Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

25 đề thi học sinh giỏi môn ngữ văn lớp 11 của các trường chuyên khu vực duyên hải đồng bằng bắc bộ có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.05 MB, 119 trang )

HỘI CÁC TRƯỜNG CHUYÊN VÙNG
DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ

ĐỀ THI MÔN NGỮ VĂN KHỐI 11

TRƯỜNG THPT CHUYÊN BẮC GIANG
TỈNH BG

Thời gian làm bài: 180 phút

NĂM 2015
(Đề này có 01 trang gồm 02 câu)

ĐỀ THI ĐỀ XUẤT
Câu 1. (8 điểm)
Theo anh (chị), có phải lối sống thực dụng đang có nguy cơ gia tăng trong
xã hội?
Câu 2 (12 điểm)
Trong một cuộc đàm đạo về văn chương, nhà văn Nguyễn Khải phát biểu:
"Một tác phẩm văn học hay, theo tôi quan niệm, lõi phải dày, vỏ phải mỏng;
Mọi vấn đề đặt ra trong đó phải thẳng căng, những tình cảm phải đẩy đến mức tột
cùng."
Anh (chị) có đồng ý với ý kiến trên không? Hãy làm sáng tỏ bằng một tác
phẩm văn học.

--------------------------------Hết------------------------------Người ra đề

Lê Thị Phi Yến
ĐT: 0947949899



HỘI CÁC TRƯỜNG CHUYÊN VÙNG
DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
TRƯỜNG THPT CHUYÊN BẮC GIANG
TỈNH BG

NĂM 2015
Thời gian làm bài: 180 phút
(Hướng dẫn chấm gồm 5 trang)

ĐỀ THI ĐỀ XUẤT

CÂU
1

HƯỚNG DẪN CHẤM

ĐỀ THI MÔN NGỮ VĂN KHỐI 11

NỘI DUNG CHÍNH CẦN ĐẠT

Ý

Theo anh (chị), có phải lối sống thực dụng đang có nguy cơ gia

ĐIỂM
8..0

tăng trong xã hội?
a.Giải
thích,

cắt
nghĩa:

- Thực dụng: Lối sống vụ lợi, cá nhân, ích kỷ, nặng về vật chất coi nhẹ
mọi giá trị tinh thần, chỉ chăm chăm nghĩ đến lợi ích trước mắt, ngoài ra
không quan tâm đến bất kỳ điều gì khác.

2.0

- Biểu hiện của lối sống thực dụng
+ Tôn thờ vật chất, lấy tiền tài, danh vọng làm mục đích sống
+ Luôn so đo, tính toán hơn thiệt, được mất khi làm bất cứ việc gì.
+ Chỉ làm những việc, quan hệ với những người có thể đem lợi cho bản
thân (Tục ngữ Việt Nam gọi đó là lối sống: trông giỏ bỏ thóc)

b.Thực
trạng,
hậu
quả,
nguyên
nhân,
giải
pháp

+ Vì lợi ích cá nhân, sẵn sàng chà đạp lên lương tâm, đạo lí, bất chấp,
phớt lờ những hậu quả mà mình gây ra, sẵn sàng bằng mọi cách để đạt
được mục đích của mình
b.1. Thực trạng: lối sống thực dụng đang ngày càng có nguy cơ gia 1.5
tăng trong xã hội:
* Nó xuất hiện ở mọi ngành, mọi giới, mọi mối quan hệ:

- Quan hệ xã hội: những bon chen, xu phụ, bất chấp trên dưới, bất chấp
thủ đoạn... để đạt mục đích.
- Quan hệ gia đình: Cha mẹ hết lòng vì con nhưng không hiếm những
đứa con luôn tính toán thiệt hơn, được, mất với cha mẹ.
- Tình yêu: vốn là thứ tình cảm trong sáng thiêng liêng, giờ đây cũng bị
vẩn đục, tầm thường hóa bởi những toan tính, kiểu như: "Nhà mặt phố,


bố làm to"...; đi xe SH; dùng điện thoại Iphone; "Không có tiền thì cạp
đất mà ăn..."
* Nó xuất hiện ở mọi lứa tuổi, đặc biệt ở giới trẻ (việc chọn bạn, chọn
người yêu, chọn nghề - những nghề hót, kiếm ra nhiều tiền, không bận
tâm đến năng lực và niềm đam mê của bản thân...; những kiểu quan hệ:
đại gia - chân dài...
b.2. Hậu quả:

1.5

- Lối sống thực dụng làm mất đi những giá trị tinh thần quý giá của cuộc
sống, làm đảo lộn mọi giá trị, lẫn lộn tốt - xấu; thật - giả...
- Lối sống thực dụng làm cho tâm hồn con người trở nên lạnh lùng, vô
cảm, hủy hoại nhân cách, làm mất đi chất người, tính người trong con
người (thực dụng và cơ hội bao giờ cũng đi liền với nhau)
- Lối sống thực dụng là con đường ngắn nhất dẫn đến hưởng thụ, hưởng
lạc và những hệ lụy khôn lường cho bản thân và xã hội do nó gây ra.
=> Cùng với những thói xấu khác, lối sống này đang bào mòn những giá
trị nhân văn, bào mòn đạo đức xã hội, làm cho đạo đức xã hội xuống
cấp trầm trọng.
b.3. Nguyên nhân


1.0

* Khách quan (gia đình, nhà trường, xã hội)
- Gia đình: buông lỏng giáo dục, nuông chiều, thương con không đúng
cách.
- Nhà trường: chú trọng dạy kiến thức hơn dạy người, thậm chí còn
dung túng những điều xấu (ví dụ: bệnh thành tích)
- Xã hội: xã hội càng hiện đại càng có nhiều cám dỗ, mặt trái của nó
càng tinh vi phức tạp.
* Chủ quan: người thực dụng không nhận thức đúng về những giá trị
của cuộc sống; không có lý tưởng mục tiêu và động cơ đúng đắn, bị mờ
mắt trước những cám dỗ tầm thường.
b.4. Giải pháp: nguyên nhân ở đâu thì giải pháp ở đó. Cả yếu tố khách
quan và chủ quan đều ảnh hưởng trực tiếp đến nhân cách, lối sống của

1.0


c. Lật

con người... nhưng chủ quan luôn đóng vai trò quyết định (Một người
đã có khát vọng sống đẹp, sống tử tế thì rất khó để trở thành kẻ thực
dụng)
- Cần phân biệt thực dụng và thực tế (thực tế là coi trọng ý nghĩa thiết

lại vấn

thực của việc làm, đối lập với thực tế là viển vông...)

đề, rút


- Cần khích lệ những thái độ sống vô tư, trong sáng "người với người

ra bài

sống để yêu nhau", "để gió cuốn đi"...

học,

- Hãy làm những "Việc tử tế" cho dù chỉ là những việc rất nhỏ.

1.0

liên hệ
thực
tiễn:

Trong một cuộc đàm đạo về văn chương, nhà văn Nguyễn Khải

2

12.0

phát biểu:
"Một tác phẩm văn học hay, theo tôi quan niệm, lõi phải
dày, vỏ phải mỏng; Mọi vấn đề đặt ra trong đó phải thẳng căng,
những tình cảm phải đẩy đến mức tột cùng."
Anh (chị) có đồng ý với ý kiến trên không? Hãy làm sáng tỏ
bằng một tác phẩm văn học.
I. Bày

tỏ
quan
điểm

1. Giải thích, cắt nghĩa:
- Tác phẩm văn học: có thể bao gồm cả thơ và văn xuôi, nhưng trong
phạm vi của nhận định, nó phù hợp với văn xuôi hơn, đặc biệt là với
truyện ngắn.
- Lõi (bên trong): nội dung, ý nghĩa. Lõi dày có nghĩa là nội dung, ý
nghĩa của tác phẩm bề thế, sâu xa
- Vỏ (bề ngoài): hình thức của tác phẩm. Vỏ mỏng đồng nghĩa với dung
lượng gọn nhẹ.
- Vấn đề tác phẩm đặt ra phải thẳng căng: lập trường tư tưởng của
người viết phải rõ ràng.
- Tình cảm phải đẩy đến mức tột cùng: tình cảm phải chân thành mãnh

2.0


liệt.
=> Với những tiêu chí trên cả hai bình diện nội dung và hình thức, nhà
văn Nguyễn Khải bày tỏ quan điểm của cá nhân ông về một tác phẩm
hay. Một tác phẩm văn học hay, theo ông phải đạt tới những yêu cầu về
độ hàm súc (có sức chứa lớn - lõi dày, vỏ mỏng); Tư tưởng của nhà văn
phải được bày tỏ công khai, rõ ràng, minh bạch và quan trọng nhất là nó
phải được viết ra từ trái tim nóng bỏng của người nghệ sỹ.
2. Bàn luận:
a. Cơ sở lí luận:
* Tác phẩm hay lõi phải dày, vỏ phải mỏng (Đây là yêu cầu về tính hàm
súc của tác phẩm)

- Một tác phẩm đạt đến độ hàm súc là tác phẩm có thể đem lại cho
người đọc một lượng thông tin lớn nhất trong một dung lượng ngôn ngữ
ít nhất, là tác phẩm mà ở đó mỗi câu chữ, hình ảnh đều lấp lánh nhiều ý
nghĩa, gợi lên trong lòng người đọc những liên tưởng sâu xa (giống như
nước hoa quả cô đặc - Trương Hiền Lương). Không đạt được yêu cầu
đó, tác phẩm sẽ chỉ là tràng giang đại hải những lời lẽ vô bổ, rông dài.
Sự ít ỏi về thông tin sẽ đưa đến cho người đọc cảm giác vô cùng nhạt
nhẽo (HS lấy ví dụ làm sáng tỏ lí lẽ).
* Mọi vấn đề đặt ra trong đó phải thẳng căng (Tư tưởng của người viết
phải được bày tỏ công khai, rõ ràng, minh bạch)
- Một tác phẩm hay trước hết phải có tư tưởng "Một tác phẩm sẽ chết
nếu nó miêu tả chỉ để miêu tả, nếu nó không có sự thôi thúc chủ quan
mạnh mẽ nào đó có nguồn gốc trong tư tưởng bao trùm thời đại, nếu nó
không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không
đặt ra hoặc không trả lời những câu hỏi đó" (Bilinxki)
- Tư tưởng của nhà văn phải được bày tỏ công khai, rõ ràng, minh
bạch... bởi mỗi nhà văn, mỗi nghệ sỹ chân chính đều là một nhà tư
tưởng, một người chiến sỹ kiên cường dũng cảm đấu tranh cho lẽ phải,
cho những lý tưởng cao đẹp. Mọi thái độ giấu mặt, trung lập hay sự
bạc nhược đớn hèn đều không phải là phẩm chất của người nghệ sỹ
chân chính (HS tự lấy ví dụ)
* Những tình cảm phải đẩy đến mức tột cùng (yêu cầu về sự mãnh liệt

3.0


của cảm xúc)
- Tác phẩm văn học hay phải được viết ra từ trái tim nóng bỏng của
người nghệ sỹ bởi đó mới là tình cảm thật, chân thành, Mọi thái độ thờ
ơ, vô cảm, lạnh lùng, những tình cảm hời hợt, giả dối không thể "đánh

lừa" được trái tim người đọc.
- Tình cảm phải đẩy đến mức tột cùng thì cái tài của nhà văn mới có thể
phát lộ, tỏa sáng phải xúc động hồn thơ thì ngọn bút mới có thần (HS
lấy dẫn chứng minh họa)
b. Cơ sở thực tiễn: những tác phẩm văn học xuất sắc nhất của thế giới
(Người trong bao của A.Sê khốp; Số phận con người của Sôlôkhôp;
Thuốc của Lỗ Tấn; Ông già và biển cả của Hêminguây) và Việt Nam
(Chí Phèo của Nam Cao; Mùa lạc; Một người Hà Nội của Nguyễn
Khải; Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành...) đều là những tác phẩm
đã đạt được những yêu cầu trên.
* Học sinh có thể chọn một tác phẩm (Văn học Việt Nam hoặc nước
ngoài) đạt tới những yêu cầu mà nhà văn Nguyễn Khải nêu ra

II. Vận
dụng
vào tác
* Học sinh có thể phân tích tác phẩm bằng nhiều cách khác nhau nhưng
phẩm
không được xa rời, trái lại phải có tác dụng soi tỏ làm rõ cho những vấn
đề lí luận (Tác phẩm được viết với dung lượng bao nhiêu trang? Những
vấn đề tác phẩm đặt ra là gì? Chiều sâu ý nghĩa của tác phẩm? Thái độ,
tình cảm của nhà văn được bộc lộ trong tác phẩm ra sao? Để đạt tới
chiều sâu đó, tác giả đã sử dụng kỹ thuật viết (bút pháp miêu tả; xây
dựng tình huống, lựa chọn chi tiết...), sử dụng ngôn ngữ như thế nào?
Điểm toàn bài

7.0

20


Lưu ý khi chấm bài:
- Giám khảo cần linh hoạt trong việc vận dụng hướng dẫn chấm.
- Cần khuyến khích những bài làm có tính sáng tạo, nội dung bài viết có thể không
trùng với yêu cầu trong đáp án nhưng lập luận thuyết phục, văn phong sáng rõ,...
- Việc chi tiết hóa điểm số của các ý (nếu có) phải đảm bảo không sai lệch với
tổng điểm của mỗi phần và được thống nhất trong Hội đồng chấm thi.
Người làm đáp án
Lê Thị Phi Yến (ĐT: 0947949899)


HỘI CÁC TRƯỜNG CHUYÊN
VÙNG DUYÊN HẢI

ĐỀ THI MÔN NGỮ VĂN KHỐI 11
NĂM 2015

VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ

Thời gian làm bài: 180 phút

TRƯỜNG THPT CHUYÊN BẮC NINH

(Đề này có 1 trang, gồm 2 câu)

ĐỀ THI ĐỀ XUẤT
Câu 1: Nghị luận xã hội (8 điểm)
“Nếu một người được gọi là phu quét đường, hãy quét những con đường như Mi-kenlăng-giơ vẽ tranh, hãy quét những con đường như Bet-tô-ven đã soạn nhạc và hãy quét
những con đường như Sếch-xpia đã làm thơ. Người phu quét đường cần phải quét
những con đường sạch tới độ các thiên thần trên thiên đàng lẫn con người nơi trần gian
phải dừng lại và nói rằng: “Anh là người quét đường vĩ đại, người đã làm thật tốt công

việc quét đường của mình”.
(Mục sư Martin Luther King)
Anh (chị) hiểu như thế nào về ý kiến trên?
Câu 2: Nghị luận văn học (12 điểm)
B.Pastexnac đã phát biểu: “Nghệ thuật sinh ra từ nhu cầu được đền bù của con người.”
Anh (chị) hãy bình luận ý kiến trên và làm sáng tỏ bằng hiểu biết về một số truyện
ngắn của Nam Cao.
--------- Hết --------Người ra đề

Phạm Thị Ngọc An
Sđt: 0984982270


HƯỚNG DẪN CHẤM THI
Câu 1: Nghị luận xã hội (8 điểm)
A. Yêu cầu về kĩ năng:
- Biết cách làm bài nghị luận xã hội, kết cấu rõ ràng, lập luận chặt chẽ, văn thuyết
phục.
- Biết chọn và kết hợp nhiều thao tác lập luận phù hợp, vận dụng nhuần nhuyễn các
thao tác lập luận, giải thích, chứng minh, bình luận.
B. Yêu cầu về kiến thức: bài viết có thể linh hoạt trong cách trình bày nhưng cần đảm
bảo các ý cơ bản sau:
1. Giải thích:
- “ Nếu một người gọi là phu quét đường, hãy quét những con đường như Mi-kenlăng-giơ vẽ tranh, hãy quét những con đường như Bet-tô-ven soạn nhạc, và hãy quét
đường như Sếch-xpia đã làm thơ”
-> Câu nói không có ý nghĩa thực so sánh người phu quét đường với Mi-ken-lănggiơ, Bet-to-ven, Sếch-xpia.
-> Mi-ken-lăng-giơ là họa sĩ vẽ tranh nổi tiếng người Ý, tác giả của những kiệt tác
tranh và tượng; Sếch-xpia là nhà viết kịch, nhà thơ thiên tài người Anh; Bet-to-ven là
nhà soạn nhạc vĩ đại người Đức, người đã sáng tạo cho đời những bản giao hưởng bất
tử. Họ không quét đường như người phu, họ vẽ tranh, làm thơ, soạn nhạc. Họ là những

người đam mê nghệ thuật, hết mình trong sáng tạo, những con người vĩ đại.
->Người phu quét đường được so sánh với những người nghệ sĩ ấy là ở thái độ trong
lao động và kết quả thực hiện công việc của mình để khẳng định: Trong bất kì công
việc gì, một người dù lĩnh nhận bất kể việc nào cũng phải tận tình, say mê, yêu quý
công việc mình đang thực hiện và hiểu được ý nghĩa của công việc đó đối với xã hội.


- “Người phu quét đường cần phải quét những con đường sạch tới độ các thiên thần
trên thiên đàng lẫn con người nơi trần gian phải dừng lại và nói rằng: “Anh là người
quét đường vĩ đại, người đã làm thật tốt công việc quét đường của mình” ”
Câu nói khẳng đinh: Nếu người phu quét đường thực hiện công việc của mình với
lòng yêu nghề, với hiệu quả công việc tốt, có đóng góp cho xã hội thì dù là một người
lao động rất nhỏ bé với công việc giản dị, thầm lặng của mình cũng xứng đáng là người
vĩ đại, xứng đáng được mọi người tôn trọng, ngợi ca.
=> Ý nghĩa khái quát của câu nói: Mỗi con người dù là ai, dù làm bất kì công việc
nào cũng đều phải hoàn thành tốt công việc của mình bằng lòng nhiệt huyết, sự say mê
cống hiến. Khi mỗi con người đã làm thật tốt công việc của mình họ đều xứng đáng là
những con người vĩ đại, đáng được tôn trọng ngợi ca.
2. Lí giải, chứng minh: Ý kiến bất ngờ, đầy thú vị: So sánh người phu quét đường người lao động bình dị với những người nghệ sĩ vĩ đại.
a. “Nếu một người gọi là phu quét đường, hãy quét những con đường như Mi-kenlăng-giơ vẽ tranh, hãy quét những con đường như Bet-tô-ven soạn nhạc, và hãy quét
những con đường như Sếch-xpia đã làm thơ”: Mỗi con người dù là ai, dù làm bất kì
công việc nào cũng đều phải hoàn thành tốt công việc của mình bằng lòng nhiệt huyết,
sự say mê cống hiến. Bởi lẽ:
+ Chỉ khi say mê, hết mình cống hiến người lao động mới dồn tâm huyết cho công
việc của mình và tìm thấy tình yêu, hạnh phúc và ý nghĩa cuộc đời trong mỗi công việc
mình làm dù là công việc nhỏ bé.
+ Say mê, tâm huyết là một trong những động lực cơ bản để người lao động hoàn
thành tốt nhất công việc của mình thậm chí nhận thức mỗi việc mình làm là một hành
động sáng tạo để nỗ lực hoàn thành trách nhiệm, cống hiến, làm đẹp cho đời.
+ Khi người lao động thiếu say mê, tâm huyết, không có ý thức trách nhiệm thì dù làm

bất kể công việc gì cũng thờ ơ, vô trách nhiệm điều ấy không những đem lại bất hạnh


cho bản thân anh – không tìm thấy niềm vui trong lao động hơn thế còn gây tác hại đối
với xã hội. Cần lên án những con người như thế.
b. Người phu quét đường cần phải quét những con đường sạch tới độ các thiên thần
trên thiên đàng lẫn con người nơi trần gian phải dừng lại và nói rằng: “Anh là người
quét đường vĩ đại, người đã làm thật tốt công việc quét đường của mình” .
+ Bản thân con người dù ở cương vị nào nhỏ bé hay lớn lao cũng là con người theo
đúng nghĩa thiêng liêng vẫn luôn đáng trân trọng.
+ Hơn thế nữa, càng đáng ngợi ca, tôn trọng hơn nếu người lao động bình thường với
những công nhỏ bé nhưng cống hiến hết mình và có được những đóng góp nhất định
thậm chí tốt nhất cho xã hội, làm đẹp cho cuộc đời. Họ cũng vĩ đại như những người
nghệ sĩ lớn. Không có nghề gì là hèn mọn, chỉ có những kẻ lười biếng là đáng xấu hổ.
+ Nếu không tận tâm trách nhiệm trong công việc anh không tạo được điều gì có ích
cho đời dĩ nhiên là sẽ trở thành người sống cuộc đời thừa, vô nghĩa. Cần phê phán.
Lưu ý: Học sinh sử dụng các dẫn chứng để chứng minh: nêu những chân dung người
lao động bình thường trong đời sống với những công việc thầm lặng đang làm việc tận
tâm, nhiệt huyết, say mê và trách nhiệm để đóng góp cho xã hội. Có thể lấy thêm một
vài ví dụ trong văn học để làm cho bài viết phong phú. Ví dụ câu chuyện về anh thanh
niên trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long, chị lao công trong bài
thơ “Tiếng chổi tre” của Tố Hữu.
3. Bài học
- Ý kiến hợp lí, thể hiện một tư tưởng nhân văn tiến bộ tôn vinh, ngợi ca con người:
Bất kì ai, bất kì công việc nào trong cuộc sống đều đáng trân trọng nếu đó là những lao
động góp sức mình đóng góp cho cuộc sống, làm đẹp cuộc đời. Ý kiến của mục sư Luthơ Kinh khiến mọi người có quan niệm và thái độ đúng đắn về con người và có thái độ
làm việc tích cực trong cuộc sống.
- Liên hệ bản thân, rút ra bài học.



C. Biểu điểm:
- Điểm 7-8: Đáp ứng tốt các yêu cầu trên, hành văn trong sáng, có cảm xúc.
- Điểm 5-6: Đáp ứng được phần lớn các yêu cầu trên, hành văn mạch lạc, ít mắc lỗi.
- Điểm 3-4: Đáp ứng được ½ các yêu cầu trên, còn một số lối về diễn đạt, chính tả.
- Điểm 1-2: Không hiểu đề hoặc còn mơ hồ, nhiều lỗi diễn đạt, chính tả.
( Điểm hình thức trong điểm nội dung)
Câu 2: Nghị luận văn học (12 điểm)
A. Yêu cầu về kĩ năng: thí sinh cần làm bài nghị luận văn học với bố cục rõ ràng, kết
cấu chặt chẽ, vận dụng linh hoạt các hình thức lập luận và diễn đạt lưu loát, giàu chất
văn.
B. Yêu cầu về kiến thức: thí sinh có thể triển khai bài viết theo nhiều cách khác nhau
nhưng cần đảm bảo những nội dung sau:
1.

Giải thích:

- Ý kiến của Pastexnac đề cập đến vai trò, chức năng của văn học đối với đời sống con
người. Nói: “nhu cầu được đền bù của con người từ văn học” là nói ý nghĩa, giá trị mà
văn học mang lại cho con người, là khả năng bù đắp cho con người về tinh thần. Đó là
những chức năng riêng của văn học nghệ thuật.
- Vì sao nghệ thuật lại sinh ra từ “nhu cầu được đền bù của con người” ?
+ Vì cuộc đời của mỗi con người là chật hẹp. Cuộc đời mỗi con người là một thực
thể bị giới hạn bởi không gian, thời gian, hiểu biết, những mối quan hệ,…Mỗi con
người bị định vị trong không gian và thời gian cụ thể. Mỗi con người chỉ sống một lần,
một cuộc đời,…Vì vậy văn học bù đắp cho con người những cái thiếu hụt mang tính
chất định mệnh


+ Vì văn học nghệ thuật đền bù cho con người những cái mà triết học, đạo đức học,
khoa học,…không đền bù được. Hay nói cách khác văn học bù đắp cho ta những thiếu

hụt mà các bộ môn khoa học và xã hội khác không bù đắp được.
 Đó là toàn bộ ý nghĩa, giá trị, sứ mệnh cao cả và chức năng to lớn của văn học.
2. Bình luận:
- Văn học đền bù cho con người những gì? Con người có những thiếu hụt gì cần văn
học bù đắp?
+ Văn học đền bù cho con người sự hiểu biết. Văn học mở rộng sự hiểu biết của con
người về thế giới, cuộc sống, trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Đặc biệt văn học giúp
ta hiểu biết về chính mình, giúp cuộc đời ta, tâm hồn ta trở nên “thâm trầm” và “rộng
rãi” hơn.
+ Văn học làm thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ của con người dựa trên hiểu biết về cuộc
sống. Việc thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ là lý do trực tiếp nhất của sự tồn tại văn học.
Nhu cầu thẩm mỹ là nhu cầu tinh thần của con người, nhu cầu con người khám phá
những bình diện của cái đẹp. Nó bao gồm cái bi, cái hài, cái cao cả, cái đẹp,… Văn học
làm phong phú đời sống tinh thần, mài sắc các giác quan, làm tâm hồn chúng ta tinh tế,
nghĩa là nâng cao năng lực cảm nhận cái đẹp của cuộc sống. Sec-nư-sep-ski cho rằng
mục đích, ý nghĩa của văn học là “giúp cho những ai không có khả năng cảm thụ được
cái đẹp thì có thể tìm hiểu và làm quen với cái đẹp.”
+ Văn học bù đắp cho con người ở chỗ thiếu hụt về nhân cách, giáo dục con người về
tư tưởng, tình cảm, đạo đức. Nhất là trong thời đại ngày nay – kinh tế thị trường, văn
chương sinh ra là để kéo con người gần người hơn, khôi phục tính người trong sự lũng
đoạn của tiền bạc.
- Tại sao văn chương có khả năng “đền bù cho con người” ?
Vì thế giới của văn học là thế giới cuộc sống con người được kết tinh từ trải nghiệm
của người cầm bút. Thế giới đó rất rộng lớn. Nó bao gồm nhiều cảnh ngộ, số phận và


cuộc đời khác nhau ở nhiều thời, nhiều nơi khác nhau. Chúng ta chỉ sống một cuộc đời
nhưng sống với tác phẩm chúng ta được sống với nhiều cuộc đời, nhiều con người, số
phận, cảnh ngộ,… Văn học đem đến cho ta nhiều trải nghiệm, giúp ta vượt qua giới hạn
bản thân. Chúng ta được sống một lần nữa qua một tác phẩm văn học.

Lưu ý: ở mỗi ý thí sinh cần có những dẫn chứng tiêu biểu minh họa.
3. Chứng minh:
Thí sinh cần dựa vào những hiểu biết về một số truyện ngắn tiêu biểu của Nam Cao
như: Chí Phèo, Một đám cưới, Đời thừa, Giăng sáng, … song tập trung ở Chí phèo và
Đời thừa để chứng minh rằng: tác phẩm của Nam Cao thực hiện được sứ mệnh đền bù
cho con người về nhận thức, nhu cầu thẩm mỹ và hoàn thiện nhân cách.
- Tác phẩm của Nam Cao nới rộng nhận thức hiểu biết về cuộc sống con người trong
xã hội cũ, giúp ta được sống với nhiều cảnh ngộ, nhiều loại người (nông dân, trí thức) ...
Đọc Chí phèo, Đời thừa ta hiểu được về nỗi đau của con người đâu chỉ đói cơm rách
áo mà là nỗi đau bị xói mòn về nhân phẩm, nỗi đau bị tha hóa do nghèo đói. Nam Cao
cho ta hiểu được rằng :Con người là một tồn tại không bao giờ bất biến. Nó luôn thay
đổi. Và sự thay đổi của nó đến từ xã hội, từ môi trường xung quanh(Chí Phèo, Hộ). Nên
sự thay đổi của mỗi con người, nhân cách của một con người, hạnh phúc của một con
người là nằm trong sự tương quan với người khác.
Tác phẩm của Nam Cao cung cấp cho người đọc hiểu biết thế nào là một tác phẩm
văn học chân chính, một nghệ sĩ chân chính .
- Tác phẩm của Nam Cao thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ, thức tỉnh taam hồn, làm nay
sinh những xúc cảm đẹp đẽ: Niềm xót thương, cảm thông với những nỗi đau của con
người; trân trọng và tin tưởng ở bản chất lương thiện,tốt đẹp của con người ngay cả khi
họ bị tha hóa. Nam Cao giúp ta tin rằng con người có thể bị hủy hoại nhưng phần nhân
tính thì không thể bị hủy diệt, giúp ta biết phẫn nộ trước sự phi nhân tính…
- Tác phẩm của Nam Cao đưa đến cho người đọc thông điệp: tình người cứu vớt tính
người, kẻ mạnh là kẻ giúp đỡ người khác trên đôi vai của mình,tình thương sẽ giúp con


người không trở thành “con vật bị sai khiến bởi lòng ích kỉ”…Từ đó con người tự nhận
thức, tự hoàn thiện bản thân.
4. Mở rộng:
- Khẳng định tính đặc thù của văn học trong việc thực hiện sứ mệnh đền bù cho con
người mà các bộ môn khoa học và nghệ thuật khác không vươn tới được.

- Suy nghĩ đến thiên chức và vị trí của người cầm bút, suy nghĩ về yêu cầu đối với
người đọc.
C. Biểu điểm:
- Điểm 11-12: Đáp ứng tốt các yêu cầu trên, lập luận chặt chẽ, văn viết có cảm xúc,
dẫn chứng chọn lọc, chính xác, có sức thuyết phục.
- Điểm 8-10: Đáp ứng phần lớn những yêu cầu trên, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng có
chọn lọc, chính xác. Có thể mắc những lỗi nhỏ.
- Điểm 6-7: Tương đối đủ các ý lớn tuy còn sơ sài, biết chọn và phân tích dẫn chứng,
còn mắc một số lỗi.
- Điểm 4-5: Chưa thật hiểu yêu cầu của đề.
- Điểm 1-3: Hiểu sai đề, diễn đạt yếu.
(Điểm hình thức trong điểm nội dung)
~ Hết ~


HỘI CÁC TRƯỜNG CHUYÊN
VÙNG DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
TRƯỜNG THPT CHU VĂN AN HÀ NỘI
ĐỀ THI ĐỀ XUẤT

ĐỀ THI MÔN NGỮ VĂN KHỐI 11
NĂM 2015
Thời gian làm bài 180 phút
(Đề này có 1 trang, gồm 2 câu)

Câu 1 (8 điểm):
Trong cuộc trả lời phỏng vấn của phóng viên Hạ Nhiên, báo Dân Việt tại địa
chỉ danviet.vn, truy cập ngày 13.3.2015, Quốc Anh, người Việt Nam duy nhất lọt
vào top 100 người có cơ hội tham gia chuyến du hành lên Sao hỏa vào năm 2024,
đã nói về “cái mất lớn nhất” của chuyến đi này:

- Nếu được lên sao Hỏa, cái được lớn nhất của anh là thỏa mãn ước mơ
chinh phục vũ trụ, nhưng rời xa Trái đất mãi mãi, vậy cái mất lớn nhất của
anh là gì ?
- Đó là “personal touch” - gặp gỡ trực tiếp. Công nghệ ngày càng hiện đại
giúp con người có thể liên lạc với nhau qua internet, từ châu lục này qua
châu lục khác và ngay cả khi ở trên sao Hỏa, song việc gặp gỡ, nói chuyện
trực tiếp, bắt tay nhau, vẫn có giá trị tinh thần gấp nhiều lần mà chưa gì
có thể thay thế được.
Anh/chị suy nghĩ gì về tâm sự của Quốc Anh.
Câu 2 (12 điểm):
“Hình tượng nghệ thuật không chỉ khơi dậy sự đồng cảm mà còn có khả năng
cuốn hút ta vào những cuộc đối thoại: đối thoại giữa các nhân vật trong truyện,
đối thoại với tác giả và đối thoại với chính bản thân mình”.
(Trích Giáo trình lí luận văn học - Nxb
ĐHSP - tr. 219 - 220)
Bằng những hiểu biết về văn học của mình, anh/chị hãy làm sáng tỏ nhận định
trên.
Hết
------------------------------------Người ra đề
Nguyễn Thị Hương Thủy
0973217667


ĐÁP ÁN VÀ BIỂU ĐIỂM
ĐỀ XUẤT ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI KHU VỰC DUYÊN HẢI - ĐBBB 2015

Môn: Ngữ văn – Lớp 11
Câu 1 (8 điểm):
Yêu cầu chung:
A. Kiến thức:

- Bàn luận được về vấn đề đưa ra: Khi phải rời bỏ Trái đất mãi mãi, điều Quốc
Anh thấy mất mát lớn nhất không phải là sự sống, công việc, gia đình mà là một
điều vừa cụ thể vừa rất “con người”: giao tiếp trực tiếp. Điều này được nhấn
mạnh hơn khi Quốc Anh đặt trong mối tương quan với sự phát triển của công
nghệ giúp con người có thể liên lạc với nhau dễ dàng vượt qua khoảng cách
không gian và thời gian, nhưng rõ ràng máy móc và công nghệ không thể thay
thế được con người. Có những điều rất bé nhỏ nhưng thật thiêng liêng.
- Biết bày tỏ suy nghĩ, quan điểm, thái độ... của bản thân về nhiều khía cạnh có
liên quan đến vấn đề được đưa ra:
+ Câu trả lời chứng tỏ Quốc Anh là người thực sự sâu sắc. Anh hiểu rõ ý nghĩa
của cuộc sống này, hiểu rõ giá trị thực của việc được sống. Vì thế, quyết định
tham gia chuyến du hành mạo hiểm này của anh không phải là một sự bồng bột,
một sự vô trách nhiệm hay một sự ích kỉ. Một mặt, nó thể hiện ước mơ mãnh liệt
của con người muốn thử thách, chinh phục đối mặt với những bí ẩn của vũ trụ,
mặt khác chính điều này sẽ giúp Quốc Anh trân quí những ngày tháng còn lại bên
gia đình, người thân ở Trái Đất. Từ đó ta nhận ra những điều đặc biệt phi thường
và dũng cảm thường xuất phát từ những con người ý thức rất rõ những giá trị bé
nhỏ mà vô giá trong cuộc đời.
+ Bàn luận về vai trò và thực trạng “giao tiếp trực tiếp” trong thế giới công nghệ
ngày nay: Người ta biết nhiều hơn nhưng đôi khi lại không biết gì, con người vừa
gần lại vừa quá xa nhau. Con người càng nhiều phương tiện hỗ trợ càng có nguy
cơ giảm khả năng của các giác quan... Vì thế, mất “giao tiếp trực tiếp” là đánh
mất năng lực sống dù giao tiếp trực tiếp có đôi khi khiến chúng ta buộc phải sống
chậm lại. Mất “giao tiếp trực tiếp” khiến chúng ta có được những điều ta muốn
nhanh hơn nhưng ta cũng rất dễ đánh mất nó, thậm chí chà đạp nó.
+ Làm thế nào để cân bằng giữa “giao tiếp trực tiếp” và ứng dụng công nghệ: có
thể liên hệ đến chuyến đi của Quốc Anh....
- Liên hệ, mở rộng, rút ra những trải nghiệm riêng của bản thân.
B. Kĩ năng:
- Biết xác lập luận điểm rõ ràng, chính xác, tập trung, có lí lẽ, dẫn chứng thuyết

phục.
- Vận dụng một cách hợp lí các thao tác lập luận để giải quyết vấn đề đáp ứng các
yêu cầu tạo lập văn bản nghị luận về một vấn đề xã hội có dung lượng phù hợp,
bố cục rõ ràng, kết cấu hợp lí, hành văn chuẩn xác, mạch lạc, truyền cảm.
- Bài làm phải thể hiện được những kiến giải riêng của người viết, biết phân tích
những biểu hiện, hiện tượng gần gũi trong đời sống, thậm chí là từ chính cuộc
sống của mình để lập luận làm rõ vấn đề. Tránh cách viết hô hào, sáo rỗng.
Biểu điểm cụ thể:


Điểm 7 - 8: Hoàn thành tốt các yêu cầu của đề bài, bài viết sâu sắc, thể hiện
những kiến giải độc đáo của người viết, có những liên hệ cụ thể và thiết thực
trong cuộc sống và với bản thân, hành văn trôi chảy.
Điểm 5 - 6: Hoàn thành cơ bản những yêu cầu của đề bài, nhưng bài viết chưa có
điểm nhấn, ví dụ còn quá quen thuộc, hành văn trôi chảy, kết cấu bài chặt chẽ.
Điểm 3 - 4: Bài làm đã chạm đến yêu cầu của đề bài (vai trò của giao tiếp trực
tiếp trong cuộc sống mà công nghệ thông tin bùng nổ) nhưng còn chung chung,
chưa gắn với hoàn cảnh của câu chuyện, hoặc lại quá sa vào câu chuyện, chưa
khái quát được vấn đề. Lập luận đôi chỗ còn lúng túng.
Điểm 1 - 2: Định hướng bài chưa rõ, kiến thức, kĩ năng lập luận chưa chắc chắn.
Điểm 0: Xác định sai yêu cầu, bỏ giấy trắng hoặc hầu như chưa làm bài.
Câu 2:
Yêu cầu chung:
A. Kiến thức:
- Học sinh giải thích và bàn luận được về các vấn đề cơ bản sau đây:
+ Hình tượng nghệ thuật và hai mức tác động của nó: Mức 1: gợi sự đồng cảm,
tức là nhà văn thuyết phục người đọc tin vào, nhập thân vào những điều mình nói;
Mức 2: cuốn hút ta vào những cuộc đối thoại, tức là tạo ra những tranh luận,
những chất vấn trong người đọc để người đọc tự tìm ra câu trả lời cho chính mình.
Từ đó, hình tượng nghệ thuật là tấm gương để con người tự soi mình, tự đối

chiếu và phán xét về người khác cũng như về chính bản thân mình. Bằng cách đó
văn học nâng đỡ cho nhân cách phát triển, khơi gợi khả năng tự giáo dục, tự hoàn
thiện của con người.
+ Phân biệt những cấp độ đối thoại: Đối thoại với nhân vật là khi ta đồng tình hay
phẫn nộ, phản bác lại... trước hành động, lời nói của nhân vật. Đối thoại với tác
giả là ta suy ngẫm về những vấn đề mà tác giả đặt ra trong tác phẩm, nhận ra
những nét sáng tạo của tác giả trong một hệ thống các tác phẩm cùng đề tài, chủ
đề, tranh luận và có kiến giải riêng của mình về vấn đề ấy, Đối thoại với chính
mình là khi ta không thể thờ ơ trước cuộc đời khi ta đọc một tác phẩm, tiếp xúc
với một tác phẩm khiến trong lòng ta diễn ra cuộc đấu tranh, sự vật lộn gay gắt
giữa phần thánh thiện và tội lỗi, giữa lí trí cao cả và dục vọng thấp hèn, buộc ta
phải đối diện với con người sâu thẳm trong chính mình, buộc ta dám lộn trái
chính mình....
+ Những yêu cầu cho cả nhà văn và người đọc để tạo ra những tác phẩm có tính
đối thoại như thế.
- Phân tích tác phẩm và chứng minh làm sáng tỏ vấn đề:
+ Học sinh lựa chọn được những ví dụ tiêu biểu để phân tích làm sáng rõ tính đối
thoại của tác phẩm thông qua những hình tượng nghệ thuật.
+ Việc lựa chọn ví dụ cần linh hoạt, có những ví dụ lướt qua, có những ví dụ
xoáy sâu phân tích, nên có cả văn cả thơ, cả văn học trong nước và văn học nước
ngoài, văn học trung đại và hiện đại...Tránh việc rơi vào phân tích thuần thúy một
tác phẩm. Khuyến khích cách kiến giải riêng của học sinh, miễn là học sinh lí giải
thấu đáo và trúng vấn đề.
+ Học sinh có thể kết hợp giữa lí luận và phân tích ví dụ làm sáng tỏ, có thể tách


riêng phần lí luận và phân tích làm sáng tỏ.
B. Kĩ năng:
- Hiểu đề, biết cách làm bài văn nghị luận văn học với dạng đề: bàn về một nhận
định.

- Bố cục bài viết rõ ràng, có lập luận chặt chẽ, hành văn trôi chảy, văn viết có
cảm xúc, không mắc các lỗi diễn đạt, dùng từ, ngữ pháp, chính tả.
- Biết lựa chọn dẫn chứng hợp lý, biết cách sắp xếp, phân bố dẫn chứng phù hợp,
tránh hai trường hợp: hoặc quá ôm đồm dẫn chứng hoặc quá ít dẫn chứng.
Biểu điểm cụ thể:
10 - 12: Hoàn thành tốt những yêu cầu của đề bài, bài viết thể hiện kiến thức lí
luận vững vàng, khả năng lựa chọn và phân tích dẫn chứng sắc sảo, kĩ năng phối
hợp lí luận và phân tích chứng minh nhuần nhuyễn. Thông qua bài làm, người
viết thể hiện được cá tính riêng của mình trong việc nhìn nhận vấn đề. Văn viết
hay, độc đáo.
7 - 9: Cơ bản hoàn thành các yêu cầu của đề bài. Các vấn đề được giải quyết thấu
đáo nhưng chưa có nét độc đáo. Hành văn trôi chảy, chặt chẽ.
4 - 6: Giải quyết được yêu cầu của đề bài nhưng chưa trọn vẹn, hoặc vấn đề lí
luận chưa sâu, hoặc lựa chọn dẫn chứng còn ít nhiều lúng túng, quá ít hoặc quá
ôm đồm.
1 - 3: Định hướng bài chưa rõ, kiến thức, kĩ năng lập luận chưa chắc chắn.


TRƯỜNG ĐHSP HÀ NỘI
TRƯỜNG THPT CHUYÊN

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
---------o0o--------

ĐỀ NGUỒN THI HSG DUYÊN HẢI
Môn thi: Ngữ văn
(Thời gian làm bài: 180 phút; đề gồm 02 trang)

Câu 1 (8 điểm):

“Bạn làm nghề gì, điều đó không thành vấn đề. Vấn đề là cách bạn thực hiện công việcvới sự tự nguyện của bạn, với cách nhìn của bạn, với tình yêu của bạn. Thế thì bất kỳ thứ gì
bạn chạm vào cũng biến thành vàng”.
(Osho- Sách về hiểu biết sáng tạo ra con đường của chính bạn đến tự do-NXBThời đại, HN, 2011,
tr 201 ).

Anh/chị suy nghĩ như thế nào về ý kiến trên?
Câu 2: (12 điểm)
MƯA XUÂN
Em là con gái trong khung cửi
Dệt lụa quanh năm với mẹ già.
Lòng trẻ còn như cây lụa trắng,
Mẹ già chưa bán chợ làng xa.
Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay,
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy.
Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ,
Mẹ bảo: thôn Đoài hát tối nay.
Lòng thấy giăng tơ một mối tình
Em ngừng thoi lại giữa tay xinh.
Hình như hai má em bừng đỏ,
Có lẽ là em nghĩ đến anh.
Bốn bên hàng xóm đã lên đèn,
Em ngửa bàn tay trước mái hiên.
Mưa chấm bàn tay từng chấm lạnh
Trang 1


Thế nào anh ấy chả sang xem!
Em xin phép mẹ vội vàng đi
Mẹ bảo: xem về kể mẹ nghe.
Mưa bụi nên em không ướt áo

Thôn Đoài cách có một thôi đê.
Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm,
Em mải tìm anh chả thiết xem.
Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh,
Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em.
Chờ mãi anh sang anh chả sang,
Thế mà hôm nọ hát bên làng
Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn,
Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng!
Mình em lầm lụi trên đường về,
Có ngắn gì đâu một dải đê!
Áo mỏng che đầu, mưa nặng hạt
Lạnh lùng thêm tủi với canh khuya.
Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay,
Hoa xoan đã nát dưới chân giày.
Hội chèo làng Đặng về qua ngõ,
Mẹ bảo mùa xuân đã cạn ngày.
Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày!
Bao giờ em mới gặp anh đây?
Bao giờ hội Đặng đi ngang ngõ,
Để mẹ em rằng hát tối nay?
(Nguyễn Bính- Lỡ bước sang ngang- 1936)
Cảm nhận của anh/chị về bài thơ trên.
-----------------Hết--------------

Trang 2


Trang 3



TRƯỜNG THPT CHUYÊN
LÊ QUÝ ĐÔN ĐIỆN BIÊN
ĐỀ THI ĐỀ XUẤT

KÌ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI
KHU VỰC DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
Lần thứ VIII - Năm 2015
MÔN THI: NGỮ VĂN 11
Thời gian làm bài: 180 phút (Không kể giao đề)

Câu 1 (8,0 điểm):
Một nhà văn lớn phương Tây nói: “Lòng tự tin làm nên tất cả”.
Anh (chị) hãy phát biểu ý kiến của cá nhân mình về nhận định đó.
Câu 2 (12,0 điểm):
Lí Nhuệ - nhà văn nổi tiếng của văn học đương đại Trung quốc có nói “ Lịch
sử văn học chỉ trân trọng những người sáng tạo độc đáo”
Anh / chị có suy nghĩ gì về ý kiến trên ?
…………………………..Hết …………………..
Người ra đề: Lê Thị Tuyết - 0912565048

1


TRƯỜNG THPT CHUYÊN
LÊ QUÝ ĐÔN ĐIỆN BIÊN

ĐÁP ÁN ĐỀ XUẤT
KÌ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI
KHU VỰC DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ

Lần thứ VIII - Năm 2015
MÔN THI: NGỮ VĂN 11

Câu 1 (8,0 điểm)
A. Yêu cầu
I. Về kỹ năng:
Thí sinh biết cách làm bài nghị luận xã hội theo yêu cầu của đề. Bài viết có bố cục
rõ ràng, lập luận chặt chẽ, diễn đạt mạch lạc, có cảm xúc, sáng tạo, hạn chế tối đa
các lỗi về chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
II. Về kiến thức:
1. Giải thích câu nói
- Thế nào là lòng tự tin ? Hiểu một cách giản dị nhất, lòng tự tin là niềm tin mà một
cá nhân đặt vào bản thân mình.
- Câu nói muốn nhấn mạnh ý nghĩa, vai trò của sự tự tin đối với thành công của con
người.
2. Bình luận
- Tự tin là một phẩm chất đặc biệt vì không phải ai cũng có. Chỉ những ai hiểu rõ
bản thân mình, biết mình là ai và có thể làm được những gì mới có được niềm tin
này.
- Tại sao lòng tự tin lại có thể giúp con người làm nên tất cả? Bởi vì, lòng tự tin là
yếu tố có thể đánh thức ở mỗi cá nhân các phẩm chất sau:
+/ Lòng tự tin khiến một con người dám mơ ước. Đương nhiên, không thể là
những ước mơ tầm thường mà phải là những mơ ước lớn lao.
+/ Lòng tự tin khiến một con người dám nghĩ và dám làm. Dám nghĩ những
điều khác thường và phi thường; dám làm những điều mà nhiều người e ngại,
nhiều người không thể làm được.
2


+/ Tóm lại, tất cả những gì kì diệu mà con người làm ra, nhiều khi tưởng như

vượt quá khả năng trần thế của nó đều nhờ ở lòng tự tin.
2. Chứng minh ( qua những tấm gương thành công nhờ sự tự tin )
3. Mở rộng vấn đề: Lòng tự tin là một phẩm chất mang tính chủ quan, cho nên
trên thực tế lòng tự tin có hai dạng: Lòng tự tin sáng suốt và lòng tự tin mù quáng.
Lòng tự tin sáng suốt là động lực và sức mạnh giúp một cá nhân vượt qua tất cả
mọi thử thách, lòng tự tin mù quáng thì ngược lại.
4. Rút ra bài học cho bản thân
- Cần ý thức sâu sắc sự cần thiết của sự tự tin
- Lòng tự tin không ngẫu nhiên mà có. Phần lớn những người thông minh, từng
vượt qua nhiều thử thách và đã chiến thắng nhờ bản lĩnh và nghị lực mới xây dựng
cho mình niềm tin vào chính mình để có lòng tự tin gió trong cuộc. Song bên cạnh
đó cần không ngừng nâng cao bồi đắp kiến thức, trí tuệ …
III. Cách cho điểm
- Điểm 7 - 8 : Học sinh tỏ ra hiểu vấn đề, biết làm bài nghị luận xã hội, lập luận
chặt chẽ, dẫn chứng sinh động, không mắc lỗi.
- Điểm 5- 6 : Học sinh tỏ ra hiểu vấn đề, dẫn chứng cụ thể, nhưng lập luận chưa
chặt chẽ, ý văn chưa sáng, còn vài lỗi về diễn đạt; hoặc bài lập luận chặt, ý sáng rõ
nhưng chưa có nhiều dẫn chứng cụ thể.
- Điểm 3- 4 : Bài viết tỏ ra hiểu vấn đề còn lơ mơ, chưa chú ý minh hoạ bằng dẫn
chứng cụ thể , diễn đạt còn nhiều lỗi.
- Điểm 1- 2: Khai thác được một vài ý nhưng sơ sài, mắc nhiều lỗi.
- Điểm 0 : Không viết gì hoặc tỏ ra không hiểu gì về đề.
Câu 2 ( 12 điểm )
I. Yêu cầu về kỹ năng: Biết cách làm bài văn nghị luận về một vấn đề văn học.
Luận điểm rõ ràng, lô gíc, lập luận chặt chẽ, thuyết phục. Văn giàu giàu cảm xúc,
giàu hình ảnh, không mắc lỗi diễn đạt, dùng từ, chính tả....

3



II. Yêu cầu về kiến thức: Học sinh có thể có những cánh trình bày vấn đề khác
nhau, song bài viết phải làm nổi bật được các nội dung chính sau:
1, Giải thích
- Nói đến “lịch sử văn học” là nói đến sự vận động của chính bản thân văn học (
bao gồm tác giả, tác phẩm, trào lưu, giai đoạn) trong không gian, thời gian các thời
kì lịch sử nhât định.
- “Sáng tạo nghệ thuật” : chỉ hoạt động khám phá, phát minh tìm ra cái chưa có,
làm mới làm lạ cái đã có của người nghệ sĩ.
=> Dòng chảy lịch sử văn chương đã thừa nhận tính sáng tạo, phẩm chất sáng tạo
của người nghệ sĩ. Sáng tạo vừa là yêu cầu vừa làm nên vị trí danh dự của nhà văn ,
sức sống lâu bền của nhà văn trong lòng độc giả.
2, Bình luận , chứng minh
- Đây là một ý kiến xác đáng, là tiếng nói của người trong cuộc.
- Tại sao sáng tạo làm nên sức sống , tại sao sáng tạo được đề cao ?
+) Bản chất của nghệ thuật là sáng tạo. Văn học, nghệ thuật không chấp nhận sự lặp
lại…sự bắt chước…
+) Mỗi độc giả, khi đến với văn chương, ngoài mục đích giải trí hay nâng cao nhận
thức, thẩm mĩ hoặc tìm đến văn chương để được sẻ chia tâm sự thì người đọc vẫn
hướng tới những tác phẩm độc đáo mởi mẻ. Bởi vậy, nhà văn và tác phẩm luôn
phải chịu một quy luật rất khắt khe: quy luật đào thải.
3, Mở rộng vấn đề
- Lí Nhuệ đã đề cao sáng tạo nhưng không tuyệt đối hóa vai trò của sáng tạo. Làm
nên sức sống của một nhà văn không chỉ dựa vào sáng tạo mà còn ở nhiều yếu tố
khác nữa như: tiếng nói tri âm, sự phản ánh hiện thực ở bề sâu, tính dân tộc, tính
nhân dân trong văn học..
- Người nghệ sĩ hãy không ngừng sáng tạo, tìm tòi.
- Nhận định được xem như một gợi ý người đọc về tiêu chuẩn đánh giá, thẩm định
một tác phẩm văn chương.
4



×