Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO NHỮNG QUAN điểm đầu TIÊN của ĐẢNG về CHỈ đạo xây DỰNG lực LƯỢNG vũ TRANG TRONG NGHỊ QUYẾT về đội tự vê (1935) ý NGHĨA LỊCH sử và HIỆN THỰC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.3 KB, 27 trang )

1

Những quan điểm đầu tiên của đảng về chỉ
đạo xây dựng lực lượng vũ trang thể hiện trong
“Nghị quyết về đội tự vệ” (3- 1935)
ý nghĩa lịch sử và hiện thực
===========================
Nghiên cứu tập 5 Văn kiện Đảng toàn tập, toàn bộ tập 5 phản ánh hoạt
động của Đảng trong năm 1935. Đây là thời điểm Đảng Cộng sản Việt Nam
(Đảng Cộng sản Đông Dương), đã trải qua những năm tháng vừa đấu tranh
chống sự khủng bố khốc liệt của chính quyền thực dân vừa khôi phục hệ
thống tổ chức Đảng mà Đại hội Đại biểu lần thứ nhất của Đảng (3/1935) là sự
kiện chính trị trọng đại, đánh dấu thành quả 5 năm quá trình hoạt động tích
cực trong điều kiện ác liệt, cam go, đầy trông gai thử thách; cũng là quá trình
khẳng định bản lĩnh trí tuệ, sự trưởng thành lớn mạnh của một Đảng Cộng sản
chân chính lãnh đạo cách mạng ở một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Ra đời và trưởng thành trong bão táp cách mạng, từ Hội nghị thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam (2/1930) được tổ chức tại Hương Cảng - Trung
Quốc, đến Đại hội lần thứ nhất của Đảng (3/1935), địa điểm tổ chức Đại hội
vẫn phải tổ chức ở nước ngoài: tại Ma Cao - Trung Quốc. Với hàng loạt văn
bản, nghị quyết được thông qua tại Đại hội như: Nghị quyết Chính trị của đại
biểu Đại hội lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương; cùng các Nghị quyết
chuyên đề: Nghị quyết của toàn Đảng đại biểu Đại hội lần thứ nhất của Đảng
Cộng sản Đông Dương về công nhân vận động; Nghị quyết về nông dân vận
động, Nghị quyết về vận động binh lính, Nghị quyết về công tác trong các dân
tộc thiểu số, Nghị quyết về thanh niên vận động, Nghị quyết về công tác phản
đế liên minh, Nghị quyết về Đội Tự vệ, Nghị quyết Cứu tế đỏ Đông Dương
vận động, Nghị quyết của Đảng Đại hội về các công việc vặt. Các Nghị quyết
của Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương về hệ thống tổ
chức, quyền hạn và nhiệm vụ của Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản
Đông Dương, Điều lệ của Đảng Cộng sản Đông Dương; Điều lệ của Tổng




2

Công hội đỏ Đông Dương, Điều lệ của nông hội làng, Điều lệ của Thanh niên
Cộng sản đoàn Đông Dương, Điều lệ của Đông Dương Phản đế liên minh,
Điều lệ Cứu tế đỏ Đông Dương. Tiếp đó, là hàng loạt văn bản: Tuyên ngôn
của đại biểu Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương, Thư gửi
cho Quốc tế cộng sản và các Đảng Cộng sản anh em (Đảng Cộng sản
Bônsơvích Liên bang Xô viết, Đảng Cộng sản Tàu (Trung Quốc), Đảng Cộng
sản Pháp, Đảng Cộng sản Xiêm, Đảng Cộng sản Ấn Độ)... đã phản ánh quy
mô, tầm cỡ lịch sử trọng đại của Đại hội, khẳng định bản lĩnh trí tuệ và sự
trưởng thành lớn mạnh của Đảng Cộng sản Việt Nam (Đảng Cộng sản Đông
Dương) trong việc vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, bám sát thực tiễn
phát triển cách mạng Việt Nam để đề ra đường lối, chủ trương hết sức đúng đắn.
Thể hiện quá trình chuẩn bị công phu chu đáo và hiệu quả, năng lực, chất lượng
làm việc của Đại hội (chỉ diễn ra trong thời gian ngắn từ 27 đến 31-3-1935),
trong điều kiện kẻ thù khủng bố dã man, kiểm soát chặt chẽ, điều kiện tổ chức
Đại hội ở nước ngoài.
Có thể nói, trong hệ thống các văn kiện, nghị quyết được thông qua tại
Đại hội, Nghị quyết về Đội Tự vệ giữ vị trí vai trò hết sức quan trọng - đây là
Nghị quyết chuyên đề đầu tiên của Đảng đề cập tới công tác quân sự. Những
tư tưởng, nội dung của Nghị quyết về Đội Tự vệ là cơ sở ban đầu, đặt nền
móng vững chắc cho quá trình lãnh đạo hoạt động quân sự, xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân của Đảng, đặc biệt là lãnh đạo xây dựng Quân đội
nhân dân Việt Nam.
Nghị quyết chuyên đề về Đội Tự vệ với dung lượng chỉ 7 trang sách, kết
cấu thành 5 mục lớn.
I- CÁC MẠNG VẬN ĐỘNG VÀ KHỦNG BỐ TRẮNG
II- CÔNG NÔNG TỰ VỆ ĐỘI

III- QUÂN SỰ HUẤN LUYỆN QUẦN CHÚNG VÀ CÁCH MẠNG VẬN ĐỘNG


3

IV- TỔ CHỨC ĐỘI TỰ VỆ CÔNG NÔNG THƯỜNG TRỰC
V- NHIỆM VỤ CẦN KÍP CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VỀ MẶT ĐỘI TỰ VỆ
CÔNG NÔNG.

Được chia thành 14 tiểu mục chặt chẽ và lôgích, đã thể hiện nhiều nội
dung tư tưởng có giá trị lớn về quân sự như: về sự cần thiết phải xây dựng
Đội Tự vệ công nông, về bản chất, nguyên tắc tổ chức Đội Tự vệ, vấn đề vũ
trang cho quần chúng cách mạng, về quan điểm về sự lãnh đạo tuyệt đối trực
tiếp của Đảng đối với lực lượng vũ trang, về mô hình tổ chức biên chế lực
lượng vũ trang, về xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân...Những nội dung
trên có giá trị lịch sử và thực tiễn hết sức sâu sắc.
Nghị quyết về Đội Tự vệ thể hiện sự quán triệt quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin: về vấn đề bạo lực cách mạng, về chiến tranh và cách mạng, về
vấn đề chính quyền Nhà nước và quân đội... Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng
định: Bạo lực cách mạng là quy luật phổ biến của mọi cuộc cách mạng trên
thế giới, bạo lực “là bà đỡ” cho mọi cuộc cách mạng. Tuy nhiên, về mặt lý
luận con đường đấu tranh hoà bình có thể xảy ra nhưng cực kỳ quý hiếm và
chưa từng có trong tiền lệ. Xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, xây dựng
quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
cách mạng là tất yếu khách quan. Trong điều kiện lịch sử mới lãnh đạo cách
mạng Nga (1917), Lênin đã nêu lên sự cần thiết phải xây dựng tổ chức quân
sự kiểu mới của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, đứng trước nguy cơ bao vây,
xâm lược của chủ nghĩa đế quốc đối với Nhà nước cộng hoà non trẻ, thì tất
yếu phải tổ chức ra quân đội cách mạng làm trụ cột cho Chính phủ cách mạng
và quần chúng nhân dân để chống lại lực lượng quân sự đế quốc, với bộ máy

chiến tranh xâm lược hùng hậu. Thực tiễn thắng lợi cách mạng Tháng mười
Nga (1917) đã chứng minh sức mạnh của quần chúng công, nông trong đó lực


4

lượng vũ trang giữ vai trò nòng cốt dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônxêvích đã
bảo vệ thành quả cách mạng Tháng Mười.
Đó là sự kế thừa truyền thống kinh nghiệm lịch sử dựng nước và giữ
nước của ông cha ta, để bảo vệ đất nước phải vũ trang nhân dân xây dựng lực
lượng vũ trang làm nòng cốt với tư tưởng “trăm họ là binh”, “ngụ nông ư
binh” “tận dân vi binh”, là truyền thống “cả nước góp sức, toàn dân đánh
giặc”...Đó là những giá trị tư tưởng độc đáo nghệ thuật quân sự Việt Nam để
Đảng ta kế thừa phát triển xây dựng lực lượng vũ trang trong điều kiện lịch sử
mới.
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX đã từng kiểm nghiệm nhiều phong trào đấu tranh cách mạng
theo những khuynh hướng tư tưởng phong kiến, tư tưởng tiểu tư sản, tư tưởng
bạo động cách mạng...nhưng đều thất bại, đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm
quý báu. Sứ mệnh lịch sử đặt lên giai cấp công nhân, với đội tiên phong là
Đảng Cộng sản, cách mạng Việt Nam phải đi theo con đường cách mạng vô
sản phải tuân theo quy luật cách mạng bạo lực. Bởi muốn đánh thắng chủ
nghĩa đế quốc, thực dân và phong kiến phải dùng sức mạnh quần chúng nhân
dân có tổ chức để đánh đổ bộ máy khổng lồ của đội quân xâm lược nhà nghề
của đế quốc, thực dân và phong kiến tay sai phản động, phải xây dựng lực
lượng vũ trang mạnh, phải tổ chức ra quân đội cách mạng, lực lượng vũ trang
và quân đội cách mạng phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản chân
chính. “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác,
con đường cách mạng vô sản ”1 - Con đường mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh đã chọn, con đường đúng đắn, chân chính nhất, cách mạng và
khoa học nhất, con đường đã đưa dân tộc Việt Nam bước vào hàng ngũ những

dân tộc tiên phong trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
1

Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 314.


5

Thấu triệt chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa phát triển tinh hoa truyền
thống giữ nước của ông cha và kinh nghiệm cách mạng thế giới, bám sát thực
tiễn cách mạng Việt Nam, trong quá trình tìm đường cứu nước lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt
Nam; cùng với quá trình đó những tư tưởng về bạo lực cách mạng, về xây
dựng lực lượng vũ trang cách mạng, xây dựng quân đội nhân dân và nghệ
thuật quân sự Hồ Chí Minh từng bước được hình thành và phát triển. Khi viết
tác phẩm “Đường cách mệnh” (1927) Người chỉ rõ: cách mạng Việt Nam
trước hết là cách mạng giải phóng dân tộc nhằm đánh đổ bọn áp bức giành
độc lập tự do. Cách mạng giải phóng dân tộc có mối quan hệ với cách mạng
giai cấp, đánh đuổi bọn tư bản, địa chủ giải phóng công nông. Nó phải là cuộc
cách mạng đến nơi, đến chốn. Vì vậy, con đường duy nhất đúng đắn của cách
mạng Việt Nam chỉ có thể đi theo con đường cách mạng Tháng Mười Nga. Chỉ
đi theo con đường đó, con đường khởi nghĩa vũ trang dưới sự lãnh đạo của giai
cấp công nhân với Đảng Cộng sản chân chính thì nhân dân ta mới giành được độc
lập, tự do thực sự. Người chỉ rõ: “Cách mệnh thì phải đoàn kết dân chúng bị áp
bức để đánh đổ cả cái giai cấp áp bức mình, chứ không phải chỉ nhờ năm, bảy
người giết hai, ba anh vua, chín mười anh quan mà được”1. Theo Người: “dân khí
mạnh, thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại nổi”2- Đây là những
tư tưởng nền tảng để chỉ đạo tiến hành xây dựng lực lượng vũ trang của Đảng sau
này.
Hội nghị thành lập Đảng (từ 3 đến 7/ 2/ 1930) trong Chính cương vắn

tắt, Sách lược vắn tắt - Đó là Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, xác định mục
tiêu của cách mạng Việt Nam là: “ Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ
địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”3. Nhiệm vụ cách mạng là đánh đổ đế
quốc Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập, nhân dân
Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 247.
Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 4.

1 ,2
3


6

được tự do. Con đường đúng đắn để thực hiện mục tiêu đó là dùng sức mạnh
bạo lực quần chúng được tổ chức để đánh đổ đế quốc và phong kiến tay sai.
Thâu hết sản nghiệp lớn của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho chính
phủ công, nông, binh. Quốc hữu hoá toàn bộ đồn điền và đất đai của bọn đế
quốc và địa chủ phản cách mạng Việt Nam chia cho Nông dân nghèo. Phải tổ
chức ra quân đội công nông - Cương lĩnh đầu tiên của Đảng là ngọn đuốc soi
đường cho cách mạng Việt Nam.
Tiếp đó, tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ nhất (10/1930) đã thông
qua Luận cương Chính trị. Luận cương Chính trị đã kế thừa và có bước phát
triển một số nội dung so với Cương lĩnh đầu tiên đã xác định những vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam, (tuy còn một số hạn chế do những nguyên nhân
chủ quan và khách quan). Luận cương khẳng định: Con đường cơ bản để
giành chính quyền là con đường cách mạng bạo lực, tiến hành khởi nghĩa vũ
trang - nó không phải là một việc thường, nên phải tuân theo khuôn phép nhà
binh. do vậy phải “võ trang cho công nông”, phải “lập quân đội công nông”,
phải “tổ chức Đội Tự vệ công nông”, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng
phải trên cơ sở lực lượng quần chúng rộng lớn. Phải xây dựng vũ trang làm

nòng cốt để toàn dân đấu tranh giành chính quyền. Qua thực tiễn cao trào
cách mạng 1930 - 1931 phong trào của quần chúng tiến hành thị oai, bãi công,
mít tinh, kháng phu, kháng thuế, bãi thị các nơi, nhất là ở Nghệ An và Hà
Tĩnh. Thực dân Pháp khủng bố dã man, bắt bớ, tra tấn, tàn sát nhiều chiến sĩ
cách mạng, nhiều cán bộ đảng viên kiên trung của Đảng. Nhiều làng xã bị tàu
bay ném bom, bị lính lê dương đốt phá, chúng vào các sản nghiệp, xóm thợ,
vào làng bắt bớ nhân dân lao động. Chúng dìm các cuộc khởi nghĩa trong “biển
máu” hòng dập tắt phong trào cuộc cách mạng nên đã gây cho phong trào cách
mạng những tổn thất lớn.


7

Thực tiễn đòi hỏi cấp thiết ấy, tại Hội nghị Trung ương lần thứ hai
(3/1931) họp tại Sài Gòn đã nêu lên những nhiệm vụ cần kíp của Đảng, phê
phán kịch liệt xu hướng phản đối việc tổ chức Đội Tự vệ. Nghị quyết nhấn
mạnh: “Cần tổ chức Đội Tự vệ công nông để chống lại khủng bố trong lúc
đấu tranh”1. Tiếp đó, Trong Chương trình hành động của Đảng (6 /1932)
Trung ương Đảng chỉ rõ: “Cần phải lập ra Đội Tự vệ công nông để hộ vệ anh
em lao động lúc đình công, hội họp, thị uy, tuần hành và sắp đặt hàng ngũ
cho chỉnh tề, lo dự bị võ trang bạo động kỳ đánh đổ được quân áp bức” 1.
Như vậy, Đảng ta xác định xây dựng Đội Tự vệ là cần thiết hơn lúc nào
hết, là đòi hỏi cấp thiết của tình hình cách mạng, đó là sự vận dụng trung
thành sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đấu
tranh cách mạng và con đường giành chính quyền bằng bạo lực cách mạng.
Trong Nghị quyết chuyên đề về Đội Tự vệ sau khi phân tích tình hình
cách mạng vận động ngày càng có tính chất quần chúng của công nông binh,
thì khủng bố của kẻ thù càng dữ dội, cách mạng tranh đấu càng phải kịch liệt
thêm để chống lại khủng bố trắng và chuẩn bị lực lượng tốt cho cuộc vũ trang
cách mạng sau này: “Quân thù không khi nào chịu chết, luôn luôn dùng hết

phương pháp để làm nghiệt tinh thần cách mạng, trong bóp, trong tù, nhận
chiến sĩ cách mạng trong vũng máu, còn quần chúng cách mạng cũng không
bao giờ chịu trơ cho chúng giết, trái lại họ phải dùng đủ phương pháp mà đối
phó đặng giữ lấy thành luỹ cách mạng” 2. Bởi vậy, đối đầu với khủng bố trắng
vấn đề hậu vệ quần chúng hằng ngày và trong các cuộc đấu tranh là vấn đề
cần thiết quan trọng. Đảng Cộng sản phải có chủ trương và thực hành tổ chức
Tự vệ đội của công nông. Nghị quyết khẳng định: “hiện nay làn sóng cách
mạng mới đã tràn khắp Đông Dương, thì vấn đề Tự vệ đội là một vấn đề hiện
ĐCSVN, Nghị quyết quân sự của Đảng (1930 - 1960), Nxb QĐND, H. 1960, tr. 13.
ĐCSVN Văn kiện quân sự của Đảng, tập 1, Nxb QĐND, H. 1969, tr. 90
2
ĐCSVN, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 5, tr. 90
1
1


8

tại cần phải giải quyết ngay, hướng theo ánh sáng của kinh nghiệm cách mạng
vận động trong xứ và toàn thế giới”3
Nghị quyết đưa ra những quan điểm đầu tiên về xây dựng lực lượng vũ
trang, nêu rõ mục đích của việc tổ chức công nông cách mạng Tự vệ đội là để:
“a,Ủng hộ quần chúng hàng ngày;
b, Ủng hộ quần chúng trong các cuộc tranh đấu;
c, Ủng hộ các cơ quan cách mạng và chiến sĩ cách mạng của công nông;
d, Quân sự huấn luyện cho lao động cách mạng. Chống quân thù giai cấp
tấn công và làm cho vận động cách mạng phát triển thắng lợi”.3
Đội tự vệ công nông là một tổ chức có tính chất nửa quân sự của quần
chúng nhân dân lao động, trước hết và chủ yếu là của công nhân và nông dân,
do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Thành phần của Đội Tự vệ bao

gồm những người lao động có nhiệt tình, cương quyết không phân biệt gái
trai hoặc dân tộc, từ 18 tuổi trở lên. Đội tự vệ đặt dưới quyền chỉ huy thống
nhất của Trung ương Chấp uỷ của Đảng Cộng sản. Từ Trung ương Chấp uỷ
đến mỗi thành uỷ, tỉnh uỷ phải tổ chức ngay quân uỷ, quân uỷ này một bộ
phận thì lo quân dội vận động, một bộ phận thì lo tổ chức và chỉ huy Đội Tự
vệ. Đồng thời, các đảng bộ “phải đem đảng viên và đoàn viên cương quyết
nhất vào tự vệ và các cấp bộ chỉ huy của tự vệ, nhưng thế không phải là
không cho những hội viên thường hăng hái dự cuộc chỉ huy Tự vệ”1.
Về tổ chức biên chế, về tổ chức Tự vệ đội Nghị quyết xác định:
“a, Từ năm người đến chín người tổ chức thành một tiểu đội mỗi tiểu đội
có một người đội trưởng chỉ huy, tiểu đội lớn thì có một chánh, một phó đội
trưởng;
3
3

ĐCSVN, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 5, tr. 91.
ĐCSVN, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 5, tr. 91.

1 ,2

ĐCSVN, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 5, tr. 95.


9

b, Ba tiểu đội tổ chức một trung đội. Trung đội có một người chánh và một
người phó trung đội trưởng và một người đại biểu của Đảng Cộng sản chỉ huy .
c, Ba trung đội tổ chức thành một đại đội. Đại đội có một chánh, một phó
đại đội trưởng và một người đại biểu của Đảng Cộng sản chỉ huy.
d, Cứ theo phép: “tam tam chế” mà tổ chức lên tiểu đoàn, kế trung đoàn,

đại đoàn và tập đoàn. ”1. Những nguyên tắc tổ chức biên chế được xác định
trong nghị quyết Đội Tự vệ công nông thường trực thể hiện sự kế thừa nghệ
thuật quân sự của cha ông, tiếp thu những kinh nghiệm lịch sử quân sự thế
giới. Nguyên tắc “tam tam chế” là một nguyên tắc tổ chức quân sự tối ưu
nhất. Hiện nay trong quân đội ta nguyên tắc tổ chức biên chế đó tiếp tục được
vận dụng phát triển sáng tạo trong vấn đề tổ chức biên chế trong quân đội ta
(cả quân đội chuyển lực và bộ đội địa phương, cả dân quân du kích).
Nghị quyết quy định cụ thể trong các ban chỉ huy Đội Tự vệ ở cấp trung
đội và đại đội, bên cạnh đội trưởng và đội phó có một đại biểu của Đảng;
“Đội trưởng và đại biểu Đảng phải hợp tác mà chỉ huy” 2. Sự hành động hàng
ngày thì phục tùng Đảng bộ tương đương. Sự hành động quân sự chung thì
phục tùng thượng cấp tự vệ và quân uỷ tương đương của Đảng. Đội trưởng và
đại biểu Đảng có bất đồng ý kiến thì do thượng cấp quân uỷ giải quyết.
Nguyên tắc tổ chức của Đảng là tập trung dân chủ, tính chất của đội tự
vệ công nông là tổ chức nửa vũ trang của quần chúng lao động. Nghị quyết
chỉ rõ: “Kỷ luật tự vệ công nông cách mạng không phải là kỷ luật nhà binh,
nhưng cũng nghiêm khắc. Không thoả hiệp được vốn tính lười biếng, sụt sè
và bất tuân lệnh thượng cấp”1. Đặc biệt, trong bối cảnh kẻ thù đang khủng bố,
đàn áp tàn khốc, các tổ chức, Đảng và các đoàn thể quần chúng công hội,

1
1

ĐCSVN, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 5, tr. 95.
ĐCSVN, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 5, tr. 96


10

nông hội...đang hoạt động trong điều kiện khó khăn, gian khổ, đội viên tự vệ

phải giữ bí mật công tác của đội.
Về phát triển lực lượng vũ trang trên cơ sở xây dựng và phát triển lực
lượng chính trị và đấu tranh chính trị của quần chúng công nông. Đây là một
quan điểm quan trọng: “Vấn đề quan trọng là phải lập ra Đội Tự vệ công
nông”; “phải đem đảng viên, đoàn viên kiên quyết nhất vào đội tự vệ”; “đi đôi
với xây dựng lực lượng vũ trang là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng”. Như
vậy, từ yêu cầu của quần chúng, từ thực tiễn đấu tranh chính trị của quần
chúng mà Đảng ta phát triển xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng của
Đảng. Nghị quyết nhấn mạnh rằng, việc tổ chức Đội Tự vệ công nông là việc
hết sức quan trọng, là “ về nhiệm vụ cần kíp của Đảng Cộng sản”. Nghị quyết
chỉ rõ: “Không có một sản nghiệp nào, một làng nào có cơ sở của Đảng, của
Đoàn, của các hội quần chúng cách mạng mà không có tổ chức Đội Tự vệ” 1 Coi đây là khẩu hiệu hành động.
Về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang Nghị quyết về
Đội Tự vệ xác định: Đội Tự vệ công nông thường trực đặt dưới sự lãnh đạo
tuyệt đối, thống nhất của Đảng từ Trung ương tới cơ sở. Đây vừa là quan
điểm, vừa là nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang. Đảng ta xác định về
hình thức vũ trang, bên cạnh lực lượng vũ trang rộng rãi trong quần chúng,
phải tổ chức lực lượng tự vệ thường trực, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nghị quyết nêu rõ: “Công nông cách mạng Tự vệ đội là dưới quyền chỉ huy
thống nhất của Trung ương, quân uỷ của Đảng Cộng sản; lấy sản nghiệp và
làng hay xã làm cơ sở tổ chức”2.
Để bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện đó, Nghị quyết xác định cơ
chế lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang. Nghị quyết đã xác định rõ:
Bên cạnh đội trưởng, đội phó về quân sự phải có đại biểu của Đảng cộng sản
1
2

ĐCSVN, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 5, tr. 96.
ĐCSVN, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 5, tr. 94.



11

chỉ huy, đó là sự thể hiện phương diện về chính trị cho đội. Về mối quan hệ,
Đảng ta xác định đây là quan hệ giữa lãnh đạo và chỉ huy. Người chỉ huy phải
phục tùng cấp uỷ Đảng và chịu sự chỉ đạo cơ quan cấp trên, Nghị quyết nêu
rõ: “Các đội trưởng và đảng đại biểu phải hợp tác mà chỉ huy. Sự hành động
hàng ngày thì phục tùng đảng bộ tương đương. Sự hành động quân sự chung
thì phục tùng thượng cấp tự vệ, và quân uỷ tương đương của Đảng. Đội
trưởng và đại biểu đảng có bất đồng ý kiến thì do đảng uỷ tương đương hay
do thượng cấp quân uỷ giải quyết”3. Như vậy, những tư tưởng tập thể lãnh
đạo, thủ trưởng quân sự, thủ trưởng chính trị ( hình thành tên gọi thủ trưởng
quân chính) cùng hợp tác thực hiện - thể hiện quan hệ song trùng trong công
tác lãnh đạo, chỉ huy đã được hình thành. Thực hiện bằng cách ở mỗi trung
đội, đại đội, tiểu đoàn, hoặc trung đoàn, đại đoàn, tập đoàn, bên cạnh người
chánh, phó chỉ huy về quân sự phải có “một đại biểu của Đảng cộng sản chỉ
huy”. “Luôn luôn phải giữ quyền chỉ huy nghiêm ngặt của Đảng trong Tự vệ
thường trực là một tổ chức bán quân sự, muốn vậy phải đem đảng viên và
đoàn viên cương quyết nhất vào Tự vệ và các cấp bộ chỉ huy của Tự vệ,” 3. Mà
hiện nay trong quân đội thực hiện Nghị quyết số 51 - NQ/TW ngày 20 tháng 7
năm 2005 của Bộ Chính trị (khoá IX) về: “Tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh
đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với chế độ chính uỷ,
chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam” chính là sự kế thừa phát
triển những tư tưởng, cơ chế mà Nghị quyết Đội Tự vệ đã xác định. Trong
Điều 1, quy định trách nhiệm, quyền hạn, mối quan hệ làm việc của người chỉ
huy và chính uỷ, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam nói rõ:
“Người chỉ huy và chính uỷ, chính trị viên là hai người có trách nhiệm và
quyền hạn cao nhất trong đơn vị, được Đảng, Nhà nước, Quân đội giao cho

3


SĐD, tr. 95.
ĐCSVN, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 5, tr. 95.

3, 4


12

những quyền hạn trong phạm vi chức trách và chịu trách nhiệm trước pháp
luật”
Điều 2: “Người chỉ huy và chính uỷ, chính trị viên hoạt động dưới sự
lãnh đạo, chỉ đạo của cấp trên; sự lãnh đạo trực tiếp của cấp uỷ (chi bộ) cấp
mình. Dưới sự lãnh đạo của tập thể cấp uỷ (chi bộ) người chỉ huy và chính uỷ,
chính trị viên phân công tổ chức thực hiện theo chức trách”.
Về bản chất của Đội Tự vệ, Nghị quyết cũng khẳng định: “Luôn luôn
phải giữ tính chất cách mạng của Đội Tự vệ”1.
Xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng phải luôn luôn liên hệ mật thiết
với nhân dân, thực hiện dân chủ nội bộ và kỷ luật nghiêm minh, đó chính là
phản ánh bản chất cách mạng, bản chất của giai cấp công nhân của quân đội
cách mạng. Nghị quyết chỉ rõ: “Từ Trung ương Chấp uỷ tới Thành uỷ, Tỉnh
uỷ phải tổ chức ngay Quân uỷ, quân uỷ này một bộ phận thì lo quân đội vận
động, một bộ phận thì lo tổ chức và chỉ huy Đội Tự vệ” 2. Để có lực lượng
hùng hậu của Đội Tự vệ, để có cơ sở và địa bàn hoạt động; để tăng cường sức
mạnh Nghị quyết xác định: “Đội Tự vệ tổ chức và phát triển phải mật thiết
liên lạc với quần chúng, hằng ngày Tự vệ phải chăm lo tranh đấu, ngăn cản
bọn thù giai cấp nhũng nhiễu công nhân, nông dân. Đội Tự vệ phải hết sức
ủng hộ quần chúng lao động trong các cuộc bãi công, mít tinh, thị oai, kháng
sưu, kháng thuế, bãi thị...nâng cao tinh thần tranh đấu với quần chúng, khuếch
trương phong trào cách mạng, ủng hộ quần chúng cách mạng là trường học

Tự vệ đội để chuẩn bị điều kiện cần thiết sau này, sẽ hoàn thành những bộ
phận tiên tiến, chỉ huy trong các du kích đội, trong cuộc võ trang bạo động
giành chính quyền, trong Hồng quân của Nhà nước Xô viết công nông”1.
Về vấn đề dân chủ và kỷ luật, Nghị quyết nêu rõ về thành phần cơ cấu
giai cấp, độ tuổi: Thành phần của đội là những người lao động không phân
1 ,2
1 ,2

ĐCSVN, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 5, tr. 95, 96
ĐCSVN, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 5, tr. 95.


13

biệt gái, trai, dân tộc, từ 18 tuổi trở lên đều được tham gia thể hiện sự bình
đẳng giai cấp, bình đẳng dân tộc, bình đẳng giới tính và phù hợp với độ tuổi
trưởng thành. Xác định trình độ, mức độ tính chất dân chủ, kỷ luật của Tự vệ
đội: “Kỷ luật Tự vệ công nông cách mạng không phải kỷ luật nhà binh, nhưng
cũng nghiêm khắc. Không thoả hiệp với được với tính lười biếng, sụt sè và
bất tuân mệnh lệnh thượng cấp, Tự vệ đội viên có quyền và cần phải thảo luận
rộng rãi những vấn đề thuộc về phương diện ủng hộ cách mạng vận động, lúc
hành động phải tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh; phải giữ bí mật, tiểu đội nào
biết tiểu đội ấy; thượng cấp với hạ cấp trực tiếp quan hệ với nhau chỉ do
những người phụ trách của các cấp ấy”2.
Đây là sự phản ánh đánh giá và đạt ra yêu cầu “vừa tầm” đối với Đội Tự
vệ, đồng thời rất chặt chẽ về mặt nguyên tắc, tính chất hoạt động của Tự vệ đội.
Tư tưởng quan trong Nghị quyết về Đội Tự vệ là vấn đề vũ trang trong
quần chúng nhân dân. Nghị quyết chỉ rõ:
“a, Nếu không huấn luyện quần chúng về đường quân sự;
b, Nếu không sớm liệu dự bị võ trang quần chúng thì cách mạng không

thành công được”3. Đồng thời, Nghị quyết chỉ ra nội dung huấn luyện quân sự
cho quần chúng là:
“a, Huấn luỵên cho đồng chí, cho các Đội Tự vệ công nông biết dùng các
mon binh khí thông thường như súng lục, súng trận, liên thanh, tạc đạn; biết
chiến thuật đánh nhau trong thành phố, chiến thuật du kích chiến tranh,...
b, Huấn luyện cho các Đội Tự vệ biết chức trách chính trị của mình.
c, Phái người chiến sĩ chắc chắn vào công tác cách mạng trong quân đội
đế quốc, trong các tổ chức phản động có tính chất quân sự hay bán quân sự.
d, Trong, sau những cuộc mít tinh, cuộc thị oai, nếu có hoàn cảnh thuận
tiện thì kéo quần chúng tập đi đứng cho có hàng ngũ, tập cách thức tránh tàu
3

ĐCSVN, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 5, tr. 93


14

bay, tránh tạc đạn, liên thanh,...”1. Nghị quyết nêu rõ, đồng thời huấn luyện
quần chúng về mặt quân sự và dự bị võ trang quần chúng thì phải kịch liệt
đảo đảo xu hướng manh động, những xu hướng chỉ lo làm súng, tạc đạn mà
quên công tác hằng ngày trong quần chúng lao động và Nghị quyết nhấn
mạnh: “Nhiệm vụ quân sự huấn luyện quần chúng là quan trọng, nhưng phải
chú trọng hơn hết là thâu phục quần chúng theo ảnh hưởng cộng sản” 2 - Thể
hiện rõ tư tưởng coi trọng công tác giáo dục tuyên truyền công tác vận động
quần chúng, thể hiện rõ tư tưởng: “Chính trị trọng hơn quân sự!”
Cùng với chủ trương vũ trang toàn dân, Đảng đã hình thành tư tưởng xây
dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân vững mạnh. Đó là phải vũ trang công
nông và xây dựng quân đội công nông làm cơ sở để phát triển lên thành đội
quân chủ lực, đội quân chính quy theo kịp với sự phát triển trưởng thành của
cách mạng. Nghị quyết đề ra: “Công nông Tự vệ đội phân biệt với Du kích đội, nó

cũng không phải là Hồng quân; Hồng quân, Du kích đội không phải bao giờ muốn tổ
chức thì tổ chức được ngay; Tự vệ đội càng mạnh thì tức là có điều kiện thuận tiện để
sau này tổ chức du kích chiến tranh, vũ trang bạo động, Hồng quân” 3. Như vậy, để tổ
chức được Du kích đội, tiến tới xây dựng dược lực lượng vũ trang cách mạng phải
trên cơ sở vũ trang toàn dân, phải thành lập được tự vệ đội ở khắp mọi nơi.
Nghị quyết chuyên đề về Đội Tự vệ chính là sự thể hiện ngay từ đầu
Đảng ta đã xác định rõ tính cần thiết phải tổ chức xây dựng lực lượng vũ
trang cách mạng, trước hết là xây dựng đội quân công nông, xác định rõ mục
đích, hình thức, nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang, mà ban đầu là xây
dựng tổ chức vũ trang Đội Tự vệ, đây là một tổ chức có tính chất nửa quân sự
của quần chúng lao động, chủ yếu là của công nông, do Đảng của giai cấp
công nhân tổ chức lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện. Nghị quyết đã khẳng định
ĐCSVN, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 5, tr. 94.
ĐCSVN, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 5, tr. 91, 92

1, 2
3


15

rõ bản chất cách mạng của Đội Tự vệ, thông qua những quan điểm về tổ chức,
hoạt động, lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang.
Quan điểm về nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, về mọi mặt.
Đây là quan điểm cơ bản, là nguyên tắc bất di, bất dịch, nếu không thực hiện
nguyên tắc này sẽ làm cho lực lượng vũ trang xa rời bản chất cách mạng. Nghị
quyết khẳng định quyền lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với lực lượng vũ
trang, đó là sự lãnh đạo chặt chẽ, nghiêm ngặt, trực tiếp thống nhất vào các cơ
quan quân uỷ của Đảng. Đảng cũng đặt vấn đề phải giáo dục chính trị tư tưởng,
giáo dục chức trách, nhiệm vụ, chống xu hướng manh động... “Công nông cách

mạng Tự vệ đội là dưới quyền chỉ huy thống nhất của Trung ương, quân uỷ của
Đảng Cộng sản”1. “Mỗi cấp bộ Đảng phải có phái đồng chí chuyên môn lo tổ
chức đội tự vệ cách mạng của công nông theo như sách lược của Đảng”2.
Nghị quyết về Đội Tự vệ thể hiện tư tưởng đấu tranh phê phán, tính
chiến đấu cao của Đảng, biểu hiện rõ lập trường của giai cấp vô sản thẳng
thắn phê phán những quan điểm nhận thức sai trái như cho rằng: “Tổ chức Tự
vệ đội chỉ tạm thời ngay trong các cuộc tranh đấu, rồi giải tán sau cuộc tranh
đấu”1 là sai, Nghị quyết giải thích rõ ràng khoa học có sức thuyết phục cao:
“Vì Đội Tự vệ chẳng những cần phải hậu vệ quần chúng hàng ngày mà còn
cần phải tập luyện, chớ để cuộc tranh đấu mới tổ chức thì chậm trễ, có hại, tự
vệ hành động không thống nhất, thông thạo, không lanh, kế hoạch không tinh
tường, nhiệm vụ không thấu rõ và kỷ luật không nghiêm chỉnh”2.
Hoặc tư tưởng chỉ nhấn mạnh đến vai trò của Tự vệ đội thường trực,
không coi trọng đến công tác giáo dục tuyên truyền quần chúng, công tác vũ
trang cho quần chúng: “chỉ tổ chức Tự vệ đội thường trực mà không kéo thêm
quần chúng tham gia thì cũng là sai nữa”. Bởi vì, nếu như vậy Tự vệ tách khỏi
SĐD, tr, 94.
SĐD, tr. 96.
1 , 2, 3
ĐCSVN, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 5, tr. 92.
1
2


16

quần chúng “đứng xa quần chúng, ủng hộ quần chúng mà không được quần
chúng giúp sức và thêm tinh thần cho” 3. Nghị quyết đã luận giải mối quan hệ
chặt chẽ giữa tự vệ với quần chúng nhân dân - đây chính là cơ sở nền tảng
ban đầu để xây dựng mối quan hệ bản chất, truyền thống “máu- thịt” giữa

quân với dân mà hơn 60 năm qua Quân đội nhân dân Việt Nam luôn giữ vững
phát huy truyền thống tốt đẹp đó. Mối quan hệ quân - dân là cơ sở, là cội
nguồn sức mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tư tưởng hình thành lực lượng ba thứ quân,theo Nghị quyết: “Tổ chức tự
vệ, một mặt phải có các đội thường trực, cương quyết, có thao luyện, biết
mình, biết cảnh, biết quân thù, có hệ thống, chỉ huy cứng cáp, hằng ngày bảo
hộ quần chúng, đến các cuộc tranh đấu của quần chúng ”- Đây chính là tư
tưởng quan trọng trong xây dựng quân đội thường trực cách mạng chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại của quân đội tư hiện nay; đồng thời phải coi
trọng xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận an ninh nhân dân,
xây dựng “thế trận lòng dân vững chắc” của Đảng ta hiện nay.
Nếu thoát khỏi sự liên hệ mật thiết với quần chúng thì không thể có lực
lượng hỗ trợ, nguồn kế tiếp, không thể có hậu phương vững chắc để nuôi
quân, bồi dưỡng chăm lo cho “quân hùng, tướng mạnh”.
Nghị quyết phê phán và luận giải rất biện chứng về mối quan hệ giữa
con người với vũ khí, về vai trò của vũ khí đối với đội tự vệ. Tư tưởng: “Nói
rằng: cần phải có súng, tạc đạn mới tổ chức được Đội Tự vệ là sai; tự vệ chưa
phải Hồng quân, hộ vệ quần chúng chưa phải là luôn luôn xung đột với quân
đội địch nhân. Khi có súng, tạc đạn mới tổ chức tự vệ thì lúc chưa có không
bảo vệ hộ quần chúng sao? mà nói rằng tuyệt nhiên không cần binh khí thì
cũng là sai nữa, phải có binh khí ít nhiều, càng nhiều càng tốt để thao luyện,
để lúc điều kiện cần thiết phải xung đột với quân thù, bảo tồn tính mạng quần


17

chúng, của chiến sĩ, giữ gìn cơ quan cách mạng, hộ vệ các cuộc cách mạng
tranh đấu”1.
Tóm lại: Nghị quyết về Đội Tự vệ của Đại hội lần thứ nhất của Đảng có
một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc hình thành những tư tưởng quân sự,

quan điểm về xây dựng lực lượng vũ trang. Đây là những quan điểm tư tưởng
đầu tiên rất cơ bản của Đảng về vũ trang quần chúng và xây dựng lực lượng vũ
trang cách mạng và quan điểm thực tiễn trong việc xây dựng lực lượng vũ trang.
Nghị quyết Đội Tự vệ đã góp phần chỉ đạo xây dựng lực lượng cách mạng.
Nghị quyết Đội Tự vệ làm cơ sở để Đảng ta chỉ đạo xây dựng lực lượng
vũ trang cách mạng ngày càng lớn mạnh, từ những đội tự vệ, đội du kích mà
phát triển thành các cứu quốc quân, thành lực lượng vũ trang ba thứ quân
ngày càng lớn mạnh cả số lượng và chất lượng để tiến hành cuộc tổng khởi
nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công; góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân
củng cố, giữ vững chính quyền cách mạng trong điều kiện thù trong, giặc
ngoài; đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước; giữ vững ổn định, hoà bình để cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Nghị quyết còn là cơ sở để Đảng ta phát triển quan điểm Đảng lãnh đạo
“tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” đối với tự vệ thành nguyên tắc bất di, bất
dịch của Đảng đối với lực lượng vũ trang hiện nay. Tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng là tăng cường bản chất giai cấp công nhân trong lực lượng vũ trang,
làm cho lực lượng vũ trang luôn trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc,
với nhân dân; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ kỹ - chiến thuật, năng lực
công tác, xây dựng ý chí quyết tâm, mưu trí, sáng tạo, vì nhân dân mà chiến
đấu, vì nhân dân mà phụ vụ, thực sự là lực lượng nòng cốt cho phong trào
toàn dân đánh giặc. Chống được quan điểm “phi chính trị hoá lực lượng vũ
trang” của các thế lực thù địch.
1

ĐCSVN, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 5, tr. 92, 93


18

Ngày nay, do yêu cầu phát triển của tình hình và nhiệm vụ xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cách
mạng nước ta đang đứng trước những thời cơ vận hội đồng thời có những
nguy cơ thách thức mới. Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo thu được nhiều thành tựu quan trọng có ý nghĩa lịch sử; thế và lực nước ta
lớn mạnh lên nhiều. Tuy nhiên, đất nước ta còn phải đối mặt với nhiều thách
thức đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, nhiều vấn đề bức
xúc như mặt trái của kinh tế thị trường tác động sâu sắc đến lĩnh vực chính trị,
tư tưởng, văn hoá, đạo đức; tệ quan liêu tham nhũng, suy thoái về chính trị,
đạo đức của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Các thế lực thù địch
đang tìm mọi cách để phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, vai trò lãnh đạo của Đảng, chống lại sự phát trển của đất nước theo con
đường xã hội chủ nghĩa, đòi “phi chính trị hoá”...Những vấn đề đó tác động
trực tiếp thường xuyên đến quá trình xây dựng quân đội.
Quán triệt vận dụng và phát triển những tư tưởng quân sự của Đảng thể
hiện trong Nghị quyết về Đội Tự vệ (3/1935) đứng trước tình hình thực tiễn
đòi hỏi của đất nước, những tác động của tình hình khu vực và thế giới. Phát
huy truyền thống hơn 60 năm xây dựng, trưởng thành và chiến thắng vẻ vang
của Quân đội nhân dân Việt Nam, đã lập nên những chiến công hiển hách,
xây đắp nên truyền thống tốt đẹp của đội quân cách mạng từ nhân dân mà ra,
vì nhân dân mà chiến đấu, trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc, với
nhân dân. Bởi vậy, trong giai đoạn hiện nay quân đội cần tiếp tục coi trọng và
thực hiện tốt một số nội dung chủ yếu sau:
Một là, nhận thức đúng đắn những vấn đề có tính nguyên tắc trong xây
dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản, các giá trị truyền thống của dân
tộc và đòi hỏi thực tiễn của tình hình cách mạng để xây dựng quân đội cách


19

mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại đáp ứng yêu cầu đất nước

trong giai đoạn hiện nay.
Hai là, củng cố và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, mà trực tiếp là Đảng uỷ Quân sự
Trung ương đối với quân đội. Thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng bộ
Quân đội trong sạch vững mạnh là nhân tố cơ bản quyết định chất lượng, hiệu
quả xây dựng quân đội, đặc biệt là chất lượng xây dựng quân đội về chính trị.
Sự lãnh đạo của Đảng quyết định định hướng cơ bản nhất để xây dựng quân đội
về mọi mặt, là nhân tố hàng đầu để cán bộ, chiến sĩ giữ vững tăng cường bản chất
giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc, bản chất cách mạng của Đảng.
Từ lịch sử cũng như lôgích hiện tại khẳng định rằng: Sự lãnh đạo tuyệt
đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam là vấn đề cốt lõi trong
xây dựng quân đội; nhất là trong điều kiện hiện nay khi toàn quân đang triển
khai thực hiện Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị về: “Tiếp tục hoàn thiện cơ chế
lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế
độ chính uỷ, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam” Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã dạy: “ Chính uỷ và đoàn trưởng phải phục tùng sự lãnh đạo cấp
uỷ, chính uỷ phải chịu trách nhiệm trước cấp uỷ về công tác đảng, công tác
chính trị; đoàn trưởng chịu trách nhiệm trước cấp uỷ về công tác quân sự, hai
bên phải phối hợp mật thiết với nhau”1.
Ba là, thường xuyên coi trọng nâng cao vai trò đội ngũ cán bộ chính trị,
cơ quan chính trị và chất lượng công tác đảng, công tác chính trị trong Quân
đội nhân dân Việt Nam, tập trung mọi cố gắng nâng cao chất lượng nghiên
cứu lý luận về xây dựng quân đội trong thời kỳ mới nhất là vấn đề xây dựng
quân đội về chính trị; thực hiện hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng;

1

Tổng Cục Chính trị, tổ chức sự lãnh đạo của Đảng trong QĐNDVN, tập 1, Nxb QĐND, H. 1974, tr. 178.



20

đấu tranh không khoan nhượng với các quan điểm, tư tưởng thù địch sai trái;
Đặc biệt là luận điểm đòi: “Phi chính trị hoá” quân đội.
Bốn là, nâng cao vai trò, trình độ mọi mặt đội ngũ cán bộ, kết hợp chặt
chẽ với không ngừng mở rộng dân chủ nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp giữa
lãnh đạo chỉ huy và phong trào quần chúng trong đơn vị.
Năm là, kết hợp chặt chẽ việc xây dựng quân đội với nhiệm vụ phát
triển kinh tế xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo đảm môi trường hoà
bình, ổn định để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và mở rộng hợp
tác quốc tế và khu vực trong điều kiện mới. Khi Việt Nam đã chính thức trở
thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), tham gia tích cực
vào quá trình hội nhập toàn cầu hoá kinh tế thế giới.
Lịch sử - hiện tại - tương lai sự liên kết gắn bó chặt chẽ, là cội nguồn sức
mạnh để Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp tục vững bước trưởng thành và lớn
mạnh xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng và nhân dân. Coi trọng và phát
huy những truyền thống lịch sử, những tư tưởng quân sự đầu tiên trong Nghị
quyết chuyên đề về Đội Tự vệ (3/1935) là một đóng góp nhỏ vào quá trình
xây dựng và phát triển quân đội ta trong giai đoạn hiện nay.

Tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó
lường. Dưới tác động của chủ nghĩa đế quốc các mâu thuẫn về dân tộc, sắc
tộc, tôn giáo, tranh chấp quyền lực, các cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ
trang, hoạt động khủng bố diễn ra ở nhiều nơi. Khu vực châu Á - Thái Bình
Dương và Đông Nam Á là khu vực có nhiều lợi ích chiến lược tạo nên sự
tranh chấp phức tạp giữa các nước lớn. Đây là khu vực tiềm ẩn những nhân tố
gây mất ổn định. Các thế lực thù địch vẫn thực hiện âm mưu “diễn biến hoà
bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”
hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta.



21

Trước những diễn biến phức tạp của tình hình và yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay có bước
phát triển mới đặt ra yêu cầu phải nâng cao chất lượng quân đội luôn vững
mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Đảng ta xác định tăng cường xây dựng
quốc phòng an ninh là tất yếu khách quan, xây dựng quân đội nhân dân, công
an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, xây dựng
nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với xây
dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân vững mạnh, đảm bảo
đủ sức ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù
địch, không để bị động, bất ngờ. Quân dội là lực lượng nòng cốt, là công cụ
bạo lực sắc bén của Đảng, Nhà nước để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự nghiệp đổi mới và
lợi ích quốc gia, dân tộc. Thực hiện nhiệm vụ không chỉ đối phó với thù trong
giặc ngoài mà phải đấu tranh ngăn chặn hoạt động “diễn biến hoà bình” của
các thế lực thù địch và nguy cơ “tự diễn biến” từ bên trong. Ngăn ngừa không
để xảy ra chiến tranh vũ trang, bảo vệ môi trường hoà bình, ổn định cho công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Đồng thời, quân đội cũng là lực lượng
quan trọng trực tiếp tham gia phát triển kinh tế xã hội đất nước. Để thực hiện
tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, quân đội phải được xây dựng ngày một
vững mạnh về mọi mặt, theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại, thực sự là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị, lực
lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, của Nhà nước và nhân dân.
Không ngừng nâng cao bản lĩnh, tri thức và khả năng lãnh đạo chỉ huy thực
hành chiến đấu để đánh thắng địch trong mọi tình huống. Do đó phải nâng
cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội trong giai đoạn
hiện nay là tất yếu khách quan, là một yêu cầu bức thiết, một nhiệm vụ quan
trọng có ý nghĩa cả trước mắt và lâu dài. Khâu then chốt để nâng cao chất



22

lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội là thường xuyên tăng
cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội,
đây là nguyên tắc và biện pháp cơ bản đảm bảo cho quân đội có chất lượng
tổng hợp, sức mạnh chiến đấu cao. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với quân đội trước hết là giữ vững tăng cường bản chất giai cấp
công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc. Làm cho quân đội luôn trung
thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân. Tập trung xây dựng các tổ chức
đảng trong quân đội trong sạch vững mạnh, có trình độ lãnh đạo chính trị và
sức chiến đấu ngày càng cao; luôn luôn thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng,
nhạy bén, sắc sảo trong mọi tình huống. Nhất là trong giai đoạn cách mạng
hiện nay, cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc đang diễn ra quyết liệt,
phức tạp. Kết hợp xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh với xây
dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, gắn xây dựng cấp uỷ với xây dựng đội ngũ
cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ chủ trì có năng lực chỉ huy, lãnh đạo,
thực hiện các Nghị quyết của Đảng vững vàng trong mọi hoàn cảnh, xử lý
đúng đắn khôn khéo trong mọi tình huống phức tạp, dũng cảm bảo vệ chân lý,
đấu tranh chống các quan điểm thù địch sai trái muốn thực hiện “phi chính trị
hoá” quân đội, thực chất là muốn làm cho quân đội xa rời sự lãnh đạo của
Đảng, xa rời mục tiêu chiến đấu, làm cho quân đội mất phương hướng. Xây
dựng, bổ sung cơ chế lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với
quốc phòng, an ninh. Thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với chế độ
chính uỷ, chính trị viên, tăng cường công tác đảng, công tác chính trị trong
quân đội.
Để góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu của quân đội,
nâng cao sức mạnh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đòi hỏi mọi
người, mọi cấp, mọi ngành, mọi lực lượng phải nâng cao nhận thức trách

nhiệm đối với nhiệm vụ xây dựng quân đội, xây dựng lực lượng vũ trang, xây


23

dựng được sức mạnh tổng hợp của đất nước, xây dựng cơ sở chính trị, xây
dựng thế trận lòng dân vững chắc, tăng cường tiềm lực chính trị tinh thần với
tăng cường tiềm lực kinh tế, tiềm lực khoa học kỹ thuật, công nghệ, nâng cao
chất lượng kết hợp phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng, an ninh. Xây
dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững chắc. Tăng cường công tác
giáo dục quốc phòng cho nhân dân, cho học sinh, sinh viên, bồi dưỡng kiến
thức quốc phòng cho cán bộ nhất là cán bộ chủ chốt của các cấp các ngành,
hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Kiên quyết
làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ.
Coi nhiệm vụ bảo đảm an ninh chính trị nội bộ, đơn vị. Mỗi quân nhân trong
quân dội phải tích cực học tập, rèn luyện nâng cao trình độ giác ngộ, bản lĩnh
chính trị, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, có ý chí quyết tâm,
vững vàng trong mọi hoàn cảnh, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ
được giao.
Ngày nay, đất nước đã hoàn toàn độc lập, chúng ta đang trong quá trình
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cách mạng đã thu được
những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, chính trị
ổn định, kinh tế tăng trưởng cao, quốc phòng, an ninh được giữ vững, đời
sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội của chúng ta đang đứng trước những thuận lợi cơ bản, tuy nhiên, chúng
ta cũng phải đương đầu với không ít những khó khăn, thách thức. Đặc biệt sau
khi các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, chủ nghĩa xã
hội lâm vào khủng hoảng, thoái trào, phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế gặp khó khăn nghiêm trọng. Trong khi đó, chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là
đế quốc Mỹ đang trong quá trình điều chỉnh, thích nghi, bước đầu chiếm ưu

thế. Chúng ra sức chống phá các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, trong đó có
Việt Nam, với âm mưu, thủ đoạn hết sức thâm độc, sảo quyệt như “diễn biến


24

hoà bình”, bạo loạn lật đổ, can thiệp vũ trang... nhằm xoá bỏ chủ nghĩa xã hội,
nhằm thiết lập trật tự thế giới mới dưới sự chỉ huy của Mỹ. Bên cạnh đó, các
thế lực phản động trong và ngoài nước, được Mỹ hậu thuẫn, ra sức chống phá
cách mạng, gây cho chúng ta không ít những khó khăn.
Thời kỳ mới đạt ra yêu cầu, nhiệm vụ củng cố quốc phòng, giữ vững an
ninh, bảo vệ Tổ quốc hết sức nặng nề. Từ đó đặt ra cho Đảng phải không
ngừng củng cố, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, đáp ứng
yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Chính yêu cầu bảo vệ Tổ quốc
hiện nay đặt ra phải xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, có
như vậy mới đánh thắng mọi cuộc chiến tranh xâm lược, giữ vững ổn định
chính trị, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng. Bảo vệ Tổ quốc hiện nay
không chỉ đơn thuần là chống chiến tranh xâm lược, mà nội dung đòi hỏi hết
sức rộng rãi. Điều đó đặt ra cho Đảng phải không ngừng đổi mới tư duy trong
lĩnh vực quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Điều này đã được Đảng ta xác
định trong các kỳ Đại hội như Đại hội Đảng VII, VIII, IX, đặc biệt đến Đại
hội X, Đảng ta đưa ra nội dung bảo vệ Tổ quốc bao gồm: “Bảo vệ vững chắc
Tổ quốc, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính
trị, an ninh kinh tế, văn hoá - tư tưởng và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ
cương, an toàn xã hội; giảm tội phạm, tai nạn, tệ nạn; góp phần giữ vững ổn
định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu,
hoạt động thù địch, không để bị động, bất ngờ”.
Từ yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đặt ra cho
Đảng phải tiếp tục chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh,

trong đó quân đội là lực lượng nòng cốt. Trên cơ sở nghị quyết đội tự vệ,
cũng như các văn kiện, nghị quyết của Đảng trong suốt quá trình Đảng lãnh
đạo, xây dựng lực lượng vũ trang để Đảng có sự chỉ đạo đúng đắn nhằm xây


25

dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới. Để đáp bảo cho lực lượng vũ
trang, mà nòng cốt là quân đội nhân dân vững mạnh toàn diện, điều trước tiên
đặt ra cho Đảng là phải chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh về
mặt chính trị. Đây là vấn đề thuộc về nguyên tắc, nó được bắt nguồn từ
nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, coi công
tác Đảng, công tác chính trị là bộ phận cấu thành, có tính chất tất yếu của sự
nghiệp xây dựng quân đội, xây dựng lực lượng vũ trang. Đây cũng là vũ khí
mạnh mẽ của Đảng trong việc nâng cao năng lực và khả năng chiến đấu của
lực lượng vũ trang. Bởi như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định:
“Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”1. Do
đó, việc xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh về quân sự phải gắn với xây dựng
về mặt chính trị. Xây dựng lực lượng vũ trang về mặt chính trị, bảo đảm cho lực
lượng vũ trang vững mạnh về chính trị, tư tưởng, có bản lĩnh chính trị vững vàng,
luôn xác định tốt nhiệm vụ, trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân
trong mọi tình huống.
Nâng cao chất lượng và khả năng chiến đấu của lực lượng vũ trang, bảo
đảm cho lực lượng vũ trang ba thứ quân có chất lượng chiến đấu cao, khả
năng sẵn sàng chiến đấu, trình độ tác chiến trong điều kiện chiến tranh hiện
đại, xây dựng cách đánh phù hợp, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận
quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững mạnh. Vấn đề
này tại Đại hội X, Đảng đã khẳng định: “Điều chỉnh cơ bản biên chế tổ chức,
trang bị của các lực lượng vũ trang nhân dân, bảo đảm lâu dài để xây dựng

quân đội và công an theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại,
thực sự là lực lượng nòng cốt của sức mạnh quốc phòng, an ninh. Nâng cao
chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu để lực lượng vũ trang thực sự là lực
1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, H. 1995, tr. 318.


×