Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO HỎI đáp tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.85 KB, 108 trang )

1

HỎI ĐÁP
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Câu 1: Sau khi tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Ái Quốc
đã chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam như thế nào?
Trả lời:
Với tinh thần yêu nước nồng nàn, quyết tâm tìm đường cứu nước,
Nguyễn Ái Quốc tiếp cận với chủ nghĩa Mác – Lênin và trở thành một người
cộng sản. Tiếp thu lý luận Mác – Lênin, Người nhận rõ yêu cầu trước hết đối
với cách mạng cần có Đảng cách mạng. Vì vậy, Nguyễn Ái Quốc đã xúc tiến
công tác chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của một
Đảng Cộng sản ở Việt Nam (1920 – 1930).
- Về chính trị: sau khi tiếp cận chủ nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Ái
Quốc tích cực nghiên cứu, học tập nắm vững lý luận Mác – Lênin và từng
bước xúc tiến việc truyền bá lý luận Mác – Lênin về Việt Nam để thức tỉnh
đồng bào trong nước. Với một động cơ đúng đắn, với phương pháp truyền bá
hết sức sáng tạo, Người truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin về Việt Nam thông
qua các tài liệu, sách báo do chính Người và cộng sự của Người viết. Với
cách trình bày dung dị, ngắn gọn, dễ hiểu, các tài liệu tuyên truyền của Người
giúp cho đa số nhân dân ta rất dễ tiếp thu. Nguyễn Ái Quốc còn thông qua các
tổ chức, cá nhân những người tri thức yêu nước, sử dụng họ làm cầu nối để
truyền bá rộng rãi lý luận Mác – Lênin vào Việt Nam. Đồng thời Người đã
vận dụng sáng tạo lý luận Mác – Lênin, hình thành những vấn đề cơ bản về
đường lối cách mạng Việt Nam và tuyên truyền rộng rãi trong dân chúng;
giác ngộ giai cấp công nhân nhận rõ vai trò sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt
Nam và sự cần thiết phải tổ chức một chính đảng của mình; thức tỉnh toàn dân
nhận rõ kẻ thù cần đánh đổ, nhận rõ con đường giải phóng dân tộc theo con
đường cách mạng vô sản, dưới sự lãnh đạo của một Đảng Cộng sản chân



2

chính; bằng lực lượng của toàn dân đoàn kết; bằng phương pháp bạo lực cách
mạng và sự gắn kết chặt chẽ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế
giới… những vấn đề cơ bản dó được thể hiện trong nhiều tác phẩm nổi tiếng
của Người như: Bản án chế độ thực dân Pháp, Đường Cách mệnh v .v.
- Về tư tưởng: Người xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin về Việt
Nam, khẳng định tính đúng đắn, cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác –
Lênin; khẳng định vai trò là hệ tư tưởng dẫn đường cho cách mạng Việt Nam.
Tích cực đấu tranh chống lại những khuynh hướng tư tưởng lạc hậu,phản
động như tư tưởng phong kiến, tư tưởng cải lương và các khuynh hướng tư
tưởng phản động khác. Làm cho tư tưởng Mác – Lênin dần dần chiếm địa vị
chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân ta.
- Về tổ chức: cùng với sự chuẩn vị về chính trị và tư tưởng là quá trình
Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị về tổ chức cho sự ra đời của Đảng. Đó là việc
Người tích cực, chủ động chuẩn bị, đào tạo đội ngũ cán bộ cho Đảng, cho
cách mạng. Bằng việc mở những lớp đào tạo, huấn luyện cán bộ do chính
Người tổ chức và giảng dạy, huấn luyện cho những thanh niên yêu nước Việt
Nam ở Quảng Châu (Trung Quốc). Kết quả từ năm 1925 đến 1927 Nguyễn Ái
Quốc đã huấn luyện đào tạo được hàng trăm cán bộ, tích cực chuẩn bị về mặt
nhân sự, cốt cán cho Đảng và cách mạng. Người còn chọn những học viên
xuất sắc gửi đi đào tạo tiếp ở Liên Xô, Trung Quốc, nhiều người sau này trở
thành những lãnh tụ xuất sắc của Đảng như Trần Phú, Lê Hồng Phong v.v…
Nguyễn Ái Quốc còn tổ chức ra nhóm bí mật 9 người và chọn 5 người trong
đó làm đảng viên dự bị của Cộng sản Đảng.
Đặc biệt, đến tháng 6/1945, Nguyễn Ái Quốc đã chính thức thành lập
“Hội Việt Nam cách mạng thanh niên”, một tổ chức tiền thân của Đảng Cộng
sản. Với mục đích rõ ràng, điều lệ tổ chức chặt chẽ, hoạt động hết sức tích
cực, và có báo “thanh niên” là cơ quan ngôn luận của Hội, Hội Việt Nam cách

mạng thanh niên đã góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng Việt Nam phát


3

triển mạnh mẽ (đặc biệt là từ sau phong trào “vô sản hoá” của Hội). Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên xứng đáng vai trò là một tổ chức tiền thân của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Kết quả của sự chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức của Nguyễn
Ái Quốc góp phần quan trọng thúc đẩy phong trào cách mạng Việt Nam phát
triển mạnh mẽ vào cuối những năm 1920: phong trào công nhân chuyển dần
từ tự phát để lên tự giác, phong trào yêu nước chuyển lập trường từ lập trường
dân tộc sang yêu nước theo lập trường giai cấp vô sản (xã hội chủ nghĩa). Sự
phát triển mạnh mẽ của phong trào Việt Nam dẫn đến sự ra đời 3 tổ chức
cộng sản ở Việt Nam (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng
và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) vào cuối 1929 đầu năm 1930.
Trước đòi hỏi về sự lãnh đạo thống nhất của một Đảng Cộng sản đối
với cách mạng Việt Nam, nhận chỉ thị của Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc
bằng uy tín và năng lực của mình đã tổ chức thành công Hội nghị hợp nhất ba
tổ chức Cộng sản để lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930).
Nhờ sự chuẩn bị đầy đủ các yếu tố về chính trị, tư tưởng và tổ chức của
Nguyễn Ái Quốc, nên Đảng ta ra đời đã có ngay cương lĩnh chính trị, đường
lối cách mạng đúng đắn, tư tưởng thống nhất, kỷ luật tổ chức chặt chẽ. Đó là
cơ sở đảm bảo cho Đảng tồn tại, phát triển vững mạnh, đảm đương xuất sắc
vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam tới đích cuối cùng.
Câu 2: Vai trò của Nguyễn Ái Quốc với việc thành lập tổ chức tiền
thân của Đảng – Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (6/1925) ?
Trả lời:
Sau khi bắt gặp chủ nghĩa Mác – Lênin, khẳng con đường cứu nước
đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc đã ra sức học tập, nghiên cứu nắm vững lý luận

Mác – Lênin tập trung mọi nỗ lực, cố gắng nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác –


4

Lênin vào trong phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam,
chuẩn bị những tiền đề về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của một
đảng cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam.
Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) để xây
dựng một địa bàn hoạt động mới và xây dựng phong trào cách mạng ở Đông
Nam Á. Đến Quảng Châu, Người đã liên lạc với những thanh niên Việt Nam
yêu nước trong tổ chức Tâm Tâm xã. Người đã tích cực tuyên truyền cho họ
về chủ nghĩa Mác – Lênin, về cách mạng Tháng Mười, về quốc tế cộng sản,
về chủ nghĩa xã hội và những tư tưởng về con đường cứu nước do Người đề
ra. Nguyễn Ái Quốc tổ chức ra nhóm bí mật 9 người và chọn 5 người trong đó
làm đảng viên dự bị của Cộng sản đảng như Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Phong,
Lê Hồng Sơn… Người đã cử một số người về nước hoạt động tuyển chọn
thanh niên sang dự các lớp huấn luyện cán bộ ở Quảng Châu.
Đến tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc chính thức thành lập Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên, một tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Mục đích của Hội là hy sinh tính mệnh, quyền lợi, tư tưởng để làm cuộc
cách mạng dân tộc ( đánh đuổi giặc Pháp, giành độc lập dân tộc), sau đó làm
cách mạng thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng
sản).
Điều lệ Hội đề cập đến chương trình hành động như kết nạp hội viên, tổ
chức các đoàn thể, thành lập chính phủ nhân dân; áp dụng những nguyên tắc
“tân kinh tế, tân chính sách”, đoàn kết với giai cấp vô sản tất cả các nước,
thành lập xã hội cộng sản.
Điều lệ cũng quy định cụ thể các vấn đề điều kiện vào Hội, lề lối tổ
chức, cơ cấu các cấp, vấn đề tiến hành hội nghị thường kỳ và hội nghị toàn

quốc, vấn đề kỷ luật, nhiệm vụ hội viên…


5

Trụ sở của Tổng hội Việt Nam cách mạng thanh niên đặt tại Quảng
Châu và báo Thanh niên là cơ quan ngôn luận của Hội. Việc thành lập Hội
Việt Nam cách mạng thanh niên có ý nghĩa hết sức quan trọng. Sau khi ra đời,
Hội đã nhanh chóng lôi cuốn, tập hợp và đào tạo các chiến sĩ yêu nước ở Việt
Nam. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ra đời đã góp tiếng nói quan trọng
trong cuộc đấu tranh giữa hai đường lối của giai cấp công nhân và đường lối
giai cấp tư sản Việt Nam. Qua những hoạt động tích cực của mình, Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên đã có những đóng góp quan trọng trong việc
truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, giác ngộ tập hợp quần chúng tạo bước phát
triển mạnh mẽ của phong trào công nhân và phong trào yêu nước những năm
1925 – 1926, xứng đáng là tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Câu 3: Nội dung cơ bản và ý nghĩa tác phẩm Đường Cách mệnh
của Nguyễn Ái Quốc ?
Trả lời:
Sau khi thành lập tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Nguyễn
Ái Quốc đã mở nhiều lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt
Nam trong những năm 1925 – 1927. Đến đầu năm 1927, Bộ tuyên truyền của
Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức đã tập hợp các bải giảng của Người tại các
lớp huấn luyện đó và xuất bản thành cuốn sách mang tên Đường Cách mệnh.
Với cách trình bày dung dị, mộc mạc, dễ hiểu, dễ nhớ, tác giả đã nêu
lên và trả lời một cách hệ thống một loạt vấn đề cơ bản đang đặt ra cho các
lực lượng yêu nước và cách mạng Việt Nam khi đó.
Trang đầu tiên của cuốn sách, Nguyễn Ái Quốc đã trích dẫn luận điểm
nổi tiếng của Lênin: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh
vận động… chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới

làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong”.


6

Tác phẩm đã phân tích các loại cách mạng chủ yếu như: cách mạng tư
sản, cách mạng vô sản, cách mạng giải phóng dân tộc. Theo tác giả, cách
mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc, có nhiệm vụ đánh đổ kẻ thù
chủ yếu trước mắt là đế quốc Pháp xâm lược và bọn vua quan phong kiến tay
sai, giành độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam.
Tác giả xác định động lực và lực lượng của cách mạng Việt Nam:
“công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ, chủ
xưởng nhỏ… là bầu bạn cách mệnh của công nông”.
Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của tình đoàn kết quốc tế trong cuộc
đấu tranh chống kẻ thù chung của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức
trên toàn thế giới: “chúng ta cách mệnh thì cũng phải liên lạc tất cả những
đảng cách mệnh trong thế giới để chống lại tư bản và đế quốc chủ nghĩa”. Vì
vậy, cách mạng Việt Nam phải liên lạc với cách mạng Pháp.
Khẳng định nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng là sự lãnh đạo
của chính đảng, theo chủ nghĩa Mác – Lênin: “Trước hết phải có đảng cách
mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân
tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”.
Tác phẩm đã hướng dẫn phương pháp tổ chức và hoạt động cách mạng:
cách mạng Việt Nam phải tổ chức ra các đoàn thể quần chúng như công hội,
nông hội, phụ nữ, thanh niên… theo đường lối và phương pháp của quốc tế
cộng sản, của Cách mạng Tháng Mười Nga.
Tác phẩm đề cập vấn đề tư cách của người cách mạng, đặc biệt nhấn
mạnh tầm quan trọng của vấn đề tư cách đạo đức người cách mạng, khẳng
định đây là một điều kiện đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng. Thông qua
việc xem xét, chọn lọc kinh nghiệm của phong trào cách mạng thế giới, tác

phẩm đã chỉ rõ cho giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam lối thoát
ra khỏi cuộc khủng hoảng về đường lối cách mạng; góp phần quan trọng vào


7

cuộc đấu tranh nhằm xác lập vai trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp công
nhân Việt Nam.
Đồng thời tác phẩm còn chỉ ra những hình thức và phương pháp tổ
chức lực lượng cách mạng, góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị về tư
tưởng và tổ chức cho việc ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam và xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam.
Như vậy, Đường Cách mệnh là một trong những tác phẩm đánh dấu
một cái mốc quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái
Quốc; là một trong những văn kiện lý luận quan trọng đầu tiên của Đảng ta,
tạo cơ sở nền tảng cho việc hình thành đường lối cách mạng đúng đắn, sáng
tạo của Đảng, nhân tố quan trọng đầu tiên quyết định thắng lợi của cách mạng
Việt Nam.
Câu 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh về tư cách của Người cách mạng thể
hiện trong tác phẩm “Đường Cách mệnh” như thế nào? Ý nghĩa đối với
việc xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng hiện nay?
Trả lời:
“Đường Cách mệnh” là một tác phẩm quan trọng của Nguyễn Ái Quốc
đề cập đến những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Song ngay phần
đầu tác phẩm, Người lại đề cập một nội dung quan trọng về “tư cách một
người cách mạng”. Tư cách một người cách mạng được Nguyễn Ái Quốc đề
cập một cách toàn diện và sâu sắc, được trình bày quy về 3 mối quan hệ chủ
yếu của Người cách mạng đó là: đối với tự mình, đối với người và đối với
việc làm.
Trước hết, Nguyễn Ái Quốc đề cập đến yêu cầu tự tu dưỡng, rèn luyện

mọi mặt của người cách mạng. Người dạy người cách mạng “tự mình phải”
luôn luôn tu dưỡng rèn luyện, xây dựng cho mình những phẩm chất nhân cách


8

cần thiết. Nhấn mạnh vai trò quan trọng của yêu cầu tự tu dưỡng, rèn luyện
đối với người cách mạng, Người đã gìanh tới 14 điều trong tổng số 23 điều
nói về tư cách người cách mạng để đề cập vấn đề này.
Theo Nguyễn Ái Quốc phải có đức tính cần, kiệm, bởi cần (cần cù, chịu
khó) và tiết kiệm (không hoang phí, xa xỉ…) là yêu cầu, tiêu chí quan trọng
đầu tiên của người cách mạng mà Nguyễn Ái Quốc đề cập.
Người cách mạng phải là người thường xuyên biết tự xem xét, đánh giá
ưu khuyết điểm của mình và đặc biệt phải dám mạnh dạn nhận và sửa chữa
khuyết điểm lỗi lầm, phải “cả quyết sửa lỗi mình” để không ngừng tiến bộ.
Phải xây dựng cho mình đức tính cẩn thận trong mọi lúc mọi nơi, song không
có nghĩa là nhút nhát, phải thực hiện “cẩn thận mà không nhút nhát”.
Phải ham học hỏi (phải hay hỏi) mọi người, học hỏi đồng chí đồng
nghiệp, học hỏi nhân dân để tiến bộ.
Phải nhẫn nại (chịu khó) để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng là
khó khăn gian khổ và lâu dài.
Phải “hay nghiên cứu xem xét”, tích cực tìm hiểu khám phá để nắm bắt yêu
cầu thực tiễn cách mạng, trên cơ sở đó mà sáng tạo trong giải quyết công việc.
Phải thực hiện “vi công vong tư”, luôn biết đặt lợi ích của tập thể, của
quốc gia, của nhân dân lên trên, lên trước lợi ích cá nhân.
Không hiếu danh (không tham danh vọng, địa vị cá nhân…), không
kiêu ngạo. Phải thường xuyên khiêm tốn học hỏi, tôn trọng tập thể, tôn trọng
nhân dân.
Phải thực hiện nguyên tắc “nói thì phải làm”(nói đi đôi với làm), chống
biểu hiện chỉ nói mà không làm hoặc nói một đằng, làm một nẻo gây mất

niềm tin của nhân dân.


9

Phải “ít lòng ham muốn về vật chất”, phải luôn xác định sẵn sàng hy
sinh cống hiến cho cách mạng, cho nhân dân không đắn do so sánh; thực hiện
lo trước nhân dân, hưởng sau nhân dân.
Phải biết giữ bí mật.
-Đối với người phải thực hiện:
“Với từng người thì khoan thứ”, phải có lòng khoan dung độ lượng, sẵn
sàng tha thứ cho lỗi lầm của người khác. Với đoàn thể thì phải nghiêm, phải
giữ vững những yêu cầu, tiêu chí trong xây dựng đoàn thể, duy trì và chấp
hành nghiêm kỷ luật, quy định của đoàn thể.
Phải luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người, sẵn lòng “bày vẽ cho người”,
giúp mọi người cùng tiến bộ.
Phải có tinh thần chính trực, thẳng thắn mà luôn bình tĩnh sáng suốt
không “táo bạo” liều lĩnh.
Phải thường xuyên quan tâm, đánh giá con người, “hay xem xét
người”.
- Đối với công việc phải:
“Luôn xem xét hoàn cảnh kỹ càng” để có thái độ đúng và phương pháp
tiến hành thực hiện công việc hiệu qủa nhất.
Trên cơ sở xem xét kỹ càng hoàn cảnh, người cách mạng phải có tinh
thần dũng cảm, dám nghĩ, dám làm, không sợ hy sinh, không quản khó khăn
thiệt thòi, mất mát.
Luôn xem xét hoàn cảnh kỹ càng, dũng cảm, quyết đoán, đồng thời Hồ
Chí Minh đòi hỏi người cách mạng phỉ luôn có ý thức “phục tùng đoàn thể”,
thực hiện nghiêm mọi quy định, phân công của đoàn thể trên cơ sở đó mà chủ
động, tích cực khắc phục khó khăn, hòan thành nhiệm vụ theo phân công của

đoàn thể cách mạng.


10

Thực hiện tốt những yêu cầu trong các mối quan hệ với tự mình, đối
với người và công việc nói trên là đáp ứng đúng những tiêu chỉ cơ bản về tư
cách của người cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về tư cách của người cách mạng,
trong công tác xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng hiện
nay cần làm tốt những vấn đề cơ bản sau:
+ Thường xuyên giáo dục, quán triệt cho cán bộ, đảng viên nhận rõ
những yêu cầu (tiêu chí) của người cán bộ cách mạng giai đoạn hiện nay.
Không ngừng bổ sung, phát triển hoàn thiện những phẩm chất cần có trong tư
cách của người cán bộ cách mạng thời kỳ mới, làm cơ sở cho việc phấn đấu
rèn luyện tư cách của mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng.
+ Đối với mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng: Tự mình phải không ngừng
tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, rèn luyện, xây dựng cho được những
phẩm chất quan trọng của người cán bộ theo Hồ Chí Minh là: Cần, Kiệm,
Liêm, Chính, chí công vô tư. Xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên
định mục tiêu chủ nghĩa xã hội. Xây dựng tinh thần tích cực học tập nâng cao
trình độ mọi mặt; rèn luyện tính gương mẫu, nói đi đôi với làm trong mọi lúc
mọi nơi, tiếp tục xác định tinh thần hy sinh cống hiến cho sự nghiệp phát triển
cách mạng, phát triển đất nước trong điều kiện mới.
Thường xuyên rèn luyện, xây dựng lòng yêu thương sâu sắc đối với
con người. Yêu mọi người, yêu đồng loại, đồng chí. Luôn quan tâm, giúp đỡ
mọi người, sẵn sàng hy sinh, chia sẻ với mọi người. Đấu tranh kiên quyết với
những biểu hiện thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm với mọi người (nhất là với
những người còn nhiều thiệt thòi, khó khăn, hoạn nạn...)
Xây dựng thái độ nghiêm túc, trách nhiệm trước mọi công việc cách

mạng mà đảng và nhân dân giao phó; xây dựng tinh thần dũng cảm, dám
nghĩ, dám làm với tính chủ động sáng tạo cao; giữ vững tính kỷ luật tự giác


11

của người cán bộ cách mạng, chấp hành nghiêm kỷ luật quy định của đoàn thể
và pháp luật nhà nước…
Quán triệt, thực hiện tốt những yêu cầu cơ bản nêu trên là góp phần tích
cực xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên có đủ những phẩm chất tư cách cần
thiết theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đáp ứng yêu cầu hòan thành nhiệm vụ cách
mạng trong thời kỳ mới.
Câu 5: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò, nhiệm vụ của Đảng Cộng
Sản Việt Nam?
Trả lời:
Trả lời câu hỏi cách mạng trước hết cần phải làm gì trong tác phẩm
Đường Cách mệnh, Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng trước hết cần phải
có đảng cách mạng. Sự khẳng định chắc chắn đó của Người thể hiện sự nhất
quán với quan điểm của các nhà kinh điển, đồng thời phản ánh sâu sắc yêu
cầu cần thiết trước hết của thực tiễn cách mạng Việt Nam cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX.
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định sứ mệnh lịch
sử của giai cấp vô sản là người đào huyệt để chôn chủ nghĩa tư bản và xây
dựng chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi thế giới. Để hoàn thành được sứ mệnh
đó, giai cấp vô sản nhất thiết phải tổ chức ra chính đảng cách mạng của mình
là Đảng Cộng sản. Đảng là bộ tham mưu, đội tiên phong chiến đấu của giai
cấp vô sản, Đảng định ra đường lối chiến lược, sách lược lãnh đạo cách mạng.
Theo Mác - Ăngghen: “Trong cuộc đấu tranh chống quyền lực liên hợp của
các giai cấp có của, giai cấp công nhân chỉ khi tổ chức thành một chính đảng
độc lập… việc tổ chức như vậy… là cần thiết để đảm bảo thắng lợi của cách

mạng xã hội và thắng lợi của mục đích cuối cùng là thủ tiêu giai cấp.


12

Trung thành vời quan điểm của các nhà kinh điển Mác – Lênin, đối với
cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: “Cách mạng trước hết cần
phải có đảng cách mạng”, bởi vì theo Người: cách mạng là sự nghiệp chung
của toàn thể dân chúng và “dân khí mạnh thì không quân lính nào, súng ống
nào chống nổi”. Song sức mạnh đó chỉ có được khi dân chúng được thức
tỉnh,giác ngộ và tổ chức, lãnh đạo. Đảng chính là người có nhiệm vụ thức
tỉnh, lãnh đạo nhân dân đứng lên làm cách mạng.
Với hoàn cảnh Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, trình
độ dân trí thấp, kẻ thủ thực hiện chính sách thống trị hà khắc, dân chủ bị bóp
nghẹt… Do đó, yêu cầu nhiệm vụ giác ngộ, tổ chức dân chúng càng khó khăn
và quan trọng hơn.
Đồng thời, theo Hồ Chí Minh: “cách mạng Việt Nam là một bộ phận
của cách mạng thế giới”, bởi vậy cách mạng Việt Nam muốn thắng lợi phải
liên hệ chặt chẽ với cách mạng thế giới. Đảng Cộng sản Việt Nam chính là
người có nhiệm vụ gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, đây là
một nhiệm vụ hết sức quan trọng của Đảng.
Như vậy, Hồ Chí Minh khẳng định cách mạng trước hết cần phải có
Đảng cách mạng vì đảng có nhiệm vụ hết sức quan trọng là “trong thì vận
động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên hệ với các dân tộc bị áp bức và vô
sản cấp mọi nơi”1. Theo Hồ Chí Minh, chỉ có dưới sự lãnh đạo của một Đảng
chân chính thì mới có thể “đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và
cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công”.
Vai trò đầu tiên quyết định thắng lợi của cách mạng đã được thực tiễn
cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam suốt
mấy thập kỷ qua khẳng định bằng những thắng lợi vĩ đại của cách mạng nước

ta. Ngày nay, vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam đã và
1

Hồ Chí Minh toàn tập,nxbCTQG,HN.2002,Tập 2, tr.268.


13

đang tiếp tục được khẳng định bằng những thắng lợi to lớn, quan trọng của sự
nghiệp đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ
mới.
Câu 6: Tại sao nói Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của
sự vận dụng sáng tạo nguyên lý ra đời một Đảng Cộng sản của Lênin vào
điều kiện Việt Nam của Hồ Chí Minh?
Trả lời:
Nhân kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ
Chí Minh đã viết: chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với phong trào công nhân
và phong trào yêu nước Việt Nam dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Đông
Dương vào đầu năm 1930.
Luận điểm trên của Hồ Chí Minh khẳng định qui luật ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam là vừa đúng qui luật chung về sự ra đời một đảng cộng
sản, vừa thể hiện sự sáng tạo của Hồ Chí Minh khi vận dụng quy luật chung
về sự ra đời một Đảng cộng sản vào điều kiện cụ thể Việt Nam.
Lênin đã khái quát quy luật chung về sự ra đời của Đảng Cộng sản là
chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với phong trào công nhân dẫn đến sự ra đời
của Đảng Cộng sản. Đây là vấn đề mang tính phổ biến đối với sự ra đời của
Đảng Cộng sản ở nhiều nước. Đây là sự kết hợp giữa một học thuyết lý luận
cách mạng, khoa học với thực tiễn phong trào của một giai cấp tiên tiến nhất.
Lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, đỉnh cao trí tuệ nhân loại được tổng kết lên
từ thực tiễn phong trào công nhân. Với ý nghĩa là học thuyết cách mạng,

khoa học, lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin soi đường cho phong trào công nhân
càng phát triển, dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản. Ở Việt Nam, giai cấp
công nhân và phong trào công nhân tuy nhỏ bé, ra đời muộn so với thế giới
song giai cấp công nhân Việt Nam có đầy đủ những đặc điểm mang tính cách


14

mạng của giai cấp công nhân thế giới. Mặt khác, giai cấp công nhân Việt Nam
còn có những đặc điểm riêng thuận lợi như ra đời phát triển ở một nước có
truyền thống yêu nước kiên cường; ra đời trước giai cấp tư sản Việt Nam nên
không bị ảnh hưởng chủ nghĩa cải lương và lại sớm được tiếp thu ánh sáng
của cách mạng Tháng Mười Nga… Vì vậy, giai cấp công nhân và phong trào
công nhân Việt Nam có đủ điều kiện để tiếp thu chủ nghĩa Mác- Lênin, đảm
đương vị trí lãnh đạo cách mạng Việt Nam
Chủ nghĩa Mác-Lênin không chỉ được truyền bá vào phong trào công
nhân mà còn được truyền bá vào cả phong trào yêu nước Việt Nam,bởi đây là
một phong trào mang tính truyền thống, có trước phong trào công nhân, với
sức thu hút, tập hợp lực lượng hết sức rộng lớn.Nói đến phong trào yêu nước
trước hết là nói đến phong trào nông dân với lực lượng đông đảo nhất (chiếm
khoảng 95% dân số). Cũng giống như giai cấp công nhân, giai cấp nông dân
bị áp bức bóc lột nặng nề, họ là bạn đồng minh tự nhiên của giai cấp công
nhân, rất gần gũi với giai cấp công nhân. Phong trào yêu nước Việt Nam lại
diễn ra trong thời đại mới rất gần gũi với phong trào công nhân, chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ của Cách mạng Tháng Mười Nga… Vì vậy, phong trào yêu
nước Việt Nam cũng dễ tiếp nhận chủ nghĩa Mác-Lênin để đưa tới sự phát
triển mạnh mẽ.
Hơn nữa, ở Việt Nam chủ nghĩa Mác – Lênin dễ dàng thâm nhập vào
cả phong trào công nhân và phong trào yêu nước còn vì Nguyễn Ái Quốc và
những người cộng sản đã có phương pháp truyền bá hết sức sáng tạo để đưa

lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin nhanh chóng thâm nhập sâu vào cả phong trào
công nhân và phong trào yêu nước. Tiếp thu lý luận Mác – Lênin làm cho
phong trào công nhân chuyển dần từ tự phát lên tự giác và phong trào yêu
nước có sự thay đổi dần về chất: từ lập trường yêu nước dân tộc sang yêu
nước theo lập trường của giai cấp vô sản. Sự phát triển của phong trào công


15

nhân và phong trào yêu nước Việt Nam đã dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về quy luật ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam cho phép chúng ra rút ra những ý nghĩa quan trọng đối với công tác
xây dựng Đảng và rèn luyện đảng viên như: yêu cầu không ngừng tăng cường
bản chất giai cấp công nhân của Đảng; coi trọng phát triển đảng trong thành
phần giai cấp công nhân, đồng thời phải chú ý phát triển đảng trong các thành
phần, giai cấp khác; luôn coi trọng giáo dục giữ vững lập trường giai cấp công
nhân, thường xuyên đấu tranh chống lại những tư tưởng phi vô sản… đảm
bảo yêu cầu xây dựng đảng vững mạnh ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng.
Câu 7: Vì sao Hồ Chí Minh khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam
là đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và dân tộc Việt
Nam?
Trả lời:
Phát biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (1951), Hồ
Chí Minh khẳng định: “Trong giai đoạn hiện nay, quyền lợi của giai cấp công
nhân và của dân tộc là một. Đảng lao động Việt Nam là đảng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. Cho nên nó phải là đảng của dân tộc Việt
Nam?1
Quan điểm của Hồ Chí Minh trước hết khẳng định bản chất của Đảng
mang bản chất giai cấp công nhân, mà biểu hiện tập trung là Đảng Cộng sản

Việt Nam mang hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, đó là chủ nghĩa Mác –
Lênin – một học thuyết cách mạng và khoa học nhất, là đỉnh cao trí tuệ của
nhân loại.

1

Hồ Chí Minh,Sách đã dẫ, Tập 6, tr.39.


16

Đường lối chính trị của Đảng phản ánh lập trường của giai cấp công
nhân, hướng tới thực hiện mục tiêu lý tưởng của giai cấp công nhân.
Hệ thống nguyên tắc tổ chức và hoạt động của đảng theo nguyên tắc tổ
chức hoạt động của giai cấp công nhân, mà trong đó nguyên tắc tổ chức, hoạt
động căn bản nhất là tập trung dân chủ. Đảng Cộng sản Việt Nam trước hết
đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân. Song vì sự thống nhất giữa lợi
ích giai cấp công nhân với nhân dân lao động và toàn thể dân tộc. Vì vậy,
Đảng Cộng sản Việt Nam đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và toàn thể dân tộc. Hồ Chí Minh đã khẳng định: ngoài lợi ích
của giai cấp, lợi ích của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác. Tòan bộ
hoạt động của Đảng nhằm mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và
giải phóng con người; thực hiện độc lập dân tộc và cuộc sống ấm no hạnh
phúc cho nhân dân.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc luôn gắn
bó chặt chẽ, không tách rời nhau. Mọi hoạt động cách mạng của Đảng đều
đồng thời giải quyết cả vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc. Mọi biểu hiện tuyệt
đối hóa vấn đề giai cấp, coi nhẹ vấn đề dân tộc hoặc quá nhấn mạnh vấn đề
dân tộc mà xem nhẹ vấn đề giai cấp đều là trái với quan điểm tư tưởng Hồ
Chí Minh cần được xem xét, đấu tranh phê phán nghiêm khắc.

Câu 8: Vì sao Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam
phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
mọi hoạt động của mình?
Trả lời:
Ngay trang đầu tiên của cuốn sách “Đường Cách mệnh” Nguyễn Ái
Quốc đã trích dẫn luận điệu nổi tiếng của Lênin: “Không có lý luận cách
mệnh thì không có cách mệnh vận động… chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền


17

phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong”.
Trung thành với quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ
Chí Minh khẳng định: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong
Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa đó. Đảng mà không có
chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam” 1
“chủ nghĩa” mà Hồ Chí Minh đề cập trong tác phẩm Đường Cách mệnh đó là
lý luận mà Đảng cách mạng lấy làm nền tảng tư tưởng. Người coi chủ nghĩa
ấy như “trí khôn” của một con người và như la bàn định hướng đi cho con
tàu.
“Chủ nghĩa” được Hồ Chí Minh đề cập trong tác phẩm trên chính là
chủ nghĩa Mác – Lênin. Bởi theo Người, “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chắc chắn nhất, chân chính nhất, cách mạng
nhất là chủ nghĩa Lênin”2.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác – Lênin, là một học thuyết cách
mạng, khoa học nhất, là đỉnh cao trí tuệ nhân loại, là ngọn đuốc sáng dẫn
đường cho cách mạng Việt Nam. “Chủ nghĩa Mác – Lênin đối với chúng ta,
những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm
nang” thần kỳ, không những là kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con
đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ

nghĩa cộng sản”.
Vì vậy, phải lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng, nền
tảng tổ chức và hoạt động của Đảng.
Phải nắm vững bản chất cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác –
Lênin, phải nắm vững phương pháp luận Mác – Lênin để vận dụng thích hợp
trong mọi điều kiện, hoàn cảnh cụ thể; chống giáo điều, dập khuôn máy móc.
Phải kiên quyết đấu tranh chống lại mọi quan điểm sai trái, phản động muốn
1
2

Hồ Chí Minh,Sách đã dẫn, Tập 2, tr.268.
Sđd, Tập 2, Tr.189.


18

xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin,nhằm góp phần bảo vệ sự trong
sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin trong mọi hoàn cảnh.
Đối với mỗi cán bộ, đảng viên, nắm vững chủ nghĩa Mác – Lênin là
phải nắm vững phương pháp xử thế với người, với việc và với mình cho
đúng; thường xuyên tham gia bảo vệ và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin.
Câu 9: Vì sao Hồ Chí Minh khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam
phải được tổ chức xây dựng theo nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới của
giai cấp công nhân?
Trả lời:
Trong tác phẩm “Đường Cách mệnh” (1927), Nguyễn Ái Quốc đã
khẳng định muốn hoàn thành sứ mệnh vẻ vang là lãnh đạo cách mạng, Đảng
phải được xây dựng vững mạnh vì “Đảng có vững thì cách mạng mới thành
công, như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy” 1. Để xây dựng một

đảng vững mạnh phảI tuân thủ các nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới của
Lênin và vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với công tác xây dựng đảng
trong mỗi thời kỳ.
- Trước hết, Đảng Cộng sản Việt Nam phải tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ. Đây là nguyên tắc tổ chức căn bản của các
Đảng Cộng sản. Đây là vấn đề đã được Mác – Ăngghen khẳng định trong
điều lệ đồng minh những người cộng sản. Lênin kiên quyết đấu tranh bảo vệ
tư tưởng này và đưa ra thành nguyên tắc tập trung dân chủ. Người cho những
ai từ chối nguyên tắc này, tức là từ chối không muốn làm đảng viên, tức là
phá hoại Đảng, là biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội xét lại.

1

Hồ Chí Minh, Sách đã dẫn,Tập 2, tr.268


19

Đề cập nguyên tắc này, Hồ Chí Minh luôn khẳng định vai trò quan
trọng của yếu tố tập trung, đồng thời rất nhấn mạnh vấn đề dân chủ. Theo
Người “dân chủ là cái quý nhất của nhân dân”. Song do đặc điểm của xã hội
thuộc địa nửa phong kiến không có dân chủ, trình độ của dân nói chung và
nhận thức dân chủ nói riêng là rất thấp.
Hồ Chí Minh coi trọng vấn đề dân chủ còn do yêu cầu trong xác định
đường lối, trong hoạt động chỉ đạo cách mạng và xây dựng khối đoàn kết
trong Đảng cần phải phát huy dân chủ để tập trung trí tuệ. Phải thực hiện “ bất
cứ vấn đề nào đảng viên đều phải ra sức thảo luận và phát biểu ý kiến, khi đa
số đã nghị quyết thì tất cả đảng viên phải phục tùng mà thi hành”
Trong thực tiễn xây dựng đảng thì việc thực hành tập trung thường dễ
hơn dân chủ. Vì vậy, khi nói tới nguyên tắc này Hồ Chí Minh thường dùng

cụm từ “dân chủ tập trung” nhiều hơn.
Theo Hồ Chí Minh, tập trung- dân chủ có quan hệ biện chứng, thống
nhất, không tách rời nhau. Tập trung không phải là quan liêu, độc đoán, dân
chủ không phải là tự do vô chính phủ.
- Phải thực hiện tốt nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Lãnh đạo tập thể là dân chủ nhằm phát huy trí tuệ, kinh nghiệm của nhiều
người. Vì theo Hồ Chí Minh: một người dù tài giỏi mấy cũng chỉ có thể xem
xét một số hoặc nhiều mặt của một vấn đề chứ không thể xem xét giải quyết
được tất cả mọi mặt. Vì vậy, cần có nhiều người để có nhiều kinh nghiệm,
tránh sai lầm.
Đồng thời phải thực hiện cá nhân phụ trách, theo Hồ Chí Minh: cá nhân
phụ trách là tập trung, việc gì đã được tập thể bàn bạc và quyết định rồi thì
phải giao cho cá nhân (một người hay một số người) thi hành để có trách
nhiệm cao (chuyên trách), trách ỷ lại, thiếu trách nhiệm, kém hiệu quả; tránh
rơi vào tình trạng “nhiều saĩ mà không ai đóng cửa chữa”.


20

Theo Người, “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là dân chủ, tập
trung”1 lãnh đạo tập thể và cá nhân phụ trách phải đi đôi với nhau.
- Đảng là một khối đoàn kết thống nhất ý chí và hành động: Đoàn kết
thống nhất là một thuộc tính của Đảng Cộng sản, Đảng có đoàn kết thống
nhất mới vững mạnh để đủ sức lãnh đạo cách mạng đi tới thành công, như
người cầm lái có vững mới đưa con thuyền cách mạng đến đích.
Nội bộ đảng có đoàn kết thống nhất mới có đủ sức lôi cuốn, tập hợp
giai cấp, tập hợp toàn dân tộc đứng lên làm cách mạng.
Thực tế ngay từ thời kỳ vận động thành lập Đảng, cũng như trong suốt
quá trình xây dựng đảng, Hồ Chí Minh rất chú trọng củng cố khối đoàn kết
thống nhất trong Đảng. Trong thời kỳ vận động thành lập Đảng, trước tình

trạng mất đoàn kết, tranh giành quần chúng của cả 3 tổ chức cộng sản ở Việt
Nam, Hồ Chí Minh đã chủ trương xóa bỏ hiềm khích, tập hợp, thống nhất 3 tổ
chức cộng sản để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930. Trước
lúc đi xa, trong bản di chúc thiêng liêng, Người còn căn dặn: Nhờ đoàn kết
chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ
quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết tổ chức và lãnh
đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh, tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Khẩu hiệu của Hồ Chí Minh là:
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công.
Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết thống nhất phải biểu hiện bằng cả ý chí và
hành động dựa trên nền tảng là chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối chủ trương
của Đảng và trên cơ sở những nguyên tắc, chế độ sinh hoạt, điều lệ đảng,
chấp hành kỷ luật của Đảng (là kỷ luật nghiêm minh và tự giác nhất).

1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, 2000, Tập 2, tr.142.


21

- Thực hành tự phê bình và phê bình trong đảng: Tự phê bình và phê
bình là qui luật phát triển của Đảng. Theo Hồ Chí Minh, trong sinh hoạt và
hoạt động thực tiễn ai cũng có ưu điểm, khuyết điểm, có cái hay cái dở, cái
tiên tiến và cái lạc hậu… ở mức độ khác nhau. Thái độ của những người cộng
sản là phải động viên khuyến khích làm cho phần tốt được phát huy nảy nở
sinh sôi, còn những thói hư, tật xấu, không có đất để sinh sôi và sẽ mất dần đi.
Muốn vậy cần sử dụng vũ khí tự phê bình và phê bình.
Tự phê bình là vạch rõ những ưu khuyết điểm của bản thân mình trước

mọi người để nhận được sự đóng góp, giúp đỡ từ những người khác.
Phê bình là chỉ rõ những ưu khuyết điểm của người khác nhằm giúp họ
nhận rõ khuyết điểm để mà sửa chữa, hiểu rõ ưu điểm để mà phát huy. Theo
Người, bản chất của tự phê bình và phê bình là xây dựng, nhân đạo và tiến bộ.
Tự phê bình và phê bình nhằm làm cho người tốt hơn, việc tốt hơn và làm cho
tổ chức mạnh lên.
- Trong thực hành tự phê bình và phê bình phải chống tư tưởng hẹp hòi,
ích kỷ, không được lợi dụng phê bình để mà hạ uy tín của nhau, đả kích lẫn
nhau… phải luôn nhận rõ đối tượng của tự phê bình và phê bình là việc chứ
không phải là người.
Trong tự phê bình và phê bình phải thực hiện tốt yêu cầu “nêu gương”,
phải lấy tự phê bình là chính, thực hiện tự phê bình mình trước và phê bình
người khác sau. Phải thực hiện trong làm gương cho ngoài, trên làm gương
cho dưới; trong cấp ủy thực hiện phê bình và tự phê bình trước; ngoài cấp ủy
thực hiện sau; cán bộ phải thực hiện phê và tự phê bình trước làm gương cho
đảng viên, cấp dưới và quần chúng noi theo.
Tự phê bình và phê bình phải đi đôi với nhau, không tách rời nhau.
Như Hồ Chí Minh đã dạy: “Tự phê bình và phê bình cốt để phát huy ưu điểm,
sửa chữa khuyết điểm, để tư tưởng và hành động đúng hơn…Tự phê bình và


22

phê bình phảI đi đôi với nhau”. Tự phê bình và phê bình “cốt để giúp nhau
sửa chữa, giúp nhau tiến bộ… cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ”1.
Câu 10: Phân tích luận điểm Hồ Chí Minh về: Đảng Cộng sản Việt
Nam cầm quyền vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành
của nhân dân?
Trả lời:
“Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền vừa là người lãnh đạo, vừa là

người đầy tớ trung thành của nhân dân” là một luận điểm sáng tạo, một cống
hiến lớn của Hồ Chí Minh vào học thuyết Mác – Lênin về xây dựng Đảng; có
giá trị ý nghĩa to lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn công tác xây dựng Đảng
ta.
Theo quan điểm của các nhà kinh điển Mác – Lênin khẳng định: Đảng
Cộng sản là người lãnh đạo cách mạng vô sản, lãnh đạo quần chúng công
nhân và nhân dân lao động đứng lên làm cách mạng lật đổ giai cấp tư sản, xây
dựng một xã hội mới – xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đảng cầm quyền là đảng
lãnh đạo nhân dân lật đổ chính quyền cũ, giành chính quyền về tay giai cấp vô
sản. Đảng cầm quyền là đảng lãnh đạo chính quyền Nhà nước thông qua
đường lối của Đảng và sự chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện đường lối của
Đảng. Quyền lãnh đạo nhà nước của Đảng là không chia sẻ cho bất cứ một
lực lượng, một đảng phái chính trị nào khác.
Quần chúng nhân dân là lực lượng cách mạng, là đối tượng lãnh đạo
của Đảng. Quần chúng nhân dân có vai trò, sức mạnh to lớn, quyết định sự
phát triển của cách mạng, của lịch sử. Song vai trò sức mạnh đó chỉ trở thành
thực hiện khi có Đảng lãnh đạo (Đảng giáo dục, giác ngộ và tổ chức quần
chúng nhân dân đứng lên làm cách mạng).
1

Sđd, Tập 2, tr.482.


23

Trung thành và phát triển sáng tạo quan điểm của các nhà kinh điển
Mác – Lênin, Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền
vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Luận
điểm trên của Người khẳng định sự thống nhất giữa hai tư cách (người lãnh
đạo và người đầy tớ) trong một nhân cách của Đảng và đảng viên, trong quá

trình hoạt động của Đảng.
- Đảng với tư cách của người lãnh đạo là Đảng phải làm tốt việc giáo
dục, giác ngộ, thâu phục được quảng đại quần chúng nhân dân theo mình làm
cách mạng. Để lãnh đạo được quần chúng nhân dân, thực hiện vai trò người
lãnh đạo, trước hết Đảng phải có đường lối cách mạng đúng đắn, khoa học.
Đảng phải có chủ trương phù hợp và sáng tạo. Đường lối chủ trương của
Đảng phải đáp ứng yêu cầu của quy luật khách quan, đáp ứng nguyện vọng
của đông đảo quần chúng nhân dân và phù hợp với từng thời kỳ cách mạng cụ
thể. Đảng lãnh đạo quần chúng phải thông qua đội ngũ cán bộ đảng viên của
Đảng, bằng sự gương mẫu trong cả tư tưởng và hành động của những người
cán bộ đảng viên; bằng cái tâm, cái trí của đội ngũ cán bộ đảng viên đủ sức
thu phục quảng đại quần chúng chứ không phải “cứ viết lên trán mình hai chữ
cộng sản” là được quần chúng thừa nhận vai trò người lãnh đạo.
Đảng lãnh đạo quần chúng nhân dân phải bằng việc đưa lại những lợi
ích thiết thân cho quần chúng. Đảng phải nắm vững nguyện vọng của quần
chúng để thực hiện mỗi bước phát triển của cách mạng phải đưa lại lợi ích
thiết thân, chính đáng cho họ.
Để xứng đáng vai trò là người lãnh đạo, yêu cầu Đảng phải luôn xứng
đáng là bộ phận tiên tiến nhất trong giai cấp công nhân; Đảng và đảng viên
phải tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm, đạo đức, danh dự của dân tộc và văn
minh của xã hội.
- Đảng với tư cách là người đầy tớ trung thành của nhân dân:


24

Đảng ta sinh ra và đấu tranh, trưởng thành không ngoài mục đích duy
nhất, cao nhất là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì lợi ích của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, vì cuộc sống độc lập tự do,
ấm no hạnh phúc của nhân dân. Bởi vì, theo Hồ Chí Minh thì: ngoài lợi ích

của giai cấp, lợi ích của nhân dân lao động và của dân tộc, Đảng ta không có
lợi ích nào khác.
Mỗi cán bộ đảng viên phải luôn nhận rõ vai trò của mình vừa là người
lãnh đạo, vừa là người đầy tớ của nhân dân. Mọi tư duy và hành động của cán
bộ đảng viên phải luôn luôn vì dân, luôn nhận rõ vai trò vị trí của mình là
“công bộc của dân”, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân.
Là đầy tớ của dân, mỗi cán bộ đảng viên phải luôn luôn nhận rõ vai trò
là người phục vụ cho tập thể nhân dân, phụng sự sự nghiệp cách mạng chứ
không phải theo nghĩa “tôi tớ” thấp hèn cho cá nhân những ông chủ như dưới
xã hội cũ.
Tư cách người lãnh đạo và người đầy tớ luôn thống nhất trong nhân
cách người cán bộ đảng viên. Thực hiện tốt vai trò người lãnh đạo nghĩa là
Đảng đã cùng dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng, giải phóng nhân
dân, cũng chính là thiết thực phục vụ nhân dân, là người đầy tớ tốt. Ngược lại,
làm tốt vai trò người đầy tớ trung thành của nhân dân, đảng sẽ càng được dân
tin, dân theo Đảng. Đó là yếu tố quyết định để Đảng hoàn thành sứ mệnh
người lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo nhân dân.
Do vậy, để cho Đảng thực sự xứng đáng là người lãnh đạo, vừa là
người đầy tớ của nhân dân đòi hỏi Đảng và đảng viên có tầm nhìn phải rộng,
cách nghĩ phải xa và việc làm phải tận tâm tận lực. Đảng phải thực hiện tốt
những yêu cầu cơ bản sau:
Phải không ngừng chăm lo xây dựng nội bộ đảng trong sạch vững
mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; không ngừng nâng cao tri thức toàn


25

diện, nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng viên đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ cách mạng thời kỳ mới.
Đảng phải chăm lo xây dựng nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì

dân. Giữ vững bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc của
nhà nước. Nhà nước phải phục vụ nhân dân với tinh thần “dân là chủ, chính
phủ là đầy tớ của nhân dân”, mọi hoạt động của nhà nước phải dựa hẳn vào
nhân dân, vì lợi ích của dân.
Phải xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên thực sự là những người cán bộ
“vừa hồng, vừa chuyên”.
Kiên quyết đấu tranh chống các căn bệnh dễ nảy sinh trong cán bộ,
đảng viên trong điều kiện đảng cầm quyền như các bệnh kiêu ngạo, quan liêu
xa dân, tham nhũng, hối lộ, xa đọa về lối sống… Hồ Chí Minh coi chống
những thứ bệnh đó là thứ “giặc nội xâm” rất nguy hiểm.
Phải thường xuyên chăm lo củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng
với dân: xác định Đảng luôn ở trong dân, trong lòng dân chứ Đảng không
đứng trên dân, không ở ngoài dân; Đảng phải luôn xác định lấy dân làm gốc,
dân là người đem lại nguồn sinh lực vô tận cho Đảng, phải thường xuyên
chăm lo bồi dưỡng sức dân, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân.
Câu 11: Theo Hồ Chí Minh, để hoàn thành được sứ mệnh của một
đảng cầm quyền, Đảng phải làm gì?
Trả lời:
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trải qua 15 năm đấu
tranh, nhân dân ta đã giành thắng lợi trong cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Đảng ta từ một Đảng hoạt động bí mật trở thành một đảng cầm quyền. Để


×