Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Phát triển nghề thủ công mỹ nghệ trên địa bàn thành phố huế, tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (742.68 KB, 76 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Được biết đến là một trung tâm kinh tế - văn hóa – xã hội của vùng kinh tế trọng điểm
miền trung Thành phố Huế vừa được công nhận là thành phố văn hóa của ASEAN.
Đây là nơi đã gắn bó với truyền thống lịch sử lâu đời, tồn tại nhiều nét văn hóa của cố
đô, gắn với những đặc điểm chung về lịch sử, truyền thống, văn hóa của đất kinh đô
nên Thành phố Huế có những nét nổi bật để phát triển kinh tế xã hội. Trong chiều dài

Ế

phát triển về cả văn hóa lẫn lịch sử như thế, các nghề TCMN đã trở thành biểu tượng

U

cũng như là lý do mà mà rất nhiều du khách nước ngoài đến với Huế. Huế cũng là

́H

vùng đất của sự phát triển các nghề truyền thống, tại thời điểm hiện này, thành phố



Huế có đến 38 nghề Tiểu thủ công nghiệp được phân đều ở các xã/phường và được
chia thành 4 nhóm nghề là Thủ công mỹ nghệ với 7 nghề thành phần có 366 cơ sở

H

chiếm 33,87% trong tổng số các cơ sở; nhóm nghề sản xuất hàng tiêu dùng gồm 13
nghề với 1.424 cơ sở chiếm 44,33% trong tổng số các cơ sở; nhóm nghề sản xuất

IN



lương thực thực phẩm gồm 7 nghề với 334 cơ sở chiếm 10,40%; nhóm nghề cuối cùng

K

là phục vụ sản xuất đời sống với 1088 nghề chiếm 33,87% (Cục Thống kê T.T.Huế

̣C

2013; Phòng Kinh tế T.P. Huế, 2104). Theo thời gian, số lượng các cơ sở tham gia

O

hoạt động trong lĩnh vực TCMN không có biến động nhiều, số lượng đơn vị tăng bình

̣I H

quân 3,15 % từ năm 2012 đến 2014, cụ thể, tổng số đơn vị trong năm 2014 là 366 đơn
vị (Phòng Kinh tế T.P. Huế, 2014). Trong quá trình tồn tại và phát triển, bên cạnh

Đ
A

những thành tựu đạt được thì sự phát triển của nghề TCMN gặp rất nhiều khó khăn và
trở ngại như: hầu hết các cơ sở sản xuất đều tổ chức nhỏ lẻ phát triển theo hộ gia đình,
thiếu liên kết, kém hiệu quả, cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu, không đảm bảo vệ sinh
môi trường, khả năng thu hút đầu tư thấp (UBND TP.Huế, 2014). Về mẫu mã sản
phẩm đơn điệu, chưa hấp dẫn, chất lượng sản phẩm còn hạn chế. Sản xuất hàng
TCMN chủ yếu mang tính tự phát, thiếu quy hoạch tổng thể và định hướng phát triển
dài hạn (UBND T.T. Huế, 2014). Bên cạnh đó, các chính sách hỗ trợ chưa đạt hiệu quả

cao, chưa tạo được tiền đề vững chắc cho sự phát triển bền vững của ngành TCMN.
Liên quan đến các nghiên cứu ở lĩnh vực này trước đó, tổ chức JICA Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn (2002) đã thực hiện đề tài Nghiên cứu qui hoạch phát triển ngành
1


nghề thủ công theo hướng CNH nông thôn Việt Nam; Liên Minh (2009) đã nghiên cứu
đề tài Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển làng nghề được đăng ở hội chợ triển lãm
làng nghề Việt Nam 2009 và BTC Festival nghề truyền thống Huế 2009, bên cạnh đó
còn một số nghiên cứu khác ở Etiopia năm 2011. Các nghiên cứu này đã đưa ra một số
quan đánh giá sơ bộ liên quan đến các nghề TCMN, đồng thời đưa ra những giải pháp
tổng thể nhằm định hướng phát triển cho lĩnh vực này, tuy nhiên, đối với nghề TCMN
ở Huế vẫn chưa có nghiên cứu nào cụ thể liên quan đến khía cạnh hiệu quả kinh tế, thị
trường tiêu thụ sản phẩm và các giải pháp phát triển cho các nghề này.

Ế

Vì vậy cần có nghiên cứu cụ thể để nắm bắt thực trạng để từ đó đưa ra những định

U

hướng và giải pháp cần thiết để hướng đến phát triển nghề TCMN một cách toàn diện

́H

và bền vững. Xuất phát từ những vấn đề cấp thiết trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề



tài ‘‘Phát triển nghề thủ công mỹ nghệ trên địa bàn thành phố Huế, tỉnh Thừa


1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

H

Thiên Huế”.

IN

- Mục tiêu chung: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn của đề tài, đánh giá thực
trạng, đề tài đưa ra các giải pháp nhằm phát triển nghề thủ công mỹ nghệ trên địa bàn

K

thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế

̣C

- Mục tiêu cụ thể:

O

+ Hệ thống hóa những cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển nghề thủ công mỹ nghệ;

̣I H

+ Đánh giá thực trạng một số nghề thủ công mỹ nghệ điển hình ở thành phố Huế, tỉnh
Thừa Thiên Huế;

Đ

A

+ Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm phát triển nghề thủ công mỹ nghệ ở thành phố
Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: nghề TCMN trên địa bàn thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên
Huế.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.
+ Về thời gian: số liệu thứ cấp được thu thập từ giai đoạn 2010 - 2014; số liệu sơ cấp
được thu thập trong năm 2015 về tình hình sản xuất kinh doanh của các cơ sở trong
năm 2014.
2


1.4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
1.4.1. Thu thập số liệu
+ Đối với số liệu thứ cấp: các số liệu được thu thập từ các báo cáo phát triển ngành/
nghề TCMN, các chiến lược quy hoạch và phát triển làng nghề truyền thống của sở
Công thương tỉnh Thừa Thiên Huế, các báo cáo từ phòng kinh tế Thành phố Huế.
Ngoài ra, các số liệu cũng được thu thập từ các trang wed liên quan đến lĩnh vực
TCMN để có cách nhìn tổng quan về thực trạng phát triển của lĩnh vực này .Bên cạnh
đó, các bài báo chuyên ngành cũng được tác giả tham khảo để sử dụng cho đề tài

U

Ế

nghiên cứu của mình.


+ Đối với số liệu sơ cấp: do giới hạn về mặt thời gian và kinh phí nên nghiên cứu chỉ

́H

tiến hành thu thập 90 mẫu điều tra với số lượng mẫu được xác định trước (quota



sampling). Cụ thể, nhóm tác giả đã chọn nghiên cứu ba nghề đó là thêu ren, đúc đồng
và mộc mỹ nghệ. Chọn mẫu theo phương pháp tỷ lệ với số mẫu như sau: thêu ren: 25;

H

đúc đồng 30 và mộc mỹ nghệ 35. Bên cạnh đó, chúng tôi đã tham khảo ý kiến từ các

IN

chuyên viên từ phòng kinh tế để có nắm bắt những thông tin cơ bản nhất về lĩnh vực
điều tra. Số liệu được thu thập bằng bảng hỏi điều tra với phần lớn là các câu hỏi đóng

K

để thu thập thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh của các cơ sở, các khó khăn mà

̣C

các cơ sở gặp phải cũng như vấn đề về vấn đề đầu vào và đầu ra sản phẩm. Các câu

O


hỏi mở cũng được sử dụng ở phần kiến nghị của các cơ sở đối với chính quyền địa

̣I H

phương và các ban ngành chức năng có liên quan.

Đ
A

1.4.2. Nhập số liệu

Các bảng hỏi sau khi được thu thập đầy đủ các thông tin, chúng tôi tiến hành làm sạch
và nhập các bảng hỏi vào file nhập được thiết kế sẳn bằng phần mềm SPSS phiên bản
23.
1.4.3. Xử lý số liệu
- Phương pháp hạch toán kinh tế: phương pháp này được áp dụng để tính toán một
số chỉ tiêu phản ánh kết quả như tổng giá trị sản xuất (GO), giá trị gia tăng (VA), chi
phí trung gian (IC) và các chỉ tiêu hiệu quả như GO/IC, VA/ IC... Đây cũng là cơ sở để
đánh giá thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của các cơ sở thuộc nghề TCMN.

3


- Phương pháp phân tổ thống kê: đây là một phương pháp khá phổ biến trong việc
phân tích ảnh hưởng của các chỉ tiêu đầu ra, mà cụ thể trong nghiên cứu này chính là
các chỉ tiêu phản ánh kết quả và hiệu quả kinh tế. Bằng việc phân tổ các cơ sở sản xuất
kinh doanh theo một số tiêu chí nhất định như IC hoặc quy mô lao động để xem xét sự
thay đổi về kết quả và hiệu quả kinh tế của các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các
nhóm tổ khác nhau nhằm đưa ra những khuyễn nghị cho các cơ sở nên lựa chọn đầu tư
sản xuất ở mức độ nào theo các yếu tố ảnh hưởng. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng


và các tiêu chí như vốn, lao động và chi phí trung gian.

Ế

kiểm định Chi-square để kiểm định mối quan hệ giữa kết quả và hiệu quả kinh tế

́H

tiêu chí như chi phí trung gian, vốn hay lao động.

U

+ Giả thiết Ho: không có mối quan hệ giữa kết quả và hiệu quả kinh tế với các



+ Đối thiết H1: có mối quan hệ giữa kết quả và hiệu quả kinh tế với các tiêu chí
(Oij  Eij )2
Eij

IN

Giá trị Chi – Square:  2 

H

như chi phí trung gian, vốn hay lao động.

Trong đó:


K

+  2 được dùng để kiểm định

̣C

+ Oij: cho biết số trường hợp có thể quan sát được trong một ô cụ thể của bảng

O

chéo;

̣I H

+ Eij: cho biết số trường hợp được mà chúng ta kỳ vọng trong một ô cụ thể cảu
bảng chéo trong trường hợp nó không thể hiện mối quan hệ giữa các biến.

Đ
A

c: số cột;

r: số dòng;

+ Eij = (Ri x Ci)/ n
Ri: số quan sát trên dòng thứ i;
Ci: số quan sát ở cột thứ i;
Bác bỏ Ho nếu:  2 >  2 (r-1)(c-1), 
Chấp nhận Ho nếu:  2 <  2 (r-1)(c-1), 

Trong đó  là mức ý nghĩa và bậc tự do là (r-1)(c-1)

+ Phương pháp kiểm định giá trị trung bình: thông qua việc tính toán các tiêu chí
năng lực của chủ cơ sở, vốn, chi phí, kết quả sản xuất kinh doanh, tiến hành kiểm định
4


sự khác nhau giá trị trung bình giữa các tiêu chí được đưa ra trong 3 nghề được nghiên
cứu.
+ Sử dụng kiểm định F.test, phân tích Anova, cụ thể :
Với giả thiết : - Ho : có sự khác nhau về các tiêu chí giữa 3 nghề (Ho: µ1 = µ2 = µ3 =
…= µn)
- H1 : không có sự khác nhau về các tiêu chí giữa 3 nghề (H1: µ1 # µ2 #
µ3 # …# µn)
Bác bỏ Ho nếu F QS < F KĐ = F a, k-1, n-k

Ế

Chấp nhận Ho nếu F QS > F KĐ = F a, k-1, n-k

U

Bên cạnh đó, chúng tôi còn sử dụng một số phương pháp khác như là lấy ý kiến của

Đ
A

̣I H

O


̣C

K

IN

H



́H

chyên gia, phương pháp thảo luận nhóm.

5


II. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ PHÁT TRIỂN NGHỀ
THỦ CÔNG MỸ NGHỆ
1.1. Những vấn đề chung về phát triển nghề thủ công mỹ nghệ
1.1.1. Các khái niệm
- Phát triển: đây là một khái niệm không còn mấy xa lạ, để hiểu được khái niệm tăng

Ế

trưởng chúng ta cũng cần hiểu qua về khái niệm tăng trưởng. Có nhiều quan điểm khác

U


nhau về tăng trưởng, tuy nhiên tựu chung lại đó là sự gia tăng về mặt số lượng của các

́H

chỉ tiêu đánh giá qua một thời gian nhất định, có thể là quý, năm hay là giai đoạn. Trở
lại với khái niệm phát triển, đó là sự gia tăng về số lượng kết hợp với sự biến đổi về



mặt chất lượng, chất lượng đây có thể là sự thay đổi về thể chế, an sinh xã hội cũng
như là các vấn đề về công bằng xã hội. Đối với phát triển nghề TCMN, phát triển ở

H

đây có thể hiểu rằng, đó là sự gia tăng về giá trị gia tăng, tạo ra được các công ăn việc

IN

làm, nâng cao thu nhập cho người lao động. Bên cạnh đó có thể là sự giảm thiểu các

K

vấn đề liên quan đến ô nhiễm môi trường.

- Nghề truyền thống, làng nghề, làng nghề truyền thống:

̣C

Căn cứ Nghị định số 86/2003/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2003 của Chính phủ về


O

phát triển ngành nghề nông thôn:

̣I H

- Nghề truyền thống là nghề đã được hình thành từ lâu đời, tạo ra những sản phẩm độc

Đ
A

đáo, có tính riêng biệt, được lưu truyền và phát triển đến ngày nay hoặc có nguy cơ bị
mai một, thất truyền.
- Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc
hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn, có các hoạt động ngành
nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau.
- Làng nghề truyền thống là làng nghề có nghề truyền thống được hình thành từ lâu
đời.
Nghề được công nhận là nghề truyền thống phải đạt 03 tiêu chí sau:
+ Nghề đã xuất hiện tại địa phương từ trên 50 năm tính đến thời điểm đề nghị công
nhận;
+ Nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hoá dân tộc;
6


+ Nghề gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi của làng nghề.
- Tiêu chí công nhận làng nghề:
Làng nghề được công nhận phải đạt 03 tiêu chí sau:
+ Có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành nghề nông

thôn;
+ Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời điểm đề nghị
công nhận;
+ Chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Ế

- Tiêu chí công nhận làng nghề truyền thống:

U

Làng nghề truyền thống phải đạt tiêu chí làng nghề và có ít nhất một nghề truyền

́H

thống theo quy định tại Nghị định số 86/2003/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2003 của



Chính phủ.

- Nghề thủ công mỹ nghệ: đây được xem là một bộ phấn cấu thành của nghề thủ công

H

truyền thống. Hiện nay việc đưa ra khái niệm liên quan đến nghề TCMN vẫn chưa

IN

được phát biểu một cách cụ thể. Theo từ điển tiếng anh Oxphord, TCMN (handicraft)

là những hàng hóa được làm chủ yếu bằng tay của nghệ nhân. Những sản phẩm này

K

được làm ra mang đậm tính nghệ thuật, đây là sự kết hợp bởi những kỹ năng của người

̣C

nghệ nhân/ thợ lành nghề. Sản phẩm được làm ra không có số lượng lớn như những

O

sản phẩm được làm bằng máy móc, nhiều loại sản phẩm phải mất rất nhiều thời gian

̣I H

với sự tham gia của nhiều người mới hoàn thành được.
1.1.2. Đặc điểm của nghề thủ công mỹ nghệ

Đ
A

- Tính lịch sử:

Việt Nam là một trong những nước có nghề thủ công lâu đời, nhiều làng nghề, phố
nghề và trung tâm sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ. Nhiều nơi có lịch sử
nghề từ bao thế kỷ, đến nay vẫn được duy trì và phát triển. Sản phẩm TCMN nước ta
rất phong phú, tinh tế. Các nghệ nhân và thợ thủ công Việt Nam tài hoa với đôi bàn tay
khéo léo, trí thông minh, óc thẩm mỹ tinh tế đã tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị nghệ
thuật cao, trong đó có không ít các sản phẩm được lưu giữ như một báu vật vô giá.

Chính vì lẽ đó, những yếu tố mang tính chất kinh nghiệm, truyền thống đã ăn sâu vào
những sản phẩm thủ công mỹ nghệ tạo nên những nét riêng không thể hòa lẫn với các
sản phẩm khác.
7


- Tính văn hóa:
Bản sắc văn hóa của bất cứ dân tộc nào cũng đều là nền tảng cho sự tồn tại của dân tộc
đó. Truyền thống văn hóa được biểu hiện tập trung ở bản sắc văn hóa dân tộc, đó vừa
là động lực cũng là mục tiêu của sự phát triển. Nghề thủ công với những sản phẩm của
nó thật sự đã góp phần tạo nên bản sắc văn hóa của dân tộc và tự nó đã là những di sản
văn hóa của dân tộc. Sản phẩm thủ công có hai loại giá trị truyền thống : một là căn cứ
vào giá trị kỹ thuật như nguyên vật liệu, quy trình sản xuất, kỹ thuật, mẫu mã… và hai
là giá trị văn hóa, bao gồm lối sống truyền thống và di sản của người dân, những câu

Ế

chuyện huyền bí, đức tin về văn hóa xã hội, các nghi lễ và lễ hội. Cả hai yếu tố này

U

được phát triển hàng trăm năm trong môi trường văn hóa Việt Nam và đã trở thành

́H

một di sản văn hóa được kế thừa của cả vùng. Các sản phẩm thủ công gắn bó mật thiết



với cuộc sống con người, được dùng trong các lễ hội và trang trí mang tính tôn giáo

hay được dùng làm hàng hóa và được đánh giá cao vì công dụng và vẻ đẹp của chúng.

H

- Tính phong phú, đa dạng:

IN

Một đặc điểm của các làng nghề TCMN truyền thống ở Việt Nam là được nằm rải rác
trên cả nước, hầu như địa phương nào cũng có những làng nghề với những sản phẩm

K

TCMN truyền thống, gắn với di tích lịch sử, phong tục tập quán và văn hóa ở địa

̣C

phương. Tính đa dạng trên trước hết là do nước ta nằm trong khu vực châu Á – Thái

O

Bình Dương, có khả năng lưu thông và mở cửa thuận lợi ra các nước nên có điều kiện

̣I H

giao lưu, tương tác, hấp thụ những nét văn hóa từ nhiều dân tộc khác; mặt khác, tài
nguyên đất, rừng, biển… của Việt Nam tương đối phong phú, tiềm năng khai thác lớn.

Đ
A


Đặc biệt điều kiện thời tiết, khí hậu, tính đa dạng nhiều vẻ của đất đai, nguồn nước rất
thuận lợi cho phát triển nhiều loại cây trồng, thú rừng, vật nuôi, hải sản… là các loại
nguyên vật liệu cần thiết để ngành nghề TCMN phát triển phong phú.
- Tính mỹ thuật, độc đáo của sản phẩm thủ công mỹ nghệ là sự kết tinh và tính kế tục
qua nhiều thế hệ của lao động thủ công: nghề thủ công ở nước ta cũng như trên thế
giới vẫn tiếp tục tồn tại và có chỗ đứng của mình, vì con người ở mọi nơi, vào mọi thời
đại, ngoài cái tiện lợi, vẫn còn cần đến cái đẹp, ngoài những vật dụng mang tính kỹ
thuật, máy móc, vẫn cần đến những sản phẩm mang tính “nhân văn”, biểu lộ những
trăn trở, suy tư của nghệ nhân, những cái làm nên nét độc đáo của từng sản phẩm thủ
công. Sản phẩm thủ công ngày càng hấp dẫn người tiêu dùng, chủ yếu là do những
8


biến đổi trong xã hội những năm gần đây. Sự đồng cảm về các vấn đề môi trường đã
dẫn tới nhu cầu tái tạo thiên nhiên và lối sống “hòa mình với thiên nhiên”, đa dạng văn
hóa.
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nghề thủ công mỹ nghệ
Có rất nhiều tiêu chí phân loại khác nhau về các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển
nghề tiểu thủ công nghiệp. Phân loại theo mức độ tác động có thể chia thành yếu tố vĩ
mô và yếu tố vi mô. Các yếu tố vĩ mô liên quan đến thể chế chính sách của nhà nước.
Yếu tố vi mô chủ yếu liên quan đến cơ sở/hộ kinh doanh như quy mô vốn, số lượng

U

Ế

lao động. Phân loại theo thời gian bao gồm các yếu tố ảnh hưởng trong ngắn hạn,
trung hạn và dài hạn. Quan điểm về thời gian tác động phụ thuộc vào lĩnh vực/ngành


́H

nghề TCMN cụ thể. Trong nghiên cứu này, chúng tôi kết hợp nhiều tiêu chí khác nhau



và chỉ xem xét một số nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến sự phát triển ngành nghề TCMN.
Một số nhân tố được đưa ra sẽ được minh chứng ở nội dung liên quan đến ngành nghề

H

TCMN tại Thừa Thiên Huế. Cụ thể, các nhân tố ảnh hưởng bao gồm: điều kiện tự

IN

nhiên, dân cư và lao động, thị trường vốn, thị trường đầu vào đầu ra, nhân tố thuộc về

K

chính sách và một các nhân tố khác.
- Điều kiện tự nhiên

̣C

Điều kiện tự nhiên đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển ngành nghề tiểu thủ

O

công nghiệp. Tầm quan trọng được thể hiện ở chỗ góp phần quyết định đến sự hình


̣I H

thành cơ cấu ngành nghề tại địa phương. Sự phong phú về tài nguyên thiên nhiên được
xem như là một điểm mạnh cho việc phát triển ngành nghề TTCN vì nó cũng là một

Đ
A

trong những đầu vào quan trọng trong quá trình sản xuất. Bên cạnh đó, các lợi thế/bất
lợi về địa điểm sẽ có mối quan hệ mật thiết tới sự thành công của việc phát triển
TTCN của một địa phương.
- Dân cư và lao động
Nhân tố này được coi là một nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế nói chung,
ngành nghề TCMN nói riêng. Đây là nhân tố vừa đóng vai trò là đầu vào của quá trình
sản xuất kinh doanh đồng thời cũng là thị trường tiêu thụ hàng hóa được sản xuất ra
(Nguyễn Tiến Dũng, 2008). Các nghề TCMN muốn phát triển một cách đúng hướng
và bền vững rất cần có nguồn lực lao động dồi dào với tay nghề cao, am hiểu các yếu
tố văn hóa, truyền thống, biết cách kết hợp các yếu tố truyền thống và hiện đại vào quá
9


trình sản xuất để tạo ra các sản phẩm mang giá trị cao, đặc biệt đối với các nhóm nghề
như thủ công mỹ nghệ truyền thống (Đỗ Xuân Luận, 2009; Võ Văn Chí Công, 2013).
- Thị trường
Phải xem xét nhân tố này trên hai góc độ đó là thị trường các yếu tố đầu vào và thị
trường đầu ra của sản phẩm. Với chi đầu vào rẻ, chất lượng ổn định sẽ góp phần làm
tăng chất lượng của sản phẩm đầu ra, hàng hóa được sản xuất ra nhiều hơn với sự ổn
định cao hơn. Tuy nhiên, nếu thị trường đầu ra sản phẩm bấp bênh thì đây chính, thì
đây chính là trở lực lớn nhất đối với nhà sản xuất. Hiện nay phần lớn các sản phẩm nói


Ế

chung và các sản phẩm của nghề TCMN nói riêng chủ yếu phục vụ nhu cầu trong

U

nước, vậy nên việc tìm kiếm thị trường nước ngoài sẽ góp phần ổn định đầu ra cho các

́H

sản phẩm (Mai Thế Hởn, 2010; Bạch Thị Lan Anh, 2010). Thêm vào đó, về khía cạnh



thế mạnh của các nghề TTCN, những nghề có khả năng thích ứng với sự thay đổi nhu
cầu của thị trường thường có sự phát triển nhanh chóng; những nghề mà sản phẩm của

H

nó phù hợp với nhu cầu của xã hội, có khả năng tiêu thụ lớn thì vẫn phát triển bình

IN

thường (Võ Văn Chí Công, 2013; Bạch Thị Lan Anh, 2010).
- Vốn phát triển sản xuất kinh doanh

K

Vốn là yếu tố đóng vai trò quan trọng đối với bất kỳ quá trình sản xuất, kinh doanh


̣C

nào. Sự tồn tại vàphát triển của các nghề TCMN cũng chịu sự tác động của nhân tố

O

vốn sản xuất. Những năm về trước, vốn sản xuất kinh doanh của các cơ sở sản xuất

̣I H

kinh doanh TCMN rất nhỏ bé, thường là vốn tự có của gia đình hoặc vay mượn của bà
con họ hàng, láng giềng, nên việc mở rộng quy mô là rất khó khăn. Trong bối cảnh

Đ
A

hiện nay, nhà Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương nhằm hỗ trợ để bảo tồn, duy
trì và phát triển các nghề TCMN, trong đó có các hỗ trợ về vay vốn với lãi suất ưu đãi,
khả năng tiếp cận vốn được dễ dàng hơn tuy nhiên vẫn còn không ít khó khăn. Do đó,
vốn sẽ tham gia vào các quá trình như đầu tư, cải tiến công nghệ, đưa thiết bị, máy
móc tiên tiến cũng như là nghiên cứu thị trường hoặc tham gia tập huấn nâng cao trình
độ kỹ năng cho đội ngũ lao động.
- Trình độ kỹ thuật và công nghệ
Trình độ kỹ thuật và công nghệ sản xuất có ảnh hưởng rất quan trọng đối với bất kỳ
ngành nghề nào, sản phẩm nào. Ngày nay, hoạt động sản xuất kinh doanh ngay cả
những ngành nghề mang tính chất truyền thống cũng không thể thiếu yếu tố công
10


nghệ. Yếu tố công nghệ tác động trực tiếp đến năng suất lao động, chất lượng và giá

thành sản phẩm, cũng như là đến năng lực cạnh tranh của các sản phẩm hàng hóa trên
thị trường và cuối cùng là quyết định đến sự tồn tại hay mai một của một cơ sở sản
xuất, một ngành nghề nào (Bạch Thị Lan Anh, 2010). Hiện nay, phần lớn các cơ sở
sản xuất TCMN vẫn sử dụng thiết bị thủ công, công nghệ cổ truyền chủ yếu dựa vào
kinh nghiệm có tính chất cha truyền con nối trong từng hộ gia đình là chính. Bởi vậy,
sản phẩm sản xuất ra với năng suất, số lượng và chất lượng sản phẩm thấp kém, không
đồng bộ, giá thành cao, hạn chế khả năng cạnh tranh của các sản phẩm làng nghề. Để

Ế

đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, đáp ứng được nhu

U

cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, các cơ sở sản xuất kinh doanh không thể không

́H

đổi mới trang thiết bị, cải tiến áp dụng một số tiến bộ khoa học công nghệ vào sản



xuất.
- Cơ chế chính sách

H

Cơ chế chính sách của Nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển hay suy vong

IN


của các ngành nghề TCMN. Việc nhà nước có sự hỗ trợ trong việc phát triển TCMN
sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tương lai của các nghề được hỗ trợ và những ngành nghề

K

không được hỗ trợ. Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, khi các hộ gia đình

̣C

được công nhận là chủ thể kinh tế độc lập tự chủ trong nông thôn, các doanh nghiệp tư

O

nhân được phép phát triển chính thức, thì các nghề TCMN đã có điều kiện phục hồi và

̣I H

phát triển mạnh. Chính sách mở cửa hội nhập nền kinh tế nước ta với khu vực và thế
giới cũng làm cho một số sản phẩm có điều kiện phát triển vì mở rộng được thị trường,

Đ
A

nhất là hàng thủ công mỹ nghệ, trong đó có sản phẩm thêu ren truyền thống, nhưng
đồng thời cũng tạo điều kiện cho hàng nước ngoài tràn vào thị trường trong nước khá
nhiều, làm cho sản phẩm của các làng nghề khó có thể cạnh tranh nổi với sản phẩm
ngoại nhập, làm hạn chế sự phát triển của một số làng nghề (Võ Văn Chí Công 2013;
Mai Thế Hởn, 2010). Vì thế, khi tham gia cuộc chơi với tính chất mở cửa thì cần chấp
nhận đánh đổi và trả giá giữa cái được và cái mất đi, điều này cũng có nghĩa là trong

các nghề TCMN, một số nghề sẽ đứng vững và một số ngành sẽ bị mai một do không
chịu được sức ép từ phía thị trường. Và, nhà nước tùy vào điều kiện cụ thể sẽ có những
chính sách và tác động để tiếp tục duy trì nghề đó hay không, bởi vì sự tồn tại của một
số nghề còn liên quan đến bản sắc văn hóa dân tộc.
11


1.1.4. Hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu
* Chỉ tiêu chi phí
- Chi phí trung gian (Intermediate Costs - IC) là giá trị hàng hoá và dịch vụ (chi phí
vật chất và chi phí dịch vụ) sử dụng trong quá trình sản xuất để tạo ra hàng hoá và dịch
vụ khác trong một thời kỳ nhất định. Chi phí trung gian trong hoạt động sản xuất bao
gồm chi phí vật chất trực tiếp và chi phí dịch vụ thuê.
IC = chi phí vật chất + chi phí dịch vụ (mua hoặc thuê ngoài)
+ Chi phí vật chất bao gồm: nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu (xăng, dầu, diezen, …),

Ế

điện, nước, chi phí vật chất khác.

U

+ Chi phí dịch vụ: Phí vận tải, phí bưu điện, quảng cáo, chi vệ sinh, môi trường, chi

́H

phí dịch vụ khác.




* Các chỉ tiêu kết quả

- Tổng giá trị sản xuất (Gross output - GO): Là tổng thu nhập của một loại mô hình

H

(gồm các loại sản phẩm) hoặc một đơn vị diện tích;

IN

GO=ΣQi*Pi,
Trong đó: Qi là khối lượng sản phẩm thứ i, Pi là giá sản phẩm thứ i

K

- Giá trị tăng thêm hay giá trị gia tăng (Value Added – VA): Là chỉ tiêu phản ánh

̣C

những phần giá trị do lao động sản xuất ra trong một thời kỳ nhất định. Đó chính là

VA = GO – IC

̣I H

O

một bộ phận của giá trị sản xuất còn lại sau khi trừ đi chi phí trung gian.

- Thu nhập hỗn hợp (MI): Là phần thu nhập thuần túy bao gồm cả công lao động của


Đ
A

gia đình tham gia sản xuất và các yếu tố bằng vật chất có nguồn gốc từ gia đình.
MI = VA – Khấu hao – Thuế, phí, lệ phí

* Các chỉ tiêu hiệu quả
- GO/IC: hay còn gọi giá trị sản xuất tính cho 1 đơn vị chi phí trung gian. Chỉ tiêu
này cho biết cứ 1 đơn vị chi phí trung gian bỏ ra thì thu được bao nhiêu đơn vị giá trị
sản xuất.
- VA/IC: hay còn gọi giá trị gia tăng tính cho 1 đơn vị chi phí trung gian. Chỉ tiêu
này cho biết cứ 1 đơn vị chi phí trung gian bỏ ra thì thu được bao nhiêu đơn vị giá trị
gia tăng.

12


- MI/IC: hay còn gọi thu nhập hốn hợp tính cho 1 đơn vị chi phí trung gian. Chỉ tiêu
nàycho biết cứ 1 đơn vị chi phí trung gian bỏ ra thì thu được bao nhiêu đơn vị thu nhập
hỗn hợp.
- VA/GO: Chỉ tiêu này cho biết trong 1 đồng giá trị sản xuất ta tích lũy được bao nhiêu
đồng giá trị gia tăng, đây là nguồn thu thực tế trong quá trình đầu tư sản xuất.
- GO/LĐ: Tổng giá trị sản xuất nông nghiệp trên tổng số ngày công lao động của một
chu kỳ sản xuất. Cho biết một ngày công lao động tạo ra bao nhiêu giá trị sản xuất.
- VA/LĐ: Giá trị gia tăng trên tổng số ngày công lao động của một chu kỳ sản xuất

Ế

phản ánh một ngày công lao động tạo ra bao nhiêu giá trị gia tăng.


U

- GO/ K: Tổng giá trị sản xuất nông nghiệp trên tổng số vốn đầu tư của một chu kỳ sản

́H

xuất. Cho biết một đồng vốn đầu tư tạo ra bao nhiêu đồng giá trị sản xuất.



- VA/ K: Giá trị gia tăng trên tổng vốn đầu tư của một chu kỳ sản xuất phản ánh một
đồng vốn đầu tư tạo ra bao nhiêu đồng giá trị gia tăng.

H

- MI/ K: Thu nhập hỗn hợp trên tổng vốn đầu tư của một chu kỳ sản xuất phản ánh một

IN

đồng vốn đầu tư tạo ra bao nhiêu đồng thu nhập hỗn hợp.

K

1.2 Tình hình phát triển nghề thủ công mỹ nghệ một số nuớc trên thế giới và ở
Việt Nam

O

- In đô nê xi a


̣C

1.2.1 Các nước trên thế giới

̣I H

Đây là nước có diện tích tương đối lớn, đông dân nhất Đông Nam Á. Vấn đề CNH

Đ
A

nông thôn chưa được In đô nê xi a đặt ra một cách mạnh mẽ như Trung Quốc và các
nước Đông-Bắc Á, nhưng chính phủ cũng có chú trọng đến các hoạt động kinh tế
ngoài nông nghiệp ở nông thôn. Chính phủ In đô nê xi a đã đề ra chương trình phát
triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn trong các kế hoạch 5 năm, tổ chức
ra trung tâm trợ giúp công nghiệp nhỏ, đặt mối quan hệ với công nghiệp lớn, có
chương trình nghiên cứu tiềm năng sản xuất, nhu cầu thị trường, làm cơ sở cho việc
phát triển công nghiệp nhỏ. Chính phủ đã đề ra những chính sách khác nhau trong đó
chú ý đến chính sách khuyến khích về thuế và ưu tiên công nghiệp nhỏ chế biến nông
sản xuất khẩu. Cùng với việc đề ra chính sách, chính phủ đã tổ chức ra Hội đồng thủ
công nghiệp quốc gia Inđônêxia nhằm thúc đẩy các ngành tiểu thủ công nghiệp phát
triển như tổ chức thi thiết kế mẫu mã, tổ chức hôi chợ triển lãm các sản phẩm tiêu thủ
13


công nghiệp và Trung tâm phát triển tiểu thủ công nghiệp để quản lý, hỗ trợ tiểu thủ
công nghiệp. Những nổ lực của In đô nê xi a trong lĩnh vực công nghiệp hóa nông thôn
đã đem lại một số hiệu quả nhất định. Ở đảo Java, số liệu điều tra ở 10 làng có nghề
thủ công cho thấy 44% lao động nông thôn có tham gia ít hoặc nhiều vào các hoạt

động kinh tế ngoài nông nghiệp (19% làm ở các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp và
16% làm ở các cơ sở dịch vụ nông thôn). Thu nhập của nông dân ở đây từ các nguồn
ngoài nông nghiệp trong mấy năm gần đây tăng từ 12% lên 23% tổng thu nhập. In-đônê-xi-a là nhà cung cấp sản phẩm mây lớn nhất thế giới. Các sản phẩm làm bằng mây

Ế

không thể được chế tạo bằng máy móc nên phải làm bằng tay, khá phức tạp, nhưng lại

U

là sản phẩm thời trang cao cấp đối với người tiêu dùng. Ngoài việc có nguồn nguyên

́H

liệu dồi dào, nhiều yếu tố khác đã tạo nên sự thành công của thị trường đồ gia dụng



bằng mây trên thị trường. Chính quyền In đô nê xi a và JETRO khuyến khích các nhà
chế biến In đô nê xi a tham gia các cuộc triển lãm thương mại ở Nhật. Nhật Bản nhập

H

độ 10% về số lượng hàng năm của In đô nê xi a.

IN

- Thái Lan

Thái Lan là nước có diện tích canh tác bình quân đầu người đạt 3.756 m2, diện tích


K

bình quân của một nông dân là 4,5 hecta, cao nhất ở Đông Nam Á. Trong những năm

̣C

60 của thế kỷ trước, Thái Lan vẫn còn là một nước lạc hậu, yếu kém về nông nghiệp

O

và công nghiệp nên họ đã lựa chọn con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa, để nâng

̣I H

cao mức sống của người dân nông thôn, đi đôi với việc khuyến khích phát triển nông
nghiệp theo hướng xuất khẩu. Chính phủ Thái Lan chủ động phát triển các ngành nghề

Đ
A

TTCN và công nghiệp nông thôn, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo
hướng công nghiệp hóa.Các ngành nghề truyền thống, thủ công mỹ nghệ như chế tác
vàng bạc đá quý và đồ trang sức, được duy trì và phát triển tạo ra nhiều hàng hóa xuất
khẩu đứng vào loại thứ hai trên thế giới, do kết hợp được tay nghề của các nghệ nhân
lành nghề với công nghệ, kỹ thuật, thiết bị hiện đại. Kim ngạch xuất khẩu mỹ nghệ,
vàng bạc, đá quý năm 1990 đạt 2 tỷ USD.
Nghề gốm sứ cổ truyền ở Thái Lan trước đây chỉ sản xuất để đáp ứng nhu cầu trong
nước. Gần đây ngành này đã phát triển theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa và
trở thành mặt hàng xuất khẩu thu ngoại tệ lớn thứ hai sau gạo. Trung tâm sản xuất đồ

gốm lớn nhất ở Thái Lan là Chiangmai đang được phát triển đi vào sản xuất với khối
14


lượng lớn cả 3 mặt hàng: đồ gốm truyền thống (gồm các đồ dùng sinh hoạt hằng
ngày), hàng gốm sứ công nghiệp (bao gồm gốm xây dựng, gốm cách điện, chịu lửa),
hàng gốm sứ mới (gồm các vật thể hóa học, quang học, gốm điện...). Cho đến nay 95%
hàng gốm xuất khẩu của Thái Lan là đồ trang trí nội thất và đồ lưu niệm. Để nâng cao
chất lượng sản phẩm, Thái Lan đang xúc tiến nâng cao tay nghề cho công nhân của 93
xí nghiệp gốm ở Chiềng Mai và Lam Pang.
- Nhật Bản
Nghề thủ công truyền thống của Nhật Bản có truyền thống lâu đời. Từ thời cổ đại,

Ế

nghề gốm, điêu khắc ở Nhật Bản đã ra đời và phát triển. Các giai đoạn lịch sử tiếp theo

U

nhiều ngành nghề TCTT xuất hiện và có những bước phát triển đáng kể như : nghề rèn

́H

đúc kim loại, nghề gốm, nghề sơn mài… Về nghề dệt, đến thế kỷ thứ VIII, nghệ thuật



dệt đã đạt tới đỉnh cao với nhiều sản phẩm đa dạng và tuyệt mỹ. Thời đại Edo (16151866) được gọi là kỳ nguyên vàng của nghề TCTT với các loại hàng hóa sản xuất trên

H


khắp đất nước Nhật Bản. Ba nghề thủ công phát triển rực rỡ nhất là nghề gốm sứ, nghề

IN

sơn và nghề dệt. Giai đoạn 1868-1926, dưới ảnh hưởng của công cuộc Minh Trị duy
tân, trên đất nước Nhật Bản đã diễn ra một sự thay đổi mãnh liệt do tiếp xúc với nền

K

văn minh phương Tây. Vị trí các ngành nghề TCTT dần mất đi vị trí vốn có của nó

̣C

trong đời sống của người dân Nhật Bản trước đây. Vì vậy, người Nhật đang có sự nhận

O

thức và đánh giá lại vai trò của ngành nghề TCTT đối với việc nâng cao chất lượng

̣I H

cuộc sống, bảo vệ môi trường.
Trong quá trình CNH, những ngành nghề tiểu thủ công nghiệp cổ truyền ở Nhật Bản

Đ
A

không những không bị mai một mà trái lại nó vẫn được duy trì và phát triển ở nông
thôn, trong các hộ nông dân, các làng nghề và thị trấn có nghề truyền thống. Qua kết

quả điều tra thống kê, ở Nhật Bản có 876 nghề tiểu thủ công nghiệp khác nhau như chế
biến lương thực, thực phẩm bằng nông sản, thủy sản (như bột gạo, miến, đậu phụ,
tương, dấm, rượu sakê, mắm…), nghề đan lát bằng tre nứa, nghề dệt chiếu, bao tải
bằng rơm, nghề thủ công mỹ nghệ (gốm sứ, sơn mài, chạm khắc gỗ), nghề dệt lụa may
áo kimônô, nghề rèn nông cụ với công nghệ cổ truyền rèn kiếm Nhật nổi tiếng… Nghề
cổ truyền sơn mài đã trải qua những bước thăng trầm trong cơ chế thị trường của thời
kỳ CNH, có thời kỳ thịnh vượng và có lúc suy thoái. Nghề rèn là nghề thủ công cổ
truyền của nhiều làng nghề và thị trấn ở Nhật Bản, thị trấn TAKEO, tỉnh GIFU là một
15


trong những địa phương có nghề rèn cổ truyền từ 700-800 năm nay, đến nay vẫn tiếp
tục hoạt động sôi nổi. Vào những năm 1970, ở tỉnh OITA (miền Tây Nam Nhật Bản)
đã có phong trào “Mỗi thôn làng một sản phẩm” nhằm phát triển ngành nghề cổ
truyền. Kết quả là ngay từ năm đầu tiên họ đã sản xuất được 143 loại sản phẩm, thu
được 358 triệu USD, đến năm 1992 sản xuất thu được 1,2 tỷ USD, trong đó có 378
triệu USD bán rượu đặc sản Sakê của địa phương, 114 triệu USD các mặt hàng thủ
công mỹ nghệ. Phong trào phát triển các ngành nghề cổ truyền “Mỗi thôn làng mỗi sản
phẩm” đó nhanh chóng lan rộng ra khắp nước Nhật. Nhìn chung ở Nhật Bản nhiều

Ế

ngành nghề thủ công bị giảm sút nhiều khi trở thành nước công nghiệp phát triển.

U

- Ấn Độ

́H


Ấn Độ là nước có dân số đứng thứ hai trên thế giới (sau Trung Quốc), Ấn Độ có nền



văn minh và văn hóa dân tộc lâu đời, được thể hiện rõ qua các nghề thủ công cổ truyền
đặc sắc. Hàng chục triệu người Ấn Độ đến nay vẫn đang sinh sống bằng các nghề thủ

H

công. Sản phẩm làm ra tiêu thụ ở thị trường trong nước và xuất khẩu với doanh thu

IN

mỗi năm trên 1.000 tỷ rupi.

Chính phủ Ấn Độ đặc biệt quan tâm và đề ra nhiều biện pháp và các chính sách để bảo

K

tồn và phát triển các nghề tiểu thủ công mỹ nghệ tinh hoa của dân tộc, tạo ra sự ưu thế

̣C

vươn ra thị trường thế giới. Chính phủ đã tổ chức các trung tâm phát triển công nghệ

O

và thiết kế mẫu mã cho các mặt hàng thủ công mỹ nghệ ở nhiều nơi như Niuđêli,

̣I H


Cancutta, Mumbay, Bănggalo nhằm nghiên cứu, thiết kế mẫu mã và công nghệ, bảo
tồn những nét đặc sắc của mặt hàng thủ công mỹ nghệ ở Ấn Độ. Các trung tâm còn

Đ
A

nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới, tạo ra mẫu mã đa dạng, hợp với thị hiếu của
khách hàng trong và ngoài nước. Riêng các trung tâm ở Mumbay và Bănggalo còn tập
trung nghiên cứu tạo dáng cho hàng mỹ nghệ của các bộ lạc thiểu số và giới thượng
lưu. Không chỉ chú ý mẫu mã, ở Ấn Độ còn có khoảng 400 trung tâm dạy nghề rải rác
ở các vùng trong nước, tập trung ở các bang Utta Prađét, Giamu, Casơmia, Biha để
đào tạo nghề cho các lao động thủ công mỹ nghệ. Cùng với đào tạo tay nghề cho thợ,
Ấn Độ đặc biệt quan tâm đến đội ngũ thợ làng nghề, thợ cả có nhiều kinh nghiệm. 13
trung tâm đào tạo có nhiệm vụ chuyên lo việc nâng cao tay nghề cho thợ cả, nhằm giữ
gìn, khôi phục các làng nghề thủ công cổ truyền đặc sắc có nguy cơ mai một, thất
truyền và bồi dưỡng tay nghề cho các nghệ nhân đặc biệt tài ba đã hoạt động.
16


Thợ cả, các nghệ nhân tài năng có tay nghề cao được coi như vốn quý của quốc gia Ấn
Độ, được nhà nước chú ý quan tâm về vật chất và tinh thần. Từ năm 1950 đến nay,
Chính phủ Ấn Độ đã đặt ra giải thưởng cấp nhà nước trao tặng các thợ cả nghệ nhân
xuất sắc một thẻ chứng nhận của Chính phủ, 10.000 rupi tiền thưởng và một bộ áo
quần của Tổng thống ban tặng. Từ năm 1973 - 1974, mỗi năng nhà nước lại chọn ra 15
thợ cả nghệ nhân xuất sắc và cấp cho mỗi người một khoản trợ cấp hàng tháng 500
rupi và cho đến này hơn 227 nghệ nhân đã được hưởng khoản trợ cấp này.
Ở Ấn Độ, Viện thủ công mỹ nghệ quốc gia là cơ quan nghiên cứu kinh tế kỹ thuật

Ế


phục vụ yêu cầu phát triển các ngành nghề cổ truyền, ngoài việc nghiên cứu khoa học,

U

công nghệ, mẫu mã, mặt hàng, trong thời gian qua còn tổ chức 165 cuộc triển lãm - hội

́H

chợ hàng thủ công mỹ nghệ ở trong nước và nước ngoài, giới thiệu các mặt hàng đặc



sắc của Ấn Độ, nghiên cứu thị trường và tiếp thị để mở rộng thị trường xuất khẩu ra
thể giới .

H

- Kinh nghiệm của Indonesia

IN

Chương trình phát triển ngành nghề TTCN được Chính phủ Inđonesia hết sức quan
tâm bằng việc lần lượt đề ra các kế hoạch 5 năm.

K

+ Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất: Xây dựng các xưởng và trung tâm để bán các sản

̣C


phẩm TTCN của các làng nghề.

O

+ Kế hoạch 5 năm lần thứ hai: Thực hiện các dự án hướng dẫn và phát triển công

̣I H

nghiệp nhỏ nhằm giáo dục, đào tạo, mở mang các hoạt động sản xuất TTCN của
những doanh nghiệp nhỏ.

Đ
A

+ Kế hoạch 5 năm lần thứ ba: Chính phủ đứng ra tổ chức một số cơ quan để quản lý,
chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ cung cấp vật tư thiết bị, tiêu thụ sản phẩm cho các làng
nghề.

Chính phủ đã thiết lập chương trình kết hợp giữa các trung tâm công nghiệp với các
làng nghề truyền thống. Các trung tâm công nghiệp có trách nhiệm giúp đỡ làng nghề
truyền thống nâng cao năng lực quản lý, quy trình công nghệ marketing, cung cấp tài
chính, mua nguyên liệu thô và đứng ra đảm bảo cho làng nghề truyền thống vay vốn
ngân hàng, còn làng nghề truyền thống có nhiệm vụ cung cấp dịch vụ, đồng thời làm
nhiệm vụ gia công cho trung tâm công nghiệp lớn. Thậm chí có lúc trung tâm công
nghiệp lớn còn đứng ra giúp đỡ làng nghề truyền thống bán sản phẩm của mình trên
17


thị trường quốc tế hoặc thường xuyên trao đổi cung cấp thông tin cần thiết về thị

trường xuất khẩu, những mặt hàng đang được ưa chuộng và có nhu cầu lớn trên thị
trường. Có thể nói, sự nỗ lực của Chính phủ trong việc phát triển ngành nghề TTCN ở
nông thôn đã đem lại những hiện quả thiết thực ở Indonesia.
1.2.2 Tình hình phát triển nghề thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam
Trải qua những bước thăng trầm của lịch sử, làng nghề ở nước ta có lúc thịnh, lúc suy,
phát triển mạnh vào những năm 60 - 70 (thế kỷ XX) dưới các hình thức hợp tác xã tiểu
thủ công nghiệp, sau đó phát triển chậm lại vào thập kỷ 80. Đến đầu những năm 90,

U

Ế

nền kinh tế nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, sản phẩm Làng nghề phải
cạnh tranh mạnh mẽ với sản phẩm cùng loại được sản xuất bằng công nghệ tiên tiến có

́H

chất lượng tốt hơn, đẹp hơn, giá cả thấp hơn; do thị trường truyền thống về tiêu thụ sản



phẩm Làng nghề không còn bởi sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
Đông Âu đã làm cho sản xuất ở nhiều Làng nghề đình đốn, thậm chí bị suy thoái, mai

H

một dần.

IN


Cụ thể hóa các chủ trương, quan điểm về phát triển Làng nghề của Đảng, trong những
năm gần đây, Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách để hỗ trợ, khuyến khích

K

phát triển Làng nghề, như Quyết định 132/2001/QĐ/TTg ngày 7 tháng 9 năm 2001 của

̣C

Thủ tướng Chính phủ về cơ chế tài chính phục vụ triển khai các chương trình phát

O

triển đường nông thôn và cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển Làng nghề; Nghị định

̣I H

134/2004/NĐ/CP của Chính phủ về hoạt động khuyến công với 7 nội dung phục vụ
các chương trình hướng dẫn, hỗ trợ, giúp đỡ các Làng nghề, tổ chức, cá nhân, doanh

Đ
A

nghiệp vừa và nhỏ ở vùng nông nghiệp nông thôn; tháng 3/2006, Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn đã xây dựng đề án “mỗi làng một nghề” và phát triển ngành nghề
nông thôn trong giai đoạn công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn đến năm 2015;
ngày 18 tháng 12 năm 2006, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có Thông tư
số 116/2006/TT-BNN về hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số
66/2006/NĐ/CP của Chính phủ về phát triển Làng nghề và ngành nghề nông thôn.
Xuất phát từ thực tế thực hiện Nghị định ngày 18/04/2007, Bộ Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn đã ban hành Chỉ thị số 28/2007/CT-BNN về việc “Đẩy nhanh thực
hiện quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn và phòng chống ô nhiễm môi trường
Làng nghề”. Hiện nay, Chính phủ đang thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây
18


dựng nông thôn mới, trong đó tiêu chí phát triển sản xuất công nghiệp nông thôn đang
được chú trọng.
Trong những năm qua, thực hiện chủ trương hỗ trợ và phát triển nông nghiệp, nông
thôn của Đảng và Nhà nước, các ngành nghề, làng nghề tiểu thủ công nghiệp ở nước
ta đã và đang được khôi phục và phát triển. Việc phát triển tiểu thủ công nghiệp nói
chung và làng nghề truyền thống nói riêng góp phần giải quyết việc làm cho nông thôn
đang có quá nhiều người thất nghiệp; giữ gìn và phát triển văn hóa truyền thống; đặc
biệt tạo ra bộ mặt đô thị mới cho nông thôn. Bên cạnh đó góp phần tạo nhiều việc làm

Ế

cho lao động sẵn có ở địa phương, tăng thu nhập cho người dân, đảm bảo phúc lợi xã

U

hội và hỗ trợ công tác “xóa đói giảm nghèo”. Từ đó có thể giúp địa phương chuyển

́H

dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỉ trọng nông nghiệp tăng tỉ trọng công nghiệp và



dịch vụ, góp phần phát triển nông thôn mới bền vững, công nghiệp hóa - hiện đại hóa

nông nghiệp, nông thôn.

H

Ở Việt Nam, nghề thủ công vốn đã có truyền thống từ lâu đời. Đầu tiên là nghề đẽo đá

IN

cuội thủ công. Theo nhiều nhà khảo cổ học, ở thời đồ đá cũ (cách đây khoảng vài
triệu năm đến 1 vạn năm), con người đã làm ra các sản phẩm thủ công với khoảng 12

K

loại nguyên liệu (đá, gỗ, tre, vỏ sò, vỏ ốc, đất, vỏ cây, dây leo, xương, sừng, ngà,

̣C

da...). Nhưng khi đó thủ công chưa phải là những nghề chuyên nghiệp, nó chỉ phục

O

vụ cho việc hái lượm, săn bắt của con người.

̣I H

Từ thời đại đồ đá mới (10.000 – 6.000 năm về trước), tuy nghề nông ra đời và thủ
công nghiệp dần tách khỏi nông nghiệp và theo hướng chuyên môn hóa. Xã hội loài

Đ
A


người được phân hóa và dần hình thành bên cạnh nghề nông là các nghề thủ công.
Qua nhiều thời kỳ phát triển đến nay có rất nhiều nghề thủ công truyền thống khác
nhau, có thể kể tên các nghề như: nghề gốm sứ, chạm khắc gỗ, đúc đồng, thêu ren,
đan đệm, kim hoàn…
Kim ngạch xuất khẩu hàng tiểu thủ công nghiệp trong những năm qua tuy không lớn
nhưng có vai trò quan trọng trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, là ngành nghề
thu hút nhiều lao động tham gia làm hàng xuất khẩu, góp phần xoá đói giảm nghèo ở
nông thôn. Ngoài ra, kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này mang lại giá trị gia tăng lớn
có thể coi là ngành hàng mũi nhọn để tập trung phát triển xuất khẩu trong các năm tới.
Mặc dù ngành tiểu thủ công nghiệp có kim ngạch xuất khẩu không cao so với nhiều mặt
19


hàng xuất khẩu khác, nhưng hàng TTCN lại mang về cho đất nước nguồn ngoại tệ có
một tỷ trọng rất cao trong kim ngạch xuất khẩu của mình. So với một số mặt hàng khác
như may mặc, gỗ và giày da do nguyên liệu đều phải nhập khẩu từ nước ngoài giá trị gia
tăng của các ngành này chủ yếu là chi phí gia công và khấu hao máy móc thiết bị, cho
nên giá trị thực thu ngoại tệ mang về cho đất nước chỉ chiếm một tỷ trọng từ 5 - 20%
trong tổng giá trị kim ngạch nhập khẩu. Nhưng đối với nguyên vật liệu, được thu lượm
từ phế liệu và thứ liệu của nông lâm sản, chẳng những mang lại hiệu quả từ thực thu giá
trị ngoại tệ rất cao, có những mặt hàng thủ công mỹ nghệ hầu như đạt 100% giá trị xuất

Ế

khẩu, còn lại cũng đạt trên 80% giá trị kim ngạch xuất khẩu, đồng thời xuất khẩu hàng

U

TTCN đã giúp xã hội thu hồi một bộ phận chất thải nông nghiệp sau chế biến và thu




bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế đất nước.

́H

hoạch, đã biến phế liệu trở thành những sản phẩm xuất khẩu, góp phần tích cực cho việc

Giá trị thực thu từ việc xuất khẩu thủ công mỹ nghệ cũng rất cao. Theo tính toán, hàng

H

thủ công mỹ nghệ sản xuất chủ yếu bằng nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước, nguyên

IN

phụ liệu nhập ước tính chỉ chiếm từ 3 - 3,5% giá trị xuất khẩu. Bên cạnh đó, lực lượng
lao động, có kỹ năng và khả năng tiếp thu công nghệ mới khá nhanh chóng, mức lương

K

của lao động Việt Nam thấp so với các nước trong khu vực đó cũng là một ưu thế cho

̣C

phát triển sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ một cách đa dạng và nâng cao sức cạnh

O


tranh.

̣I H

Nhìn chung, các nghề truyền thống có những bước thăng trầm. Có những nghề vẫn
được duy trì và phát triển, có những nghề có nguy cơ mai một hoặc thất truyền. Song

Đ
A

những năm qua, nhờ có chính sách khôi phục và phát triển các nghề truyền thống của
Nhà nước, những nghề này dần được khôi phục và phát triển. Đã có nhiều sản phẩm
nổi tiếng và có giá trị xuất khẩu cao. Từ năm 1993, sau khi có chính sách khuyến
khích thúc đẩy mọi thành phần kinh tế phát triển và giao quyền tự chủ về kinh tế cho
các hộ, nhiều cơ sở sản xuất, làng nghề bắt đầu vực dậy tìm kiếm thị trường trong và
ngoài nước, chuyến hướng thị trường quốc tế từ Đông Âu sang các nước khác như
Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, các nước trong khối EU, Hoa Kỳ...
Chủng loại mặt hàng xuất khẩu được đa dạng hóa.

20


- Tỉnh Thừa Thiên Huế
Quá trình hình thành, phát triển nghề và làng nghề TCMN ở tỉnh Thừa Thiên Huế đã
trải qua nhiều thăng trầm, thay đổi. Những năm từ, 1975 đến 1989, nhiều nghề truyền
thống đã mai một do không còn phù hợp với đời sống xã hội, nhưng cũng có một số
nghề và làng nghề phát triển mạnh, phục vụ đời sống nhân dân địa phương, giải quyết
việc làm và tham gia xuất khẩu. Giai đoạn này, với hàng nghìn cơ sở sản xuất hợp tác
xã, tổ hợp tác, hộ cá thể thu hút hơn 20.000 lao động, hàng năm ngành nghề tiểu thủ
công nghiệp truyền thống và TCMN đã sản xuất ra một khối lượng lớn sản phẩm phục


Ế

vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu sang Liên Xô, các nước Đông Âu như : hàng thêu khăn

U

trải giường, dép thêu, thảm len, dệt kim, may mặc, đan len, nón lá, hàng mây, mành

́H

tre, chổi đót, mộc dân dụng, mộc điêu khắc, mỹ nghệ chạm khảm, sơn mài, đúc đồng,



giày dép da, chế biến lương thực, thực phẩm, cơ kim khí… đem lại giá trị sản xuất và
xuất khẩu hàng chục triệu Rúp đôla, chiếm trên 45% giá trị tổng sản lượng toàn ngành

H

kinh tế của thành phố. Từ những năm 1990, khi nền kinh tế đã chuyển sang cơ chế thị

IN

trường, các cơ sở sản xuất thủ công truyền thống không chuyển biến kịp với sự biến
động của thị trường đã tự tan rã, số lượng lao động còn lại không quá 2.000 người, giá

K

trị sản xuất và kim ngạch xuất khẩu giảm sút mạnh… Một số nghề cũng mai một dần


̣C

như thảm len, đúc đồng, thêu ren, chổi đót, mây tre, đan len, nón lá… Những năm gần

O

đây, ngành du lịch, phát triển cùng với những tiềm năng, lợi thế về các giá trị văn hóa,

̣I H

nghệ thuật cùng với sự quan tâm của lãnh đạo Đảng, các cấp chính quyền địa phương,
các ngành nghề thủ công truyền thống thành phố đã bắt đầu có những chuyển biến tích

Đ
A

cực, nhiều nghề và làng nghề đã và đang khôi phục phát triển trở lại như mộc mỹ
nghệ, đúc đồng mỹ nghệ, thêu tay truyền thống, kim hoàn, mỹ nghệ chạm khảm, sơn
son thếp vàng, mộc nhà rường, khảm sành sứ, tôm chua, mè xửng, chế biến thực phẩm
đặc sản.
Tóm lại, ngành nghề TCTT, đặc biệt là ngành nghề TCMN đang có vai trò quan trọng
trong tiến trình phát triển kinh tế-xã hội hiện nay. Ngành nghề TCMN đã tạo việc làm,
tăng thu nhập cho người lao động, phần lớn là lao động nông thôn. Phát triển ngành
nghề TCMN sẽ tạo lợi thế trong xuất khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ, phát triển ngành
du lịch, đồng thời góp phần bảo tồn các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của dân
tộc. Tuy nhiên, ngành nghề này đang đối mặt với nhiều khó khăn như: chất lượng lao
21



động thấp, cạn kiệt nguồn nguyên liệu, ô nhiễm môi trường, mai một các giá trị truyền
thống… Vì thế, cần có sự chung tay góp sức của các cơ quan quản lý từ cấp Trung
ương đến địa phương, khối doanh nghiệp, các nghệ nhân và người lao động để thiết
lập một hệ thống giải pháp toàn diện mang tính khả thi nhằm khắc phục những hạn
chế, phát huy những tiềm năng đê ngành nghề TCMN tiếp tục tồn tại và đóng góp
xứng đáng vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Vậy nên đối với Thành phố Huế, để phát triển được nghề TTCN nói chung và nghề
TCMN nói riêng cần tiếp thu được những kinh nghiệm từ các nước trên thế giới cũng

Ế

như kinh nghiệm từ các địa phương trong cả nước. Cụ thể, cần áp dụng khoa học công

U

nghệ bên cạnh vẫn giữ vững những nét đặc sắc của các sản phẩm truyền thống; cần

́H

chú trọng đến thị trường tiêu thụ sản phẩm vì đây là điều kiện để kích thích việc sản



xuất và phát triển sản phẩm; các vấn đề về môi trường cũng cần được quan tâm vì các
làng nghề vẫn sử dụng phương thức sản xuất thủ công nên ảnh hưởng không ít đến

Đ
A

̣I H


O

̣C

K

IN

H

môi trường sống.

22


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGHỀ THỦ CÔNG
MỸ NGHỆ Ở THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế và xã hội của thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên
Huế
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Thành phố Huế có toạ độ địa lý: 107o31’45’’- 107o38’ kinh Ðông và 16o 30’4’’-16o24’
vĩ Bắc. Thành phố Huế nằm ở vị trí trung tâm của đất nước, trên trục Bắc - Nam của

Ế

các tuyến đường bộ, đường sắt, đường hàng không và đường biển, gần tuyến hành lang

U


Đông - Tây của tuyến đường Xuyên Á. Cách Hà Nội 675 km về phía Bắc, cách Thành

́H

phố Hồ Chí Minh 1.060 km, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ với các



trung tâm kinh tế đang phát triển nhanh như khu khuyến khích phát triển kinh tế thương mại Chân Mây, Thành phố Đà Nẵng, khu kinh tế mở Chu Lai, khu công

H

nghiệp Dung Quất..., có hệ thống giao thông thuận lợi kết nối dễ dàng với Thủ đô Hà

IN

Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và nhiều tỉnh, thành khác trong cả nước.
Thành phố Huế là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Ranh giới hành chính

K

được xác định: Phía Bắc và phía Tây giáp với thị xã Hương Trà, phía Đông giáp với

̣C

huyện Phú Vang, phía Nam giáp thị xã Hương Thủy. Địa hình thành phố Huế tương

O

đối bằng phẳng, đồng bằng chiếm diện tích lớn.


̣I H

Khí hậu thuộc khu vực nhiệt đới gió mùa, mang tính chuyển tiếp từ á xích đạo đến nội
chí tuyến gió mùa, chịu ảnh hưởng khí hậu chuyển tiếp giữa miền Bắc và miền Nam

Đ
A

nước ta.

- Chế độ nhiệt: Thành phố Huế có mùa khô nóng và mùa mưa ẩm lạnh. Nhiệt độ trung
bình hàng năm vùng đồng bằng khoảng 24o C – 25oC
- Chế độ mưa: Lượng mưa trung bình khoảng 2500mm/năm. Mùa mưa bắt đầu từ
tháng 9 đến tháng 2 năm sau, tháng 11 có lượng mưa lớn nhất, chiếm tới 30% lượng
mưa cả năm.
Diện tích tự nhiên: 70,99 km2. Dân số: 342.556 người. Với 27 đơn vị hành chính trên
địa bàn: Phú Thuận, Phú Bình, Tây Lộc, Thuận Lộc, Thuận thành, Thuận Hòa, Phú
Hiệp, Phú Hậu, Phú Hòa, Phú Cát, Kim Long, Vĩ Dạ, Phường Đúc, Vĩnh Ninh, Phú

23


Hội, Phú Nhuận, Xuân Phú, Trường An, Phước Vĩnh, An Cựu, An Đông, An Tây,
Hương Sơ, Thủy Biều, Thủy Xuân và Hương Long.
Thành phố Huế nằm trong hành lang kinh tế Đông Tây và là cửa ngõ ra vào của cả
vùng. Các tuyến đường bộ, cảng biển, các công trình phụ trợ sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho việc xuất nhập khẩu hàng hoá, giao lưu kinh tế trong khu vực và với các nước
trong khu vực Đông Bắc Á thông qua cảng biển Thuận An.
Do thuận lợi về vị trí địa lý, phát triển cơ sở hạ tầng, giao thông trên các phương tiện,

thành phố Huế là địa phương có tính thu hút cao đối với các nguồn nhân lực, nhất là

Ế

nhân lực khoa học kỹ thuật, chuyên môn kỹ thuật cao, nguồn nhân lực tại chỗ phục vụ

U

cho yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Nếu biết khai thác và tận dụng

́H

thế mạnh này, thành phố sẽ có nhiều cơ hội tập hợp đội ngũ nhân lực tại chỗ mà chi

thành phố Huế so với các địa phương khác.

IN

- Về kinh tế

H

2.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội



phí đào tạo, tuyển chọn nhân lực ít bị tốn kém, tốn thời gian. Đó là lợi thế so sánh của

Tốc độ tăng trưởng đạt 13,5%, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng: Dịch vụ


K

(76,83%)-Công nghiệp, xây dựng (22%), Nông lâm ngư (1,17%). GDP bình quân đầu

̣C

người đạt 1.350 USD. Tổng mức bán lẽ hàng hóa và dịch vụ đạt 10.383 tỷ đồng, tăng

O

35,2%. Hoạt động du lịch có dấu hiệu phục hồi và tăng trưởng khá với doanh thu đạt

̣I H

831 tỷ đồng, tăng 21,47%, tổng lượt khách đến Huế đạt 1.451,6 nghìn lượt, tăng 12%.
Thu ngân sách đạt 417,535 tỷ đồng. Tổng vốn đầu tư trên địa bàn đạt 2.887 tỷ đồng...;

Đ
A

các lĩnh vực văn hóa - xã hội, an ninh, quốc phòng đã có những chuyển biến
mạnh mẽ.

24


Bảng 1. Tổng sản phẩm quốc nội giai đọan 2009-2013 của Thành phố Huế
Nông-lâm-

Tổng số


Dịch vụ

GDP

Năm GDP (triệu
đồng)

CN-xây dựng

thủy sản

GDP

(triệu
TL%

đồng)

TL%

(triệu

GDP
TL%

TL%

đồng)


100

114.519

1,68

2.022.895

2010

8.889.414

100

143.340

1,61

2.361.474

2011

10.639.645

100

140.422

1,32


2012

13.830.148

100

160.494

2013

17.056.386

100

200.122

U

6.816.014

4.678.600

68,64

26,56

6.384.600

71,83


2.819.223

26,50

7.680.000

72,18

1,16

3.286.254

23,76 10.383.400 75,08

1,17

3.752.364

22,00 13.103.900 76,83

H

IN

29,68

́H

2009




Ế

đồng)

(triệu

K

(Nguồn: Niên giám thống kê thành phố Huế năm 2013)

̣C

Qua bảng 1 ta có thể nhận thấy rằng cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ - công nghiệp -

O

nông nghiệp mà trong đó dịch vụ chiếm tỷ trọng rất cao trong cơ cấu (gấp khoảng 3

̣I H

lần công nghiệp và 65 lần nông nghiệp) đang được thành phố Huế duy trì và phát triển
rất tốt theo đúng khả năng và tiềm lực mà Thành phố có được. Hơn thế nữa, việc giảm

Đ
A

dần tỷ trọng trong nông nghiệp cũng như trong công nghiệp đồng thời tăng dần tỷ
trọng dịch vụ cho thấy Thành phố đã chú trọng khai thác thế mạnh của mình mà cụ thể

là dịch vụ du lịch. Chúng ta có thể thấy đóng góp GDP ở các lĩnh vực nông nghiệp và
công nghiệp tuy có tăng nhưng không đáng kể, nhưng ở lĩnh vực dịch vụ đóng góp
GDP đều tăng rất nhanh, từ 2008 đến 2012 GDP trong ngành dịch vụ đã tăng gấp 2,8
lần trong khi nông nghiệp tăng 1,74 lần và công nghiệp là 1,85 lần.
Trong năm 2013, thành phố Huế đã khai thác và huy động mọi nguồn lực, tập trung phát
triển nhanh hơn về kinh tế; đầu tư nâng cấp đô thị Huế, tạo điều kiện để phát triển mạnh
các hoạt động dịch vụ, du lịch, thương mại có chất lượng cao; bảo đảm an sinh xã hội,
cải thiện đời sống nhân dân; giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo quốc phòng - an ninh,
25


×