Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

chính sách điều chỉnh lãi suất đến đầu tư ở việt nam những năm gần đây (2012 2017)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.51 KB, 19 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Lãi suất với tư cách là một trong những công cụ của chính sách tiền tệ được nhiều
nhà kinh tế quan tâm nghiên cứu và từ lâu được nhiều quốc gia trên thế giới sử dụng
như một công cụ hữu hiệu điều tiết nền kinh tế .
Lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ nhất trong
nền kinh tế. Diễn biến của nó được đưa tin hầu như hàng ngày trên báo chí vì nó trực
tiếp ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của mỗi người chúng ta và có những hệ quả
quan trọng đối với sức khoẻ của nền kinh tế.
Nó tác động to lớn đối với việc tăng hoặc giảm khối lượng tiền lưu thông, thu hẹp
hay mở rộng tín dụng, khích lệ hay hạn chế huy động vốn, kích thích hay cản trở đầu
tư, tạo lợi nhuận hay khó khăn cho hoạt đọng ngân hàng.
Từ khi đất nước ta thực hiện đổi mới kinh tế, quan điểm về tài chính, tín
dụng, giá cả, lãi suất đã có nhiều đổi thay. Hàng loạt các chính sách lãi suất
được đưa ra ở các thời điểm nhất định và có tác động tích cực đối với nền kinh
tế cũng như vấn đề đầu tư ở Việt Nam. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, em chọn
đề tài “Chính sách điều chỉnh lãi suất ảnh hưởng đến đầu tư ở Việt Nam
trong những năm gần đây” làm mục tiêu tìm hiểu và nghiên cứu.

1


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LÃI SUẤT, ĐIỀU CHỈNH
LÃI SUẤT
1.1.Khái niệm về lãi suất tín dụng
Một trong những đặc trưng của tín dụng là sau một thời gian nhất định
người sử dụng phải hoàn trả cho người chuyển nhượng một lượng giá trị lớn hơn
giá trị ban đầu. Phần giá trị lớn hơn chính là lợi tức tín dụng. Lợi tức tín dụng
chính là phần người đi vay phải trả cho người cho vay.Lợi tức tín dụng được coi
như là một hình thái bí ẩn của giá cả vốn vay,vì nó phải trả cho giá trị sử dụng
của vốn vay(đó chính là khả năng đầu tư sinh lời hoặc đáp ứng nhu cầu tiêu


dùng).Lợi tức tín dụng cũng biến động theo quan hệ cung cầu trên thị trường
vốn như giá cả hàng hoá thông thường. Nhưng lợi tức tín dụng chỉ là hình thái bí
ẩn của giá cả vốn vay mà theo mức đó là hình thái giá cả phi lý,vì nó chỉ phải trả
cho giá trị sử dụng mà không phải là quyền sở hữu cũng không phải quyền sử
dụng vĩnh viễn mà chỉ là trong một thời gian nhất định hơn nữa lợi tức tín dụng
cũng không phải là biểu hiện bằng tiền của giá trị vốn vay như giá cả hàng hoá
thông thường mà nó độc lập tương đối hay nhỏ hơn nhiều so với giá trị vốn vay.
Lợi tức tín dụng là số tuyệt đối nên để biểu hiện một cách tổng quát về lợi tức
tín dụng người ta sử dụng chỉ tiêu tương đối là lãi suất tín dụng .
Lãi suất tín dụng là tỷ lệ % giữa số tiền mà người đi vay phải trả cho người
cho vay (lợi tức) trên tổng số tiền vay sau một thời gian nhất định sử dụng số
tiền vay đó.Lãi suất tín dụng có thể được tính theo tháng hoặc năm ( ở Việt Nam
thường công bố theo tháng còn hầu hết các nước công bố theo năm)
Tuỳ theo từng hình thức tín dụng mà người ta phân biệt lãi suất tín dụng
thành các loại khác nhau với những qui địng cụ thể khác nhau.
Lãi suất tín dụng thương mại tính trên cơ sở giá giữa việc trả tiền ngay với
việc kéo dài thời gian trả tiền. người ta thông báo cho người mua biết có thể mua
chịu hoặc trả tiền ngay và néu trả tiền ngay có thể giảm giá 2%.
Lãi suất tín dụng nhà nước chính là lãi suất các trái phiếu,tín phiếu theo công
bố khi nhà nước phát hành trái phiếu tín phiếu.lãi suất này có thể cố định trong
suốt thời gian vay.
2


Ví dụ: Loại tín phiếu có thời hạn 3 năm lãi suất 6% thì trong suốt thời hạn 3
năm, người mua tín phiếu đựợc hưởng lãi suất 6%/năm.Lãi suất cũng có thể biến
đổi.Ví dụ cũng loại tín phiếu 3 năm năm đầu công bố hay ghi trên mặt phiếu còn
năm thứ 2 năm thứ 3 sẽ điều chỉnh theo tình hình cụ thể của những năm đó (có
thể lên hoặc xuống theo thị trường).
Trong thực tế lãi suất được quan niệm thống nhất là :”Lãi suất tín dụng là tỷ

lệ phần trăm so sánh giữa số lợi tức thu được với số tiền bỏ ra cho vay trong một
thời kỳ nhất định”.

số lợi tức thu được trong kỳ
Lãi suất tín dụng

--------------------------------- × 100 (%)

=

số tiền vay phát ra trong kỳ

Trong đó lợi tức tín dụng là số tiền người đi vay phải trả cho người cho vay
ngoài phần vốn gốc sau một thời gian sử dụng tiền vay,hay nói cách khác đó
chính là phần giá trị tăng thêm so với phần vốn gốc mà người cho vay thu được
sau một thời gian nhất định. Lãi suất tín dụng là một chỉ tiêu đặc biệt đánh giá
mức độ lợi tức cao hay thấp khác nhau.
1.2.Ý nghĩa của lãi suất tín dụng trong nền kinh tế thị trường
1.2.1. Lãi suất với quá trình huy động vốn
Lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy để phát triển kinh tế cần phải có vốn và thời
gian. Các nước tư bản phát triển phải mất hàng trăm năm phát triển công nghiệp và
quá trình lâu dài tích tụ vốn từ sản xuất, tiêu dùng. Đối với Việt Nam trên con đường
phát triển kinh tế thì vấn đề tích luỹ và sử dụng vốn có tầm quan trọng đặc biệt cả về
phương pháp nhận thức và chỉ đạo thực tiễn. Vì vậy chính sách lãi suất có vai trò hết
sức quan trọng trong việc huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội và các tổ chức kinh tế
đảm bảo đúng định hướng vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng
trọng chiến lược CNH - HĐH đất nước.
Việc áp dụng một chính sách lãi suất hợp lý bảo đảm nguyên tắc quy định: lãi
suất phải bảo tồn được giá trị vốn vay, bảo đảm tích luỹ cho cả người cho vay và
người đi vay. Cụ thể:

3


+ Tỷ lệ lạm phát < Lãi suất tiền gửi < Lãi suất tiền vay < Tỷ suất lợi nhuận bình quân
+ Lãi suất ngắn hạn < Lãi suất dài hạn (đối với cả tiền gửi và tiền vay).

1.2.2. Lãi suất với quá trình đầu tư
Quá trình đầu tư của các doanh nghiệp vào tài sản cố định được thực hiện khi
mà họ dự tính lợi nhuận thu được từ tài sản cố định này nhiều hơn số lãi phải trả cho
các khoản đi vay để đầu tư và ngược lại. Trong môi trường kinh tế hoàn chỉnh, ngay cả
khi một doanh nghiệp thừa vốn thì chỉ tiêu đầu tư có kế hoạch vẫn bị ảnh hưởng bởi lãi
suất bởi vì ngoài đầu tư vào mở rộng sản xuất, doanh nghiệp có thể mua chứng khoán
hay gửi vào ngân hàng nếu lãi suất cao.
Đặc biệt trong thời kỳ nền kinh tế đình trệ, hàng hoá ứ đọng và xuống giá, có
dấu hiệu thừa vốn và áp lực lạm phát thấp cần phải hạ lãi suất vì nguyên tắc là: lãi suất
phải nhỏ hơn lợi nhuận bình quân của đầu tư, sự chênh lệch này sẽ tạo động lực cho
các doanh nghiệp mở rộng quy mô đầu tư.

1.2.3.Lãi suất - vai trò của nó đối với hoạt động ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại với hai hoạt động chính trong hoạt động kinh doanh cảu
mình là huy động vốn và sử dụng vốn đã phản ánh qui mô hoạt động của các ngân
hàng thương mại. Với phương châm đi vay để cho vay, ngân hàng huy động vốn tạm
thời nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho vay. Để huy động vốn và cho vay có hiệu quả,
ngân hàng thương mại phải xác định mức lãi suất tiền và lãi suất tiền vay một cách
hợp lý. Có như vậy mới thu hút được nguồn vốn to lớn trong nước đáp ứng nhu cầu
vốn cho sản xuất kinh doanh và đời sống. Lãi suất ngân hàng là nhân tố quan trọng
quyết định kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại và khách hàng.
Lãi suất ngân hàng là một phạm trù kinh tế có tính hai mặt. Nếu xác định lãi
suất hợp lý sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hoá phát triển
và ngược lại. Bởi vậy lãi suất ngân hàng vừa là công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước,

vừa là công cụ điều hành vi mô của các ngân hàng thương mại.
Trong hoạt động kinh doanh tiền tệ - tín dụng, ngân hàng vừa là chủ nợ, vừa là
khách nợ. Khi cho vay vốn ngân hàng thương mại đóng vai trò chủ nợ đối với khách
hàng vay vốn, còn khi nhận tiền gửi thì ngân hàng lại là khách nợ. Nếu lãi suất huy
động tiền gửi quá thấp không hấp dẫn thi không khuyến khích các doanh nghiệp và
4


dân cư gửi tiền, dẫn đến tình trạng thiếu vốn cho vay. Ngược lại, nếu lãi suất cho vay
cao, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không còn lãi hoặc lãi quá thấp thì họ sẽ
thu hẹp sản xuất để gủi tiết kiểm hưởng lãi suất cao. Lúc đó trong ngân hàng sẽ gặp
tình trạng dư tiết kiệm, không cho vay được và trở thành con nợ thực sự của các chủ
sở hữu, vì vậy có nguy cơ phá sản.
Vì nhưng yếu tố quan trọng đó mà ngân hàng trung ương phải xác định hay
kiểm soát lãi suất của các ngân hàng thương mại. Nhằm bảo vệ chính ngân hàng
thương mại và lợi ích của người gửi tiền. Lãi suất ngân hàng hợp lý thực sự là đòn bẩy
mạnh mẽ cho nền kinh tế phát triển.

1.3. Lãi suất và đầu tư
Lượng cầu về hãng đầu tư phụ thuộc vào lãi suất, để một dự án đầu tư có lãi, lợi
nhuận thu được phải cao hơn chi phí. Vì lãi suất phản ánh chi phí vốn để tài trợ cho
đầu tư, việc tăng lãi suất làm giảm số lượng dự án đầu tư có lãi, bởi vậy nhu cầu về
hãng đầu tư giảm do đó đầu tư tỷ lệ nghịch với lãi suất.
Lãi suất thực tế phản ánh chi phí thực sự của tiền vay do vậy chúng ta nhận
định đầu tư phụ thuộc vào lãi suất thực tế chứ không phải lãi suất là lãi suất danh
nghĩa. Mối quan hệ giữa lãi suất thực tế (r) và đầu tư có thể biểu thị bằng phương trình
sau: I = I(r).
Phương trình này hàm ý đầu tư phụ thuộc vào lãi suất.

Đồ thị biểu thị hàm đầu tư, nó dốc xuống vì khi lãi suất tăng lượng cầu về đầu

tư giảm.
Mặt khác kinh tế học Macxit trong phân tích về tư bản cho vay và chỉ rõ rằng:
lãi suất < tỷ suất lợi nhuận bình quân trong xã hội
5


Nếu mối quan hệ này bị vi phạm lợi ích của người đi vay sản xuất không được
giải quyết thoả đáng sẽ làm giảm ý muốn đầu tư sản xuất, không mở rộng được quy
mô, tốc độ phát triển của nền kinh tế. Đồng thời người ta thích gửi tiền hơn và hình
thành một lớp người thực lợi, sống vào lãi suất tiết kiệm.

6


Chương 2:
CHÍNH SÁCH ĐIỀU CHỈNH LÃI SUẤT ẢNH HƯỞNG ĐẾN
ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Diễn biến của chính sách lãi suất ở Việt Nam thời gian gần đây
2.1.1. Năm 2014
Ở Việt Nam, kinh tế vĩ mô diễn biến theo đúng xu hướng kỳ vọng của các
giải pháp điều hành Chính phủ đề ra từ đầu năm. Lạm phát được kiểm soát ở
mức 6,04% thấp hơn so với năm 2012 (6,81%). Tăng trưởng kinh tế quý sau cao
hơn quý trước, tuy nhiên trong bối cảnh khó khăn chung của kinh tế thế giới,
GDP năm 2013 chỉ tăng 5,42%, cao hơn mức 5,25% của năm 2012 nhưng thấp
hơn so với mục tiêu 5,5% đặt ra. Tổng cầu và sức mua của nền kinh tế còn yếu,
hoạt động sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, lạm phát tuy đã được kiểm
soát nhưng tiềm ẩn nguy cơ gia tăng trở lại.
Trước tình hình đó, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số
01/NQ-CP ngày 2/1/2014, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành Chỉ thị số
01/CT-NHNN ngày 13/2/2012 đặt mục tiêu, nhiệm vụ "điều hành chính sách

tiền tệ chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa nhằm kiểm
soát lạm phát theo mục tiêu đề ra, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh
tế ở mức hợp lý, bảo đảm thanh khoản của các tổ chức tín dụng (TCTD) và nền
kinh tế". Như vậy, lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô vẫn là những mục tiêu
được quan tâm hàng đầu bên cạnh việc hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý,
thậm chí mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô còn được quan tâm và đặt lên vị trí có
phần ưu tiên hơn so với năm 2013. Đây là một định hướng đúng đắn khi vấn đề
kinh tế căn bản của Việt Nam trong những năm gần đây xoay quanh hai vấn đề
chính là duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô và kiến tạo đà tăng trưởng kinh tế trong
trung hạn.
Sự hy sinh tăng trưởng trong ngắn hạn là cần thiết để tái cơ cấu nền kinh
tế thành công và tạo được đà tăng trưởng kinh tế trong trung và dài hạn. Cùng
với tinh thần đó, trong điều kiện áp lực lạm phát đã có sự suy giảm, chính sách
tiền tệ đã chuyển từ việc điều hành một cách "thận trọng, linh hoạt" sang "chủ
7


động, linh hoạt". Định hướng điều hành chính sách tiền tệ năm 2014 được điều
chỉnh có dấu hiệu nới lỏng hơn so với năm trước thông qua các chỉ tiêu về tăng
trưởng tín dụng và tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán lớn hơn hẳn so với
năm 2013 khoảng 2%. Có thể thấy, định hướng chính sách tiền tệ đã được xác
định một cách có cơ sở khoa học, phù hợp với tình hình thực tiễn và yêu cầu của
nền kinh tế. Chính vì vậy, chính sách tiền tệ đã đạt được những thành tựu đáng
ghi nhận. Đó là, năm 2014 lạm phát giảm so với năm 2013 và là mức thấp nhất
trong hơn một thập kỷ. Tốc độ tăng giá tiêu dùng (tính theo năm) đã trượt về
ngưỡng 2%, tính đến cuối năm 2014 CPI tăng khoảng 1,84%, (xem hình 1). Kết
quả này một phần là nhờ vào các yếu tố gây sức ép lên lạm phát từ phía tổng
cung, tổng cầu đã giảm so với các giai đoạn trước nhưng cũng không thể phủ
nhận vai trò của NHNN trong việc chủ động kiểm soát khối lượng tiền tệ trong
nền kinh tế.

Những diễn biến thuận lợi trong cán cân thanh toán và tác động tích cực
của các chính sách chống đô la hóa, cung ngoại tệ trong nền kinh tế đã vượt xa
cầu ngoại tệ. Để duy trì mục tiêu giữ ổn định tỷ giá, ổn định thị trường tiền tệ,
NHNN đã đưa một lượng lớn tiền ra để mua ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối, đưa
dự trữ ngoại hối lên mức kỷ lục vào khoảng 35 tỷ USD từ cuối quý II/2014. Do
vậy, song song với động thái gia tăng dự trữ ngoại hối, nâng cao khả năng bình
ổn thị trường ngoại tệ và tránh tạo ra áp lực gia tăng lạm phát, NHNN cũng đã
kịp thời rút bớt tiền về thông qua hoạt động phát hành tín phiếu NHNN trong
suốt giai đoạn này. Tính từ đầu năm đến nay, giá trị tín phiếu phát hành chiếm tỷ
trọng 89% và giá trị cho vay qua mua giấy tờ có giá chiếm 11% tổng khối lượng
mà NHNN can thiệp vào thị trường tiền tệ. Tỷ lệ này trong cùng kỳ năm 2013
tương ứng ở mức 60% và 40% và trong cùng kỳ năm 2012 ở mức 21% và 79%.
Thông qua hệ thống lãi suất điều hành và hoạt động mua bán kỳ hạn giấy
tờ có giá, NHNN điều tiết lãi suất và hỗ trợ thanh khoản trên thị trường liên
ngân hàng và qua đó tác động tới lãi suất dòng vốn ra nền kinh tế bên cạnh việc
tạo ổn định trên thị trường nội tệ. Trong điều kiện thanh khoản tương đối dồi
dào, diễn biến thị trường liên ngân hàng trong hầu hết cả năm 2014 diễn ra khá
ổn định với mức lãi suất thấp và ít biến động hơn so với năm 2013. Trong những
8


thời điểm thị trường có biến động, NHNN đã chủ động cung ứng thanh khoản
cho các NHTM thông qua nghiệp vụ mua bán kỳ hạn giấy tờ có giá. Nhờ vậy,
lãi suất liên ngân hàng các kỳ hạn dù có lúc biến động nhưng cũng chỉ mang tính
thời điểm và luôn thấp hơn mức lãi suất tái cấp vốn và lãi suất OMO của
NHNN, thị trường nội tệ được duy trì ổn định, thông suốt.
Lãi suất của các khoản vay cũ tiếp tục được các tổ chức tín dụng giảm
mạnh. Đến tháng 12/2014, dư nợ cho vay có lãi suất trên 15% chiếm 3,9% tổng
dư nợ cho vay, giảm so với tỷ trọng 6,3% cuối năm 2013, dư nợ có lãi suất trên
13%/năm chiếm 11,7% tổng dư nợ cho vay, giảm so với tỷ trọng 19,72% cuối

năm 2013.
Cùng với việc điều chỉnh giảm đồng bộ các mức lãi suất điều hành của
NHNN, hoạt động điều tiết thanh khoản trên thị trường OMO và thị trường liên
ngân hàng đã giúp mặt bằng lãi suất huy động và cho vay nền kinh tế bằng tiền
đồng trong năm 2014 đã giảm 1-1,5% so với cuối năm 2013, góp phần tháo gỡ
khó khăn cho sản xuất kinh doanh.
2.1.2. Năm 2015
Tại buổi Họp báo về Hội nghị tổng kết hoạt động ngân hàng năm 2015 và
triển khai nhiệm vụ năm 2016 diễn ra ngày 24/12/2015, Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) cho biết mặt bằng lãi suất năm 2015 đã giảm mạnh. Lãi huy động giảm
0,2-0,5% một năm và hiện ở mức tương đối thấp nhưng lòng tin vào VND được
củng cố. Lãi suất cho vay cũng giảm 0,3-0,5% một năm so với cuối năm trước,
đưa mặt bằng lãi suất giảm khoảng 50% so với cuối năm 2011. Hiện nay, mặt
bằng lãi suất cho vay đang ở mức 6-9% (ngắn hạn), 9-11% (dài hạn).
So sánh với các nước trong khu vực, lãi suất của Việt Nam vẫn cao. Lý
giải điều này, Phó Thống đốc cho rằng, chúng ta vừa phải điều hành chính sách
tiền tệ, nhưng hệ thống ngân hàng đang tái cơ cấu các tổ chức tín dụng, các tổ
chức tín dụng phải sử dụng phần lớn lợi nhuận để xử lý nợ xấu, nên khả năng
tiếp tục giảm lãi suất sẽ khó khăn. Ngoài ra, trái phiếu Chính phủ lãi suất cao
cũng gây áp lực cho mặt bằng lãi suất. Hệ thống ngân hàng luôn muốn giảm lãi
suất, nhưng giảm ở liều lượng thế nào để là vừa cân đối kinh tế vĩ mô, lại an
toàn hệ thống, hợp với sức chịu đựng của các tổ chức tín dụng.
9


Việc giảm lãi suất thời gian tới thật sự không dễ. Mặc dù năm 2015 lạm
phát thấp, chỉ ở mức 1% và là dư địa tốt để giảm lãi suất một cách tích cực
nhưng qua nhiều dự báo về tình hình thị trường thế giới sẽ có biến động khó
lường thì trong nước ta không thể chủ quan với lạm phát năm 2016.
Phó Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cảnh báo: "Năm sau nếu giá dầu tăng

trở lại hoặc tăng nhanh sẽ ảnh hưởng đến lạm phát. Chưa kể năm 2016 là năm
thực hiện lộ trình điều chỉnh giá các mặt hàng nhà nước quản lý như y tế, giáo
dục… Nếu điều hành không có sự phối hợp chặt chẽ với các Bộ ngành và đưa ra
đúng thời điểm, lạm phát sẽ không thể duy trì thấp trong năm 2016".
2.1.3. Năm 2016
Năm 2016, kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát; các cân đối
lớn của nền kinh tế được bảo đảm; tăng trưởng GDP đạt gần 6,3%; thu ngân
sách tăng; mặt bằng lãi suất giảm; thanh khoản hệ thống được đảm bảo, có dư
thừa; thị trường vàng cơ bản ổn định; tỷ giá được điều hành linh hoạt, cung cầu
ngoại tệ thuận lợi dự trữ ngoại hối đạt khoảng 41 tỷ USD, cao nhất từ trước tới
nay.
Về điều hành lãi suất, cả mặt bằng lãi suất huy động và lãi suất cho vay
được quản lý ổn định,... góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở mức độ hợp lý.
Về thị trường ngoại tệ, trong bối cảnh thị trường quốc tế có nhiều biến
động, rung lắc mạnh, song NHNN đã thực hiện đồng bộ các giải pháp, không
làm thị trường biến động mạnh. Đồng Việt Nam mất giá chỉ khoảng 1%, thanh
khoản được đảm bảo.
Về tăng trưởng tín dụng, năm 2016 đạt khoảng 18,5% đảm bảo mục tiêu
đề ra. Tăng trưởng dàn đều trong các tháng, cơ cấu tín dụng tập trung vào các
lĩnh vực ưu tiên. Chất lượng tín dụng được nâng lên, rủi ro được nhận diện và có
biện pháp bảo đảm an toàn...
2.2. Tác động của chính sách lãi suất đối với đầu tư (các doanh nghiệp vừa
và nhỏ)
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) ngày càng khẳng định vị trí và vai
trò của mình trong nền kinh tế. Tuy nhiên, với những đặc điểm của mình, các
DNNVV Việt Nam là những đối tượng “nhạy cảm " nhất với những thay đổi của
10


chính sách lãi suất. Trong bối cảnh kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, kinh tế

vĩ mô trong nước bị ảnh hưởng theo hướng tiêu cực, lạm phát tăng cao, kéo
theo đó là lãi suất cho vay của các ngân hàng tăng trong khoảng thời gian dài,
đã khiến nhiều DNNVV lâm vào tình trạng rất khó khăn. Trong khuôn khổ bài
viết này, tác giả sẽ phân tích tác động của điều hành chính sách lãi suất đến
hoạt động của các DNNVV tại Việt Nam hiện nay.
Lãi suất ngân hàng có tác động rất lớn tới hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.Trong những năm vừa qua lãi suất ngân hàng liên tục thay đổi với xu
hướng giảm xuống tuy nhiên hoạt động kinh doanh của nhiều doanh nghiệp vẫn
gặp phải khó khăn. Vậy doanh nghiệp cần có biện pháp gì để hoạt động kinh
doanh có lãi và phát triển bền vững.
Đối với doanh nghiệp, nguồn vốn doanh nghiệp có thể huy động được
ngoài vốn chủ sở hữu thì nguồn vốn huy động từ bên ngoài cũng rất quan trọng.
Trong các nguồn vốn huy động từ bên ngoài thì đi vay ngân hàng là nguồn vốn
doanh nghiệp thường quan tâm nhất. Khi đi vay ngân hàng doanh nghiệp phải
trả lãi suất cho vay cho ngân hàng. Lãi suất cho vay phản ánh giá cả của đồng
vốn mà người sử dụng vốn là các doanh nghiệp phải trả cho người cho vay là
các NHTM. Đối với các doanh nghiệp, lãi suất cho vay hình thành nên chi phí
vốn và là chi phí đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh. Do đó, mọi sự biến
động về lãi suất cho vay trên thị trường cũng đều ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu
quả sản xuất kinh doanh hay nói cách khác là tác động trực tiếp đến lợi nhuận
của doanh nghiệp và qua đó điều chỉnh các hành vi của họ tới các hoạt động
kinh tế.
Khi lãi suất cho vay của NHTM tăng sẽ đẩy chi phí đầu vào và giá thành
sản phẩm tăng lên, làm suy giảm lợi nhuận cũng như khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp, gây ra tình trạng thua lỗ, phá sản trong hoạt động sản xuất kinh
doanh. Xu hướng tăng lãi suất Ngân hàng sẽ luôn đi liền với xu hướng cắt giảm,
thu hẹp quy mô và phạm vi của các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền
kinh tế. Ngược lại, khi lãi suất Ngân hàng giảm sẽ tạo điều kiện cho doanh
nghiệp giảm chi phí, hạ giá thành, nâng cao hiệu quả kinh doanh và khả năng
cạnh tranh. Lãi suất cho vay thấp luôn là động lực khuyến khích các doanh

11


nghiệp mở rộng đầu tư, phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó
kích thích tăng trưởng trong toàn bộ nền kinh tế.
Ở nước ta, do điều kiện thị trường tài chính chưa phát triển, các kênh huy
động vốn đối với doanh nghiệp còn rất hạn chế nên nguồn vốn từ các Ngân
hàng luôn đóng một vai trò hết sức quan trọng, do đó, lãi suất cho vay của các
NHTM luôn có tác động rất lớn đến hoạt động của các doanh nghiệp. Trong
năm 2008, dưới sức ép của tình trạng lạm phát tăng cao và tác động từ các giải
pháp chống lạm phát của Chính phủ, mặt bằng lãi suất cho vay của các NHTM
trên thị trường đã có những biến động bất thường và gây ra nhiều xáo trộn trong
nền kinh tế, trong đó khu vực doanh nghiệp là nơi chịu nhiều ảnh hưởng nhất.
Trong thời gian này lãi suất tiền gửi được đẩy lên liên tục, cao nhất là 1920%/năm. Theo đó lãi suất cho vay được đẩy lên đúng bằng lãi suất tối đa,
21%/năm. Từ đó đã tác động tiêu cực đến các doanh nghiệp như: hiệu quả sản
xuất kinh doanh của hầu hết các doanh nghiệp đã bị giảm sút, nhiều doanh
nghiệp bị thua lỗ, khả năng trả nợ bị suy giảm. Hầu hết các doanh nghiệp buộc
phải cơ cấu lại hoạt động sản xuất kinh doanh, cắt giảm việc đầu tư, thu hẹp quy
mô và phạm vi hoạt động. Nhiều doanh nghiệp có quy mô nhỏ, vốn ít, không
chịu đựng được mức lãi suất cao, không có khả năng huy động vốn để duy trì
hoạt động sản xuất kinh doanh đã phải ngừng hoạt động, giải thể và phá sản.
Lãi suất cho vay cao là một trong những nguyên nhân khiến khoảng 100.000
doanh nghiệp Việt nam đã phải tạm dừng hoạt động hoặc phá sản trong 2 năm
2011-2012, bằng phần nửa tổng số doanh nghiệp phải đóng cửa trong suốt 2
thập kỷ qua.
Từ năm 2009 đến nay bằng nhiều giải pháp của Chính phủ và Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam, mặt bằng lãi suất đã liên tục được điều chỉnh giảm. Năm
2012 Ngân hàng Nhà nước đã điểu chỉnh giảm tới 6 lần. Trong tháng 3 năm
2013, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều chỉnh và kể từ ngày 26/3/2013, trần lãi
suất tiền gửi VND các kỳ hạn ngắn từ 1 tháng đến dưới 12 tháng giảm từ 8%

một năm còn 7,5% một năm. Trong tháng 6 năm 2013, Ngân hàng Nhà nước lại
tiếp tục điều chỉnh và kể từ ngày 28/6/2013, trần lãi suất tiền gửi VND giảm còn
7%.Trong khi đó, các kỳ hạn từ 12 tháng vẫn tiếp tục theo cơ chế thỏa thuận
12


giữa ngân hàng và khách hàng. Như vậy kể từ tháng 8/2011 , trần lãi suất tiết
kiệm đã qua 8 lần điều chỉnh, từ 14% nay còn 7% một năm. Lãi suất huy động
giảm nhanh kéo theo những kỳ vọng lãi suất cho vay cũng hạ dần và giúp doanh
nghiệp dễ tiếp cận được vốn hơn, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp trong nền kinh tế đã có dấu hiệu phục hồi trở lại và kích thích tăng
trưởng. Thực tế mặt bằng lãi suất cho vay các ngân hàng công bố cũng đã giảm,
lãi suất cho vay tùy từng ngân hàng, tùy từng loại doanh nghiệp có thể dao động
từ 7 đến 10% hay 11%.
Mặc dù lãi suất ngân hàng liên tục giảm nhưng hoạt động sản xuất - kinh
doanh của các doanh nghiệp vẫn còn gặp nhiều khó khăn do sức mua của thị
trường vẫn ở mức thấp, khả năng hấp thụ vốn tín dụng ngân hàng của doanh
nghiệp còn hạn chế. Vì vậy để đảm bảo hoạt động kinh doanh có lãi và phát
triển bền vững, doanh nghiệp cần phải:
- Tính toán và dự báo thật đầy đủ, chính xác về chi phí lãi vay khi xem
xét, đánh giá hiệu quả và quyết định thực hiện đối với các dự án sản xuất kinh
doanh
- Tích cực và chủ động thực hiện các công cụ phòng ngừa rủi ro về lãi
suất thông qua việc khai thác, sử dụng các sản phẩm phái sinh để bảo hiểm các
rủi ro do biến động lãi suất trên thị trường.
- Trích lập đầy đủ các quỹ dự phòng về tài chính trong hoạt động SXKD
nhằm tạo nguồn lực dự phòng , giúp cho DN đứng vững khi có sự thay đổi về lãi
suất.
- Sử dụng thận trọng và linh hoạt công cụ đòn bẩy tài chính trong hoạt
động kinh doanh nhằm đạt được mục tiêu gia tăng lợi nhuận trong điều kiện lãi

suất thấp, đồng thời hạn chế rủi ro thua lỗ khi lãi suất biến động ngoài dự đoán.
Như vậy trong những năm vừa qua lãi suất ngân hàng đã có ảnh hưởng
lớn tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Một mặt nó có thể giúp doanh
nghiệp có được nguồn vốn mình cần, mặt khác nó có thể làm doanh nghiệp phá
sản khi không có khả năng thanh toán. Do vậy để tiếp cận được đồng vốn vay
và sử dụng đồng vốn vay có hiệu quả thì doanh nghiệp cũng cần phối hợp thêm
các biện pháp hữu hiệu khác trong quá trình quản lý tài chính của doanh nghiệp
mình.
13


2.3. Đánh giá quá trình sử dụng và điều hành chính sách lãi suất
Trong thời gian qua ngân hàng nhà nước đã có những bước thay đổi về
điều hành lãi suất trong nền kinh tế để đảm bảo cho chính sách lãi suất phù hợp
với định hướng phát triển kinh tế xã hội của Đảng, Chính phủ trong mỗi thời kì.
Cụ thể:
- Chuyển từ lãi suất qua lãi suất dương, xoá bỏ bao cấp qua lãi suất.
- Thực hiện lãi suất cho vay trung và dài hạn cao hơn lãi suất cho vay
ngắn hạn theo thông lệ quốc tế và phù hợp với rủi ro do thời hạn.
- Rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa lãi suất cho vay nội tệ và ngoại
tệ phù hợp chính sách quản lý ngoại hối và lãi suất trên thị trường quốc tế.
- Từ việc quy định lãi suất cụ thể, ngân hàng nhà nước với việc công bố
trần lãi suất đã thực hiện ở một mức độ nhất định ( so với trần ) sự tự do hoá lãi
suất tiền gửi và tiền vay.
Nhờ những quyết sách đúng đắn về điều hành lãi suất, mối quan hệ 3
bên giữa người gửi, người vay, tổ chức tín dụng được giải quyết hài hoà. Nguồn
vốn huy động được ngày càng tăng trưởng, lạm phát kiềm chế ở mức thấp, hoạt
động tín dụng ngân hàng diễn ra nhộn nhịp hơn.
Tuy nhiên, trong điều hành chính sách lãi suất cũng bộc lộ nhiều tồn
tại, cụ thể là:

- Có thời kỳ mức lãi suất dương phi thực tế đã khiến các doanh nghiệp
phải lao đao vì khoản nợ ngân hàng.
- Việc quy định mức chênh lệch 0,35%/tháng tạo nên sự gò bó, cứng
nhắc trong hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng.
Ngoài những tồn tại trên ứng với mỗi giai đoạn cụ thể, còn có những
tồn tại xuyên suốt cả quá trình điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước:
1. Áp đặt mệnh lệnh hành chính để điều hành các tổ chức tín dụng, không
phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế thị trường.
2. Việc xác định mức trần lãi suất chưa được tiến hành một cách khoa
học:
- Cơ sở xác định mức trần lãi suất không đủ: Chỉ căn cứ vào lãi suất huy
động và dự kiến mức phí của các tổ chức tín dụng.
- Liên tục điều chỉnh mức trần lãi suất.
- Mối liên hệ giữa lạm phát, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn. Lợi nhuận bình
quân của khách hàng không hợp lý.
Đáng lẽ mối quan hệ phải đảm bảo:
14


Lạm phát < lãi suất tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn Thì với cách điều hành chính sách lãi suất hiện nay, mối quan hệ này có
xu hướng:
Lạm phát < lợi nhuận bình quân
15


Chương 3
GIẢI PHÁP NHẰM CỦNG CỐ VÀ HOÀN THIỆN CHÍNH
SÁCH LÃI SUẤT ĐẾN ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM

Việc điều hành chính sách lãi suất của NHNN thời gian qua có những tác
động mạnh mẽ đến hoạt động sản xuất kinh doanh DNNVV trong điều kiện nền
kinh tế khó khăn. Trước hết, sự thay đổi về chính sách lãi suất, đặc biệt là lãi
suất
cho vay tăng đã khiến cho chi phí đầu vào của doanh nghiệp gia tăng, gây
khó khăn cho đầu ra của doanh nghiệp. Hơn nữa, việc thay đổi chính sách lãi
suất có ảnh hưởng ngay đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,
khiến cho lợi nhuận của nhiều doanh nghiệp sụt giảm, cơ cấu tài sản và nguồn
vốn thay đổi... Tuy nhiên, lãi suất cho vay cao cùng với những điều kiện cho vay
thắt chặt cũng giúp sàng lọc những doanh nghiệp yếu kém. Chính vì vậy, trong
thời gian tới, để phát huy những mặt mạnh, tạo điều kiện hỗ trợ cho doanh
nghiệp và tránh những ảnh hưởng bất lợi cho DNNVV, điều hành chính sách
nên bám sát theo diễn biến nền kinh tế và thị trường, tập trung vào một số vấn
đề sau:
Thứ nhất., NHNN nên điều hành chính sách lãi suất một cách linh hoạt
phù hợp với diễn biến thị trường và điều kiện kinh tế, hỗ trợ sự phát triển lành
mạnh của DNNVV. Trước hết, cần tiếp tục giảm mức lãi suất cho vay đối với
DNNVV, mặc dù hiện nay đã giảm mức lãi suất cho vay xuống 15%, dự kiến
tiếp tục giảm tiếp tới 12% nhưng còn cao hơn rất nhiều so với các nước (chẳng
hạn, các nước lân cận chỉ có 5% như Thái Lan, Trug Quốc). Điều này tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp có thể tiếp cận với nguồn vốn vay có chi phí hợp lý,
đồng thời, cũng không quá gây áp lực đối với các ngân hàng. Tuy nhiên, kết hợp
với việc giảm lãi suất cần phải có những biện pháp điều chỉnh để ổn định tỷ giá
VND so với USD vì giảm lãi suất sẽ thu hẹp mức chênh lệch lãi suất giữa VND
và USD khiến cho tiền đồng trở nên kém hấp dẫn và với mức lạm phát cao
khiến mục tiêu ổn định tỷ giá sẽ khó đạt được. Hơn nữa, giảm lãi suất không

16



thực hiện một cách chính xác sẽ khiến nỗ lực kiểm soát lạm phát, tái cấu trúc hệ
thống ngân hàng, kiểm soát tỷ giá ngày càng trở nên khó khăn.
Thứ hai, Chính phủ áp dụng đồng bộ các giải pháp đảm bảo ổn định kinh
tế vĩ mô, đặc biệt ổn định giá nguyên, vật liệu đầu vào để doanh nghiệp yên tâm
sản xuất, cùng với thị trường thế giới hồi phục và tăng sức mua là lối thoát lớn
nhất cho doanh nghiệp trong thời gian tới. Mặc dù gói hỗ trợ 29.000 tỷ của
Chính phủ chưa thể phát huy hiệu quả ngay nhưng trong thời gian tới cần tăng
cường hơn nữa việc giám sát thực hiện đúng mục đích của các khoản vay nhằm
đem đến hiệu quả cuối cùng của các gói hỗ trợ. Ngoài ra, tạo điều kiện cho ngân
hàng có những chính sách thuận tiện hơn cho các doanh nghiệp trong thủ tục
vay vốn cũng như gia hạn nợ để đảm bảo cho các doanh nghiệp có thể tạm thời
tồn tại trong điều kiện kinh tế nhiều khó khăn.
Thứ ba, các DNNVV cũng cần chủ động hơn trong việc tìm kiếm nguồn
vốn thay thế, tránh tình trạng phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn từ ngân hàng
với mức lãi suất quá cao, chẳng hạn có thể tìm nguồn vốn từ cán bộ nhân viên
trong doanh nghiệp, từ các đối tác chiến lược hay từ chính khách hàng của
doanh nghiệp, liên kết hợp tác hay sáp nhập giữa các doanh nghiệp để nâng cao
năng lực tài chính để có thể đứng vững trong giai đoạn này và vượt qua khó
khăn. Hơn nữa, sử dụng thận trọng và linh hoạt công cụ đòn bẩy tài chính trong
hoạt động kinh doanh.

17


KẾT LUẬN
Xu hướng toàn cầu hoá , khu vực hoá hội nhập đang đặt ra những thách thức rất
lớn cho các nước kém phát triển trong đó có Việt Nam .Phấn đấu quyết liệt vươn nên
để phát huy cao nội lực , tăng khả năng trạnh tranh trong nền kinh tế đã , đang và sẽ
trở thành sự sống còn của sự tồn tại và hội nhập và phát triển trong xu thế này . Để
hoà nhập vào xu thế đó chúng ta phải chăm lo ổn định và lành mạnh hoá lĩnh vực tài

chính và tiền tệ .
Lãi suất là công cụ tiền tệ của nền kinh tế thị trường nó có độ nhay cảm cao
.Việc sử dụng lãi suất trong quá trình xây dựng và điều hành chính sách lãi suất được
coi là vấn đề bức xúc hiện nay đòi hỏi phải có những định hướng thích hợp nhất tuỳ
thuộc vào những đặc thù và những điều kiện thực tiễn nước ta nhằm mục tiêu tăng
trưởng phát triển kinh tế phát huy vai trò đòn bẩy của lãi suất , góp phần tạo ra sự
chuyển dịch cơ cấu đầu tư và thương mại hoá theo hướng tự do bình đẳng giữa các
Ngân hàng thương mại .Từng bước tiến tới một hệ thống tài chính tiền tệ và Ngân
hàng hoàn chỉnh , vững chắc bảo đảm thực hiện thành công chính sách tiền tệ ở tầm
vĩ mô .Một chính sách lãi suất hợp lý là một chính sách lãi suất vừa có tác dụng thu
hút vốn nhàn rỗi trong dân cư vừa có thể khuyến khích nhà sản xuất sử dụng vốn
vay đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh đảm bảo quyền lợi cho ngươi vay vốn
người gửi tiền và Ngân hàng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tiến tới công
cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước như mục tiêu của đảng và Nhà nước
đã đề ra

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình lý thuyết tiền tệ và Ngân hàng – Học viện Ngân hàng năm 2000

2.

Giáo trình tiền tệ Ngân hàng và thị trường tài chính – F.Miskin . nhà suất bản
khoa học kỹ thuật 1997

3.


Luật NHNN và các tổ chức tín dụng

4.

Tạp chí Ngân hàng số 9 năm 2001 số 7 năm 1997

5.

Báo đầu tư chứng khoán số 64 năm 2001

6.

Giáo trình tiền tệ NH – nhà suất bản thống kê 1998

7.

Giáo trình lý thuyết tiền tệ và NH – phó tiến sĩ Nguyễn Ngọc Hùng

8.

Báo NH nông nghiệp và phát triển nông thôn

Mục lục

19




×