Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

TIỂU LUẬN NĂNG lực LÃNH đạo, sức CHIẾN đấu của ĐẢNG là NHÂN tố QUYẾT ĐỊNH THẮNG lợi của sự NGHIỆP đổi mới đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.97 KB, 16 trang )

NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO
VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG, NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH THẮNG
LỢI CỦA SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC
Chủ nghĩa xã hội khoa học là khoa học nghiên cứu các quy luật, tính quy
luật chính trị- xã hội của quá trình phát sinh, hình thành phát triển hình thái kinh
tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa; những điều kiện, con đường, hình thức, phương
pháp đấu tranh và những nguyên tắc cơ bản của giai cấp công nhân nhằm thực
hiện sự chuyển biến cách mạng từ hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa lên
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Bản “Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản” của C.Mác và Ph.Ăngghen ra đời tháng 2-1848 đánh dấu sự hình thành chủ
nghĩa xã hội khoa học. Trong “Tuyên ngôn”, các nguyên lý, phạm trù của chủ
nghĩa xã hội khoa học đã được nêu lên. Một trong những nguyên lý đặc biệt
quan trọng đó là nguyên lý về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong cách
mạng vô sản, về mối quan hệ của Đảng đối với các vấn đề xã hội như văn hoá,
gia đình, tôn giáo, con người, các trào lưu tư tưởng khác .v.v.. “Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản” là cột mốc lịch sử ghi nhận sự hình thành chủ nghĩa xã hội khoa
học về cơ bản. Kể từ đó, chủ nghĩa xã hội khoa học đã có bước phát triển mạnh
mẽ, sự phát triển đó gắn liền và chịu sự quy định của những biến đổi kinh tếchính trị - văn hoá - xã hội của thời đại; với thực tiễn đấu tranh của giai cấp công
nhân, của phong trào cộng sản công nhân quốc tế; gắn với đặc điểm dân tộc; với
cuộc đấu tranh chống các trào lưu tư tưởng thù địch, sai trái. Cùng với sự phát
triển của chủ nghĩa xã hội khoa học, chủ nghĩa xã hội hiện thực, nguyên lý về vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản cũng phát triển và ngày càng hoàn thiện, trở
thành một nguyên lý then chốt trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Sự kiện Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ đã gây ra
cuộc tranh luận lớn ở những năm cuối của thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ
XXI xung quanh việc đánh giá tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác về chủ nghĩa
xã hội nói chung và những tư tưởng về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân,
vai trò của chính đảng vô sản nói riêng. Kẻ thù của CNXH thì tuyên bố kết thúc
vĩnh viễn "những thí nghiệm cộng sản" và chủ nghĩa Mác. Lợi dụng tình hình
này, các thế lực thù địch với chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội hiện thực
coi đây là cơ hội ngàn vàng để loại bỏ chủ nghĩa xã hội hiện thực, chủ nghĩa Mác


– Lênin nói chung, chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng và hạ bệ vai trò lãnh đạo
của Đảng cộng sản đối với sự nghiệp cách mạng của các nước xã hội còn lại trên


2
thế giới. Những kẻ lên giọng phán quyết đã không giấu nổi sự hả hê trước sự
thoái trào tạm thời của chủ nghĩa xã hội. Có những thế lực diều hâu khét tiếng
còn định cả thời điểm cho sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội hiện thực “1999 chiến thắng không cần chiến tranh”... Cùng với những kẻ thâm thù chủ nghĩa xã
hội đến xương tuỷ, trong “dàn tấu” chống cộng còn có sự a dua của những kẻ cải
lương, cơ hội - những kẻ khi chủ nghĩa xã hội hiện thực đang trở thành cao trào
thì hết lời ca ngợi và thề thốt đủ điều, nguyện hết lòng cống hiến cho sự nghiệp
cách mạng xã hội chủ nghĩa; lúc này, tưởng con thuyền chủ nghĩa xã hội sắp
chìm, đã mau mắn nhảy ra, gào thét, xỉ vả chế độ đã nuôi dưỡng, đả kích chính
đảng đã đào tạo mình, hòng kiếm chác chút “bơ thừa sữa cặn” của ông chủ mới.
Ngày 25/1/2006, vẫn tiếp tục với giọng điệu tấn công vào chủ nghĩa cộng
sản mà nền tảng của nó là học thuyết mácxít, Đại hội đồng Nghị viện Châu Âu
(PACE) đã thông qua cái gọi là nghị quyết số 1481, một nghị quyết nhục nhã nhục nhã với chính Châu Âu văn minh, nghị quyết lên án tội ác của chế độ cộng
sản cực quyền. Những nội dung của nghị quyết này là: tấn công vào sự lãnh đạo
của các đảng cộng sản, đánh đồng chủ nghĩa cộng sản với chủ nghĩa phát xít, lên
án cái gọi là vi phạm nhân quyền của chủ nghĩa cộng sản... mà gốc rễ sâu sa của
vấn đề là tấn công vào những nước xã hội chủ nghĩa còn lại, tấn công vào những
tư tưởng xã hội chủ nghĩa trên thế giới, tấn công vào những tư tưởng của Mác,
Ăngghen về nguyên lý vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản nói riêng và các
nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học nói chung.
Vũ trang bằng học thuyết chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung, chủ nghĩa
xã hội khoa học nói riêng và tư tưởng Hồ Chí Minh, những người cộng sản Việt
Nam tháng 8 năm 1945 đã lãnh đạo nhân dân giành lại độc lập, tự do cho Tổ
quốc, đưa đất nước đi vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Từ một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, bị áp bức, bóc lột, bị thực
dân, phát xít đày đọa, Việt Nam ngày nay đã trở thành một quốc gia độc lập,

đang thay da, đổi thịt từng ngày. Những thành tựu rất to lớn và có ý nghĩa lịch sử
qua 20 năm đổi mới là bằng chứng sống động của chủ nghĩa xã hội khoa học,
chủ nghĩa xã hội hiện thực. Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện do Đảng Cộng
sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, trước hết là đổi mới tư duy lý luận về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng ta luôn
kiên định với chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định với mục
tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở đó, nghiên cứu, tìm
tòi, thử nghiệm, tổng kết thực tiễn để đề ra chiến lược, chủ trương, chính sách


3
đúng đắn và những giải pháp, hình thức, bước đi thích hợp, đưa sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc tiến lên vững chắc.
Những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước đã minh chứng cho sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, đồng thời là thực tế để chúng ta khảo
sát, minh chứng cho những bài học kinh nghiệm rút ra từ sự sụp đổ chủ nghĩa xã
hội của Liên Xô và Đông Âu, nhận thức sáng rõ hơn về chủ nghĩa xã hội khoa
học và chủ nghĩa xã hội hiện thực. Khảo sát thực tiễn công tác xây dựng đảng để
tổng kết thực tiễn, vận dụng đúng đắn, sáng tạo các nguyên lý chủ nghĩa xã hội
khoa học vào hoạt động thực tiễn cách mạng, ngăn ngừa những biểu hiện giáo điều
sơ cứng, hoặc cải lương, cơ hội trong công tác lý luận và hoạt động thực tiễn, góp
phần làm cho chủ nghĩa xã hội khoa học luôn sống động, thực sự là học thuyết
chính trị - xã hội, khoa học - cách mạng định hướng cho cuộc đấu tranh của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động vì lý tưởng cao đẹp, đồng thời vận dụng
những kinh nghiệm chủ yếu đó vào công tác xây dựng đảng, tiếp tục thực hiện
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam – Người khởi xướng và quyết định thắng
lợi của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.
Cơn địa chấn chính trị vào những năm cuối thập niên 80 đầu những năm
90 (TKXX) làm sụp đổ chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu đã

làm rung chuyển thế giới và gây sự bàng hoàng cho hàng triệu người. Các thế
lực thù địch đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội, tìm mọi cách
chứng minh rằng đó là sự sụp đổ của chủ nghĩa Mác nói chung, chủ nghĩa xã hội
khoa học nói riêng và dự báo rằng, với sự sụp đổ lây truyền đó, chế độ cộng sản
sẽ không thể tồn tại đến năm mở đầu thế kỷ XXI. Tuy nhiên, họ đã nhầm! Sự
thật, sự sụp đổ đó - như các Đảng cộng sản nghiêm túc đánh giá - chỉ là sự sụp
đổ của một mô hình xã hội đã trở nên sơ cứng, không được kịp thời thay đổi cho
phù hợp với những biến đổi của thời đại cũng như của tự thân xã hội xã hội chủ
nghĩa; hoặc trong quá trình cải tổ, cải cách, một số Đảng cộng sản đã mắc sai
lầm về mục tiêu, nội dung, hình thức và bước đi, vi phạm những nguyên lý cơ
bản, những nguyên tắc bất di bất dịch của chủ nghĩa Mác - Lênin. Hơn 15 năm
qua, kể từ sự sụp đổ của một số nước xã hội chủ nghĩa, chúng ta càng thấy sáng
tỏ hơn những nguyên nhân sâu xa và trực tiếp dẫn đến sự trì trệ, khủng hoảng và
sụp đổ đó. Tựu trung lại, đó là Đảng cộng sản cầm quyền ở một số nước xã hội


4
chủ nghĩa đã không giữ vững và nâng cao vai trò lãnh đạo xã hội của mình, mắc
sai lầm nghiêm trọng về đường lối chính trị, công tác tư tưởng và tổ chức, để cho
các phần tử cơ hội, xét lại thao túng, phá hoạt Đảng; vi phạm những nguyên tắc
xây dựng Đảng Mác - Lênin, một bộ phận quan trọng trong bộ máy lãnh đạo của
Đảng suy thoái chính trị, quan liêu, tham nhũng, thoái hoá biến chất xa rời quần
chúng, mất lòng tin nơi quần chúng nhân dân; Đồng thời, các thế lực thù địch
bằng chiến lược “diễn biến hoà bình” hết sức thâm độc và xảo quyệt ra sức phá
hoại. Như vậy, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu không
phải là định mệnh về sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa Mác - Lênin như các thế
lực thù địch cố tình xuyên tạc; trái lại, chính sự vi phạm các nguyên lý mácxít,
từ bỏ, phản bội, đi ngược lại chủ nghĩa Mác - Lênin mới là nguyên nhân dẫn
đến sự sụp đổ đó. Còn ở đâu, Đảng cộng sản trung thành với chủ nghĩa Mác Lênin, lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, kiên định
với mục tiêu lý tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa - cộng sản chủ nghĩa, nắm

bắt xu thế thời đại, biết đoàn kết, dựa vào nhân dân, tiến hành đổi mới, cải cách
toàn diện, đúng đắn, sáng tạo, nêu cao cảnh giác cách mạng thì chủ nghĩa xã hội
hoàn toàn có thể vượt qua khó khăn thử thách, tồn tại và phát triển mạnh mẽ.
Cảnh giác, đấu tranh với những phán xét hồ đồ, phủ định với dụng ý
thâm hiểm, xấu xa của các thế lực thù địch đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ
nghĩa xã hội khoa học, chủ nghĩa xã hội hiện thực, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn
kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản,
vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học vào xây dựng
đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng, khởi xướng sự
nghiệp đổi mới đất nước. Việc nâng cao năng lực lãnh đạo được khơi nguồn từ
những bước đột phá cục bộ về đổi mới tư duy trước khi hình thành đường lối đổi
mới toàn diện, đến hệ thống những quan điểm về đổi mới đất nước mà Đại hội
VI của Đảng đề cập - đây chính là những quan điểm chủ yếu chỉ đạo công cuộc
đổi mới toàn diện ở nước ta. Những quan điểm về đổi mới đất nước tiếp tục được
phát triển thông qua các văn kiện, nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VII, lần thứ VIII, IX và lần thứ X.
20 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng, với sự nỗ
lực phấn đấu của toàn đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã
đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử: “Đất nước ta đã ra khỏi


5
khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng
trưởng khá nhanh; sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải
thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và
tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững.
Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp
của quốc gia được tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước ta tiếp
tục đi lên với triển vọng tốt đẹp” 1. Điều đặc biệt quan trọng là, sau 20 năm lãnh

đạo và chỉ đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta ngày càng tích luỹ thêm nhiều kinh
nghiệm: “Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi
mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam đã hình thành trên những nét cơ bản”2.
Tổng kết 20 năm đổi mới đất nước, Đảng ta đã rút ra một số bài học lớn,
1. Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. 2. Đổi mới
toàn diện, đồng bộ có kế thừa có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. 3. Đổi
mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động,
sáng tạo của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn nhạy bén với cái mới. 4.
Phát huy cao độ nội lực, đồng thời khai thác ngoại lực kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. 5. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng. không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng
bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân
dân. Đây chính là biện chứng của quá trình tổng kết thực tiễn cách mạng, rút ra
những vấn đề mới về lý luận để Đảng ta tiếp tục lãnh đạo cách mạng đạt được
những bước tiến bộ quan trọng hơn đối với sự nghiệp lãnh đạo cách mạng Việt
Nam trong giai đoạn tiếp theo. Đây chính là một phần đóng góp của Đảng ta
vào lý luận của chủ nghĩa hội khoa học trong giai đoạn cách mạng mới.
2. Những thành tựu chủ yếu trong nâng cao năng lực và sức chiến đấu
của Đảng - nhân tố quyết định đến thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Sự nghiệp đổi mới đất nước được bắt nguồn từ những điều kiện khách
quan, những nhân tố chủ quan. Một trong những nhân tố chủ quan quyết định
đến thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước là Đảng ta đã tự đổi mới về nhận
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006, tr. 17.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006, tr. 17.

1


6
thức và hành động, nắm bắt và vận dụng đúng đắn, sáng tạo các nguyên lý, quy
luật xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta, nâng cao tầm trí tuệ, năng lực và sức chiến đấu, lãnh đạo sự nghiệp đổi mới
đất nước đạt được những thành tựu quan trọng.
Trước hết về nhận thức: Tổng kết hai mươi năm đổi mới đất nước, nhận
thức của Đảng ta có những đổi mới quan trọng. Công tác lý luận của Đảng đã
làm rõ hơn yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng cầm quyền trong điều kiện mới: nghiên
cứu tìm tòi mô hình và con đường, bước đi xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp
với quy luật khách quan; lãnh đạo nhân dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa; ngăn chặn và đẩy lùi được những nguy cơ: chệch hướng xã hội
chủ nghĩa hoặc bảo thủ, cố giữ những quan niệm cũ không còn phù hợp với thực
tiễn. Đảng lãnh đạo xây dựng chế độ mới do nhân dân làm chủ. Đảng lãnh đạo
xã hội thông qua Nhà nước, bằng Nhà nước; Đảng lãnh đạo Nhà nước đồng thời
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và Pháp luật.
Đã xác định vị trí của tư tưởng Hồ Chí Minh trong nền tảng tư tưởng
của Đảng, khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền
tảng tư tưởng của Đảng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Đã bước đầu đi
sâu làm rõ những luận điểm nào của Mác, Ăng ghen và Lênin trước kia đã đúng,
bây giờ và về sau vẫn đúng; những luận điểm nào trước kia đúng, nhưng điều
kiện lịch sử hiện nay đã thay đổi, không còn phù hợp, cần phải bổ sung, phát
triển hoặc thay đổi; những luận điểm nào ngay khi sinh thời, các ông đã phát
hiện thấy không đầy đủ hoặc thừa nhận là sai và đã sửa đổi, nhưng chúng ta
không thấy hết; những luận điểm nào của các ông mà chúng ta đã hiểu không
đầy đủ, hoặc hiểu sai do nghiên cứu không thấu đáo hoặc hiểu theo cách hiểu
không đúng của người khác, đảng khác.

Đảng ta ngày càng nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về vị trí công tác
xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, hoà bình xây dựng, phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập quốc tế, tình
hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp. Đảng ta khẳng định: xây dựng Đảng là
nhiệm vụ then chốt, nhiệm vụ sống còn trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng;
Đảng phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn, coi đây là quy luật tồn tại và phát triển của
Đảng. Về nội dung công tác xây dựng Đảng, đã nhấn mạnh vấn đề giữ vững bản
chất cách mạng và khoa học của Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh về bản lĩnh


7
chính trị, trình độ trí tuệ, trong sạch về phẩm chất đạo đức; có phương thức lãnh
đạo khoa học.
Trên lĩnh vực chính trị - tư tưởng, khẳng định sự cần thiết phải đẩy mạnh
công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, nâng cao trình độ nắm bắt, vận
dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao
khả năng tự đề kháng trước những quan điểm, tư tưởng sai trái; khẳng định tính
chủ động đấu tranh chống lại những quan điểm, tư tưởng đó; xem việc nâng cao
nhận thức đúng đắn chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là yếu tố bên
trong, quan trọng nhất để khắc phục có hiệu quả sự tấn công về lý luận, tư tưởng
của các thế lực thù địch. Thường xuyên đấu tranh với các biểu hiện giáo điều và
cơ hội dưới mọi hình thức.
Trên lĩnh vực tổ chức, đã khẳng định tính đồng bộ, toàn diện trong xây
dựng Đảng ở mọi cấp; thấy rõ hơn, sâu sắc hơn sự tác động qua lại giữa xây
dựng tổ chức đảng ở cấp cơ sở và cấp trên cơ sở, mối quan hệ giữa xây dựng tổ
chức với việc nâng cao chất lượng đảng viên. Thấy rõ hơn tính liên hoàn, tính
đồng bộ của công tác cán bộ: Phát hiện, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá,
sử dụng, luân chuyển cán bộ... Từng bước làm rõ hơn tiêu chuẩn của cán bộ
trong thời kỳ mới; nhấn mạnh các yêu cầu về sự kiên định, sự trung thành với lý
tưởng xã hội chủ nghĩa, tính chủ động, năng động, sáng tạo; năng lực phát hiện,

đề xuất vấn đề đúng đắn, kịp thời; khả năng cập nhật những tri thức mới, cần
thiết cho công việc lãnh đạo và quản lý; về khả năng quy tụ sức mạnh của tập thể
vào công việc chung...
Đã luận chứng một cách sâu sắc, có sức thuyết phục sự cần thiết phải
bảo đảm vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng ta; không chấp nhận đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập. Đã bổ sung, phát triển và từng bước làm sáng tỏ lý
luận về vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền, dân chủ
hoá xã hội, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
Những đổi mới trong nhận thức đã cho chúng ta những kết quả to lớn
thông qua thực tiễn đổi mới. Trong tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức
tạp, yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới rất nặng nề, các thế lực thù
địch tấn công toàn diện vào Đảng, vào chế độ, Đảng ta vẫn vững vàng, thể hiện
rõ bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học, kiên định về mục tiêu, lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lãnh đạo nhân dân tiến hành công
cuộc đổi mới đạt nhiều thành tựu to lớn, quan trọng, đưa sự nghiệp cách mạng


8
nước ta tiếp tục đi lên. Công tác tư tưởng chính trị của Đảng có nhiều đổi mới,
góp phần quan trọng vào việc nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy, thống nhất tư
tưởng trên những vấn đề cơ bản về công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới. Đấu tranh bảo vệ
quan điểm, đường lối đúng đắn của Đảng; phê phán, bác bỏ các quan điểm sai
trái đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, dân chủ cực đoan, phủ nhận thành
tựu của quá khứ... Việc thực hành dân chủ trong Đảng có nhiều tiến bộ, khắc
phục một phần những biểu hiện độc đoán, gia trưởng, chuyên quyền, dân chủ
không đi đôi với kỷ luật, kỷ cương. Đã bước đầu chú trọng xây dựng văn hoá
chính trị, văn hoá lãnh đạo. Biết lắng nghe những ý kiến khác nhau; quyết định
theo đa số nhưng tôn trọng ý kiến của thiểu số, tôn trọng những tìm tòi, thử

nghiệm, chắt lọc từ đó những nhân tố có giá trị để xây dựng chủ trương, chính
sách. Dựa vào nhân dân để xây dựng, sửa đổi và tổ chức thực hiện chính sách, để
chỉnh đốn Đảng. Công tác tổ chức và cán bộ đã có những đổi mới đáng kể, phục
vụ tích cực cho nhiệm vụ đổi mới. Tiếp tục khẳng định và có cơ chế cụ thể để
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Sắp xếp, kiện toàn hệ thống tổ chức của
Đảng và Nhà nước theo hướng tinh gọn hơn, giảm bớt đầu mối trung gian. Trong
đánh giá cán bộ, đã chú ý lấy hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị làm thước đo
phẩm chất và năng lực, lấy nhu cầu nhiệm vụ làm căn cứ để bố in cán bộ. Đã chú
trọng thực hiện dân chủ hoá, công khai hoá công tác cán bộ, đổi mới chính sách
cán bộ. Đã hình thành Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Đảng có đội ngũ cán bộ đông đảo thích ứng nhanh với cơ
chế mới; có năng lực nắm bắt, vận dụng quan điểm, chủ trương của Đảng và kịp
thời tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, quan điểm đó. Công tác củng
cố tổ chức cơ sở đảng và xây dựng đội ngũ đảng viên có những chuyển biến tích
cực, nhất là đã chú ý đến xây dựng và hướng dẫn thực hiện chức năng, nhiệm vụ
ở các loại hình tổ chức cơ sở đảng khác nhau. Nhìn chung, đa số đảng viên vẫn
giữ được vai trò tiên phong, gương mẫu, tận tụy với công việc, tích cực thực hiện
đường lối đổi mới của Đảng; trình độ các mặt được nâng lên. Nhiều tổ chức cơ
sở đảng vẫn thực hiện được vai trò là nền tảng của Đảng và là hạt nhân chính trị
ở cơ sở.
Phương thức lãnh đạo của Đảng có bước tiến bộ: Đã có đổi mới trong
việc ra nghị quyết, tổ chức học tập nghị quyết và triển khai tổ chức thực hiện
nghị quyết, theo hướng việc nào thật cần thiết mới ra nghị quyết, và nghị quyết
cố gắng ngắn gọn. Đã đẩy mạnh việc dân chủ hoá phương thức lãnh đạo của
Đảng; coi trọng việc lãnh đạo thể chế hoá nghị quyết, lãnh đạo xây dựng luật và


9
pháp lệnh để toàn dân thực hiện. Điều đó đã góp phần giảm bớt tình trạng bao
biện, làm thay, áp đặt. Coi trọng việc quy chế hoá, quy trình hoá trong thực hiện

chức năng, nhiệm vụ của nhiều cơ quan đảng, quy chế hoá mối quan hệ làm việc
giữa Đảng và một số cơ quan của Nhà nước; quy trình hoá, quy chế hoá công tác
cán bộ...
Những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước chứng tỏ đường lối
đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cách mạng
Việt Nam. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng đã được tăng cường, là
nhân tố quyết định cho thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước. Đồng thời,
thông qua đổi mới, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên đi lên chủ
nghĩa xã hội của Đảng ta ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về
công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.
3. Không ngừng đổi mới, chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng, đáp ứng với yêu cầu của sự nghiệp lãnh đạo cách
mạng, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thực tiễn 20 năm đổi mới đất nước, bên cạnh những thành tựu trong
việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, chúng ta còn nhiều
hạn chế, bất cập trong cả nhận thức cũng như thực tiễn. Về nhận thức, không ít
vấn đề lý luận về Đảng cầm quyền trong điều kiện kinh tế thị trường, dân chủ
hoá và mở cửa chưa được làm sáng tỏ. Chẳng hạn, cần cụ thể hoá như thế nào để
vận hành có hiệu quả cơ chế: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ”? Mô hình tổ chức bộ máy của Đảng như thế nào là hợp lý? Phương thức
lãnh đạo của Đảng như thế nào là khoa học, bảo đảm nâng cao vai trò lãnh đạo
của Đảng, nâng cao hiệu lực của Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân? Tiêu chuẩn cán bộ, đảng viên trong thời kỳ mới là thế nào?...
Về thực tiễn, công tác xây dựng Đảng chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Công tác tư tưởng chưa chuẩn bị
đầy đủ và có biện pháp tích cực cho bước chuyển căn bản trên những lĩnh vực
phát triển kinh tế và mở rộng đối ngoại. Một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện rõ nhất là tình trạng phai nhạt
lý tưởng, dao động niềm tin về chủ nghĩa xã hội trước sự sụp đổ của Liên Xô và

Đông Âu, mất cảnh giác trước âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các
thế lực thù địch, mơ hồ trước sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại. . . Chưa
ngăn chặn được tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, chuyên quyền độc


10
đoán, ức hiếp nhân dân, cơ hội, thực dụng, gây mất đoàn kết nội bộ, nói không đi
đôi với làm...Công tác lý luận của Đảng chưa đủ sức làm sáng tỏ không ít vấn đề
do thực tiễn đặt ra. Công tác tổ chức chậm giải quyết một số vấn đề tồn tại trong
hệ thống tổ chức của Đảng. Thiếu biện pháp chỉ đạo để khắc phục có hiệu quả
tình trạng yếu kém của nhiều tổ chức cơ sở đảng; còn lúng túng trong việc xây
dựng tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài. Công tác cán bộ còn thiếu những cơ chế, chính sách để thật
sự phát huy dân chủ, để đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ;
dân chủ hoá công tác cán bộ còn rất chậm; chưa có biện pháp khắc phục tình
trạng hẫng hụt cán bộ ở các cấp. Phương thức lãnh đạo của Đảng còn lúng túng,
hạn chế, chưa phát huy đầy đủ vai trò của chính quyền và các đoàn thể nhân dân.
Việc phối hợp giữa kiểm tra của Đảng với thanh tra nhà nước chưa chặt chẽ.
Những yếu kém, khuyết điểm nêu trên tác động lẫn nhau, đan xen nhau rất
phức tạp, làm cản trở công cuộc đổi mới, hạn chế việc phát huy thành quả của
đổi mới. Nếu như những thành tựu của đổi mới đã làm hạn chế tác động tiêu cực
của “bốn nguy cơ” mà Đảng ta đã nêu ra trong Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ khoá VII (tháng l-1994) thì những yếu kém, khuyết điểm lại làm cho
“bốn nguy cơ” đó tác động phức tạp hơn. Do cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn
Đảng chưa tạo được chuyển biến cơ bản nên có thể nói “nguy cơ tham nhũng,
quan liêu” đã nổi lên như là một mối đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ.
Trong khi đó, “nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế” còn rất lớn. Bên cạnh đó, các
thế lực thù địch đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hoà bình” đối với nước ta với
màu sắc mới: Một mặt, sử dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo để
công khai chống phá chúng ta, gây rối, gây bạo loạn chính trị ở một vài địa

phương; mặt khác, thông qua con đường ngoại giao, hội nhập, hợp tác kinh tế,
đầu tư, văn hoá, giáo dục, du lịch. . . để tác động vào tư tưởng cán bộ, đảng viên,
nhân dân ta, tạo ra những nhân tố mất ổn định từ trong nội bộ ta. Những biểu
hiện chệch hướng, xa rời mục tiêu xã hội chủ nghĩa vẫn diễn ra trên một số lĩnh
vực. Rõ ràng “bốn nguy cơ” vẫn đang tồn tại và đang là những thách thức rất
lớn đối với Đảng và nhân dân ta, với chế độ ta, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục nỗ
lực phấn đấu để khắc phục, đưa sự nghiệp đổi mới tiếp tục tiến lên.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đặt ra những yêu cầu mới về năng
lực lãnh đạo của Đảng. Chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội với những đặc trưng
mà thực tiễn 20 năm đổi mới đã tổng kết thành những vấn đề lý luận, những đặc
trưng này đã có sự phát triển so với Cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội mà
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã đề cập: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân


11
dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn
minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải
phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển
toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ
và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”3 .
Trong tình hình hiện nay, trước yêu cầu mới của cách mạng, chúng ta
càng phải kiên định sự lãnh đạo của Đảng. Đây là vấn đề nguyên tắc, vấn đề
sống còn, bảo đảm sự phát triển của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đương nhiên, để có đủ khả năng và điều kiện, lãnh đạo đúng đắn và có hiệu
quả, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức mạnh của Đảng về mọi mặt, làm cho Đảng thật sự là đội tiên phong

của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và
của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và của cả dân tộc.
Phương hướng và mục tiêu tổng quát của công tác xây dựng Đảng trong
nhiệm kỳ tới là: “Tiếp tục đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, tăng cường bản chất giai
cấp công nhân và tính tiên phong, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng; xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng,
tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có
tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học, luôn gắn bó với nhân dân”4.
Để thực hiện tốt phương hướng và mục tiêu tổng quát, Đảng phải tiếp
tục đổi mới tư duy lý luận, làm tốt công tác tư tưởng chính trị, nâng cao trình độ
trí tuệ và năng lực lãnh đạo chính trị, năng lực cầm quyền, đổi mới nội dung,
phương thức lãnh đạo của Đảng; phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, tăng
cường đoàn kết thông nhất; làm trong sạch và nâng cao chất lượng đội ngũ
đảng viên; khắc phục có hiệu quả các hiện tượng tiêu cực, đặc biệt là tệ quan
liêu, tham nhũng, khôi phục và nâng cao lòng tin của nhân dân đối với Đảng;
chấn chỉnh tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, làm cho Đảng có đủ bản lĩnh
chính trị, có kiến thức, năng lực và sức chiến đấu cao trong điều kiện phát triển
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội dại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006,
tr.68.
4
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006,
tr.279.
3


12
kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập, môi trường quốc tế rất phức tạp, có nhiều
nguy cơ và thách thức mới. Tiếp tục cụ thể hoá, quy chế hoá, thực hiện tốt
nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; kiện toàn hệ thống tổ chức của Đảng,

trong đó chú trọng nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, làm cho tổ
chức cơ sở đảng thực sự là hạt nhân chính trị ở cơ sở, có khả năng lãnh đạo,
quy tụ sức mạnh của đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; làm tốt công tác
giáo dục, rèn luyện, quản lý đội ngũ cán bộ, đảng viên cả về năng lực, phẩm
chất đạo đức và tác phong công tác. Kiện toàn và nâng cao chất lượng của các
cơ quan tham mưu, tạo sự liên thông giữa các cơ quan tham mưu trong hệ thống
chính trị.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, cán bộ, đảng viên phải có phẩm
chất chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng của Đảng, có thái độ tích
cực đối với công cuộc đổi mới, đồng thời phải có trình độ trí tuệ, năng lực thực
hiện nhiệm vụ đổi mới. Đảng viên hoạt động trong các thành phần kinh tế phải
nêu được vai trò tiên phong gương mẫu, bằng lao động sáng tạo, có năng suất và
chất lượng của mình, góp phần tích cực vào việc phát triển lực lượng sản xuất,
giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân, trong đó
có bản thân và gia đình. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, chúng ta không xem kinh tế tư nhân là gắn với chủ nghĩa tư bản, mà cần
lãnh đạo kinh tế tư nhân phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng viên
làm kinh tế tư nhân không bị hạn chế về quy mô, ngoài việc chấp hành tốt Điều
lệ Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước, còn phải theo một số quy định,
điều kiện nhất định. Chẳng hạn, phải là đảng viên không ở trong biên chế của hệ
thống chính trị (Đảng, Nhà nước, Mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã hội), trong
quân đội và công an; gương mẫu chấp hành các chủ trương của Đảng, chính sách
và pháp luật của Nhà nước (không làm ăn gian dối, trốn lậu thuế, thực hiện dầy
đủ các chính sách bảo hiểm, trả lương cho người lao động, . . .); trực tiếp tham
gia lao động (lao động chân tay, lao động kỹ thuật, lao động quản lý); có quan hệ
tốt với người lao động, với công đoàn và các đoàn thể khác tại doanh nghiệp, với
nhân dân nơi cư trú; chịu sự giám sát, kiểm tra của tổ chức đảng; làm tốt công
tác xã hội, nhân đạo,...
Nâng cao hiệu lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong cuộc đấu
tranh chống tham nhũng. Thực hiện nghiêm túc quy định kê khai tài sản của cán

bộ lãnh đạo, quản lý khi ứng cử, đề bạt và khi thôi giữ cương vị đó; tăng cường
chất lượng và hiệu quả của công tác kiểm tra, giữ nghiêm kỷ luật và sự thống
nhất trong Đảng. Chú trọng kiểm tra việc cụ thể hoá, thể chế hoá đường lối, quan


13
điểm của Đảng; kiểm tra việc tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; kiểm tra
hoạt động, phẩm chất, tư cách, đạo đức cá nhân của cán bộ, đảng viên... Nâng
cao tính chủ động của công tác kiểm tra phòng ngừa. Hoàn thiện cơ chế và quy
chế bảo đảm quyền kiểm tra, giám sát của đảng viên, cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng
và sự tham gia của nhân dân, các đoàn thể nhân dân vào công tác kiểm tra, giám
sát. Kết hợp giám sát trong Đảng với giám sát của Nhà nước thông qua pháp luật
và giám sát của nhân dân thông qua quy chế dân chủ; phát huy vai trò giám sát
của dư luận xã hội thông qua các phương tiện thông tin đại chúng...
Nâng cao chất lượng công tác cán bộ theo hướng đẩy mạnh dân chủ hoá,
thực hiện nghiêm túc các quy chế, quy trình dưới sự lãnh đạo của Đảng, chủ động
xây dựng một đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực, đáp ứng yêu cầu của
nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Mở rộng và thể chế hoá chế độ nhân
dân giám sát cán bộ và công tác cán bộ; mở rộng quyền tiến cử và tự tiến cử; thực
hiện chế độ giới thiệu nhiều phương án nhân sự trong bầu cử và bổ nhiệm cán bộ.
Trong công tác cán bộ, giải quyết tốt mối quan hệ giữa vai trò quyết định của tập
thể tổ chức đảng với vai trò của người đứng đầu cơ quan, đơn vị.
Thắt chặt mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Các tổ chức
đảng và đảng viên phải hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với
nhân dân, lắng nghe tiếng nói của dân. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa trách
nhiệm đối với cấp trên và trách nhiệm đối với quần chúng và cấp dưới.
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực cầm quyền
của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng Cương lĩnh, chiến lược, các
định hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền,
thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng

viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ phẩm chất và năng lực vào
hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể. Đảng không
làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Khâu mấu chốt
cần tập trung hiện nay là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua việc đề ra đường lối, chủ trương, các
chính sách lớn, định hướng cho sự phát triển và kiểm tra việc tổ chức thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng và Hiến pháp, Pháp luật của Nhà nước; bố trí
đúng đội ngũ cán bộ cầm quyền ngang tầm nhiệm vụ.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là làm cho Đảng lãnh đạo có
hiệu quả hơn, Nhà nước quản lý có hiệu lực hơn, quyền làm chủ của nhân dân
được phát huy tốt hơn, cả hệ thống chính trị ngày càng mạnh lên; tăng cường vị


14
trí, vai trò lãnh đạo của Đảng, phát huy được tính chủ động, sáng tạo của Nhà
nước và các đoàn thể nhân dân trong tổ chức thực hiện đường lối của Đảng.
Tóm lại. Để lãnh đạo thành công sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, nhiệm vụ cấp bách và then chốt là phải vận dụng tốt nguyên lý xây
dựng đảng của chủ nghĩa xã hội khoa học, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, xây đựng Đảng trong sạch, vững mạnh, ngang tầm với yêu
cầu lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất
nước vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Cùng với quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước trong 20 năm
qua, Đảng ta đã có nhận thức sâu sắc hơn, cụ thể hơn về mối quan hệ giữa xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữa kinh tế và quốc phòng - an ninh đối ngoại; nhận
thức toàn diện hơn về khái niệm an ninh quốc gia: không chỉ an ninh chính trị
mà còn là an ninh kinh tế, an ninh văn hóa, an ninh tư tưởng, an ninh xã hội. Lý
luận về “Bảo vệ Tổ quốc” được xác định đầy đủ hơn: Bảo vệ Tổ quốc không chỉ
là bảo vệ lãnh thổ, biên giới, hải đảo, vùng biển, vùng trời mà còn là bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân; bảo vệ kinh tế, văn hoá

dân tộc, sự nghiệp đổi mới... Đã định hình rõ hơn các nguy cơ đối với an ninh
quốc gia, các nhân tố có khả năng gây mất ổn định chính trị - xã hội, phá hoại an
ninh quốc gia. Chúng ta đã bước đầu xây dựng được hệ thống quan điểm mới về
chiến tranh nhân dân, về hậu phương trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao;
làm sáng tỏ nội dung mới của chiến lược bảo vệ Tổ quốc, chiến lược quốc phòng
toàn dân. Đảng ta đã chăm lo xây dựng quân đội vững mạnh về mọi mặt, trong
đó lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở. Bằng chứng sinh động về việc củng cố,
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội là ngày 20 tháng 7 năm 2005,
Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 51/NQ-TW “Về việc tiếp tục hoàn thiện
cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện
chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam”. Đây là
những vấn đề rất quan trọng, là chủ trương lớn có ý nghĩa chiến lược trong sự
nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết
khẳng định những vấn đề cơ bản nhất về bản chất cách mạng, truyền thống tốt
đẹp của quân đội ta, nguyên tắc lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” đối
với quân đội và nội dung tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng nhằm
tăng cường sức mạnh lãnh đạo của tổ chức đảng, hiệu lực công tác đảng, công
tác chính trị, đảm bảo cho quân đội luôn luôn là lực lượng chính trị, lực lượng
chiến đấu trung thành, tin cậy bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo


15
vệ Tổ quốc và nhân dân, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao trong mọi
tình huống.
Để đáp ứng với yêu cầu thực hiện Nghị quyết và của sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc trong giai đoạn cách mạng mới, việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong
Quân đội phải được cụ thể hóa bằng việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng bộ Quân đội, của các tổ chức Đảng trong quân đội. Phải kiên trì,
giữ vững nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng, với công
cuộc đổi mới toàn diện đất nước và với sự nghiệp lãnh đạo xây dựng nền quốc

phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Đảng bộ Quân đội và các
tổ chức đảng trong quân đội phải tự đổi mới, chỉnh đốn để không ngừng nâng tầm
tư duy và năng lực lãnh đạo để ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ.
Thực trạng công tác xây dựng đảng trong quân đội hiện đang tồn tại
nhiều vần đề bất cập cần tiếp tục được khắc phục để không ngừng nâng cao năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu cho ngang tầm với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc hiện nay. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ VIII chỉ rõ: sự lãnh
đạo của một số cấp uỷ đảng chưa ngang tầm với đòi hỏi của nhiệm vụ củng cố
quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; ý thức quốc phòng, ý thức bảo vệ Tổ quốc của một
bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân chưa cao. Vì vậy, việc tập trung mọi nỗ lực
để xây dựng Đảng bộ Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, trước
hết là nâng cao năng lực tham mưu cho Đảng, Nhà nước về những vấn đề thuộc
đường lối nhiệm vụ quân sự quốc phòng; nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện,
sức chiến đấu của các cấp uỷ, tổ chức đảng, vai trò tiền phong gương mẫu của
đội ngũ cán bộ đảng viên; chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong sinh hoạt và tổ chức thực hiện nghị quyết
của Đảng... là một yêu cầu mang tính cấp bách trong giai đoạn cách mạng hiện
nay. Bên cạnh đó, chúng ta phải kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái
hòng thực hiện mưu đồ “phi chính trị hoá” quân đội, tách quân đội khỏi sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản, sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Những bài
học của Liên Xô và Đông Âu vừa qua luôn là lời cảnh báo về sự xa rời nguyên lý
của chủ nghĩa xã hội khoa học trong xây dựng quân đội cách mạng, nhất là chăm
lo xây dựng quân đội về chính trị. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, chúng ta
cần đặc biệt chăm lo xây dựng, củng cố niềm tin vào chủ nghĩa xã hội, vào sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Dù trong bất cứ điều kiện hoàn cảnh nào
cũng kiên quyết đánh bại mọi âm mưu của các thế lực thù địch, bảo vệ đảng, bảo
vệ chế độ chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc, tạo điều kiện cho việc phát triển
kinh tế đất nước.



16
Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định:
“Chủ nghĩa xã hội trên thế giới từ những bài học thành công và thất bại, cũng
như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng có
bước phát triển mới theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ
tiến tới chủ nghĩa xã hội”5. Là khoa học chính trị, cơ sở lý luận trực tiếp cho
những quan điểm, đường lối cách mạng của Đảng, chủ nghĩa xã hội khoa học
phải phải góp phần nâng cao giác ngộ cách mạng, xây dựng niềm tin xã hội chủ
nghĩa cho cán bộ, chiến sĩ quân đội ta có nhận thức đầy đủ, đúng đắn quy luật
chính trị - xã hội của cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhận rõ nội dung, tính chất,
tiến trình, điều kiện khách quan và chủ quan, khó khăn và thuận lợi của sự
nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân, nhận rõ kẻ thù giai cấp và dân tộc. Từ
đó có cơ sở quán triệt đường lối, chính sách của Đảng, nhiệm vụ của cách mạng
và của quân đội, rèn luyện bản lĩnh chính trị, ý chí chiến đấu, tinh thần sẵn sàng
nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ. Việc tăng cường học tập chủ nghĩa xã hội
khoa học giúp cho cán bộ, chiến sỹ quân đội có niềm tin cơ sở khoa học vững
chắc vào tiền đồ của cách mạng, vào tương lai tươi sáng của giai cấp công nhân
và dân tộc, không hoang mang, dao động, hoài nghi trước những biến động xã
hội, thậm chí cả sự thoái trào tạm thời của chủ nghĩa xã hội; tuyệt đối tin tưởng
vào sự lãnh đạo và đường lối của Đảng, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân đưa
cách mạng vượt qua khó khăn, tiến lên giành thắng lợi mới.

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội dại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001, tr.65.
5



×