gƣơng những cán bộ trong sạch, gƣơng mẫu, cần, kiệm, liêm, chính.
Ngƣời cho rằng, việc lấy gƣơng NTVT để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong
những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng cuộc
sống mới, con ngƣời mới. Ngƣời còn nói: “Những gƣơng ngƣời tốt, làm việc tốt muôn
hình muôn vẻ là vật liệu quý để các chú xây dựng con ngƣời. Lấy gƣơng tốt trong quần
chúng nhân dân và cán bộ, đảng viên để giáo dục lẫn nhau là một phƣơng pháp lấy quần
chúng giáo dục quần chúng rất sinh động và có sức thuyết phục rất lớn”.
Từ những năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị “Các báo chí phải khuyến
khích những ngƣời tốt việc tốt và thẳng thắn phê bình những điều xấu: lƣời biếng, tham
ô, lãng phí, quan liêu. Đó là một việc rất cần thiết”. Thực hiện lời dạy của Bác, nhiều tờ
báo đã sớm ra các mục: “Ngƣời mẫu mực, sự việc mẫu mực”, “Ngƣời kiểu mẫu, việc
kiểu mẫu”, “Gƣơng trong”, “Việc nhỏ nghĩa lớn”… Biết bao tấm gƣơng giản dị, đời
thƣờng đã đƣợc phản ánh trên báo chí, kịp thời biểu dƣơng, khuyến khích và cổ vũ mọi
tầng lớp nhân dân. Tháng 8/1968, Bác chỉ thị đƣa ngƣời tốt việc tốt in thành sách để gửi
cho mọi ngƣời cùng học tập noi theo. Các nhà xuất bản ở phía Bắc đã liên tục cho ra đời

các tên sách: Ba sẵn sàng; Ba đảm đang; Hậu phƣơng thi đua với tiền phƣơng; Trung với
Đảng, hiếu với Dân; Dạy tốt, học tốt; Nghìn việc tốt… Sách in khổ nhỏ, mỏng, phát hành
rộng rãi trong cả nƣớc. Gƣơng NTVT đƣợc tuyên truyền đến mọi vùng quê, thôn bản,
đƣợc đọc trên đài phát thanh của các địa phƣơng; đƣợc nghiên cứu, học tập trong nhân
dân, lôi cuốn hàng triệu ngƣời thi đua trở thành ngƣời tốt, làm những việc tốt hàng ngày.
Cũng từ đây, việc tuyên truyền NTVT đã nhanh chóng trở thành một trong những thể loại
quan trọng của báo chí Việt Nam.
Trong thời kỳ duy trì nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp, báo chí đã từng cổ
vũ cho các điển hình nhƣ đƣa cơ giới hóa vào nông nghiệp (Duy Tiên, Hà Nam), “Quỳnh
Lƣu làm chủ lao động và đất đai” (tên bài báo điều tra của Hữu Thọ) tiêu biểu cho dồn
dân lên đồi, san bằng đồng ruộng tạo địa bàn cho cơ giới hóa; mô hình HTX thâm canh
tăng vụ, tăng năng suất lúa của HTX Bình Đà, rồi HTX Bình Minh; mô hình HTX Định
Công (Thanh Hóa) tiêu biểu cho phát triển nông nghiệp, tổ chức cuộc sống nông thôn;…
Trong công nghiệp, thời kỳ những năm 70 - 80 của thế kỷ trƣớc cũng đã có nhiều điển
hình tiên tiến, nhƣ nhà máy chế tạo công cụ số 1, nhà máy chế tạo biến thế,… Đó là
những điển hình trong sản xuất và đời sống đã có tác dụng cổ vũ tinh thần thi đua lao
động sản xuất, tổ chức cuộc sống của đông đảo nhân dân.
Bƣớc sang thời kỳ CNH, HĐH đất nƣớc, đƣờng lối, chính sách đúng đắn của
Đảng cùng với sự sáng tạo của đông đảo ngƣời lao động đã tạo nên nhiều tấm gƣơng đẹp
đẽ và sinh động trong cuộc sống, vì lợi ích của toàn xã hội và của mỗi ngƣời. Mỗi tấm
20


gƣơng sáng, mỗi điển hình sinh động lại trở thành những hạt nhân tích cực, là chất men
kích thích, lôi cuốn, thuyết phục mạnh mẽ mọi ngƣời, từ đó dấy lên các phong trào thi
đua, khơi dậy trong mỗi cá nhân, tập thể và toàn xã hội tính chủ động, sáng tạo trong xây
dựng đất nƣớc. Trong nhiều văn bản, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nƣớc, việc nêu
gƣơng NTVT, tuyên truyền những nhân tố mới tích cực, những điển hình tiên tiến đƣợc
coi nhƣ nhiệm vụ quan trọng của công tác tƣ tƣởng, lý luận nói chung, báo chí nói riêng.
Trong Luật Báo chí (1989), “phát hiện, biểu dƣơng gƣơng tốt, nhân tố mới; đấu

tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật và các hiện tƣợng tiêu cực xã hội khác” đƣợc
quy định là một trong những nhiệm vụ cơ bản của báo chí nƣớc ta. Cho đến Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Báo chí (1999) và Luật báo chí hiện hành (2016) vẫn quy
định nhiệm vụ, quyền hạn của báo chí là: “Phát hiện, nêu gƣơng ngƣời tốt việc tốt, nhân
tố mới, điển hình tiên tiến”.
Tiếp thu quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, “lấy gƣơng ngƣời tốt việc tốt để
hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng”, trong
Nghị quyết Hội nghị Trung ƣơng 6 (lần 2) (khóa VIII) về một số vấn đề cơ bản và cấp
bách trong công tác xây dựng đảng hiện nay; Nghị quyết Trung ƣơng 4 (khóa XI) về một
số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay, Đảng ta đều xác định rõ vai trò, nhiệm vụ
của các cơ quan thông tin đại chúng nói chung, báo chí nói riêng. Đó là “nêu gƣơng
ngƣời tốt việc tốt, giới thiệu kinh nghiệm của các điển hình tiên tiến; lên án cái xấu, cái
ác, tích cực đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các tệ nạn xã hội; chống
những quan điểm sai trái, thù địch” và “Chú trọng làm tốt hơn việc nêu gƣơng những
ngƣời tốt việc tốt; lấy nhân tố tích cực để đẩy lùi tiêu cực; đồng thời phê phán, đấu tranh
với những biểu hiện sa sút về tƣ tƣởng chính trị, vô trách nhiệm, vụ lợi cá nhân, vi phạm
những chuẩn mực đạo đức, lối sống...”.
Đại hội IX của Đảng yêu cầu “báo chí, xuất bản phát hiện những nhân tố mới, cái
hay, cái đẹp trong xã hội, giới thiệu gƣơng ngƣời tốt việc tốt, những điển hình tiên
tiến…”. Nghị quyết Trung ƣơng 5 (khoá IX) về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tƣ tƣởng,
lý luận trong tình hình mới khẳng định việc “coi trọng tuyên truyền gƣơng ngƣời tốt việc
tốt, nhân tố mới tích cực”. Tiếp đó, đến Nghị quyết Trung ƣơng 5 (khóa X) về công tác tƣ
tƣởng, lý luận và báo chí trƣớc yêu cầu mới, việc tuyên truyền, cổ vũ, động viên các nhân
tố mới, điển hình tiên tiến, gƣơng NTVT trên mọi lĩnh vực tiếp tục đƣợc coi là nhiệm vụ
quan trọng của báo chí. Nghị quyết yêu cầu các cơ quan báo chí: “Coi trọng đúng mức
21


việc phát hiện, biểu dƣơng các nhân tố mới, điển hình tiên tiến; tích cực đấu tranh, góp
phần ngăn chặn và từng bƣớc đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, quan liêu, các tiêu cực và tệ

nạn xã hội”.
Khi cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh đƣợc
phát động (năm 2006), nhiệm vụ nêu gƣơng NTVT, điển hình tiên tiến càng đƣợc đề cao
hơn với các cơ quan báo chí. Hầu hết các tờ báo trong nƣớc đều mở các chuyên mục,
chuyên trang tuyên truyền về học tập và làm theo tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh,
nhiều gƣơng NTVT, điển hình tiên tiến đã đƣợc giới thiệu trên mặt báo. Điể n hin
̀ h là Báo
Nhân dân với chuyên mu ̣c “Gƣơng sáng , viê ̣c hay Hà Nô ̣i”, “Ngƣời tố t viê ̣c tố t”; Báo Lao
đô ̣ng với chuyên mu ̣c “Biǹ h di ̣mà cao quý” ; Báo Quân đô ̣i nhân dân với “Ho ̣c tâ ̣p và làm
theo tấ m gƣơng đa ̣o đƣ́c Hồ Chí Minh”; Hànộimới mở chuyên mục “Nét đẹp ngƣời Thủ
đô”; Báo Tin tức (Thông tấ n xã Viê ̣t Nam) với chuyên mu ̣c “Gƣơng sáng noi chung”. Đài
truyề n hình Việt Nam dành nhiều thời lƣợng, xây dựng nhiều chuyên mục, nhiều chƣơng
trình chất lƣợng, chuyên sâu để thông tin, tuyên truyền về việc học tập và làm theo tấm
gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh, chú trọng phát hiện và nhân rộng các điển hình tiên tiến,
tạo sức lan tỏa ra toàn xã hội. Đài Tiế ng nói Viê ̣t Nam dành thời lƣơ ̣ng tuyên truyề n về
gƣơng NTVT trong chuyên mu ̣c “Nhƣ̃ng bông hoa đe ̣p” hê ̣ VOV 2; “Ngƣời tố t viê ̣c tố t”,
“Cƣ̉a sổ nhân ái” hê ̣ VOV5…
Nhận thấy rõ vai trò của báo chí, trong Chỉ thị số 03 ngày 14/5/2011 của Bộ Chính
trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh, Đảng
ta yêu cầu “các cơ quan thông tin đại chúng, đội ngũ báo cáo viên thƣờng xuyên tuyên
truyền về tƣ tƣởng, tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh, về các điển hình tiên tiến, ngƣời tốt
việc tốt”. Mới đây, Chỉ thị số 05 ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập
và làm theo tƣ tƣởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, việc “tuyên truyền về các điển
hình tiên tiến, gƣơng ngƣời tốt việc tốt, những cách làm sáng tạo trong học tập và làm
theo tƣ tƣởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” tiếp tục là nhiệm vụ quan trọng của
báo chí cách mạng nƣớc ta.
Thực hiện chủ trƣơng của Đảng, Nhà nƣớc, nhiều năm qua, báo chí nói chung, báo
in nói riêng đã tỏ rõ vai trò xung kích trên mặt trận tƣ tƣởng, có sức mạnh rất lớn trong
việc cổ động, tuyên truyền quần chúng bằng những tấm gƣơng có địa chỉ cụ thể, những
việc làm ích nƣớc, lợi dân. Việc tuyên truyền, học tập và làm theo tấm gƣơng NTVT

không những có tác dụng tạo khí thế thi đua sôi nổi, cổ vũ mọi ngƣời phát huy mọi khả
năng và phẩm chất tốt đẹp để hoàn thành các nhiệm vụ, mà còn góp phần tích cực bồi
dƣỡng, xây dựng con ngƣời Việt Nam phát triển toàn diện, xây dựng nếp sống mới và xã
hội văn minh, đẩy lùi những tƣ tƣởng, việc làm tiêu cực, những thói hƣ, tật xấu.

22


Với những đặc trƣng, đặc điểm, những ƣu thế nhất định của mình, báo in đã góp
phần quan trọng trong việc tuyên truyền về những tấm gƣơng NTVT. Vai trò của báo in
là không thể thay thế và ngày càng phát huy hơn trong công tác tuyên truyền NTVT của
Đảng, Nhà nƣớc ta.

1.3. Một số tiêu chí củâ người tốt, việc tốt trên báo chí hiện nây
1.3.1. Tiêu chí người tốt, việc tốt
Bác Hồ đã chỉ rõ: Cái đích nhắm đến của những ngƣời làm báo khi viết gƣơng
NTVT không phải là nêu gƣơng để ngƣời khác học tập cách làm, hành động, hay phƣơng
pháp mới, phổ biến khoa học - kỹ thuật… mà cái chính là nêu gƣơng đạo đức cách mạng
của con ngƣời. Đó là những đức tính tốt đẹp nhƣ tình yêu thƣơng, đoàn kết giúp đỡ lẫn
nhau, cùng nhau vƣợt khó khăn gian khổ, đức hy sinh, lòng quả cảm cứu giúp nhau khi
hoạn nạn, lúc chông gai, tấm lòng mình vì mọi ngƣời, không tham lam, ti tiện, ghen tị,
làm điều ác… Đó là những đức tính mà thời đại nào cũng cần phải có của con ngƣời, phù
hợp với pháp luật, truyền thống tốt đẹp về văn hóa, nêu cao cái tốt, chống cái xấu của
nhân dân ta.
Những đức tính tốt đẹp ấy của con ngƣời Việt Nam, trải qua hàng nghìn năm lịch
sử đã trở thành truyền thống của dân tộc. Nhƣ nhiều nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử
nƣớc ta đã khẳng định: tính cách dân tộc gần nhƣ là tất cả nội dung của giá trị đạo đức
truyền thống, bao gồm: tính tập thể - cộng đồng; trọng đạo đức; cần kiệm; giản dị; thực
tiễn; tinh thần yêu nƣớc bất khuất và lòng yêu chuộng hoà bình, nhân đạo, lạc quan. Tác
giả Trần Văn Giàu đúc kết bảy giá trị "yêu nƣớc, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan,

thƣơng ngƣời, vì nghĩa" là những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta. Một nhà
nghiên cứu khác đã khẳng định các giá trị đạo đức truyền thống cao đẹp của dân tộc ta
bao gồm: lòng yêu nƣớc, truyền thống đoàn kết, lao động cần cù và sáng tạo; tinh thần
nhân đạo, lòng yêu thƣơng và quý trọng con ngƣời, trong đó yêu nƣớc là bậc thang cao
nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc. Những nét tính cách đặc trƣng, hay
những giá trị này đã vẽ nên chân dung tốt đẹp của con ngƣời Việt Nam qua bao thời kỳ
lịch sử. NTVT trong quan niệm của nhân dân ta cũng là những con ngƣời với những đặc
trƣng tốt đẹp trên.
Đất nƣớc bƣớc vào thời kỳ CNH, HĐH, nhiều thang giá trị về con ngƣời thay đổi.
Con ngƣời mà Đảng ta hƣớng đến xây dựng vừa mang những giá trị tốt đẹp của truyền
23


thống dân tộc, vừa phải có những tính cách, đặc trƣng của con ngƣời mới phù hợp với
yêu cầu phát triển. Các nghị quyết của Đảng ta những năm qua đã xác định rất rõ những
yêu cầu mới của con ngƣời Việt Nam hiện nay. Tiêu biểu nhƣ Nghị quyết Hội nghị Trung
ƣơng 9 (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con ngƣời Việt Nam đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững đất nƣớc đã nhấn mạnh vấn đề cốt lõi , trung tâm của xây dựng
văn hóa là xây dựng con ngƣời . Nghị quyết đã nêu rõ quan điểm : “Phát triển văn hóa vì
sự hoàn thiện nhân cách con ngƣời và xây dựng con ngƣời để phát triển văn hóa

. Trong

xây dƣ̣ng văn hóa , trọng tâm là chăm lo xây dƣ̣ng con ngƣời có nhân cách , lối sống tốt
đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nƣớc, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù,
sáng tạo”. Đảng ta đặt ra yêu cầu phải bồi dƣỡng tinh thần yêu nƣớc, lòng tự hào dân tộc,
đạo đức, lối sống và nhân cách; đúc kết và xây dựng hệ giá trị chuẩn của con ngƣời Việt
Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Tại Đại hội XII của
Đảng, một trong 6 nhiệm vụ trọng tâm đƣợc Đảng ta đề ra trong giai đoạn mới, đó là:
“Phát huy nhân tố con ngƣời trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ; tập trung xây dựng

con ngƣời về đạo đức , nhân cách, lối sống , trí tuệ và năng lực làm việc ; xây dựng môi
trƣờng văn hóa lành mạnh”. Các tƣ tƣởng, quan điểm về xây dựng con ngƣời đó là những
nội dung, định hƣớng xây dựng con ngƣời Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và sắp tới.
Việc xác định đúng đắn đƣợc tiêu chí con ngƣời văn hóa Việt Nam mới có thể có các giải
pháp xây dựng, giáo dục, đào tạo, phát triển con ngƣời để có thể đáp ứng tốt những đòi
hỏi của thời kỳ CNH, HĐH, mở cửa hội nhập quốc tế, đảm bảo phát triển bền vững, rút
ngắn khoảng cách tụt hậu.
Cùng với sự vận động và phát triển của đất nƣớc, con ngƣời nói chung, những
quan niệm về NTVT cũng đã có những thay đổi. Nhƣng xét cho cùng, dù có thay đổi thế
nào chăng nữa, khi nói đến NTVT vẫn không bao giờ thoát ra khỏi cái vòng trung tâm là
đạo đức, là giữ bền gốc thiện. Ví dụ nhƣ nhà báo có thể viết về các gƣơng sáng làm giàu,
nhƣng không phải làm giàu bằng bất kỳ giá nào mà phải làm giàu một cách chính đáng,
giúp nhau cùng vƣợt khó làm giàu. Đó mới là đạo đức của con ngƣời thời kỳ mới. Xã hội
càng phát triển, càng cần những tấm gƣơng trong sáng mới để chống lại những mặt trái

24


×