Tải bản đầy đủ (.pdf) (181 trang)

Phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị cấp trung ương ở cộng hòa dân chủ nhân dân lào hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 181 trang )

HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH

LM PHUN UễN S VN

PHụ Nữ THAM GIA LãNH ĐạO, QUảN Lý
TRONG Hệ THốNG CHíNH TRị CấP TRUNG ƯƠNG
ở CộNG HòA DÂN CHủ NHÂN DÂN LàO HIệN NAY

LUN N TIN S
CHUYấN NGNH: CH NGHA X HI KHOA HC

H NI - 2017


HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH

LM PHUN UễN S VN

PHụ Nữ THAM GIA LãNH ĐạO, QUảN Lý
TRONG Hệ THốNG CHíNH TRị CấP TRUNG ƯƠNG
ở CộNG HòA DÂN CHủ NHÂN DÂN LàO HIệN NAY

LUN N TIN S
CHUYấN NGNH: CH NGHA X HI KHOA HC
Mó s: 62 22 03 08

NGI HNG DN KHOA HC:
PGS.TS. TH THCH

H NI - 2017



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả

Lăm Phun Đuôn Sụ Văn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN

1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài của luận án
1.2. Những giá trị của các công trình nghiên cứu và định hướng nghiên cứu
của luận án
Chương 2: PHỤ NỮ THAM GIA LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ TRONG HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP TRUNG ƯƠNG - CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CÁC YẾU
TỐ TÁC ĐỘNG

2.1. Lãnh đạo, quản lý và phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống
chính trị cấp trung ương
2.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, của Đảng và Nhà nước Cộng hòa

Dân chủ Nhân dân Lào về phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý
2.3. Các yếu tố tác động đến phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống
chính trị cấp trung ương ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay
Chương 3: PHỤ NỮ THAM GIA LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ TRONG HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP TRUNG ƯƠNG Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN
DÂN LÀO HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.1. Thực trạng phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị cấp
trung ương ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay
3.2. Một số vấn đề đặt ra đối với phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ
thống chính trị cấp trung ương ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
hiện nay
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG PHỤ NỮ
THAM GIA LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP
TRUNG ƯƠNG Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY

4.1. Quan điểm cơ bản nhằm tăng cường phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý
trong hệ thống chính trị cấp trung ương ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào hiện nay
4.2. Một số giải pháp chủ yếu và kiến nghị nhằm tăng cường phụ nữ tham gia
lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị cấp trung ương ở Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC LỤC CÔNG TRÌNH TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

7
7

31

35
35
48
60

69
69

92

108

108

118
148
151
152
163


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
BCHTW

:

Ban Chấp hành Trung ương


BCT

:

Bộ Chính trị

CHDCND

:

Cộng hòa Dân chủ Nhân dân

CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội

GDP

:

Tổng sản phẩm quốc nội

HLHPN

:

Hội Liên hiệp Phụ nữ


HTCT

:

Hệ thống chính trị

LĐ, QL

:

Lãnh đạo, quản lý

NDCM

:

Nhân dân Cách mạng

UNDP

:

United Nations Development Programme

UNIFEM

:

United Nations Development Fun Women


XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN ÁN

Trang
Bảng 2.1: Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người

62

Bảng 3.1: Phụ nữ tham gia trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Nhân dân Cách mạng Lào

70

Bảng 3.2: Phụ nữ tham gia trong đại biểu Quốc hội

74

Bảng 3.3: Phụ nữ tham gia lãnh đạo, quả lý cấp Vụ trưởng ở các bộ

76

Bảng 3.4: Trình độ chuyên môn của phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý
trong các ban đảng


83

Bảng 3.5: Trình độ chuyên môn của nữ đại biểu Quốc hội khóa VIII
(nhiệm kỳ 2016-2021)

84

Bảng 3.6: Trình độ chuyên môn của phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý
trong các bộ của Chính phủ

86

Bảng 3.7: Trình độ chuyên môn của phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý
trong Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội cấp trung ương

87


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong lịch sử các nền chính trị từ xưa đến nay, phụ nữ nói chung ít có
điều kiện và cơ hội tham gia lãnh đạo, quản lý đất nước. Tuy nhiên, trong lịch sử
cũng đã xuất hiện những phụ nữ vĩ đại, xuất chúng như: Nữ hoàng Cleopat (Ai
Cập), Nữ hoàng Victoria (Anh), Võ Tắc Thiên, Từ Hy Thái hậu (Trung Quốc),
Hai Bà Trưng, Nguyên phi Ỷ Lan (Việt Nam), v.v...
Những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, với tư duy chính trị mới
(chính trị bình đẳng giới) trên chính trường quốc tế đã xuất hiện những nữ chính
khách sắc sảo, tài ba, nắm giữ những cương vị quan trọng của quốc gia như:
Indira Gandhi (nguyên chủ tịch Đảng Quốc đại Ấn Độ), Margaret Thatcher

(Nguyên thủ tướng Anh), Ngô Nghi (Phó thủ tướng Quốc vụ viện kiêm Bộ
trưởng Bộ Y tế Trung Quốc), Megawati Sukarnoputi (Nguyên Tổng thống Inđônêxia), Angela Dorther Merkel (Thủ tướng đương nhiệm của Đức), Jinh Lắc Xin
Nạ Vắt (Nguyên Thủ tướng Thái Lan), Nguyễn Thị Kim Ngân (Chủ tịch Quốc
hội Việt Nam), Pa Ny Ya Tho Tú (Chủ tịch Quốc hội Lào),…
Phong trào giải phóng phụ nữ cũng như sự tham gia vào đời sống chính trị
của phụ nữ phát triển mạnh mẽ từ thế kỷ XIX đấu tranh đòi quyền bình đẳng
giới, bao gồm bình đẳng về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa nhằm hướng tới
mục tiêu: phụ nữ và nam giới cùng được hưởng các quyền, đồng thời chia sẻ lợi
ích, trách nhiệm và hưởng thụ các giá trị chân, thiện, mỹ. Ngày nay, vấn đề giải
phóng phụ nữ, tăng cường sự tham gia chính trị của phụ nữ đã và đang gắn liền
với vấn đề bình đẳng giới và được thực hiện bằng hành động thực tiễn chứ
không chỉ dừng lại ở những khái niệm, ý tưởng trừu tượng hay những tuyên bố
pháp lý. Nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng người Pháp, S.Phurie (XIX) cho
rằng: Giải phóng phụ nữ là thước đo trình độ phát triển của xã hội. Tư tưởng này
đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin tiếp tục phát triển lên trình
độ mới trong lý luận cũng như trong chỉ đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH)


2
trên thực tế. Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:… Nếu không giải
phóng phụ nữ thì xây dựng CNXH mới một nửa.
Ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, từ khi Đảng Nhân dân
Cách mạng (NDCM) Lào được thành lập, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến
công tác phụ nữ, vấn đề bình đẳng giới, tạo điều kiện để phụ nữ tham gia lãnh
đạo, quản lý (LĐ, QL) đất nước, quản lý xã hội. Điều đó được khẳng định và thể
hiện nhất quán trong các cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Đặc biệt, trong giai đoạn thực hiện công cuộc đổi
mới toàn diện đất nước, Đảng và Nhà nước nhấn mạnh đến việc thực hiện quyền
bình đẳng giới, chú trọng công tác cán bộ nữ, coi trọng tăng tỷ lệ cán bộ nữ tham
gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; nâng cao trình độ học vấn cho phụ

nữ là tạo điều kiện quan trọng để thực hiện quyền bình đẳng, dân chủ cho phụ
nữ, phát huy vai trò và nâng cao địa vị cho phụ nữ. Đại hội lần thứ IV (1986) của
Đảng NDCM Lào đã chỉ rõ:
Đảng và Chính phủ cố gắng tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc
giải phóng phụ nữ một cách thật sự. Mặt khác, Hội Liên hiệp Phụ nữ
(HLHPN) có nhiệm vụ giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ nữ, vận
động, tổ chức, tập hợp các tầng lớp phụ nữ Lào, khắc phục tư tưởng tự
ti, ỷ lại, tính thụ động trong phấn đấu vươn lên của phụ nữ, làm cho họ
tích cực tham gia vào phong trào thi đua từ việc xây dựng gia đình văn
hóa mới đến việc tham gia quản lý kinh tế - xã hội [83, tr.142].
Nhờ đó, ngày càng có nhiều phụ nữ trở thành những người LĐ, QL năng
động và giữ những chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị (HTCT), nhất là
HTCT cấp trung ương, cấp cao nhất cả về quyền lực chính trị, cả về trình độ tổ
chức, có vai trò lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành quản lý toàn bộ các hoạt động của
đất nước. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn tồn tại khoảng cách khá lớn về sự
tham gia LĐ, QL giữa nam và nữ ở tất cả các cấp trong HTCT, trước hết là ở cấp
trung ương. Tỷ lệ phụ nữ tham gia vào các vị trí ra quyết định vẫn còn hạn chế
nhất định cả về số lượng và chất lượng. Hiện nay, phụ nữ Lào tham gia vào Bộ
Chính trị (BCT) là 9,1% (nam: 90,9%); trong số các Ủy viên Ban Chấp hành


3
Trung ương (BCHTW) Đảng, nữ chỉ chiếm 13,0% (nam: 87,0%); ở cấp Bộ
trưởng và tương đương, nữ chiếm 12,5% (nam: 87,5%, v.v.. [125, tr.34].
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên, trong đó có việc nhận
thức về giới và bình đẳng giới trong HTCT chưa đầy đủ và sâu sắc cả về lý
luận và thực tiễn; cơ chế, chính sách tạo nguồn, đánh giá, quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng, sử dụng cán bộ nữ chưa có tính chiến lược lâu dài, thiếu tính đột
phá. Việc thực hiện chính sách, quy hoạch công tác cán bộ nữ chưa hiệu quả.
Định kiến giới, thiếu tin tưởng vào năng lực LĐ, QL của phụ nữ còn nặng nề.

Sự tự ti, an phận cùng với gánh nặng công việc gia đình mà người phụ nữ phải
đảm nhận càng làm trầm trọng thêm khoảng cách giới trong lĩnh vực LĐ, QL
hiện nay.
Hạn chế phụ nữ tham gia LĐ, QL nhất là ở cấp cao. Đây là rào cản lớn
không chỉ ngăn cản sự tiến bộ của một nửa nhân loại, mà còn cản trở sự phát triển
bền vững của xã hội, ảnh hưởng không chỉ đến phụ nữ mà còn đến cộng đồng, xã
hội. Vì như vậy, các chính sách vĩ mô ra đời thiếu lòng ghép giới, thiếu quan điểm
giới, thiếu đóng góp của phụ nữ sẽ đem lại hiệu quả phát triển kém bền vững.
Với những lý do phân tích trên, nghiên cứu về: Phụ nữ tham gia lãnh đạo,
quản lý trong hệ thống chính trị cấp trung ương ở Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân Lào hiện nay vừa có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, vừa mang tính thời sự cấp
bách, nhằm góp phần thực hiện chủ trương, chính sách bình đẳng giới, nâng cao
địa vị người phụ nữ để đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển của đất nước.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở những vấn đề lý luận và thực tiễn về phụ nữ tham gia LĐ, QL
trong HTCT cấp trung ương, luận án đề xuất một số quan điểm cơ bản, giải pháp
và kiến nghị nhằm tăng cường số lượng, chất lượng phụ nữ tham gia LĐ, QL
trong HTCT cấp trung ương ở CHDCND Lào đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội
nhập quốc tế.


4
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trình bày tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài của
luận án.
Hệ thống, khái quát cơ sở lý luận và các yếu tố tác động đến phụ nữ tham
gia LĐ, QL trong HTCT cấp trung ương.
Phân tích thực trạng và một số vấn đề đặt ra đối với phụ nữ tham gia
LĐ, QL trong HTCT cấp trung ương ở CHDCND Lào hiện nay.

Đề xuất quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu và kiến nghị nhằm tăng
cường phụ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT cấp trung ương ở CHDCND Lào
hiện nay.
3. Đối tượng, giới hạn phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là phụ nữ tham gia LĐ, QL từ cấp
Phó Vụ trưởng và tương đương trở lên ở các cơ quan trong HTCT cấp trung
ương ở CHDCND Lào.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Về lĩnh vực: Luận án nghiên cứu phụ nữ tham gia LĐ, QL: (1) Cơ quan
đảng; (2) cơ quan nhà nước; (3) Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội ở cấp
trung ương.
Về không gian: Luận án chỉ tập trung nghiên cứu phụ nữ tham gia LĐ, QL
cấp trung ương ở CHDCND Lào.
Về thời gian: đề tài tập trung nghiên cứu và sử dụng số liệu từ Đại hội lần
thứ IX của Đảng NDCM Lào (2011) đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
quan điểm của Đảng NDCM Lào về phụ nữ tham gia LĐ, QL, phụ nữ và bình
đẳng giới, có tham khảo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng


5
sản Việt Nam về vấn đề nghiên cứu. Luận án cũng sử dụng lý thuyết phân tích
giới để nghiên cứu các vấn đề phụ nữ, bình đẳng giới.
Cơ sở thực tiễn của luận án là thực trạng phụ nữ tham gia LĐ, QL trong
HTCT cấp trung ương ở Lào đã xác định ở phạm vi nghiên cứu.
Luận án kế thừa các tài liệu, các công trình của các nhà nghiên cứu,
hoạt động thực tiễn ở Lào, Việt Nam cũng như các tổ chức quốc tế liên quan

đến đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời
sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành, cụ thể như kết hợp phương
pháp lôgic với lịch sử, diễn giải và quy nạp, điều tra xã hội học, trong đó gồm:
các cuộc phỏng vấn sau được kết hợp trong quá trình nghiên cứu, khảo sát, với
đối tượng là cán bộ LĐ, QL của một số cơ quan cấp trung ương.
Bảng hỏi: gồm 9 câu hỏi, với dung lượng mẫu là 300 phiếu, đối tượng
hỏi là cán bộ LĐ, QL tại một số bộ, ban, mặt trận và tổ chức chính trị - xã hội
đại diện trong HTCT cấp trung ương ở CHDCND Lào (nhấn mạnh về cơ cấu
giới tính, tuổi đời, trình độ chuyên môn, lý luận, lĩnh vực, chức vụ) [Phụ lục 3,
Phần 1].
Mục đích điều tra xã hội học lấy thêm thông tin để kiểm chứng so với kết
quả nghiên cứu khác về phụ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT cấp trung ương ở
CHDCND Lào hiện nay.
Cách thức tiến hành điều tra xã hội học là phát phiếu trực tiếp với các
đối tượng trong phạm vi nghiên cứu, sau đó thu về và sử lý bằng phương
pháp SPSS.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án góp phần làm rõ thực trạng phụ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT
cấp trung ương ở CHDCND Lào hiện nay; chỉ ra những hạn chế, thách thức đối
với phụ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT cấp trung ương phải đối mặt và
nguyên nhân.


6
Luận án đề xuất những quan điểm, giải pháp và kiến nghị nhằm tăng
cường phụ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT cấp trung ương ở CHDCND Lào
hiện nay, góp phần tạo lập căn cứ cho việc hoàn thiện hệ thống cơ chế chính
sách đối với phụ nữ.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề
lý luận và thực tiễn về phụ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT cấp trung ương ở
CHDCND Lào hiện nay.
Luận án góp phần cung cấp thêm những luận cứ cho việc hoạch định, thực
hiện chính sách về phụ nữ, bình đẳng giới, đặc biệt là chính sách cán bộ nữ trong
HTCT cấp trung ương ở CHDCND Lào.
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy
những chuyên đề liên quan đến vấn đề phụ nữ trong LĐ, QL, bình đẳng giới...
của chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học và các ngành khác có liên quan.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục lục công trình tác giả đã công bố
liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm
4 chương, 9 tiết.


7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI CỦA
LUẬN ÁN

1.1.1. Các công trình nghiên cứu của một số tác giả nước ngoài
Trong nội dung này, luận án sẽ trình bày tổng quát các công trình
nghiên cứu tiêu biểu ở Việt Nam, một số nước và tổ chức quốc tế đã được
nghiên cứu liên quan đến vấn đề phụ nữ và bình đẳng giới nói chung, phụ nữ
tham gia tham gia LĐ, QL nói riêng. Liên quan đến đề tài có một số công
trình sau đây:
Thứ nhất: Những nghiên cứu về phụ nữ và bình đẳng giới

Lê Thi “Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới ở Việt nam hiện nay”
[46]. Công trình này chính là kết quả bước đầu của sự vận dụng quan điểm
của Đảng và Nhà nước, cũng như quan điểm tiếp cận giới vào việc xem xét
các vấn đề có liên quan đến bình đẳng giới, kết hợp với các hình thức thu
nhập thông tin qua các cuộc khảo sát đời sống phụ nữ công nhân, trí thức
trong quá trình đổi mới đất nước. Từ đó đã nêu lên vấn đề đáng quan tâm và
đề xuất ý kiến về một số chính sách xã hội cần thiết, nhằm xây dựng bình
đẳng giới trong tình hình mới.
Dương Thị Minh “Gia đình Việt Nam và vai trò người phụ nữ hiện nay”
[34]. Luận án trình bày một số quan niệm chung về gia đình và vai trò của người
phụ nữ trong gia đình, các nhân tố tác động đến vai trò người phụ nữ trong gia
đình. Đồng thời, tác giả luận án làm rõ đặc điểm cơ bản của gia đình Việt Nam,
vai trò người phụ nữ trong quá trình xã hội hóa một số chức năng trong gia đình
và xu hướng biến đổi vai trò người phụ nữ trong giai đoạn hiện nay, qua đó chỉ
ra gia đình và người phụ nữ phát huy được vai trò to lớn đối với tiến trình phát
triển đất nước qua những thời kỳ lịch sử khác nhau. Tuy nhiên, gia đình và người
phụ nữ cũng chịu nhiều tác động khách quan và chủ quan, đó là tác động ảnh


8
hưởng của những yếu tố lịch sử, yếu tố thời đại - toàn cầu hóa và thực tiễn của
nền kinh tế - xã hội nước nhà trong chuyển đổi từ truyền thống sang hiện đại.
Trên cơ sở làm rõ thực trạng, luận án đã mạnh dạn nêu ra những phương hướng,
những quan điểm chỉ đạo và những giải pháp nhằm xây dựng thành công gia
đình mới và phát huy hơn nữa vai trò người phụ nữ đáp ứng yêu cầu sự nghiệp
cộng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Đỗ Thị Thạch, “Phát huy nguồn lực trí thức nữ Việt Nam trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá” [42]. Tác giả đã làm rõ quan niệm về
trí thức, trí thức nữ, trên cơ sở đó, đi sâu phân tích sự hình thành, đặc điểm
của nguồn lực trí thức nữ Việt Nam và những đóng góp của họ đối với sự phát

triển của gia đình và xã hội...; đề xuất một số giải pháp phát huy nguồn lực trí
thức nữ Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Từ
đó góp phần quan trọng trong việc xoá bỏ định kiến giới, khẳng định vai trò to
lớn của họ đối với sự phát triển của đất nước. Công trình đã nghiên cứu vấn đề
trí thức nữ dưới một góc nhìn mới, góp phần quan trọng trong việc xóa bỏ định
kiến giới, khẳng định vai trò to lớn của người phụ nữ đối với sự phát triển của xã
hội, nhất là lĩnh vực khoa học và lĩnh vực LĐ, QL nhằm thực hiện bình đẳng
giới ở Việt Nam hiện nay.
Phan Thanh Khôi, Đỗ Thị Thạch, “Những vấn đề giới - từ lịch sử đến hiện
đại” [20]. Đây là công trình của tập thể các nhà khoa học của Viện Chủ nghĩa xã
hội khoa học - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Các tác giả của công
trình đã nghiên cứu các vấn đề về giới từ tiếp cận trong các tác phẩm kinh điển
của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh để đi đến khẳng định những
tư tưởng, quan điểm của các nhà mácxít nêu trên là cơ sở lý luận, phương pháp
luận quan trọng để nhận thức và thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay.
Vấn đề giới trong đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt
Nam cũng được các tác giả đi sâu phân tích thấy được đường lối, chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam, được nhiều tổ chức quốc tế đánh giá
là rất tiến bộ và tích cực trên phương diện bình đẳng giới.


9
Trịnh Quốc Tuấn, Đỗ Thị Thạch, “Khoa học giới - Những vấn đề lý luận
và thực tiễn” [50]. Các tác giả của công trình đã cung cấp một bức tranh về lịch
sử phát triển của khoa học giới; đồng thời nghiên cứu vấn đề giới dựa trên cách
tiếp cận các lĩnh vực của đời sống gia đình và xã hội. Vấn đề giới trong lĩnh
vực lãnh đạo, quản lý được các tác giả phân tích với các nội dung cụ thể như:
Mối liên hệ giữa bình đẳng giới với công tác LĐ, QL; thực trạng tham gia LĐ,
QL của nam giới và nữ giới - thành tựu, hạn chế và nguyên nhân và một số giải
pháp nhằm khắc phục tình trạng bất bình đẳng giới trong LĐ, QL.

Trần Thị Vân Anh, Nguyễn Hữu Minh (Chủ biên), “Bình đẳng giới ở
Việt Nam” [2]. Đây là kết quả điều tra cơ bản về bình đẳng giới, các tác giả xác
định thực trạng bình đẳng giới về cơ hội và khả năng nắm bắt cơ hội của phụ
nữ, của nam giới; tương quan giữa hai giới trên lĩnh vực lao động - việc làm,
giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe và địa vị trong gia đình, cộng đồng và xã
hội. Công trình nghiên cứu này giúp cho tác giả luận án thấy được vai trò của
phụ nữ trong giải quyết các vấn đề của xã hội nói chung và LĐ, QL nói riêng.
Đỗ Thị Thạch, “Tác động của toàn cầu hoá đối với thực hiện bình đẳng
giới ở Việt Nam hiện nay” [43]. Trên cơ sở tiếp cận quá trình toàn cầu hóa như
là một tất yếu khách quan tác động đến mọi quốc gia trên các mặt và đời sống xã
hội, tác giả đã phân tích khá rõ cả tác động tích cực và tiêu cực của toàn cầu hóa
đến việc thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay. Các lĩnh vực mà quá
trình toàn cầu hóa tác động đến là: gia đình, lao động việc làm và thu nhập, văn
hóa xã hội. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp để phát huy tác động tích cực
và hạn chế tác động tiêu cực của toàn cầu hóa tới thực hiện bình đẳng giới ở Việt
Nam hiện nay.
Vũ Thị Lan Anh, “Quyền phụ nữ các nước ASEAN dưới góc độ so sánh
luật” [4]. Qua nghiên cứu pháp luật các nước ASEAN về quyền của phụ nữ, tác
giả bài báo cho biết: quyền của phụ nữ được ghi nhận ở các văn bản pháp luật ở
tầm quốc tế, khu vực và quốc gia. Đặc biệt là quyền tham chính: “Quyền chính
trị cũng là quyền quan trọng của phụ nữ ở các nước ASEAN. Điều 7 Công ước
CEDAW chỉ rõ phụ nữ được đảm bảo quyền bầu cử, quyền tham gia lãnh đạo


10
trong các cơ quan nhà nước và quyền thực thi các trách nhiệm xã hội của mình…”
[4, tr.6]. Phụ nữ cũng như nam giới đều có thể được đề cử giữ các chức vụ lãnh
đạo trong các cơ quan quyền lực nhà nước. Trừ ngoại lệ là Myanmar và Brunei,
phụ nữ các nước ASEAN đều được pháp luật đảm bảo quyền tham gia chính
trường. Pháp luật các nước ASEAN nhìn chung đều quy định về quyền phụ nữ và

vấn đề bảo vệ người phụ nữ nói chung, tham gia chính trị nói riêng, nhưng ở các
mức độ khác nhau; mặc dù được pháp luật bảo vệ nhưng trên thực tế ở khu vực
ASEAN, quyền của phụ nữ có tính thực thi chưa cao. Chính vì thế, cho tới thời
điểm này, việc đảm bảo các quyền công dân, đặc biệt là quyền bình đẳng của phụ
nữ trong lĩnh vực tham chính vẫn còn là vấn đề nổi cộm của nhiều quốc gia trong
khu vực ASEAN. Giải quyết vấn đề này không chỉ đơn giản về mặt pháp lý mà
còn phụ thuộc nhiều vào ý thức xã hội và ý thức công dân. Vì vậy, thiết nghĩ,
người phụ nữ cần có sự quan tâm nhiều hơn nữa từ phía nhà nước, các tổ chức xã
hội và mọi công dân, cho dù họ ở bất cứ cương vị nào trong xã hội.
Lê Minh Tiến, “Chính sách và pháp luật của ASEAN về các vấn đề liên
quan đến phụ nữ” [49]. Tác giả của bài viết đã chỉ rõ, ngay từ khi mới thành lập,
ASEAN và các quốc gia thành viên đã nhận thức rõ vai trò cũng như những
đóng góp của phụ nữ trong quá trình phát triển của khu vực, đồng thời, đã có
những nỗ lực thúc đẩy vị thế của người phụ nữ, có những hoạt động thiết thực vì
sự tiến bộ của phụ nữ trong khu vực nói riêng và trên trường quốc tế nói chung.
Chính sách này đã được thể hiện nhất quán, xuyên suốt và ngày càng cụ thể hơn
qua các văn kiện pháp lý cơ bản của ASEAN. Bài viết, bao gồm 2 nội dung
chính, một là, những nỗ lực của ASEAN trong hoạt động xây dựng chính sách
và pháp luật về các vấn đề liên quan đến phụ nữ; hai là, tuyên bố ASEAN vì sự
tiến bộ của phụ nữ và tuyên bố xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ khu vực ASEAN những văn kiện pháp lý chuyên ngành cơ bản về các vấn đề liên quan đến phụ nữ.
Lê Quý Đức, “Phẩm chất phụ nữ Việt Nam truyền thống và hiện đại”
[11]. Trong cuốn sách này, tác giả đã trình bày và khẳng định rằng, xuyên suốt
lịch sử giữ nước và dựng nước và xây dựng đất nước, người phụ nữ Việt Nam có


11
vai trò hết sức quan trọng. Dù trong hoàn cảnh nào, thời đại nào, người phụ nữ
cũng luôn vừa là hậu phương, vừa là tiền tuyến vô cùng vững chắc. Ngày nay,
đất nước đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
lại tiếp tục không thể thiếu vắng vai trò của người phụ nữ, đứng trước những thời

kỳ và thách thức mới của thời đại, phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam càng
thêm được thử thách và phát huy những giá trị tốt đẹp vốn có. Phụ nữ Việt Nam
hiện đại thể hiện tinh thần yêu nước thông qua những hành động cụ thể, gắn kết
bản thân, gia đình và Tổ quốc, ra sức đóng góp vào thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược: đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và bảo vệ
vững chắc nền độc lập dân tộc.
Võ Thị Mai, “Đánh giá chính sách bình đẳng giới dựa trên bằng chứng”
[33]. Cuốn sách này được hình thành từ kết quả nghiên cứu của đề tài “Đánh giá
chính sách về bình đẳng giới dựa trên bằng chứng thực địa”, có bổ sung một số
nguồn tài liệu sẵn có, đặc biệt là nguồn số liệu thống kê quốc gia về phát triển
kinh tế - xã hội nói chung, thực hiện bình đẳng giới nói riêng trong thời kỳ đổi
mới và hội nhập quốc tế. Nội dung của cuốn sách đã nêu rõ cơ sở lý luận và cách
tiếp cận nghiên cứu chính sách về bình đẳng giới, đánh giá thực trạng thực hiện
chính sách về bình đẳng giới; đồng thời đưa ra các giải pháp tăng cường chính
sách về bình đẳng giới để thực hiện bình đẳng giới tốt hơn nữa trong thời kỳ đổi
mới và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
Lê Thị Quý, “Bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay” [39]. Tác giả đã phân
tích quan niệm về bình đẳng giới và nhấn mạnh:“Thực tế cuộc sống Việt Nam
cho thấy, có sự khác biệt về bình đẳng giới thực chất và bình đẳng giới hình
thức” [39, tr.76]. Bài viết đã chỉ ra quá trình phát triển nhận thức giới ở Việt
Nam và nhận định: Phụ nữ ngày nay đã được độc lập về kinh tế, được tham gia
và thừa nhận trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, gia
đình, thậm chí ở nhiều nơi, họ còn đứng ở vị trí lãnh đạo cao cấp. Đây là những
biểu hiện của bình đẳng giới thực chất ở Việt Nam. Về luật pháp và chính sách


12
bình đẳng giới, Việt Nam đã có những tiến bộ về giới, công nhận quyền bình
đẳng nam và nữ ở trong xã hội và gia đình. Tác giả đã bước đầu chỉ ra những
thách thức hay bình đẳng giới hình thức ở Việt Nam như: luật thì có nhưng

không được thực hiện, sự vất vả của phụ nữ trong vai trò “kép”, nhất là chính
sách quy định độ tuổi về hưu của phụ nữ là 55 tuổi, nam giới là 60 tuổi, chính
sách này đã hạn chế các đóng góp và đề bạt đối với phụ nữ trí thức, nhất là khi tỷ
lệ phụ nữ tham gia LĐ, QL vốn đã nhỏ bé, chênh lệch so với nam giới, do đó, họ
lại càng không có điều kiện thuận lợi hơn để phát triển.
Các công trình nghiêu cứu nêu trên đã có những đóng góp như sau:
Một là, các công trình, bài viết của các tác giả đã gợi mở ra tính cấp thiết
của việc nghiên cứu vấn đề phụ nữ, vấn đề giới và bình đẳng giới.
Hai là, các công trình nghiên cứu đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề liên quan đến
phụ nữ và bình đẳng giới; quan niệm về giới và bình đẳng giới, việc thực thực
hiện bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực LĐ, QL.
Ba là, một số công trình đã phân tích vị trí, vai trò của phụ nữ trong lịch
sử cũng như hiện tại, họ khẳng định rằng: “Dù trong hoàn cảnh nào, thời đại nào,
người phụ nữ cũng luôn vừa là hậu phương, vừa là tiền tuyến vô cùng vững
chắc. Ngày nay, đất nước đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, càng không thể thiếu vắng vai trò của phụ nữ...”. Các tác giả
còn phân tích sâu về vị trí, vai trò của phụ nữ trong thời kỳ đổi mới kinh tế - xã
hội gắn với vấn đề việc làm, thu nhập, sức khỏe, học vấn chuyên môn; phụ nữ
quản lý kinh tế - xã hội; phụ nữ và gia đình.
Bốn là, các công trình nghiên cứu đã hệ thống hóa các chính sách và pháp
luật liên quan đến quyền của phụ nữ và bình đẳng giới ở Việt Nam và một số
quốc gia, khu vực. Dựa trên cơ sở đó, các công trình nghiên cứu cũng đưa ra
quan điểm và giải pháp nhằm từng bước khắc phục những tồn tại và hạn chế để
đảm bảo thực hiện quyền bình đẳng nam nữ về mọi mặt, đặc biệt là trong lĩnh
vực tham chính.


13
Thứ hai: Nghiên cứu chung về hệ thống chính trị và phụ nữ tham gia lãnh
đạo, quản lý nói chung, trong HTCT nói riêng

Nguyễn Văn Huyên, “Hệ thống chính trị Anh, Pháp, Mỹ (Mô hình tổ
chức và hoạt động)” [18]. Tác giả của cuốn sách đã tập trung nghiên cứu: Quá
trình hình thành, mô hình tổ chức và hoạt động của HTCT Anh, Pháp, Mỹ; đồng
thời, đánh giá ưu, nhược điểm, hiệu lực và hiệu quả hoạt động của HTCT Anh,
Pháp, Mỹ; sau đó, phân tích và nêu ra những giá trị tham khảo cho việc đổi mới
và hoành thiện HTCT Việt Nam.
Lê Minh Thông, “Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của hệ thống
chính trị trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” [47]. Tác giả
cuốn sách này cho rằng: Trong hơn 20 năm đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã có nhiều chủ trương, giải pháp từng bước đổi mới tổ chức và hoạt
động của Đảng và Nhà nước, của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội, tích
cực khắc phục sự không tương thích giữa đổi mới kinh tế và đổi mới HTCT. Do
vậy, HTCT Việt Nam đã đáp ứng ngày càng tốt hơn nhiệm vụ xây dựng và hoàn
thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN); nhà nước
pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân và hội nhập kinh tế quốc tế. Cuốn
sách cung cấp một số vấn đề lý luận và thực tiễn của HTCT Việt Nam, qua đó
nêu bật bước chuyển từ tư duy lý luận về chuyên chính vô sản và hệ thống
chuyên chính vô sản sang tư duy về dân chủ XHCN và HTCT, chuyển từ tư duy
lý luận về nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân.
Trần Đình Hoan, “Quan điểm và nguyên tắc đổi mới hệ thống chính trị ở
Việt Nam giai đoạn 2005-2020” [17]. Trong cuốn sách này, tác giả tiếp cận
nghiên cứu trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, kết hợp với tổng kết thực tiễn đổi mới ở Việt Nam trong hơn hai
mươi năm qua, tác giả đã tập trung phân tích làm rõ tính tất yếu khách quan của
việc đổi mới HTCT ở Việt Nam hiện nay, nêu ra các mục tiêu, quan điểm và
nguyên tắc đổi mới HTCT, đồng thời đề xuất phương hướng và giải pháp đổi
mới HTCT ở Việt Nam giai đoạn 2005-2020.


14

Nguyễn Hữu Đồng, “Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ
thống chính trị Việt Nam hiện nay” [10]. Nội dung cuốn sách bước đầu nghiên
cứu làm rõ đúng vị trí, vai trò, nhiệm vụ của Đảng và các tổ chức chính trị - xã
hội trong HTCT; làm rõ thực trạng hoạt động của Đảng và tổ chức chính trị - xã
hội hiện nay; những vấn đề đang đặt ra trong tổ chức và hoạt động của Đảng, các
tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam. Đồng thời cuốn sách còn đề cặp đến vấn đề đổi mới nội dung và phương
thức lãnh đạo của Đảng, nhằm đổi mới HTCT, thực hiện tốt dân chủ hóa XHCN,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Phạm Ngọc Trâm, “Quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam
(1986-2011)” [54]. Cuốn sách này nhằm phản ánh những thành tựu và hạn chế
trong quá trình đổi mới HTCT ở Việt Nam giai đoạn 1986-2011; thông qua quá
trình lịch sử vạch ra mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới HTCT với toàn bộ
công cuộc đổi mới đất nước, nhất là đổi mới về kinh tế; trên cơ sở chọn lọc
những vấn đề, những sự kiện lịch sử tiêu biểu, đề tài phản ánh quá trình chuyển
biến tích cực, những mối quan hệ phụ thuộc, tác động lẫn nhau cũng như những
mặt hạn chế, bất cập của quá trình đổi mới cả HTCT và từng bộ phận của
HTCT. Đồng thời làm rõ những đặc điểm cơ bản và những vấn đề có tính quy
luật của quá trình đổi mới HTCT ở Việt Nam giai đoạn 1986-2011.
Trần Thị Tuy Hòa, “Phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý” [16]. Cuốn sách
này là ấn phẩm đầu tiên về đề tài phụ nữ tham gia lãnh đạo và quản lý. Tác giả
cuốn sách đã tiếp cận vấn đề nghiên cứu dựa trên sự tham gia LĐ, QL của phụ
nữ, trình bày một số vấn đề phụ nữ tham gia công tác lãnh đạo và quản lý, đưa ra
những vấn đề cơ bản của lãnh đạo và quản lý, những yêu cầu của công tác lãnh
đạo và quản lý, sự cần thiết và ưu thế của phụ nữ trong công tác quản lý và lãnh
đạo, vài nét về sự tham gia quản lý và lãnh đạo của phụ nữ trên thế giới; phân tích
thực trạng phụ nữ tham gia lãnh đạo và quản lý trong lịch sử Việt Nam, khả năng
của phụ nữ tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới. Qua đó,
tác giả đưa ra quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam



15
đối với phụ nữ trong công tác lãnh đạo và quản lý. Để khuyến khích phụ nữ tham
gia lãnh đạo và quản lý, tác giả cũng đề xuất một số phương hướng và giải pháp
chủ yếu mang tính vĩ mô đối với các cấp, các ngành.
Nguyễn Đức Hạt, “Nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ trong hệ
thống chính trị” [15]. Cuốn sách đã góp phần làm sáng tỏ những luận cứ khoa
học, thực tiễn về việc nâng cao vị trí, vai trò, năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ,
tăng cường sự tham gia LĐ, QL của cán bộ nữ trong HTCT ở Việt Nam trong
tình hình mới. Bên cạnh việc quan tâm giải quyết các vấn đề liên quan tới nâng
cao năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ trong HTCT, tác giả cuốn sách còn đề cập
đến các mối quan hệ khác rộng lớn hơn. Đó là đa dạng hóa giá trị, tăng quyền và
mở rộng cơ hội lựa chọn cho cả hai giới một cách hợp lý, để hai giới có thể phát
huy mọi tiềm năng, sức lực của mình đóng góp cho sự phát triển bền vững của
xã hội, của đất nước.
Vương Thị Hanh, “Phụ nữ Việt Nam và việc tham gia chính trị” [14].
Công trình nghiên cứu đã chỉ ra một trong những nguyên nhân quan trọng nhất
đang cản trở việc thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới ở Việt Nam có liên quan
đến vai trò của cán bộ trong HTCT, đó là sự: thiếu quyết tâm và cam kết có trách
nhiệm của thủ trưởng các cấp các ngành. Lãnh đạo các cấp các ngành thiếu sự
chỉ đạo sát sao việc xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ nữ như tạo nguồn,
đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đề bạt phụ nữ, chưa mạnh dạn sử dụng, đề bạt cán
bộ trẻ. Thiếu quan tâm trong việc thực hiện các biện pháp đặc biệt về chỉ tiêu
phụ nữ tham gia LĐ, QL, ra quyết định, dẫn đến các chỉ tiêu đưa ra không đạt
được và thực hiện chỉ tiêu theo cơ cấu, hình thức mà không quan tâm đến chất
lượng cán bộ. Thiếu kiểm tra, đôn đốc và định kỳ đánh giá việc thực hiện chính
sách cán bộ nữ, thiếu biện pháp thưởng phạt cần thiết đối với các đơn vị, ban
ngành trong việc xây dựng và thực hiện chính sách cán bộ nữ.
Nguyễn Thị Phương, “Một số yếu tố tác động đến tỷ lệ nữ trúng cử đại
biểu Quốc hội khóa XII” [38]. Bài viết đã phân tích một số yếu tố ảnh hưởng



16
đến tỷ lệ nữ trúng cử đại biểu Quốc hội khóa XII và chỉ ra những yếu tố khách
quan có tác động đến kết quả tăng tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội như sự lãnh đạo,
chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, công tác quy hoạch tạo nguồn cán bộ nữ, việc sắp
xếp danh sách bầu cử, công tác tuyên truyền và việc nâng cao nhận thức giới
của cử tri. Bên cạnh đó, bài viết còn cho rằng, các yếu tố khách quan như học
vấn, nghề nghiệp, lĩnh vực, vị trí công tác và uy tín của bản thân các nữ ứng cử
viên cũng là những điều kiện quan trọng quyết định sự thành công của họ trong
quá trình bầu cử.
Trần Thị Vân Anh, “Những trở ngại đối với sự phấn đấu của nữ lãnh
đạo” [3]. Tác giả đã trình bày những bằng chứng khá thuyết phục về những trở
ngại chính đối với sự phấn đấu của cán bộ nữ lãnh đạo. Đó là: ảnh hưởng, tác
động của những người có trách nhiệm, việc tạo nguồn và kiểm tra, đánh giá công
tác cán bộ nữ; trở ngại từ các quy định chính sách; sự ảnh hưởng của định kiến
và chuẩn mực cũ ở gia đình, cộng đồng và cơ quan. Chẳng hạn như chuẩn mực,
sự mặc định về năng lực của nam giới cao hơn so với nữ giới: “Nếu một người
phụ nữ về năng lực làm việc như một người nam giới thì chắc chắn người ta bỏ
phiếu cho nam giới. Không phải chỉ người nam bỏ phiếu cho người nam đâu mà
tâm lý chung là nữ giới cũng bỏ cho người nam giới. Có thể nhiều người không
thích bị một người phụ nữ lãnh đạo, đặc biệt là nam. Có thể họ cũng nghĩ là phụ
nữ ít có thời gian dành cho công việc hơn, vì phụ nữ còn có công việc gia đình”.
“Người ta không nói ra nhưng lúc nào người ta cũng nghĩ là nam giới làm tốt
hơn”. Người có trách nhiệm thường mong muốn ở nam và nữ lãnh đạo các phẩm
chất khác nhau, đây là những kỳ vọng về “tiêu chuẩn” một cách không chính
thức, nằm sâu trong nhận thức và những suy nghĩ của mỗi cá nhân. Thông
thường, nữ làm LĐ, QL thường bị quan sát, đánh giá và dễ bị phê bình hơn so
với nam giới... Trong gia đình thì chuẩn mực về phụ nữ trước hết là người phục
vụ gia đình còn khá phổ biến... [3, tr.23-24].

Vũ Mạnh Lợi, “Phụ nữ làm quản lý và lãnh đạo trong khu vực công ở
Việt Nam” [27]. Báo cáo đã phân tích tỷ lệ phần trăm phụ nữ tham gia trong


17
Đảng, trong Quốc hội, trong Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh,
huyện và xã cùng với cơ cấu giới tính trong hệ thống lãnh đạo và quản lý nhà
nước. Kết quả phân tích cho thấy phụ nữ có rất ít đại diện trong lãnh đạo ở tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội so với tỷ lệ nữ trong lực lượng lao động của
mỗi lĩnh vực; tỷ lệ phụ nữ tham gia vào các vị trí lãnh đạo không đồng đều giữa
các ngành và lĩnh vực của đời sống xã hội; ở nơi có sự tham gia của phụ nữ vào
vị trí lãnh đạo, họ thường không giữ vị trí lãnh đạo cao nhất; tỷ lệ nữ làm lãnh
đạo thấp là hiện tượng phổ biến ở tất cả các tỉnh và các địa phương… Sự khác
biệt có tính phổ biến này được cho là xuất phát từ các định kiến xã hội và khuôn
mẫu văn hóa cản trở sự tham gia lãnh đạo của phụ nữ.
Đỗ Thị Thạch, “Tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong công tác lãnh
đạo, quản lý ở nước ta hiện nay” [44]. Tác giả đã đưa ra minh chứng phân tích
về vai trò, sự đóng góp, điểm mạnh và điểm yếu của phụ nữ trong lĩnh vực LĐ,
QL, đồng thời chỉ ra một số những nguyên nhân hạn chế sự tham gia LĐ, QL
của phụ nữ ở các cấp như: định kiến về năng lực LĐ, QL của phụ nữ vẫn còn
khá nặng nề; rào cản về quy định tuổi nghỉ hưu; ảnh hưởng của công việc gia
đình. Bài viết nhấn mạnh:“Tình trạng phụ nữ tham gia LĐ, QL còn thấp về số
lượng và chất lượng ảnh hưởng lớn tới nguồn nhân lực chất lượng cao của đất
nước, đồng thời ảnh hưởng tới việc thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ mà Chính
phủ Việt Nam đã cam kết với các tổ chức quốc tế” [44, tr.43]. Trên cơ sở đó, để
tăng tỷ lệ nữ trong LĐ, QL, tác giả cũng đưa ra một số giải pháp.
Nguyễn Thị Hà, Nguyễn Thị Tuyết, “Sự chủ động của phụ nữ trong tiếp
cận và hưởng thụ quyền về tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị”
[12]. Đề tài phân tích từ góc độ tiếp cận quyền (cơ sở pháp lý) đến sự chủ động
của phụ nữ trong tiếp cận, hưởng lợi quyền tham gia LĐ, QL trong HTCT; chỉ ra

các nguyên nhân dẫn tới thực trạng tham gia LĐ, QL của phụ nữ các cấp còn thấp,
từ đó, nêu các biện pháp khắc phục tình trạng này là bên cạnh việc tạo cơ hội, điều
kiện từ phía thể chế, nam giới, gia đình và cộng đồng thì bản thân phụ nữ cần khắc
phục khó khăn, rào cản, chủ động hơn nữa trong quá trình tham chính.


18
Nguyễn Thị Tuyết, “Vai trò của phụ nữ Việt Nam trong HTCT hiện
nay” [52]. Tác giả của bài viết chỉ rõ, với quan điểm phụ nữ không chỉ là lực
lượng lao động đông đảo, mà còn là chủ thể tham gia xây dựng, cải cách xã
hội, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã quan tâm, định hướng, chỉ đạo quyết liệt
đối với công tác cán bộ nữ ở các cấp. Cùng với sự nhìn nhận, đánh giá năng lực
người phụ nữ một cách đúng mức của các cơ quan, tổ chức chính trị - xã hội và
cộng đồng, sự nỗ lực của bản thân mỗi cán bộ nữ, vị thế, vai trò phụ nữ Việt
Nam tham gia LĐ, QL trong HTCT ở Việt Nam hiện nay đã có nhiều thay đổi
rõ rệt so với trước đây.
Nguyễn Thị Tuyết, “Phụ nữ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị ở
Vùng đồng bằng sông Hồng thời kỳ đổi mới” [53]. Luận án đã hệ thống hóa cơ
sở lý luận và thực tiễn về LĐ, QL của phụ nữ trong HTCT. Đồng thời, phân tích
những thực trạng, chỉ ra những thành tựu và hạn chế của phụ nữ LĐ, QL trong
HTCT ở Vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay. Từ đó, đề xuất các quan điểm, giải
pháp nhằm tăng cường sự LĐ, QL của phụ nữ trong HTCT các cấp ở Vùng đồng
bằng sông Hồng, góp phần phát huy quyền làm chủ, bình đẳng và phát triển trong
lĩnh vực chính trị của phụ nữ cả nước nói chung.
Qua các nghiên cứu nêu trên, có thể khái quát một số đóng góp chính
của các công trình như sau:
Một là, các công trình nghiên cứu nêu trên đã luận giải sự cần thiết
về phụ nữ tham gia LĐ, QL nói chung, phụ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT
nói riêng.
Hai là, các công trình, bài viết đã làm sáng tỏ và thống nhất về

khái niệm về LĐ, QL, “Lãnh đạo là sự định hướng chung cho mọi cộng
đồng cùng sống với nhau hay cùng một sự liên kết theo một mục tiêu
nhất định, là việc tổ chức thực hiên các đường lối, chủ trương đã xác
định nhằm đạt được mục tiêu đề ra”. Còn “Quản lý là hoạch định, tổ
chức, chỉ đạo và kiểm soát công việc, khai thác các nguồn lực nhằm đạt
được mục tiêu đề ra”.


19
Ba là, các công trình nghiên cứu đã chỉ ra tỷ lệ chệnh lệch giữa nam và
nữ trong bộ máy lãnh đạo các cấp. Quan niệm, định kiến giới, bất bình đẳng
giới và sự hạn chế của phụ nữ trong giáo dục đào tạo, việc bố trí sử dụng cán
bộ nữ và việc giữ gìn, phát triển tiềm năng của phụ nữ, tác động của phân công
lao động bất bình đẳng hiện nay đến việc nâng cao năng lực và trao quyền cho
phụ nữ cũng là vấn đề được các tác giả quan tâm và luận chứng trên nhiều góc
độ khác nhau.
Bốn là, một số công trình đã tập trung phân tích những trở ngại, rào cản,
định kiến giới đối với phụ nữ khi tham gia LĐ, QL ở các cấp (có những trở ngại
từ các quy định chính sách, ảnh hưởng của định kiến và chuẩn mực cũ…). Từ đó
đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong công
tác LĐ, QL hiện nay.
Ngoài các công trình nghiên cứu tiêu biểu ở Việt Nam, còn có một số
công trình nhiên cứu của cá nhân và tổ chức quốc tế cũng rất quan tâm đến vấn
đề phụ nữ và bình đẳng giới, phụ nữ và bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý…
Kim Dung (lược dịch), “Vấn đề giới trong các báo cáo thực hiện và phát
triển Mục tiêu Thiên niên kỷ” [7]. Tác giả tổng hợp Tuyên bố Thiên niên kỷ của
189 nguyên thủ quốc gia thành viên Liên hiệp quốc thông qua vào tháng 9 năm
2000 tại New York - Mỹ, nhằm xây dựng một thế giới tốt đẹp và an toàn hơn
cho thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI bằng việc hợp tác phát triển và hữu nghị.
Những cam kết này không chỉ có giá trị thiết yếu cho sự phát triển mà còn là

quyền cơ bản của mỗi con người. Trong tám Mục tiêu Thiên niên kỷ, bình đẳng
giới và nâng cao vị thế cho phụ nữ (Mục tiêu 3) có ý nghĩa quan trọng không
phải vì tự thân vấn đề này mà còn là phương tiện để đạt được các mục tiêu khác,
càng bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị thì đầu tư hợp tác, phát triển càng
thuận lợi.
UNIFEM, “Cách tiếp cận có trách nhiệm giới đối với các mục tiêu phát
triển” [59]. Nội dung của báo cáo đã lý giải các chiều cạnh của bất bình đẳng


×