Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHI TIÊU CÁC NÔNG NG CỦA CHÂN TỐ ĐÓ TỚI CHI TIÊU CÔNG Ở VIỆT NAM TRSỰ TÁC ĐỘONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.53 KB, 18 trang )

Nhóm 04

1659EFIN3021

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

BÀI THẢO LUẬN
MÔN: TÀI CHÍNH CÔNG
ĐỀ TÀI :
PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHI TIÊU CÔNG
SỰ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC NHÂN TỐ ĐÓ TỚI CHI TIÊU CÔNG Ở
VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY.
Lớp học phần: 1659EFIN3021
Giáo viên hướng dẫn:
Nhóm: 04

Năm 2016

1


Nhóm 04

1659EFIN3021

LỜI MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHI TIÊU CÔNG
1 Khái niệm, đặc điểm và vai trò của chi tiêu công
1.1 Khái niệm


1.2 Đặc điểm của chi tiêu công
1.3 Vai trò của chi tiêu công đối với nền kinh tế:
1.3.1 Thu hút vốn đầu tư của khu vực tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1.3.2 Góp phần điều chỉnh chu kỳ kinh tế
1.3.3 Tái phân phối thu nhập, thực hiện công bằng xã hội
2. Cơ cấu chi tiêu công.
PHẦN II: SỰ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI CHI TIÊU CÔNG VÀ TÁC
ĐỘNG ĐẾN CHI TIÊU CÔNG Ở VIỆT NAM.
1.Thực trạng chi tiêu công của Việt Nam giai đoạn từ 2010-2015
1.1 Chi thiếu căn cứ, sai mục tiêu
1.2. Đầu tư dàn trải, lãng phí
1.3.Chi chưa đúng tiến độ, tiêu chuẩn.
1.4. Vay, tạm ứng không đúng quy định.
2, Các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu công và sự tác động đến chi tiêu công ở Việt Nam
2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu công
2.1.1Sự phát triển về vai trò của chính phủ trong nền kinh tế
2.1.2 Sự thay đổi quan niệm tổng quát về tài chính công
2.1.3 Các nhân tố khác:
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng tăng chi tiêu công ở Việt Nam.
2.2.1 Thứ nhất, bản thân của chính phủ:
2.2.2Thứ hai, chi phí để cung cấp hàng hóa công cộng:
2.2.3 Thứ ba, thay đổi dân số:
2.2.4 Thứ tư, thay đổi công nghệ:
2.2.5 Thứ năm, thu nhập bình quân theo đầu người:
3.Các biện pháp làm tăng hiệu quả chi tiêu công

2


Nhóm 04


1659EFIN3021

LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế hiện đại, các khoản chi tiêu công không mất đi mà nó lại tạo
ra sự tái phân phối giữa các khu vực trong nền kinh tế, trong đó Nhà nước đóng vai
trò trung tâm trong quá trình này. Thông qua các khoản chi tiêu công, Nhà nước
cung cấp cho xã hội những hàng hoá mà khu vực tư không có khả năng cung ứng,
hoặc cung ứng không có hiệu quả mà nguồn từ các khoản thu nhập xã hội như
thuế, phí, lệ phí. Như vậy, Nhà nước thực hiện tái phân phối thu nhập xã hội công
bằng hơn, khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo đảm nền kinh tế
tăng trưởng và bền vững.
Chi tiêu công có tác động rất lớn đến nền kinh tế của một quốc gia. Sự tác động
đó có thể là tích cực hay tiêu cực tùy thuộc vào chính sách chi tiêu của Chính phủ
có đúng đắn không, và làm sao để có những chính sách chi tiêu hiện quả. Đó cũng
chính là thách thách không hề nhỏ đối với Chính phủ.
Vì vậy mà nhóm đã lựa chọn đề tài“ Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu
công. Sự tác động của các nhân tố đó đến chi tiêu công của Việt Nam.” để đưa ra
đánh giá, hoạch định xây dựng chính sách một cách hợp lý và cần thiết nhất. Giúp
cho Chính phủ sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính công thông qua ưu tiên
hóa các khoản chi tiêu nhằm đem lại lợi ích thiết thực vì mục đích phát triển kinh
tế xã hội.

3


Nhóm 04

1659EFIN3021


NỘI DUNG
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHI TIÊU CÔNG
1 Khái niệm, đặc điểm và vai trò của chi tiêu công
1.1 Khái niệm
Chi tiêu công là các khoản chi tiêu của các cấp chính quyền, các đơn vị quản lý
hành chính, các đơn vị sự nghiệp được kiểm soát và tài trợ của Chính phủ. Ngoài
các khoản chi của các quỹ ngân sách, về cơ bản chi tiêu công thể hiện các khoản
chi của Chính phủ được Quốc hội thông qua. Chi tiêu công phản ánh giá trị các
hàng hoá mà Chính phủ mua vào để đó cung cấp các loại hàng hoá công cho xã hội
nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước.
1.2 Đặc điểm của chi tiêu công
- Chi tiêu công phục vụ lợi ích chung của cộng đồng dân cư ở các vùng hay
các quốc gia. Điều này xuất phát từ chức năng quản lý toàn diện nền kinh tế
xã hội của Nhà nước và cũng chính trong quá trình thực hiện chức năng đó,
Nhà nước cung cấp một lượng hàng hoá khổng lồ cho nền kinh tế.
- Chi tiêu công luôn gắn liền với bộ máy Nhà nước và những nhiệm vụ kinh
tế, chính trị, xã hội mà Nhà nước thực hiện. Các khoản chi tiêu công do
chính quyền Nhà nước các cấp đảm nhiệm theo các nội dung đã được quy
định trong phân cấp quản lý ngân sách Nhà nước và các khoản chi tiêu này
nhằm đảm bảo cho các cấp chính quyền thực hiện chức năng quản lý , phát
triển kinh tế - xã hội . Các cấp của cơ quan quyền lực Nhà nước là chủ thể
duy nhất quyết định cơ cấu, nội dung, mức độ của các khoản chi tiêu công
nhằm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội của đất
nước.
- Chi tiêu công mang tính chất công cộng, tương ứng với những đơn đặt hàng
của Chính phủ về mua hàng hoá, dịch vụ nhằm thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước .Đó cũng là những khoản chi cần thiết và phát sinh
tương đối ổn định như chi lương cho đội ngũ cán bộ, công chức, chi hàng
hoá, dịch vụ công đáp ứng nhu cầu tiêu dùng công cộng của dân cư…
- Chi tiêu công mang tính chất không hoàn trả hay hoàn trả không trực tiếp

và thể hiện ở chỗ không phải mọi khoản thu với mức độ và số lượng của

4


Nhóm 04

1659EFIN3021

những địa chỉ cụ thể đều được hoàn lại dưới hình thức các khoản chi tiêu
công.
1.3 Vai trò của chi tiêu công đối với nền kinh tế:
1.3.1 Thu hút vốn đầu tư của khu vực tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
- Đầu tư được coi là yếu tố khởi đầu cơ bản của sự phát triển và sinh lời. Để
có bắt đầu một quá trình sản xuất hoặc tái mở rộng sản xuất trước hết phải
có vốn đầu tư.
- Đầu tư đòi hỏi một khối lượng vốn lớn, khối lượng vốn lớn thường là tất yêu
khách quan nhằm tạo ra những điều kiện vật chất kỹ thuật cần thiết đảm bảo
cho tăng trưởng, và phát triển kinh tế như: xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng
các cơ sở công nghiệp luyện kim, chế tạo máy, công nghiệp hóa dầu, công
nghiệp lương thực, thực phẩm, ngành điện năng,…
- Chuyển dịch cơ cấu ngành phải được coi là điểm cốt tử, một nọi dung cơ
bản lâu dài trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nếu xác định
phương hướng và giải pháp chuyển dịch đúng sẽ đảm bảo hiệu quả kinh tế
xã hội cao trong sự phát triển. Ngược lại sẽ phải trả giá đắt cho những sự
phát triển về sau .
Chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế thành công hay thất bại phụ thuộc
rất nhiều vào khâu quyết định chủ trương chuyển dịch và tổ chức thực hiện
các mục tiêu, nhiệm vụ đã xác định.
1.3.2 Góp phần điều chỉnh chu kỳ kinh tế

- Suy thoái kinh tế: mở rộng chi tiêu công
Suy thoái kinh tế có thể liên quan đến sự suy giảm đồng thời của các chỉ số
kinh tế của toàn bộ hoạt động kinh tế như việc làm, đầu tư, và lợi nhuận
doanh nghiệp. Các thời kỳ suy thoái có thể đi liền với hạ giá cả (giảm phát),
hoặc ngoặc lại tăng nhanh giá cả (lạm phát) trong thời kỳ đình lạm. Suy
thoái kinh tế là một giai đoạn của chu kỳ kinh tế, còn gọi là chu kỳ kinh
doanh. Đó là sự biến động của GDP thực tế theo trình tự ba pha lần lượt là:
suy thoái, phục hồi và bùng nổ. Vì pha phục hồi là thứ yếu nên cũng có thể
chia chu kỳ kinh tế thành 2 phá đó là : suy thoái và bùng nổ.
- Lạm phát: thu hẹp chi tiêu công
Lạm phát là một quá trình tăng liên tục. Lạm phát có thể xảy ra do tổng cầu
tăng (lạm phát do cầu kéo) hoặc do tổng cung giảm (lạm phát do chi phí
đẩy). Tăng đầu tư và chi tiêu công để tăng trưởng kinh tế, nhưng đồng thời
5


Nhóm 04

1659EFIN3021

cũng làm tăng tổng cầu. Do vậy, muốn giảm lạm phát thì Chính phủ cần cắt
giảm tổng cầu thông qua giảm chi tiêu công.
1.3.3 Tái phân phối thu nhập, thực hiện công bằng xã hội
- Đây là một mục tiêu quan trọng đứng sau nhiều chính sách của chính phủ.
Chính phủ có thể thực hiện mục tiêu này bằng cách nhưng cách thức trực
tiếp thường dùng nhất là đánh thuế lũy tiến và chi trợ cấp bằng tiền cho các
đối tượng cần thiết, việc chính phủ cung cấp các dịch vụ y tế giáo dục, nhà ở
và các dịch vụ xã hội khác cũng là những trọng tâm của các chính sách phân
phối lại, Ngoài ra, các hoạt động điều tiết như bào vệ người tiêu dung, chống
độc quyền, đảm bảo an toàn lao động, vệ sinh thực phẩm… cũng mang hàm

ý phân phối lại. Tuy nhiên, đứng sau mỗi mức độ phân phối lại đó đều hàm
chưa sự đánh đổi giữa hiệu quả và công bằng, vì nó có liên quan đến những
chi phí nhất định để đảm bảo hoạt động phân phối lại mang tính hiệu quả
cao.
2. Cơ cấu chi tiêu công.
Phân loại căn cứ theo chức năng vĩ mô của Nhà nước:
-

Xây dựng cơ sở hạ tầng
Tòa án và viện kiểm soát
Hệ thống quân đội và an ninh xã hội
Hệ thống giáo dục
Hệ thống an sinh xã hội
Hỗ trợ cho các doanh nghiệp
Hệ thống quản lý hành chính Nhà nước
Chi tiêu viện trợ nước ngoài, ngoại giao
Chi khác

Phân loại theo tính chất kinh
-

-

Chi thường xuyên: là những khoản chi có tính đều đặn, liên tục gắn liền với
nhiệm vụ thường xuyên của Nhà nước về quản lý kinh tế - xã hội.
Đặc điểm: mang tính ổn định; phần lớn mang tính tiêu dùng; gắn với cơ cấu
tổ chức, mang tính chất bắt buộc.
Chi đầu tư phát triển: là những khoản chi nhằm tạo cơ sở vật chất kỹ thuật,
có tác dụng làm cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển.


6


Nhóm 04

-

1659EFIN3021

Đặc điểm: là những khoản chi lớn, không mang tính ổn định; chi có tính tích
lũy; gắn với mục tiêu, định hướng.
Chi khác

Phân loại theo quy trình lập ngân sách, gồm có:
-

-

Chi tiêu công theo các yếu tố đầu vào: Nhà nước xác lập mức kinh phí cho
các khoản chi tiêu công dựa trên danh sách liệt kê các khoản mua sắm những
phương tiện cần thiết cho hoạt động của các cơ quan, đơn vị. Thông thường
cho các khoản mục cơ bản sau: chi mua tài sản cố định, chi mua tài sản lưu
động, chi tiền lương và các khoản phụ cấp, chi bằng tiền khác.
Chi tiêu công theo đầu ra: Kinh phí phân bổ cho một đơn vị cơ quan, không
căn cứ vào các yếu tố đầu vào mà dựa vào khối lượng công việc đầu ra và
kết quả tác động đến mục tiêu hoạt động của đơn vị.

PHẦN II: SỰ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI CHI
TIÊU CÔNG VÀ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHI TIÊU CÔNG Ở VIỆT NAM.
1.Thực trạng chi tiêu công của Việt Nam giai đoạn từ 2010-2015

Xét về góc độ chi ngân sách, có một số tiền không nhỏ đã bị lãng phí, thất thoát
thông qua việc đầu tư công, thông qua việc chi tiêu của các cơ quan nhà nước,
thông qua ăn kém hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước. Những kết quả kiểm
toán, thanh tra với số tiền bị lãng phí, thất thoát lớn mới được công bố và được đưa
lên mặt báo hằng ngày là điều không thể coi thường. Đầu tư, chi tiêu kém hiệu quả
góp phần làm bội chi ngân sách, làm tăng nợ nần của Chính phủ và tạo sức ép lạm
phát.
Nền kinh tế đang phải đối mặt với những khó khăn, Chính phủ buộc phải thực hiện
các biện pháp quyết liệt nhằm cắt giảm chi đầu tư công, giảm chi thường xuyên để
kiềm chế lạm phát. Thế nhưng, nếu đi sâu vào phân tích vấn đề, ngoài những
nguyên nhân khách quan, lãng phí, bội chi ngân sách kéo dài, còn do hệ lụy từ
những tồn tại trong thu chi ngân sách.
1.1 Chi thiếu căn cứ, sai mục tiêu
- Tồn tại nổi lên trong công tác lập và giao dự toán chi ngân sách cho các dự
án đầu tư phát triển thời gian qua là chi thiếu căn cứ, bố trí vốn không đúng
với quy định của Luật ngân sách Nhà nước.
7


Nhóm 04
-

1659EFIN3021

Việc phân bổ vốn cho các chương trình mục tiêu quốc gia của các bộ ngành,
địa phương còn nhiều tồn tại, trong đó chủ yếu là tình trạng phân bổ sai nội
dung, mục tiêu, đối tượng hưởng thụ... việc phân bổ dự toán tại một số bộ
ngành, địa phương vẫn còn diễn ra tình trạng bình quân chủ nghĩa, dẫn tới
tình trạng phân bổ dàn trải, chia nhỏ kinh phí cho các dự án... Cũng trong
công tác phân bổ ngân sách, phân khai, giao kinh phí và nhiệm vụ còn chậm,

lập và phân bổ dự toán không sát với thực tế dẫn đến điều chỉnh, bổ sung
nhiều lần hoặc không thực hiện được dự án như đã đề ra.
Cụ thể đó là Nhiều địa phương sử dụng nguồn kinh phí sai quy định đã bị
Kiểm toán Nhà nước kiến nghị hoàn trả, với tổng số liền lên đến 1.600 tỷ
đồng.
Theo báo cáo Kiểm toán Nhà nước (KTNN) năm 2014, dự toán Quốc hội
quyết định và Chính phủ giao 704.400 tỷ đồng, nhưng quyết toán 723.292 tỷ
đồng (chiếm 65,5% tổng chi ngân sách nhà nước, bằng 18,4% GDP), trong
đó ngân sách Trung ương 315.574 tỷ đồng, ngân sách địa phương 407.718 tỷ
đồng.

1.2. Đầu tư dàn trải, lãng phí
Trong những năm qua, vốn đầu tư của Nhà nước liên tục gia tăng và chiếm tỷ lệ
khoảng 30% GDP, qua đó đã tạo nên sự chuyển biến quan trọng về cơ sở vật chất
kỹ thuật, thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng năng lực sản xuất, cải
thiện văn minh đô thị, đóng góp quyết định vào phát triển kinh tế xã hội trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước... Tuy nhiên, việc quản lý và triển
khai thực hiện các dự án trong những năm quan còn nhiều hạn chế và yếu kém, dẫn
đến thất thoát, lãng phí vốn đầu tư, hiệu quả đầu tư kém, làm giảm chất lượng tăng
trưởng kinh tế.... Kết quả, thực trạng thất thoát, lãng phí và tiêu cực trong đầu tư
XDCB đã được đăng tải nhiều trên các phương tiện truyền thông và tại nhiều diễn
đàn, gây nhức nhối trong toàn xã hội và đã được Đảng, Quốc hội, Chính phủ đặc
biệt quan tâm chỉ đạo ngăn ngừa, trong đó Kiểm toán Nhà nước là một trong
những công cụ quan trọng của Nhà nước để thực hiện nhiệm vụ này.
Mặc dù chưa có một cơ quan, tổ chức nào đưa ra được tỷ lệ và số liệu chính xác về
thất thoát, lãng phí trong đầu tư XDCB là bao nhiêu (10, 20 hay 30% như nhiều
chuyên gia nhận định) nhưng thất thoát, lãng phí là có thực và nó xẩy ra ở tất cả
các khâu, giai đoạn của quá trình đầu tư, từ chủ trương đầu tư, chuẩn bị đầu tư,
thực hiện đầu tư, cấp phát vốn đầu tư, đến khâu nghiệm thu bàn giao đưa công
trình vào sử dụng và quyết toán vốn đầu tư xây dựng công trình. Có thể khái quát

8


Nhóm 04

1659EFIN3021

một số dạng sai phạm dẫn đến tham nhũng, lãng phí và tiêu cực trong ĐTXD như
sau:
-

Thất thoát, lãng phí trong khâu chủ trương đầu tư: Xác định sai chủ trương
đầu tư, dẫn đến đầu tư không có hiệu quả, hoặc hiệu quả đầu tư kém, không
ít nhà máy do xác định sai chủ trương đầu tư dẫn tới khi đưa vào hoạt động
không có nguyên liệu... và để khắc phục tình trạng này phải di chuyển hoặc
bỏ nhà máy... dẫn đến thất thoát, lãng phí nghiêm trọng... Như vậy, sai lầm
trong chủ trương đầu tư sẽ gây lãng phí, thất thoát nghiêm trọng nhất, cả về
lãng phí trực tiếp và lãng phí về gián tiếp.

-

Thất thoát trong khâu khảo sát thiết kế: Khảo sát không đảm bảo chất
lượng, chưa đủ mẫu, chưa sát với thực tế hoặc không đúng với những tiêu
chuẩn, quy chuẩn dẫn đến việc phải khảo sát lại hoặc phải phải thay đổi, bổ
sung, điều chỉnh thiết kế, phương án thi công nhiều lần, kéo theo là làm thay
đổi dự toán, làm chậm tiến độ thi công,... gây lãng phí thời gian, tiền của của
dự án; thiết kế không đảm bảo chất lượng, không đồng bộ gây lún, nứt phải
phá đi làm lại; phương án thiết kế không hợp lý, sử dụng vật tư, vật liệu
không phù hợp với loại công trình (sử dụng vật liệu quá đắt tiền cho công
trình cấp thấp); việc chọn hệ số an toàn quá cao, tính toán không chặt chẽ

gây lãng phí vật liệu xây dựng,…

-

Thất thoát trong khâu đền bù, giải phóng mặt bằng xây dựng: Bớt xén tiền
đền bù của dân; đền bù không thoả đáng, không đúng đối tượng; chi trả tiền
đền bù không theo định mức, khung giá Nhà nước và địa phương ban hành;
khai khống diện tích, khối lượng tài sản được đền bù; làm giả hồ sơ đền bù...
từ đó làm tăng thêm vốn đầu tư xây dựng công trình và chính việc đền bù
không thoả đáng, hợp lý, không tuân theo quy định làm cho việc bàn giao
mặt bằng xây dựng không đúng thời hạn quy định, dẫn đến chậm tiến độ thi
công công trình, gây lãng phí, thất thoát vốn.

-

Thất thoát, lãng phí trong công tác triển khai và điều hành kế hoạch đầu tư
hàng năm như: Bố trí danh mục các dự án đầu tư quá phân tán, dàn trải,
không sát với tiến độ thi công của dự án đã được phê duyệt, bố trí kế hoạch
đầu tư cho dự án không đủ điều kiện dẫn đến kéo dài thời gian thi công,
chậm đưa vào sử dụng làm giảm hiệu quả đồng vốn đầu tư; bố trí kế hoạch
đầu tư chỉ chú trọng kế hoạch khối lượng, không xây dựng kế hoạch vốn dẫn
đến phát sinh mất cân đối giữa kế hoạch khối lượng và kế hoạch vốn dẫn
đến hiện tượng thừa thiếu vốn giả tạo cho các dự án; bố trí kế hoạch đầu tư

9


Nhóm 04

1659EFIN3021


hàng năm cho các dự án không theo sát tiến độ đầu tư thực hiện dự án đã
được cấp thẩm quyền phê duyệt trong quyết định đầu tư...
-

Thất thoát, lãng phí trong khâu lựa chọn nhà thầu: Làm sai lệch bản chất đấu
thầu như không thực hiện đúng trình tự đấu thầu; xét thầu, đánh giá để xếp
loại nhà thầu khi lựa chọn nhà thầu không chính xác, thiếu chuẩn mực,
không đủ khả năng; hiện tượng thông đồng giữa các nhà thầu khi tham gia
đấu thầu đã khống chế giá trúng thầu cho đơn vị được thoả thuận để thắng
thầu đưa đến phá giá trong đấu thầu.

-

Thất thoát, lãng phí trong khâu thi công xây lắp công trình: Thi công không
đảm bảo khối lượng theo thiết kế được phê duyệt hoặc thi công không đúng
thiết kế dẫn đến phải phá đi làm lại; sử dụng vật liệu không đảm bảo chất
lượng; khai khống khối lượng; ăn bớt vật liệu trong quá trình thi công, chất
lượng công trình không đảm bảo…

Như vậy, qua phân tích một số dạng sai phạm cho thấy thất thoát, lãng phí không
chỉ do nguyên nhân khách quan như bởi cơ chế chính sách về quản lý đầu tư còn
chồng chéo, thiếu đồng bộ, chưa rõ ràng hay do đặc điểm, tính chất của sản phẩm
xây dựng có quy mô lớn, kết cấu phức tạp, chu kỳ sản xuất dài, phụ thuộc trực tiếp
vào điều kiện địa chất, thuỷ văn, khí hậu nên việc thi công phụ thuộc vào điều kiện
tự nhiên, chất lượng và giá cả sản phẩm chịu ảnh hưởng trực tiếp của các điều kiện
tự nhiên... mà còn có nguyên nhân quan trọng dẫn đến thất thoát, lãng phí là từ con
người và bắt đầu từ người giữ vai trò giám sát trong bộ máy nhà nước. Theo Giáo
sư Nguyễn Trường Tiến (Hội Khoa học - Kỹ thuật xây dựng) thì lỗi sai phạm của
Chủ đầu tư và các nhà quản lý đầu tư trong quá trình thực hiện các dự án chiếm

khoảng gần 60%, trách nhiệm của các nhà thầu xây lắp, cung cấp vật tư, thiết bị
trên 30% và do các nhà quản lý tư vấn là hơn 10%. Bởi vậy, việc làm rõ trách
nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc quản lý và thực hiện các giai
đoạn của dự án đầu tư đặc biệt là trách nhiệm của cá nhân những người đứng đầu:
Chủ đầu tư và các nhà quản lý đầu tư, các nhà thầu xây lắp, tư vấn thiết kế, giám
sát, các nhà thầu cung cấp trang thiết bị, các cơ quan tổ chức thực hiện chi đền bù
giải phóng mặt bằng,... là hết sức cần thiết để có thể đưa ra kiến nghị xử lý phù hợp
và triệt để nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, thất thoát
và lãng phí trong hoạt động đầu tư XDCB.

10


Nhóm 04

1659EFIN3021

1.3.Chi chưa đúng tiến độ, tiêu chuẩn.
Tình trạng chi tiêu chưa đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức vẫn còn:
Sau 59 cuộc kiểm toán trong 9 tháng đầu năm 2014, Kiểm toán Nhà nước đã kiến
nghị xử lý tài chính gần 4.555 tỷ đồng, trong đó, tăng thu hơn 1.310 tỷ đồng, giảm
chi gần 796 tỷ đồng, xử lý tài chính khác khoảng 2.449 tỷ đồng…
Có đại biểu Quốc hội kể, khi đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam đi thăm nước
ngoài, phía bạn muốn mời bữa cơm thân mật nhưng đành chịu vì ngân sách của họ
không có khoản chi này, trong khi đó, việc chi đón tiếp khách nước ngoài của Việt
Nam dường như khá… thoáng?
Chi tiêu hàng năm của Quốc hội, trong đó có chi đoàn ra, đoàn vào, tiếp khách,
công tác, nghiên cứu, học tập… đều nằm trong dự toán và phải được Ủy ban
Thường vụ Quốc hội thông qua. Các ủy ban, cơ quan, đơn vị của Quốc hội, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội phải thực hiện theo kế hoạch, dự toán đã được phê duyệt, chứ

không được chi tiêu thoải mái. Ở các cơ quan, đơn vị, tổ chức sử dụng NSNN khác
cũng vậy.
Tuy nhiên, để bảo đảm chặt chẽ trong chi tiêu ngân sách, thắt chặt kỷ luật, kỷ
cương tài chính quốc gia, Dự thảo Luật NSNN sửa đổi mới nhất, ngoài quy định,
các khoản chi ngân sách chỉ được thực hiện khi có dự toán được cấp có thẩm
quyền giao và phải bảo đảm đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức; còn bổ sung thêm
quy định: “Không được chi ngân sách ra khỏi Kho bạc Nhà nước, nếu khoản chi đó
không có trong dự toán đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt”.
Kỷ luật, kỷ cương tài chính lỏng lẻo được nhiều đại biểu Quốc hội lên tiếng khá
gay gắt. Vậy liệu Luật NSNN sửa đổi sẽ khắc phục được hạn chế này?Việc quản
lý, sử dụng tiền, tài sản nhà nước tại các cấp, các ngành, các đơn vị sử dụng NSNN
đang được làm tốt hơn, năm sau tiến bộ hơn năm trước. Mặc dù vậy, tình trạng chi
tiêu chưa đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức vẫn còn. Việc quyết định đầu tư
chương trình, dự án sử dụng NSNN phải bảo đảm cân đối đủ vốn trước khi quyết
định đầu tư; bảo đảm đầu tư tiết kiệm, hiệu quả…
Trên thực tế, NSNN vẫn tiếp tục bội chi do chi tiêu thường xuyên quá lớn? Đúng là
tỷ trọng chi thường xuyên quá lớn trong tổng chi và có xu hướng gia tăng. Cụ thể,
đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, chi thường xuyên chỉ chiếm 60% tổng chi, đến
nay đã lên 68% tổng chi. Ngược lại, chi đầu tư phát triển từ NSNN hồi đầu nhiệm
chiếm 25% tổng chi hiện giờ chỉ còn 18% tổng chi; số còn lại là dành để trả nợ.
11


Nhóm 04

1659EFIN3021

Chi thường xuyên bao hàm rất nhiều nội dung, nhưng quan trọng nhất là chi cho an
sinh xã hội, vì chúng ta là nước đang phát triển, nên nhu cầu chi cho giáo dục, y tế,
chính sách người có công, xóa đói giảm nghèo… rất lớn. Do có thời kỳ quá tập

trung chi cho an sinh xã hội, đặc biệt là lương tối thiểu tăng liên tục, nên ngân sách
không còn nhiều nguồn lực để chi cho đầu tư phát triển.
1.4. Vay, tạm ứng không đúng quy định.
Việc sử dụng nguồn vốn ứng trước từ ngân sách Trung ương còn nhiều bất cập, số
vốn ứng trước thì nhiều nhưng kết quả thu hồi vẫn chưa thấy khả quan. Số vốn ứng
trước đã chuyển từ năm này qua năm khác mà việc thu hồi vẫn bế tắc.
Báo cáo chỉ rõ, số ứng trước kế hoạch vốn từ ngân sách Trung ương cho các dự án
còn lớn, số phải thu hồi đến hết năm 2014 là 81.707,5 tỷ đồng, bằng 50,1% kế
hoạch vốn đầu năm 2014 (81.707,5/163.000 tỷ đồng). Trong đó, nguồn ứng trước
của các dự án thuộc các Bộ, cơ quan Trung ương 46.086,8 tỷ đồng; các dự án
thuộc địa phương 35.620,7 tỷ đồng.
Qua kiểm toán cho thấy, số ứng trước hàng năm nhiều nhưng số thu hồi hạn chế
(năm 2014 ứng trước 17.670,4 tỷ đồng, trong khi thu hồi chỉ là 3.147,7 tỷ đồng),
dẫn đến số ứng trước được chuyển tiếp qua nhiều năm nhưng không được thu hồi
(trong 81.707,5 tỷ đồng số dư ứng trước đến hết năm 2014 có số ứng trước từ trước
năm 2009 là 6.714,8 tỷ đồng, năm 2010 là 10.760,5 tỷ đồng, năm 2011 là 3.390 tỷ
đồng, năm 2012 là 11.937,9 tỷ đồng, năm 2013 là 12.756,2 tỷ đồng...).
Đặc biệt tình trạng cho vay, tạm ứng sai quy định, cho vay, tạm ứng kéo dài nhiều
năm, chậm thu hồi xảy ra tại một số tỉnh, thành phố được kiểm toán.
Cụ thể, số vốn tạm ứng có 297 tỷ đồng sai quy định (Đà Nẵng 224 tỷ đồng, Hà
Tĩnh 25 tỷ đồng, Gia Lai 25 tỷ đồng, Quảng Ngãi 22 tỷ đồng... ), cho vay 130,8 tỷ
đồng sai quy định (Đà Nẵng 125 tỷ đồng, Thái Nguyên 5,8 tỷ đồng). Các tỉnh,
thành phố cũng thực hiện tạm ứng XDCB và tạm ứng khác 3.964 tỷ đồng đã quá
hạn nhưng chưa được thu hồi, trong khi hàng năm vẫn phải đi vay và trả lãi.
Tổng số kinh phí KTNN kiến nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư phối hợp với các Bộ, cơ quan trung ương và địa phương rà soát, xử lý
các khoản ứng trước từ ngân sách trung ương cho các dự án đầu tư kéo dài qua
nhiều năm, quá hạn nhưng chưa thu hồi lên đến 81.707,5 tỷ đồng.
12



Nhóm 04

1659EFIN3021

2, Các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu công và sự tác động đến chi tiêu công ở
Việt Nam
2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu công
2.1.1Sự phát triển về vai trò của chính phủ trong nền kinh tế
- Gánh vác thêm nhiệm vụ mới:
Sở dĩ chi tiêu công có sự tăng lên nhanh chóng là vì vai trò của chính phủ
ngày càng được mở rộng. Sự mở rộng này là do chính phủ phải gánh vác
thêm những nhiệm vụ mới. Thật là khó tin rằng khu vực tư nhân sẽ cung cấp
những hàng hóa công cho xã hội với cơ chế “người hưởng tự do không phải
trả tiền”. Thêm vào đó, sự phát triển của nền kinh tế sẽ có nhu cầu mới xuất
hiện mà khu vựa tư sẽ không tham gia và không có lời hoặc không đủ nguồn
lực để thực hiện hoạt động sản xuất. Vì vậy, chính phủ cần có sự can thiệp
và tham gia sản xuất những loại hàng hóa đó.
Có thể nói rằng Việt Nam có một nền tài chính công không lành mạnh.
Chính vì thế, vấn đề chi tiêu không đúng chế độ; sử dụng tài chính không
đúng mục tiêu, không đúng nguồn; tình trạng bội chi, lãng phí và thất thoát
đã diễn ra một cách phổ biến. Cuối năm 2008, Kiểm toán Nhà nước (KTNN)
công bố những con số... giật mình. Bộ NNPTNT phản ánh thiếu tài sản, ôtô,
máy móc... lên tới gần 10 tỉ đồng. Tại 8 bộ, ngành, địa phương, qua kiểm
toán phát hiện số tài sản mua sai chế độ, sai mục đích... lên tới 95 tỉ đồng.
Trong chi đầu tư năm 2007, KTNN nhận định: Hầu hết các dự án đều sai
sót, trong đó phổ biến là nghiệm thu không đúng thực tế, sai chế độ. Số
tiền... sai sót này lên tới 723,8 tỉ đồng.
Còn trong chi thường xuyên, có tới 16/29 tỉnh được kiểm toán (hơn 50%)
chi hỗ trợ, chi thường xuyên không đúng chế độ, không thuộc nhiệm vụ chi

với số tiền hơn 800 tỉ đồng... Tổng số tiền chi tiêu công mà KTNN kiến nghị
xử lý lên tới hơn 13.000 tỉ đồng - tương ứng thu ngân sách của 13 tỉnh, thành
phố. Tổng chi ngân sách nhà nước năm 2008 tăng 22,3% so với năm 2007
và bằng 118,9% dự toán năm. Trong đó, chi đầu tư phát triển và chi thường
xuyên vượt dự toán tương ứng ở mức 118,3% và 113,3%. (trích báo lao
động)
- Xã hội hóa các rủi ro
Sự gia tăng chi tiêu công còn bắt nguồn từ sự thay đổi phong tục và tư tưởng
mà các nhà kinh tế gọi đó là sự “xã hội hóa các rủi ro”. Đáng lý ra mỗi cá
nhân trong xã hội phải cố gắng đối phó vỡi mọi rủi ro bằng cách phòng
ngừa, lo xa của riêng mình, nhưng do không đủ khả năng hoặc không nhận
13


Nhóm 04

1659EFIN3021

thức được đầy đủ trách nhiệm, nên dần dần người ta đã chuyển sang vai nhà
nước. Nghĩa là chính phủ phải đứng ra bảo hiểm, phụ cấp lương và tái phân
phối các gánh nặng đó cho toàn thể xã hội để đảm bảo mức sống tối thiểu
của mỗi công dân. Ví dụ như việc chi tiêu công được dùng để trả lương cho
công chức nhà nước. Hiện nay, tuy khu vực nhà nước có lương tương đối
thấp hơn khu vực tư nhân nhưng cũng chiếm đến 40% tổng thu nhân sách
nhà nước. Hay như việc chính phủ bảo trợ cho tập đoàn Vinashin thì đến khi
tập đoàn làm ăn thất thoát, nợ 80000 tỷ đồng thì chính phủ buộc phải ra tay
cứu giúp để tránh việc phá sản. Do đó dẫn tới chi tiêu công tăng lên.
2.1.2 Sự thay đổi quan niệm tổng quát về tài chính công
- Do những thay đổi của nền kinh tế thị trường trong từng giai đoạn.
Sự gia tăng chi tiêu công có ảnh hưởng đến sự tái phân phối nguồn lực giữa

khu vực công và khu vựa tư. Lý thuyết kinh tế học hiện đại cho rằng nền
kinh tế muồn phát triển ổn định cần có sự phối hợp giữa bàn tay chính phủ
và bàn tay thị trường trong quá trình tái phân phối thu nhập. Điều đó có
nghĩa là, quy mô chi tiêu công nên có sự giới hạn nhất định. Nhưng giới hạn
ở quy mô nào thì cho đến nay các nhà kinh tế cũng chưa đưa ra câu trả lời
chính xác. Thay vào đó các nhà kinh tế thường nêu ra sự giới hạn chi tiêu
công trên các khía cạnh: trong chi tiêu công có một khoản chi cần phải được
tiết kiệm và hạn chế như chi phí hành chính thuần túy hoặc những hoạt động
của khu vực công mà sự quản lý không hiệu quả so với hoạt động của khu
vực tư tương đương thì những hoạt động này nên chuyển giao cho khu vực
tư. Bên cạnh đó họ cho rằng sự giới hạn chi tiêu công cần linh hoạt theo chu
kỳ kinh tế. Khi nền kinh tế bị suy thoái, cần tăng chi tiêu để thúc đẩy kinh tế
phát triển; ngược lại nền kinh tế trong giai đoạn hưng thịnh thì cần phải cắt
giảm quy mô chi tiêu công.
Ví dụ như việc nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây đang bước
vào thời kì khó khăn, lạm phát cao. Theo bộ này, tổng vốn đầu tư toàn xã hội
năm 2011 ước đạt khoảng 870 nghìn tỉ đồng, bằng khoảng 34,7% GDP.
Trong số đó, vốn Ngân sách Nhà nước (NSNN) và trái phiếu chính phủ ước
đạt 220 nghìn tỉ đồng, vốn tín dụng đầu tư Nhà nước ước đạt 50 nghìn tỉ
đồng.
Tổng số vốn cắt giảm, điều chuyển là 81.500 tỉ đồng, trong đó nguồn vốn
ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ (TPCP) và xổ số kiến thiết đã cắt
giảm, điều chuyển khoảng 9.452 tỉ đồng. Số vốn cắt giảm nêu trên được điều
chuyển cho các dự án hoàn thành, cấp bách cần đẩy nhanh tiến độ. Nhờ việc
cắt giảm, điều chuyển, số dự án hoàn thành trong năm 2011 tăng thêm 1.053
dự án. Tính chung cả năm 2011 có khoảng 4.400 dự án hoàn thành, đưa vào
sử dụng.
14



Nhóm 04

-

1659EFIN3021

Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhận định, vốn đầu tư toàn xã hội giảm nhiều so với
năm trước là do thực hiện chủ trương chủ động cắt giảm vốn đầu tư của nhà
nước để kiềm chế lạm phát; mặt khác các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn,
hiệu quả kinh doanh thấp nên giảm đầu tư hoặc tìm cách bảo toàn vốn chờ
thời cơ. Tuy nhiên, tại kỳ họp Quốc hội vừa qua, Ủy ban Tài chính - Ngân
sách nhìn nhận khác: Chi đầu tư phát triển vẫn vượt dự toán và tăng 15,1%
(23.000 tỷ đồng) là mức tăng khá cao, nếu đặt trong bối cảnh đang thực hiện
chính sách tài khóa thắt chặt, giảm đầu tư công thì việc tăng chi nói trên là
chưa hợp lý.Tại hội nghị đang diễn ra, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng đã
thực hiện nghiêm túc chủ trương tiết kiệm chi tiêu, cắt giảm 10% chi thường
xuyên (trừ các khoản lương và có tính chất lương) với tổng số tiền cắt giảm
3.857,7 tỷ đồng. Tuy nhiên, về điểm này Ủy ban Tài chính - Ngân sách nhìn
nhận, mặc dù nghị quyết 11 của Chính phủ tập trung vào việc cắt giảm chi
tiêu công, tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên, nhưng tổng số chi ngân
sách vẫn vượt dự toán 9,7%. Đây là mức tăng khá lớn.

2.1.3 Các nhân tố khác:
Ngoài các nhân tố trên, chi tiêu công còn chịu ảnh hưởng bởi các phạm trù giá trị
như giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái,...
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng tăng chi tiêu công ở Việt Nam.
Tỷ trọng chi tiêu công trong GDP thường có xu hướng tăng dần theo từng năm. Có
nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này:
2.2.1 Thứ nhất, bản thân của chính phủ:
Sự mở rộng hay thu hẹp sư quản lý của chính phủ trong nền kinh tế ảnh hưởng trực

tiếp tới chi tiêu trong khu vực công. Khi xã hội càng phát triển, công nghiệp hóa
không ngừng gia tăng thì hệ thống các mối quan hệ xã hội, thương mại, pháp lý
trong nền kinh tế ngày càng trở nên phức tạp. Chính phủ sẽ có một vị thế mạnh
hơn để thiết lập và vận hành các tổ chức giải quyết các mối quan hệ phúc tạp đó.
Điều đó dẫn đến sự tăng nhanh chi tiêu cho khu vực công cộng cho luật pháp và
duy trì trật tự, cho giao thông và liên lạc.

15


Nhóm 04

1659EFIN3021

2.2.2Thứ hai, chi phí để cung cấp hàng hóa công cộng:
Có những loại hàng hóa mà chi phí để cung cấp ra nó quá lớn và gặp nhiều rủi ro
và thời gian thu hồi vốn là rất lớn không thể cung cấp cá nhân được mà phải cung
cấp công cộng, do đó chi tiêu cho khu vực công cũng tăng theo.
2.2.3 Thứ ba, thay đổi dân số:
Tốc độ tăng dân số thay đổi sẽ ảnh hưởng đến cơ cấu dân số theo độ tuổi và ảnh
hưởng tới các khoản chi tiêu cho giáo dục và y tế. Từ đó sự thay đổi dân số quyết
định đến sự thay đổi trong tỉ trọng chi tiêu công. Khi dân số tăng nhanh buộc
chính phủ phải xem xét vấn đề mở thêm trường học và đầu tư thêm cơ sở vật chất
đáp ứng cho việc giảng dạy. Khi một quốc gia có cơ cấu dân số già thì họ phải chú
ý nhiều tới vấn đề y tế, chăm sóc sức khỏe cho người già.
2.2.4 Thứ tư, thay đổi công nghệ:
Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ đã tạo ra nhiều loại hàng hóa hiện
đại, từ đó nhu cầu về sự thay đổi trong chi tiêu công gia tăng để phù hợp với sự
phát triển này. Ví dụ như sự phát triển mạnh của công nghiệp sản xuất ô tô đã tạo
ra nhu cầu rất lớn về giao thông, hệ thống đường xá có chất lượng tốt, rộng rãi,…

dẫn đến chi tiêu của chính phủ cho đường xá gia tăng.
2.2.5 Thứ năm, thu nhập bình quân theo đầu người:
Khi thu nhập bình quân đầu người gia tăng, xét trong khu vực công, nhìn chung
tiêu dùng của xã hội cho những hàng hóa công cộng thiết yếu có thể giảm xuống,
còn tiêu dùng cho những hàng hóa công cộng cao cấp như công viên, khu vui chơi
gải trí, giáo dục chất lượng cao sẽ không ngừng gia tăng. Điều này có thể không
đúng với những quốc gia phát triển vì khi thu nhập tăng họ sẽ tìm đến những hàng
hóa cá nhân chất lượng cao. Nhưng đối với một nước đang phát triển như nước ta
thì vấn đề nói trên vẫn đúng. Đặc biệt khi thu nhập tăng nhanh thì chất lượng giáo
dục ngày càng được quan tâm, chi tiêu cho giáo dục sẽ tăng nhanh.

16


Nhóm 04

1659EFIN3021

3.Các biện pháp làm tăng hiệu quả chi tiêu công
Việc phòng và chống lãng phí chi tiêu công là một vấn đề trong quá trình hình
thành và phát triển ngân sách nhà nước luôn luôn được nhắc tới. Giải quyết vấn đề
này rất khó khăn và không thể giải quyết trong ngày một ngày hai được mà chúng
ta ohari giải quyết trong một thời gian dài. Có một số biện pháp làm tăng hiệu quả
chi tiêu công như sau:













Hoàn thiện cơ chế tài chính trong quản lý chi tiêu công, nhà nước đã ban
hành khá nhiều văn bản quy định về chế độ, tiêu chuẩn , định mức trong chi
tiêu công của các lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên vẫn còn không ít các văn
bản bộc lộ nhiều kẽ hở.
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải phù hợp với điều kiện thực tế, có
tính khả thi
Tăng cường công khai, minh bạch về tài chính, điều này sẽ giảm thiểu được
việc tham nhũng thất thoát ngân sách.
Tăng cường kiểm tra, giám sát chi tiêu công. Việc thanh tra kiểm tra tài
chính cần phải được đẩy mạnh, có kế hoạch kết hợp giữa thanh tra nhà
nước, thanh tra tài chính và thanh tra của bộ, ngành, địa phương để đảy
mạnh diện thanh tra và tránh sự chồng chéo, phiền hà.
Xử lý kiên quyết các trường hợp gây lãng phí gây thất thoát nguồn lực của
nhà nước. việc xử lý gây lãng phí gắn liền với việc quy trách nhiệm rõ ràng.
Chấm dứt tình trạng nhà nước " trọ giúp" cho việc chi tiêu khồn rõ ràng,
không đúng quy định.
Kiên quyết cắt bỏ cac khoản chi không cần thiết hoặc để cho xã hội tự chi
trả.
Nâng cao năng lực của cán bộ quản lý và sử dụng trong chi tiêu công của
nhà nước.
Về phía Bộ Kế hoạch - đầu tư sẽ tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát các
công trình, dự án đầu tư sử dụng vốn có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước.

KẾT LUẬN

17


Nhóm 04

1659EFIN3021

Qua những phân tích cơ bản về các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu công ở Việt
nam hiện nay chúng ta có thể hiểu hơn về tác động của nó đến nền kinh tế và hoạt
động chi của Chính phủ. Việc phân tích này giúp cho việc định hướng chi tiêu
được tốt hơn, tránh bội chi ngân sach nhà nước. Đưa ra được những biện pháp
thích hợp nhằm cải thiện các nhân tố đó theo hướng có lợi cho chi tiêu công, khai
thác điểm mạnh, hạn chế điểm yếu phát huy tối đa hiệu quả chi tiêu hay có các
chính sach kích cầu thích đáng.
Có thể thấy nhà nước đã đang vận dụng một cách hợp lý các chính sách và
biện pháp đã đúc rút được, tuy nhiên vẫn còn vài hạn chế cần khắc phục. Chính
phủ cần tiến hành phân tích hiệu quả của chi tiêu công xét trên cơ sở tính toán hiệu
quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Có như thế thì các khoản chi tiêu công mới đem lại
nhiều lợi ích phúc lợi.

18



×