Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Một số lưu ý về thiết kế nhà ở( Sưu tầm )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1017.74 KB, 15 trang )

Những kiến thức mà tôi viết dưới đây được đúc kết trong quá trình làm đồ án
“nhà ở”- một đồ án sinh viên năm 2. Những quan điểm này được nhìn từ góc
độ của một “phong cách kiến trúc” và dĩ nhiên là trong vốn hiểu biết của tôi ở
thời điểm bấy giờ nên sẽ có những nhìn nhận tương đối chủ quan và hạn hẹp
so với phạm trù kiến trúc rộng lớn mà chúng ta biết. Tuy nhiên, có những
kiến thức mà theo tôi là căn bản mà người học kiến trúc nên biết, vì thế tơi
mong muốn được chia sẻ nó với những bạn mới tiếp cận lĩnh vực này. Điều
quan trọng nhất mà tôi muốn gửi gắm, không phải là những kiến thức về một
vấn đề nào đó, mà là lời khuyên cho những người học kiến trúc, chúng ta nên
có thói quen sử dụng trí óc thay vì cảm tính để phân định đẹp xấu, đúng sai,…
Dù là nhận thức nơng cạn hay sâu sắc thì điều quan trọng vẫn là ý thức suy
nghĩ, đánh giá những thơng tin mà ta tiếp nhận, những gì ta làm, vì mọi thứ
đều nên có lý do tồn tại của nó. Kiến trúc cần chất cảm cái đẹp như một
ngành nghệ thuật nhưng cũng như một ngành khoa học, nó địi hỏi những tư
duy logic, những lý luận rõ ràng. Với quan niệm vững chắc như thế, các bạn
sẽ học được rất nhiều qua mỗi đồ án.
1. Định hướng cho đồ án:
Trước khi vẽ ra những phác thảo đầu tiên, dù là một sơ đồ công năng, mặt bằng,…
việc có một ý tưởng định hướng là cần thiết và quan trọng. Một định hướng thật
súc tích, đơn giản nhưng rõ ràng và hợp lí sẽ là cơ sở cho nhiều khai triển khác
nhau. MỘT Ý TƯỞNG VÀ RẤT NHIỀU KHAI TRIỂN sẽ tốt hơn là mị mẫm
mà khơng có định hướng rõ ràng. Ý tưởng có thể hình thức hóa bằng những phác
thảo, bằng mơ hình nhưng đơi khi chỉ đơn giản là những từ khóa, những dịng note
ngắn định hướng đi. Trong quá trình phát triển các phương án, nên để tâm đến ý
tưởng, mục đích đặt ra ban đầu: “liệu phương án này có đáp ứng mục tiêu đề ra?”
“liệu sự thêm thắt này có phục vụ cho ý tưởng chính?”…Những câu hỏi như thế sẽ
giúp bạn không bị chệch hướng hay tạo ra một sản phẩm chắp vá của vô vàn ý
tưởng bất chợt.


Ý tưởng sơ khai ban đầu về kết nối hai không gian và phân định bởi một đường


giao thông ảo. Quá trình phát triển suy nghĩ đến việc bố cục những khoảng đóng
mở, sắp xếp nội thất, … nhằm hướng đến những yêu cầu đặt ra từ ý tưởng. Ảnh ©
Trần Quốc Bảo
2. Tham khảo tài liệu, “bắt chước” và “sao chép”
Với mỗi giai đoạn của đồ án, việc tham khảo sẽ khác nhau. Trong những bước đầu,
nếu bế tắc trong việc tìm ý tưởng trong phương pháp tiếp cận, thì nên tìm và phân
tích một cơng trình của kiến trúc sư để thấy cách họ đặt vấn đề, giải quyết, phát
triển đến khi hồn chỉnh như thế nào. Khơng chỉ là đọc và xem, hãy vẽ lại những
mặt bằng, mặt cắt của cơng trình (vẽ theo cách hiểu, có thể dưới dạng giản đồ),
thậm chí là làm mơ hình. Tìm những mọi nguồn phân tích về cơng trình để có thể
hiểu nó rõ hơn. Rất nhiều điều có thể học được: từ cách xử lí cơng năng, sắp xếp
bố cục đến không gian, ánh sáng, nội thất, vật liệu… Chúng ta khơng chỉ nên đọc
những phân tích có sẵn mà phải tự đặt nghi vấn, đối chiếu nhiều quan điểm để
chọn lựa.
Ở đây cần phân biệt giữa BẮT CHƯỚC (imitate) và SAO CHÉP (copy). Nói
một cách nơm na, sao chép là chép mà không cần hiểu, thấy người ta làm đẹp, hay
thì bê vào; bắt chước cũng là “chép”, nhưng chép có chọn lọc, có nhận thức.


BẮT CHƯỚC là chuyện mà bao đời nay các thế hệ kiến trúc sư đều làm, vì khơng
có sự sáng tạo nào mà không dựa trên những nền tảng của người đi trước, cái mới
nào tạo ra cũng đều học hỏi từ cái cũ. Nhất là đối với sinh viên, việc học tập những
cái hay, vận dụng để có thể hiểu và nắm bắt được nó là điều nên làm. Nhưng vấn
đề là bắt chước như thế nào. Không thể bưng một thứ nào đấy từ đồ án người ta
vào đồ án của mình trong hiểu khơng thật sự hiểu về nó. Cái nên copy chính là TƯ
DUY, LÝ LUẬN ẩn chứa trong thiết kế đó chứ khơng phải là HÌNH THỨCcủa
nó. “Tại sao họ lại làm như vậy?” “Nó dùng để làm gì?” “Sử dụng như thế nào,
cho cái gì, lúc nào thì hợp lý?”, “Nếu đặt vào đồ án của mình thì phải biến đổi thế
nào để phù hợp?”


Bài phân tích Villa Santillana-kts Henri Ciriani. Ảnh © Trần Quốc Bảo
3. Hình thức trong kiến trúc
Với sự phát triển của cơng nghệ ngày nay, con người có thể tạo ra kiến trúc với bất
cứ những hình khối, đường nét nào. Thẩm mĩ về cái đẹp cũng thay đổi, đã qua cái
thời của Kiến trúc hiện đại với những hình kỉ hà, đường thẳng, những góc vng
thống trị kiến trúc. Nhiều kiến trúc sư bây giờ nổi tiếng với những đường nét mềm
mại, những góc cạnh mới lạ như Zaha Hadid, H&M, Morphosis, Gehry. Thế nhưng
thầy tơi lại khuyến khích sinh viên làm việc với những đường thẳng, những góc
vng, mọi sáng tạo khác có thể được cho phép nếu bảo vệ được lí do tồn tại của
nó. Nghe có vẻ hà khắc, nhưng theo tơi điều đó hồn tồn hợp lí trong
việc HỌC kiến trúc.
Lấy một ví dụ nhỏ, một designer nội thất thiết kế một chiếc ghế con để ngồi, nếu
chiếc ghế không đảm bảo được những tiêu chuẩn cơ bản của nó để người ta có thể
ngồi thoải mái thì việc đưa những trang trí cầu kì, đường nét mềm mại, hình thù
độc đáo cũng khơng thể đưa nó thốt khỏi hình ảnh một tác phẩm điêu khắc để trở
thành một cái ghế được.


Không gian cũng giống như vậy, người ta cần phải làm nó đẹp trong tư duy, trong
vẻ đẹp tối giản nhất. Những trang trí về màu sắc, vật liệu, những biến đổi về đường
nét để trở nên hấp dẫn, bắt mắt là cần thiết, nhưng nó đến sau. Đối với những
người chưa có những tư duy, cách nhìn tốt về khơng gian, ý thức về những gì họ vẽ
ra, thì việc sa đà vào hình thức cũng giống như câu chuyện chiếc ghế vậy.


Klein Bottle House- kts McBride Charles Ryan. Ảnh © John Gollings
4. Ngôi nhà đẹp, trước tiên mỗi không gian sống phải đẹp:
Trong đồ án của tôi, giáo viên bắt đầu bằng bài tập thiết kế một nhà tắm LÝ
TƯỞNG, một bài tập về không gian, ánh sáng, nội thất trong sự tương quan với



cơng năng. Khi đã có một cái nhìn về chất lượng của mỗi khơng gian sống, cơng
việc tiếp theo chính là lắp ghép và kết nối những không gian này lại (tất nhiên là
phải sửa đổi nhiều để cho phù hợp)
Có lúc tơi tự hỏi, tại sao khơng phải là binh từ lớn đến nhỏ như người ta vẫn hay
làm: từ phân tích khu đất, đến hình khối đặc rỗng, thông tầng, lấy sáng này nọ, đến
chia không gian thành từng phần, từng phịng rồi sau đó là vẽ nội thất. Sau đó tơi
mới nghiệm ra rằng: đồ án học và việc làm thực tế là khác nhau. Đối với sinh viên,
cái cần học là tạo ra không gian với giả thiết mọi phương diện lí tưởng, khơng bị
ràng buộc bởi những yếu tố bên ngoài như ngoại cảnh, hạn chế diện tích, điều kiện
khí hậu, kinh tế gia chủ, khả năng thi cơng,... Khi đã có NHẬN THỨC VỀ SỰ LÝ
TƯỞNG rồi thì khi áp đặt các yếu tố khác, sinh viên mới có thể tạo ra được khơng
gian lý tưởng nhất có thể.

MM House- MM++ architects
Nhà vệ sinh thường bị đóng trong những khơng gian kín thiếu ánh sáng tự nhiên
khơng phải vì nó khơng cần ánh sáng mà là những vấn đề về riêng tư bó buộc. Ảnh
© Nam Bui


5. Phân chia và kết nối khơng gian:
Nói đến phân chia không gian, chúng ta thường nghĩ đến những bức tường, những
vách ngăn. Ở đây, phân chia được hiểu theo cách cụ thể. Thực tế, khơng gian có
thể được chia cách, phân định bằng nhiều cách: sự thay đổi độ cao sàn, độ cao trần,
sự thay đổi về ánh sáng, sự thay đổi về chất liệu, nội thất, ,luồng di chuyển giữa hai
không gian, không gian đệm,… Đây là những cách phân chia khơng rạch rịi,
khơng như những bức tường tách biệt hai không gian độc lập, thế nên tùy theo
trường hợp mà áp dụng, nó có thể giúp việc phân chia những không gian theo công
năng mà vẫn đảm bảo sự liền mạch.


Stacking Green- kts Võ Trọng Nghĩa
Ngăn cách giữa phịng tắm và phịng ngủ bằng một giếng thơng sáng. Ảnh ©
Hiroyuki Oki
6. Tường trong mối liên hệ với không gian :
“Đối với kiến trúc sư, một bức tường tồn tại ở đó khơng phải là vì nó giúp chịu lực
trong kết cấu. Nếu nó khơng có ý nghĩa về mặt khơng gian, hãy vứt nó đi và thay
bằng cột chịu lực” Một ví dụ như thế để cho thấy rằng, kts không thể viện những


cớ về kết cấu để che đi sự vô tâm trong việc vẽ những bức tường; kích thước, hình
dáng, chiều cao, bề dày, khoảng mở trên, mở dưới,…tất cả đều nên có lí do tồn tại
của nó.
Nếu nhìn nhận tường như một yếu tố phân chia khơng gian, có thể phân loại nó
như sau: + tường 2/3 (tường lửng thấp hơn trần) thường tương ứng với chiều cao
con người. + tường 1/3 tương ứng với những vật dụng như bàn, giường, lan can…
khơng thể bước qua được nhưng nhìn dễ dàng qua được. + tường 3/3 tương ứng
với chiều cao 1 tầng (chạm đến trần nhà) Mỗi loại sẽ có những tác động khác nhau
đến không gian. Loại tường 2/3 thường được sử dụng để phân chia không gian mà
vẫn tạo sự liên kết, tạo chiều sâu cho không gian.


House 13
Martaban, Văn phịng Kiến trúc ONG& ONG. Ảnh © ONG&ONG


Trong 2 phịng ngủ ở tầng 1,2 có thể thấy kts thiết kế rất thông minh để tạo cách
liên hệ giữa phịng ngủ và các khơng gian khác
- Ở tầng 2 sử dụng tường ngăn cách như tường 2/3 (không vượt tới trần, vừa để lấy
sáng, vừa tạo sự liên hệ giữa phịng ngủ và khơng gian phía sau, khiến khơng gian
có chiều sâu hơn. - Ở tầng 1, một không gian đệm được đặt ngăn cách hành lang

chung và khơng gian nghỉ ngơi, khơng gian này mở ra phía sau (khơng có cửa ngăn
cách), vừa riêng vừa chung, để tạo một khoảng cách và giữ sự riêng tư cho chỗ ngủ
- 2 phịng ngủ sử dụng thơng tầng, nhìn có vẻ bất thường nhưng vẫn được tính tốn
để đảm bảo sự riêng tư cần thiết
7. Phối cảnh không chỉ là một cơng cụ để trình diễn:
Chúng ta thường hay bình đồ án với mặt bằng, mặt cắt, mơ hình và thường rất ít
khi tư duy khơng gian từ phối cảnh. Mặt bằng cho phép thông tin về không gian
theo chiều ngang, mặt cắt, mặt đứng cho thông tin về kích thước theo chiều dọc,
tuy nhiên, để cảm nhận được những vấn đề về hình khối, về chiều sâu,… cần một
cái nhìn ba chiều mà phối cảnh là cơng cụ đơn giản giúp ta hình dung được khơng
gian muốn tạo ra. Phối cảnh một điểm tụ thường được sử dụng vì nó đơn giản, dễ
dựng theo tỉ lệ và cho một cái nhìn tương đối đầy đủ về các yếu tố trong không
gian. Đôi khi chúng ta hay sử dụng phối cảnh chim bay hay axonometry để cho
một hình dung tổng thể về hình khối. Chúng rất hữu dụng, nhưng đó chỉ là một
cơng cụ để biểu diễn, để thể hiện. Trong việc binh không gian, những phối cảnh
theo tương ứng với góc nhìn thật ( có nghĩa là đường chân trời trong phối cảnh
tương ứng với tầm mắt của con người) mới thực sự quan trọng. Góc nhìn này cho
ta cảm nhận thực tế về các diện, mặt đứng, mặt ngang, đặc rỗng, liên kết trên dưới,
những khoảng mở đóng giữa các khơng gian.

Phối cảnh nghiên cứu tác động của việc bố cục những mảng đặc trong cảm nhận về
khơng gian. Ảnh © Trần Quốc Bảo
8. Nội thất trong cách nhìn của kiến trúc sư:


Khác với designer, kts không phải là người thiết kế trang trí nội thất, càng khơng
phải là nhân viên tiếp thị cho một hãng kinh doanh đồ gia dụng. Đối với kts, một
bộ salon bằng gỗ chạm trổ và một bộ salon bọc nệm đóng vai trị như nhau trong
khơng gian. Cái được quan tâm chính là hình dáng, kích thước và vị trí của nó. Nội
thất nên được xem là một thành phần cấu tạo nên không gian thay vì trang trí cho

khơng gian: một chiếc tủ đặt sát tường sẽ góp phần tạo cảm giác về bề dày cho bức
tường, một chiếc kệ sách ngăn giữa phòng khách và phịng bếp sẽ tạo nên phân
chia khơng gian, một mảng bê tông liên tục gấp nếp chạy dọc theo tường, lúc hạ
xuống để thành băng ghế, lúc nâng lên để thành bếp rồi gập nằm dọc để thành một
kệ đồ,…. tạo sự dẫn dắt trong khơng gian,…
Có thể phân loại nội thất thành loại di chuyển được (mobile) và loại không di
chuyển được (immobile). Những nội thất mà chúng ta đặt vào sau khi ngôi nhà xây
xong là loại di chuyển được, có thể sẽ bị thay đổi tùy vào chủ nhà, cịn khi nó là
một phần của sàn, tường, hay trần, nó cố định khơng thay đổi được, nó sẽ khơng
chỉ mang ý nghĩa về sử dụng và cịn góp phần vào định hình khơng gian.


Fisher house- Kts Louis Kahn- Một băng ghế được hình thnh t faỗade. nh â
Grant Mudford


9. Ánh sáng tự nhiên, một nguyên liệu của kiến trúc
Ánh sáng tự nhiên đóng vai trị quan trọng trong không gian sống, không những là
những không gian chung mở như phịng khách, nhà bếp, ngay cả những khơng gian
riêng tư như phòng ngủ, nhà tắm, wc cũng cần ánh sáng tự nhiên. Ngoài lấy sáng
từ mặt đứng, những giải pháp thông tầng và tường dẫn sáng (phản xạ ánh sáng) sẽ
giúp đưa ánh sáng tự nhiên vào sâu trong những không gian giữa ngôi nhà. Tùy
vào chức năng không gian mà sẽ có những yêu cầu về chất lượng ánh sáng khác
nhau. Nhưng nhìn chung, ánh sáng khuếch tán được đánh giá cao hơn ánh sáng
trực tiếp vì nó tránh được bức xạ mặt trời trực tiếp và tạo nên không gian sáng
đồng nhất hơn.



Y house – ONG&ONG: Bức tường dẫn ánh sáng vào nhà vệ sinh, dù với

diện tích nhỏ nhưng khơng gian vẫn rất thống đãng. Ảnh © ONG&ONG
10. Cầu thang, hành lang: kết nối hay ngăn cách
Cầu thang, hành lang là những thành phần kết nối các không gian lại với nhau.
Nhưng kết nối ở đây chỉ mang ý nghĩa về di chuyển. Những không gian này thực
tế tạo nên những ngăn cách. Những hành lang hẹp, những lõi cầu thang tách biệt
khi chỉ đóng vai trị cho việc di chuyển vơ hình chung biến thành những khơng
gian “chết” vì ở đó khơng có sự giao tiếp, sự trao đổi giữa con người với nhau. Thế
nên khi thiết kế, những thành phần giao thông nên tránh bị cô lập, hoặc được mở
và kết nối sang những không gian sống, hoặc tự nó biến thành một khơng gian có
hoạt động,…

Villa la roche- Le Corbusier
Cầu thang và hành lang giao thông với mục đích kết nối khơng gian này và khơng
gian khác nên sự thiết kế cần suy nghĩ đến vị trí, hướng, đóng mở, góc nhìn. Chính
những khơng gian thường bị coi là thứ yếu này tạo nên sự mạch lạc trong kết nối
các không gian sinh hoạt.
Bài: Trần Quốc Bảo



×