Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

thực trạng phụ nữ tham gia lãnh đạo quản lý ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (509.08 KB, 35 trang )

Thực trạng phụ nữ tham gia lãnh đạo quản lý ở Việt Nam hiện nay
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chon đề tài
Vấn đề bình đẳng giới là mối quan tâm hàng đầu của hầu hết các quốc gia
trên thế giới trong những thập kỷ qua. Một trong những khía cạnh nằm trong
mối quan tâm ấy là hiện tượng phụ nữ tham gia vào công tác lãnh đạo, quản lý
đang ngày càng có xu hướng gia tăng.
Ngày nay, vấn đề giải phóng phụ nữ tăng cường sự tham chính của phụ
nữ đã và đang gắn liền với vấn đề bình đẳng giới và được thực hiện bằng hành
động thực tiễn chứ không chỉ dừng lại ở những khái niệm, ý tưởng trừu tượng
hay những tuyên bố pháp lý. Nhà xã hội học Chủ Nghĩa Xã hội không tưởng
Phurie (XIX) cho rằng: "Giải phóng phụ nữ, thực hiện quyền bình đẳng của phụ
nữ cùng với nam giới là một thước đo của văn minh".
Việt Nam là một trong những quốc gia sớm tham gia ký và phê chuẩn
Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ
(CEDAW). Việt Nam đang tích cực xây dựng một xã hội bình đẳng, dân chủ và
văn minh, vấn đề nam nữ bình quyền được chú trọng hơn bao giờ hết .Việt Nam
cũng là nước được Liên hiệp Quốc đánh giá cao trong việc nỗ lực rút ngắn
khoảng cách Bình đẳng giới trong giáo dục, việc làm, tiền lương…
Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng nâng cao đời sống vật chất lẫn tinh
thần của phụ nữ, củng cố và tăng cường vị trí và đảm bảo quyền bình đẳng của
phụ nữ trong xã hội, tạo điều kiện và cơ hội cho cho phụ nữ tham gia ngày càng
nhiều hơn vào việc quản lý Nhà nước và xã hội.
Trước kia phụ nữ thường bị trói buộc trong phạm vi gia đình với những tư
tưỏng "trọng nam khinh nữ", "nam nội nữ ngoại"…nên cơ hội cho phụ nữ tham
gia các hoạt động xã hội nói chung và hoạt động lãnh đạo quản lý nói riêng hầu
như là không có. Nâng cao vị thế, vai trò phụ nữ, tạo điều kiện cho họ tham gia
vào hoạt động chính trị, vào công tác lãnh đạo quản lý là vấn đề hết sức cần thiết
Website:

Email :


cho sự phát triển xã hội, góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.Chỉ thị 37/CT-TW ngày 16-5-1994 khẳng định: " Nâng cao tỷ lệ
nữ cán bộ nữ tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế-xã hội là một yêu cầu
quan trọng để htực hiện quyền bình đẳng, dân chủ của phụ nữ, là điều kiện để
phát huy tài năng, trí tuệ và nâng cao địa vị của phụ nữ". Trong lịch sử phát triển
xã hội loài người, bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về giới cũng đều cản trở sự
phát triển bền vững, tạo nên xung đột xã hội .Vì vậy, hướng tới sự bình đẳng
giới mang ý nghĩ hết sức sâu sắc về cả kinh tế, văn hoá, chính trị.
Một trong những chỉ tiêu quan trọng mà Liên hiệp Quốc đã khuyến nghị
các quốc gia phải đạt dược trong tương lai là: đảm bảo không ít hơn 30% phụ
nữ ở các cương vị hoạch định và giải quyết các chính sách và chủ trương. Phụ
nữ Việt Nam đã có nhiều đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp phát triển đất
nước. Tuy nhiên vị thế và vai trò của họ vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và
đóng góp của họ.Trong quá trình tham gia công tác lãnh đạo quản lý, phụ nữ
ngày càng có nhiều thuận lơi, song cũng khá nhiều rào cản ảnh hưởng tới con
đường lãnh đạo của họ mà bao trùm là định kiến giới về năng lực, từ phía gia
đình, Chính sách xã hội và những phong tục lạc hậu, kéo theo những bất cập
khác khi họ tiếp cận hay tham gia công tác lãnh đạo quản lý. Vì thế để phụ nữ tự
tin trên con đường lãnh đạo quản lý cùng nam giới, Đảng và Nhà nước cần có
những chính sách và biện pháp phù hợp hơn để vị thế và vai trò của phụ nữ được
nâng lên một tầm cao hơn.
Vì những lý do trên mà tôi chọn đề tài :"Phụ nữ tham gia lãnh đạo và
quản lý ở Việt Nam hiện nay ".
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần kiểm định, bổ sung những luận cứ, luận
chứng cho một số lý thuyết Xã hội học và củng cố lý luận của một số chuyên
ngành có liên quan: Xã hội học Giới và phát triển, Xã hội học quản lý, Xã hội
học Gia đình, xã hội học chính trị…
Ứng dụng một số lý thuyết, phạm trù xã hội học cơ bản vào nghiên cứu đề
tài, hướng đến tìm hiểu tình hình thực trạng và những bất cập khi những người

2
Website:

Email :
phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý.Từ đó góp phần đưa ra những khuyến nghị,
giải pháp nhằm thúc đây quá trình giải phóng và nâng cao vị thế cho người phụ
nữ, hướng tới sự bình đẳng giới.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu thực trạng của người phụ nữ tham gia công tác lãnh đạo ởViệt
Nam hiện nay.
- Tìm hiểu một số bất cập mà phụ nữ hay vướng phải khi làm công tác
lãnh đạo
- Đưa ra các giải pháp hỗ trợ để tháo gỡ những bất cập này.
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng phụ nữ tham gia công tác lãnh đạo,
quản lý ở Việt Nam hiện nay.
* Khách thể nghiên cứu: Những người phụ nữ Việt Nam tham gia công
tác lãnh đạo, quản lý.
* Phạm vi nghiên cứu:
+ Truy cập internet với các trang web có liên quan .
+ Các văn bản, các báo cáo của các tổ chức như văn phòng quốc hội, Bô
nội vụ, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
+ Những bài viết về chủ đề phụ nữ và bình đẳng giới trên các trang báo
điện tử
+ Các sách báo, tạp chí chuyên ngành có liên quan tới: Tạp chí Xã hôi
học, Tạp chí Giáo dục và lý luận, tạp chí khoa học xã hội…
5. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Chủ nghĩa Duy vật biện chứng: Khi xem xét đánh giá mọi hiện tượng, sự
kiện xã hội phải đặt trong mối quan hệ toàn diện vơi điều kiện kinh tế- xã hội

đang vận động biến đổi liên tục.Ở báo cáo này khi nghiên cứu về thực trạng của
phụ nữ Việt Nam trong hoạt động lãnh đạo và quản lý, ta phải đặt trong điều
kiện cụ thể của đất nước và con người, xem xét các nhân tố, các vấn đề trong
mối quan hệ biện chứng, đi sâu vào nghiên cứu bản chất của hiện tượng.
3
Website:

Email :
Chủ nghĩa Duy vật lịch sử : Phải nhìn nhận, đánh giá các sự kiện xã hội ở
những hoàn cảnh, giai đoạn lịch sử cụ thể trên quan điểm kế thừa và phát triển.
* Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Phương pháp phân tích tài liệu: Là phương pháp chủ đạo chủ đạo được
sử dụng trong báo cáo nhằm giải quyết vấn đề nghiên cứu đặt ra.Các tài liệu liên
quan đến vấn đề nghiên cứu đã được đọc và phân tích để thu thập thông tin .
6. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết
* Giả thuyết nghiên cứu
- Xã hội càng phát triển thì người phụ nữ ngày càng có cơ hội được khẳng
định được vị thế và năng lực của mình . Họ được thể hiện mình, đặc biệt trong
lĩnh vực công tác lãnh đạo và quản lý. Số người phụ nữ tham gia vào đôị ngũ
lãnh đạo và quản lý ngày càng có xu hướng gia tăng.
- Tuy nhiên số lượng ấy vẫn còn ít, chậm và không liên tục do nhiều
nguyên nhân mà chủ đạo là do định kiến giới bao trùm: định kiến về năng lực
phụ nữ, rồi từ phía gia đình, chính sách xã hội, phong tục tập quán truyêng
thống kéo theo hàng loạt những thiệt thòi đối với nữ cán bộ.
* Khung lý thuyết
4
Website:

Email :
5

Năng
lực
Gánh
nặng
Gia
đình
Chính
sách

hội
Phong
tục
truyền
thống
Định kiến giới
Phụ nữ tham gia lãnh đạo,
quản lý
Điều kiện kinh tế - xã
hội
Website:

Email :
Chương I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lý luận
1.1. Lý thuyết nghiên cứu giới và phát triển
Giới và phát triển (GAD) là cách tiếp cận cho rằng: tiếp tục chú trọng đến
phụ nữ một cách tách biệt là bỏ qua một thực tế là nam giới có vị thế áp đảo với
phụ nữ. Khi kiện định quan điểm cho rằng không nên nghiên cứu phụ nữ một
cách tách rời, GAD đã chú trọng đến các mối quan hệ giới khi đề ra các biện

pháp để giúp họ trong quá trình phát triển.
Việc sử dụng thuật ngữ giới như một công cụ để phân tích đem lại sự
thuận lợi hơn khái niệm phụ nữ trong phát triển vì nó không chỉ tập trung vào
phụ nữ, mà còn tập trung vào các vai trò và các nhu cầu của phụ nữ và nam giới.
Phương pháp GAD xem giới như một vấn đề xuyên suốt có liên quan đến toàn
bộ các quá trình kinh tế, xã hội và chính trị.
Xem xét toàn bộ tổ chức xã hội và đời sống chính trị trong trật tự để hiểu
được sự thể hiện của những đặc điểm cụ thể của xã hội, GAD quan tâm đến cấu
trúc xã hội của giới và sự sắp đặt các vai trò của giới cụ thể, những trách nhiệm
và những mong đợi đối với phụ nữ và nam giới, hoan nghênh sự đóng góp tiềm
tàng của nam giới, chia sẻ một sự quan tâm chung đối với các vấn đề bình đẳng
giới và công bằng xã hội.
GAD phân tích một cách bản chất về sự đóng góp của phụ nữ trong bối
cảnh công việc được thực hiện cả bên trong và bên ngoài gia đình, bao gồm cả
sự sản xuất không tạo ra sản phẩm, đặc biệt quan tâm đến sự áp bức phụ nữ
trong gia đình, một lĩnh vực được coi là "phạm vi riêng tư".Nó cũng nhấn mạnh
đến sự tham gia của Nhà nước trong việc thúc đẩy hành động giải phóng phụ nữ,
mà nhờ đó, phụ nữ ở rất nhiều nước có sự giúp đỡ trong đời sống.
Một xu hướng khác trong cách tiếp cận vấn đề quan hệ giới là thông qua
sự phân tích xem nam và nữ làm gì.Từ góc độ xã hội học, mối quan tâm chính ở
đây là coi giới như một quan hệ xã hội .
6
Website:

Email :
1.2. Phương pháp tiếp cận giới
Cách tiếp cận giới là cách nhìn nhận vấn đề qua "lăng kính giới".Có nghĩa
là xem xét một cách cụ thể xem nam giới và nữ giới và phụ nữ có địa vị như thế
nào? thuộc nhóm người nào?Vận dụng quan điểm tiếp cận giới trong nghiên cứu
cần phải dựa trên sự phân tích khách quan, khoa học, dựa trên số liệu thực tế để

không có cái nhìn thiên lệch về giới nào.Từ đó, có thể đưa ra các giải pháp,
khuyến nghị hữu hiệu nhằm thiết lập sự bình đẳng giới trên mọi mặt, phát huy
năng lực và khả năng sáng tạo của cả hai giới đóng góp vào sự phát triển chung
của cả đất nước.
1.3. Lý thuyết tương tác biểu trưng giới
Lý thuyết này cho rằng: "mối tương quan giới là sản phẩm của quá trình
tương tác giữa các cá nhân nam và nữ. Mối tương tác này bị quy định bởi các
quy tắc,các biểu tượng, các ký hiệu và được bộc lộ qua các hành vi, thái độ và
suy nghĩ của nhau trong quá trình giao tiếp.Trong giao tiép hàng ngày đã hình
thành nên một phức hợp các biểu tượng có ý nghĩa chung là phân biệt địa vị, lao
động và hành vi giới [4,24]
Vai trò giới được xác định thông qua hàng loạt các hệ thống biểu tượng
do chính người phụ nữ và nam giới tạo ra và sử dụng trong cuộc sống hàng
ngày.
Theo quan niệm truyền thống thì nam giới có tính cách mạnh mẽ, độc lập,
quyết đoán…do đó có vai trò đối ngoại, phụ nữ rụt rè, lệ thuộc, sống tình cảm
nên đảm nhận vai trò đối nội trong gia đình.Trong giao tiếp hàng ngày vì thế đã
hình thành nên những biểu tượng tuân theo sự phân công ấn định như vậy. Do
vậy khi có sự thay đổi trong hệ thống biểu tượng mà ở đây là sự tham gia và
thành công trong công tác lãnh đạo, quản lý của phụ nữ thì theo lý thuyết tương
tác biểu trưng giới sẽ tạo ra những phản ứng đáp lại từ xã hội, thiết lập nên các
biểu tượng mới, xác định địa vị và tương ứng là vai trò của mỗi giới.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
7
Website:

Email :
Trong vài thập kỷ gần đây, Giới là vấn đề được đông đảo các quốc gia
trên thế giới quan tâm , nhìn nhận và đánh giá trên nhiều khía cạnh khác nhau
thông qua nhiều hội nghị thế giới và khu vực.

Giới là lĩnh vực khá mới mẻ ở Việt Nam. Hội nghị quốc tế lần đâu tiên về
phụ nữ do Liên Hợp Quốc tổ chức được diễn ra trong năm 1948 gồm hai vấn đề
nổi bật đó là bình đẳng giới về kinh tế và bình đẳng về chính trị ( phụ nữ có
quyên bầu cử). Trong những năm gần đây, những công trình nghiên cứu về giới
đã xuất hiện với nhiều hướng nghiên cứu và nhiều cách tiếp cận khác nhau, với
mục đích là đều hướng tới nghiên cứu về phụ nữ, về địa vị, via trò của họ trong
xã hội, góp phần nâng cao vị thế của họ bằng cách đưa ra nhưng thông tin,
những hiểu biết về vấn đề giới và bình đẳng giới. Nhưng trong thực tế, hoạt
động nghiên cứu chuyên sâu về những vấn đề lý luận giới vẫn chưa được đề cập
tới và còn là một mảng thiếu hụt. Ở hầu hết các công trình nghiên cứu chỉ dừng
lại ở việc mô tả tình hình đời sống, hoạt động của phụ nữ mà chưa khái quát nên
thành những luận định có tính lý luận để kiểm chứng.
Nhờ có sự quan tâm của Đảng và Chính phủ, sự nỗ lực của các cơ quan
đoàn thể, các tổ chức mà nhiều công trình nghiên cứu phân tích, điều tra, khảo
sát, đánh giá về thực trạng bình đẳng giới đã có những bước tiến rõ rệt hơn
những năm trước.Từ trước tới nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu chuyên
sâu về vấn đề cụ thể trong bình đẳng giới , về địa vị, vai trò của phụ nữ trong
hàng loạt các vấn đề xã hội, mà vấn đề vai trò của phụ nữ trong quản lý lãnh đạo
cũng thu hút được khá nhiều các nhà nghiên cứu, các tổ chức xã hội,…
Ngoài các văn bản đã được ban hành thì hàng loạt các cơ sở, trung tâm
nghiên cứu cũng được hình thành mà đấu tiên phải kể tới là Uỷ ban quốc gia vì
sự tiến bộ của phụ nữ, Viện Gia đình & Giới thuộc Trung tâm khoa học xã hội
và Nhân văn quốc gia, Trung tâm nghiên cứu khoa học về lao động nữ thuộc Bộ
lao động Thương binh và xã hội, Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam… và không thể
không kể tới hàng loạt các bài báo và các công trình nghiên cứu khác về giới đã
được công bố : "Phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý" (Trung tâm nghiên cứu
khoa học lao động nữ-Nxb CTQG, Hà Nội , 1997) ; "Phụ nữ, giới và phát triển"
8
Website:


Email :
( Trần Thị Vân Anh, Lê Ngọc Hùng, NXB PHụ nữ, Hà Nội, 2000); " Mười năm
bước tiến của phụ nữ Việt Nam" ( Lê Thi, Đỗ Thị Bình, Nxb Phụ nữ hà Nội,
1997); "Phụ nữ và vấn đề bình đẳng giới trong đổi mới" ( Nxb Pụ nữ,1998); …
3. Những khái niệm công cụ
3.1. Khái niệm giới
- Theo điều 5, luật bình đẳng giới của Quốc Hội khoá XI, kỳ họp thứ 10
số 73/2006/QH 11 ngày 29 tháng 11-2006: "Giới chỉ đặc điểm của, vị trí, vai trò
của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội". Nó luôn luôn biến đổi theo
thời gian và có sự khác biệt theo không gian và thời gian.
- Giới là phạm trù chỉ vai trò và mối quan hệ xã hội giữa nam giới và phụ
nữ.Nói đến mối quan hệ giới là nói đến cách thức phân định xã hội giữa nam
giới và phụ nữ, liên quan đến hàng loạt vấn đề thuộc về thể chế và xã hội chứ
không phải là mối quan hệ cá biệt giữa một người nam giới và một người phụ
nữ nào.
Các vai trò giới là tập hợp các hành vi ứng xử mà xã hội mong đợi ở phụ
nữ và nam giới liên quan đến những đặc điểm và năng lực mà xã hội coi là thuộc
về đàn ông hay đàn bà (trẻ em trai hay trẻ em gái) trong một xã hội hoặc một
nền văn hoá nào đó. Đó cũng là các mối quan hệ qiữa phụ nữ và nam giới: ai
nên làm gì, ai là người ra quyết định, khả năng tiếp cận các nguồn lực và các lợi
ích.Thông thường mọi người thường phải chịu rất nhiều áp lực buộc phải tuân
thủ các quan niệm xã hội này.
- Phân biệt giữa khái niệm GIỚI(Gender) và GIỚI TÍNH (Sex): Giới tính
là khái niệm dùng để chỉ những sự khác biệt về mặt sinh học giữa phụ nữ và
nam giới, đặc biệt là khái niệm về chức năng sinh sản.Nếu như giới là sản phẩm
của xã hội thì giới tính là sản phẩm của sinh học, giới có thể thay đổi thì giới
tính lại bất biến không thay đổi…
3.2. Bất bình đẳng và bất bình đẳng giới
- "Bình đẳng giới được coi là sự bình đẳng về pháp luật, về cơ hội tiếp
cận(bao gồm cả nguồn vốn, nguôn lực và thành quả lao động). về tiếng nói , tức

khả năng tác động và đóng góp cho quá trình phát triển"
9
Website:

Email :
- Bình đẳng giới là việc nam nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo
điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng.
- "Bất bình đẳng giới là khái niệm chỉ sự không ngang bằng nhau về các
cơ hội và lợi ích khác nhau trong một nhóm hoặc nhiều nhóm xã hội"[3]
3.3. Định kiến về giới
"Định kiến giới là nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về
đặc điểm, vị trí, vai trò và năng lực của nam hoặc nữ." [14]
Theo từ điển thuật ngữ giớí của Chương trình Lương thực Thế Giới:
"Định kiến giới được hiểu là những hành động chống lại phụ nữ (hoặc nam giới)
dựa trên cơ sở nhận thức rằng giới tính này không có quyền bình dẳng với giới
kia và không có quyền lợi như nhau." [15]
3.4. Khái niệm lãnh đạo và quản lý
- "Lãnh đạo là những tác động có ý thức của chủ thể quản lý vào đối
tượng bị quản lý trên cơ sở phát huy một cách tối đa những năng lực của cấp
dưới nhằm đạt tới hiệu quả cao nhất những mục tiêu của tổ chức.Nếu lãnh đạo
hướng hành vi chủ đạo của mình vào kết quả hoạt động tập thể thì quản lý bám
sát mục tiêu cụ thể gắn liền với các thao tác"[6,251]
- Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có ý thức hướng mục đích
của chủ thể vào đối tượng theo một quy trình nhất định nhằm đạt hiệu quả tối ưu
so với yêu cầu đặt ra [6,105]
- Giữa hai khái niệm lãnh đạo và quản lý có nhiều điểm tương đồng mặc
dù đây là hai khái niệm khác nhau.Tuy vậy, với phạm vi nghiên cứu đề tài, hai
khái niệm này không có sự tách biệt.
3.5. Địa vị xã hội
Địa vị xã hội là vị trí xã hội mà tương ứng với nó là những quyền hạn và

nghĩa vụ xác định. Đó là sự lượng giá, sự thẩm định của xã hội về phẩm chất
hay uy tín của một người nào đó tương ứng với cương vị của anh ta.[6,30]
10
Website:

Email :
Chương II:
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Tình hình phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trên thế giới
Phụ nữ trên thế giới nhìn chung trong vài thập kỷ qua đã đạt được rất
nhiều tiến bộ trong việc tham gia chính quyền ở các cấp và ngày càng chiếm giữ
những vị trí quan trọng như Tổn thống, Thủ tướng, Bộ trưởng, Thứ trưởng, Đại
biểu Quốc hội…Tuy nhiên chưa ở nước nào có phụ nữ bình đẳng hoàn toàn so
với nam giới trong lĩnh vực này và các vị trí chủ chốt ra quyết định vẫn chủ yếu
do nam giới nắm giữ.
Tại Hội nghị thế giới lần thứ 4 họp tại Bắc Kinh (Trung Quốc) tháng 9
năm 1995 vấn đề phụ nữ tham gia hoạtđộng chính trị và lãnh đạo đất nước rất
được quan tâm bởi các đại biểu đại diện chính phủ cũng như diễn đàn các tổ
chức phi chính phủ.
Hiện nay, ở các nước trên thế giới, phụ nữ tham gia quốc hội đạt tỷ lệ cao
chưa từng có.Theo Liên minh nghị viện thế giới (IPU), trong năm 2006 tỷ lệ phụ
nữ tham gia quốc hội là 17%, tăng 11% so với 12 năm trước.
Một kỷ lục khác là phụ nữ cũng được bầu làm chủ tịch tại 35/262 hội nghị
hoặc nghị viện trên thế giới, trong đó có những nước lần đầu bầu phụ nữ làm
chủ tịch quốc hội như Gambia, Israel, Swaziland, Turkmenistan và Mỹ - nơi bà
Nancy Pelosi hiện là Chủ tịch Hạ Viện.Tuy nhiên tỷ lệ phụ nữ tham gia quốc hội
tăng chậm.Các nước có tỉ lệ phụ nữ tham gia cao nhất trong quốc hội là Rwanda
và Thụy Điển với gần 50%, tiếp đến là các nước Costa Rica, Phần Lan, Na Uy,
Đan Mạch.
Ở Canada, phụ nữ chiếm 35% trong quốc hội, Đức: 31,6%, các tiểu

vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE): 22,5%, CHDCND Triều Tiên: 20,1%,
Anh: 18,9%, Mỹ: 16,3% và Pháp: 12,2%.
11
Website:

Email :
Bảng 1: Tỷ lệ nữ trong các nghị viện phân theo các châu lục
Vùng Tỷ lệ (%)
Thế giới 17.7
Các nước Bắc Âu 41
Nam Mỹ 38.6
Châu Âu 19.1
Châu Phi Hạ Sahảa 16.8
Châu Á 16.4
Thái Bình Dương (gồm cả Úc và Newzeland) 14.5
Các nước Ả Rập 8.6
(Nguồn: tác giả xử lý số liệu Theo Reuters, Economic Times,chủ nhật,
04/03/2007)
Phụ nữ ngày càng có vai trò lớn hơn trong mọi lĩnh vực xã hội, đặc biệt là
lĩnh vực chính trị. Do vậy, xu hướng phụ nữ tham gia bộ máy lãnh đạo chính trị
ở các quốc gia sẽ ngày càng tăng cao.
Khu vực Bắc Âu đứng đầu thế giới về tỷ lệ phụ nữ trong Quốc hội, chiếm
khoảng 41%; đứng thứ hai là khu vực Nam Mỹ; còn lại các Châu lục khác tỷ lệ
nữ trong các nghị viện đều dưới 20%.
Tỷ lệ phụ nữ lãnh đạo trên thế giới hiện nay chiếm 17.7%. Mặc dù tỷ lệ
này cao hơn so với 10% vào năm 1995, nhưng vẫn còn cách xa mức tối thiểu
cần thiết là 30% để gia tăng ảnh hưởng của phái nữ trên chính trường. Thực tế
đã chứng minh rằng trong nhiều trường hợp, khi phụ nữ tham gia lãnh đạo, họ
đã nêu ra nhiều vấn đề mới trong các chương trình hoạt động.Họ có những cách
nhìn mới và phương pháp mềm dẻo, sáng tạo.Dư luận đã thừa nhận sự tham gia

đông đảo của phụ nữ trong chính phủ Na Uy đã thúc đẩy việc thực hiện các
quyền của phụ nữ,bảo vệ hoà bình, bảo vệ môi trường và viện trợ nhằm mục
đích phát triển. Hay tại Thụy Điển , phụ nữ tham gia hoạt động cả trong và
ngoài chính phủ đã tích cực góp phần vào việc ngăn chặn sự tham gia của các
nước này vào cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân [7]. Phụ nữ đã chứng tỏ được vai
trò quan trọng của họ trong việc giải quyết xung đột, chống đói nghèo trên toàn
thế giới, nhưng tỷ lệ lãnh đạo nữ vẫn còn rất hạn chế dù đã được cải thiện.
12
Website:

Email :
Khảo sát của EC tại 262 Thượng viện và Hạ viện ở 189 quốc gia trên toàn
thế giới cho biết chỉ có 30 phụ nữ đứng đầu cơ quan lập pháp. Trong khu vực
EU, 24% ghế nghị sĩ hiện do phụ nữ chiếm giữ, so với 16% cách đây 1 thập kỷ.
( />toan-the-gioi/70115639/159/Thứ bảy, 08 Tháng ba 2008, 09:15 GMT+7 ) )
Theo khảo sát của EC, mặc dù vấn đề bình đẳng giới ngày càng được
quan tâm và cải thiện, nhưng phái yếu cũng chỉ chiếm 24% ghế Bộ trưởng trong
các Chính phủ. Phụ nữ đang chiếm đa số trong Chính phủ Phần Lan, Na Uy. Tại
Thụy Điển, 46% quan chức Chính phủ là phái nữ và tỷ lệ này ở Tây Ban Nha là
41%. Ngược lại, ở Thổ Nhỹ Kỳ chỉ có một phụ nữ là thành viên Nội các. Tại
quốc gia Đông Âu Rumania không có phụ nữ nào là thành viên Chính phủ. Một
số quan chức châu Âu vừa đề nghị, phụ nữ nên nắm quyền lãnh đạo ít nhất 1
trong 3 cơ quan của EU là Nghị viện châu Âu, EC và Hội đồng châu Âu. Hiện
cả 3 cơ quan này đều do nam giới đứng đầu. Trong số 12 Chủ tịch Nghị viện
châu Âu kể từ 1979 đến nay, chỉ có 2 phụ nữ.
/>ArticleID=113961&ChannelID=5)
Theo như nhận định của Tổ chức Châu Á (AF),trụ sở tại Mỹ, đưa ra trong
báo cáo nhân Ngày Quốc tế Phụ nữ 8-3 năm nay: Phụ nữ đang đảm nhận những
vai trò lãnh đạo lớn hơn trong chính trị và kinh doanh ở Châu Á nhưng sự hiện
diện của họ trong các cơ quan bầu cử ở cấp quốc gia vẫn còn ít.Theo thống kê

của AF, phụ nữ hiện chiếm trung bình khoảng 16.4% số ghế trong Quốc hội.Tuy
nhiên , họ vẫn hiếm khi được giữ những trọng trách ở những bộ quan trọng như
Tài chính, Nội vụ,Quốc phòng mà thường được giao ở các bộ bên lĩnh vực xã
hội Y tế, Môi trường hoặc những cơ quan có ít kinh phí và ít trọng lượng chính
trị.
Bảng 2: Phụ nữ trong Quốc hội ở các nước Châu Á – TBD (%)
Tên nước Tỷ lệ nữ trong Tên nước Tỷ lệ nữ trong
13
Website:

Email :
Quốc hội Quốc hội
Niu di-lân
Việt Nam
CHDC Đông Timo
Úc
CHDCND Lào
CHDCND Trung Hoa
CHDCND Triều Tiên
29.2
27.3
26.2
25.3
25.0
21.8
20.1
Philippin
Singapo
Malayxia
Thái Lan

Campuchia
Inđônêxia
Hàn Quốc
17.8
11.8
10.4
9.2
9.0
8.0
5.9
(Nguồn: Tổ chức Liên minh Quốc hội,2002)
Việt Nam là nước có tỷ lệ nữ Đại biểu Quốc hội cao nhất ở Châu Ấ và
đứng thứ hai trong khu vực châu Á – TBD, sau Niu di-lân (29.2%).Chỉ có 10
quốc gia trên thế giới có số nữ nghị sĩ Quốc hội cao hơn tỷ lệ trên (Cu Ba, Đan
Mạch, Phần Lan, Đức, Iceland, Hà Lan, New Zealand, Na Uy, Nam Phi và Thuỵ
Điển).
Những con số trên phần nào thể hiện được tình hình lãnh đạo của phụ nữ
trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng . Những con số ấy cho thấy xu
hướng gia tăng nhưng phụ nữ vẫn chưa có đại diện đầy đủ trong chính quyền,
đảng phái chính trị và ở cả Liên hiệp Quốc.
2. Thực trạng tình hình phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam
2.1. Phụ nữ Việt Nam tham gia lãnh đạo, quản lý trong lịch sử
Đánh giá vai trò của phụ nữ đối với lịch sử phát triển của đất nước, Chủ
Tịch Hồ Chí Minh đã nói: "non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta,trẻ cũng
như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp rực rỡ "[8, 432]
Hình ảnh người phụ nữ Việt nam đã được in đậm trong lịch sử chống giặc
ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập dân tộc của đất nước trong hàng chục thế kỷ.
Hình ảnh Hai Bà Trưng với hàng trăm nữ tướng và đội quân nữ tham gia khởi
nghĩa (năm 40 SCN) đã tạo nên truyền thống anh hùng bất khất của dân tộc
ta.Trưng Vương đi vào lịch sử như một nữ anh hùng của dân tộc, là người phụ

nữ đầu tiên tham gia lãnh đạo đất nước,…
14
Website:

Email :
Bên cạnh những nữ tướng, trong thời kỳ này còn có những phụ nữ chấp
chính tài ba như Nguyên phi Ỷ Lan, Thái hậu Dương Vân Nga…
Tiếp bước các nữ anh hùng dân tộc là thế hệ phụ nữ - chiến sĩ cách mạng
sau này. Nhiều chiến công lãnh đạo cách mạng đã ngoan cường, trung thành với
dân với Đảng. Nguyễn Thị Minh Khai, lãnh tụ đầu tiên của phong trào phụ nữ
sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập; Bí thư thành uỷ đầu tiên của
Sài Gòn – Gia ĐỊnh, linh hồn của cuộc khởi nghĩa nam Kỳ: Hoàng Thị Ngân –
Bí thư đoàn phụ nữ cứu quốc Bắc Bộ….
Thời kỳ chống Mỹ cứu nước lại ghi nhận những đóng góp của những phụ
nữ như: Nguyễn Thị Thập, nữ đại biểu Quốc hội từ khoá I đến VI với 18 năm là
Chủ tịch hội .Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (1956 – 1980), 24năm giữ cượng vị
Phó chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội (1956 -1980); bà Nguyễn Thị Định,
phó tư lệnh lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam, chủ tịch Hội Liên hiệp
phụ nữ giải phóng niềm Nam và đến năm 1980 là Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam thống nhất, đồng thời là Phó chủ tịch Liên đoàn phụ nữ quốc tế…[10]
Có thể nói rằng trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc cũng như hiện nay,
phụ nữ Việt Nam luôn có những đại diện xứng đáng cho giới của mình trong
công cuộc đấu tranh bảo vệ và phát triển đất nước.Trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp, chống Mỹ, phụ nữ Việt Nam đã có những cống hiến, hy sinh to lớn,
góp phần làm nên thắng lợi vĩ đại của cả dân tộc; trong công cuộc xây dựng đất
nước trên con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa hiện nay, chị em tiếp tục
đóng vai trò quan trọng, là động lực thúc đẩy sự phát triển chung của xã hội.
2.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với phụ nữ trong công tác
lãnh đạo, quản lý
Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với phụ nữ trong công

tác lãnh đạo và quản lý được thể hiện trong các văn bản về chủ trương đường lối
của Đảng liên quan đến vấn đề về phụ nữ tham gia lãnh đạo và quản lý.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản di chúc đã ghi rõ: "Đảng và Chính phủ
ta cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cân nhắc và giúp đỡ để người
phụ nũ phụ trách ngày thêm nhiều mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản
15
Website:

Email :
thân người phụ nữ thì phải cố gắng. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền
bình đẳng cho phụ nữ" [ 10, 12]
Chỉ thị số 44 CT/TW ngày 7/6/1984 của Ban chấp hành TW Đảng chủ
trương "tiếp tục thực hiện nam - nữ bình đẳng, nâng cao vai trò cán bộ nữ trong
quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước". Để đảm bảo chủ trương này được thực hiện
một cách nhất quán và xuyên suốt, Chỉ thị đã nêu rõ: " Vấn đề cán bộ nữ phải
đặt trong việc xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ nói chung của Đảng và
Nhà nước". Nghĩa là chủ trương đưa vấn đề tiến bộ của phụ nữ trong công tác
lãnh đạo và quản lý vào trong dòng chính, trong guồng máy thường xuyên của
Nhà nước bảo đảm tính bền vững và lâu dài.Theo tinh thần đó, chỉ thị tiếp tục
nhấn mạnh: " Điều cần hết sức chú ý là sau khi đề bạt phải tiếp tục bồi dưỡng
tạo điều kiện để chị em hoàn thành nhiệm vụ " [11,13]
Nhất quán với đường lối đã định, mười năm sau, ngày 16/5/1994, Chỉ thị
37 CT-TW lại tiếp tục nêu: "Việc nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ tham gia quản lý
Nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội là yêu cầu quan trọng để thực sự thực hiện
quyền bình đẳng, dân chủ của phụ nữ, là điều kiện để phát huy tài năng trí tuệ
và nâng cao địa vị của phụ nữ "
Một năm sau tại Hội nghị thế giới về phụ nữ tổ chức tại Bắc kinh (Trung
Quốc) tháng 9/1995, chính phủ Việt Nam đã cùng các nước nhất trí thông qua
cương lĩnh hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ đến năm 2000 nhằm thúc đẩy sự
tiến bộ và tăng cường quyền lực cho phụ nữ trên thế giới.Thực hiện cương lĩnh

nêu trên, ngày 4/10/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành kế hoạch hành
động quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến naă 2000. Bản kế hoạch đề
ra 11 mục tiêu, trong đó có mục tiêu số 4 là "Nâng cao Vai trò, vị trí của nguời
phụ nữ trong việc tham gia bộ máy lãnh đạo và ra quyết định". Nhằm đạt được
mục tiêu này, bản kế hoạch đã đề ra các chỉ tiêu phấn đấu chủ yếu: Cán bộ nữ
trong các cơ quan dân cử các cấp phải đạt từ 20-30%; cán bộ nữ trong các cấp
chính quyền, tư vấn đạt từ 15-20%; đối với các bộ , ngành đông nữ cần có phụ
nữ tham gia lãnh đạo chủ chốt; đối với cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước có từ
30% trở lên cần có cấp trưởng hoặc cấp phó là nữ…
16
Website:

Email :
Đảng, Nhà nước đã có những chính sách đối với lao động nữ nhằm tạo
điều kiện để họ tham gia quản lý Nhà nước như: chế độ thai sản, chế độ làm
việc, được bảo đảm về mặt pháp lý trong luật Dân sự, luật hôn nhân – gia đình,
luật lao dộng…được quan tâm và phát huy trong các chế độ chính sách của Nhà
nước.
2.3. Thực trạng tình hình phụ nữ tham gia lãnh đạo và quản lý ở Việt
Nam hiện nay
Ý thức được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, phụ nữ Việt Nam đã
không ngừng phấn đấu nâng cao năng lực trong các lĩnh vực công tác, đảm
nhiệm những trọng trách quan trọng. Hầu hết các cán bộ nữ đều khẳng định
được vị trí, năng lực của mình và hiệu quả hoạt động ngày càng tăng. Tỷ lệ nữ
lãnh đạo các cấp, các ngành đã được tăng lên trong những năm gần đây, rõ nhất
là trong hệ thống dân cử.
2.3.1. Trong cơ quan Lập pháp
Bảng 3: Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội qua các kỳ
Khoá Số lượng nữ Tổng số đại biểu Tỷ lệ/tổng số(%)
XII (2007- 2012) 127 493 25.76

XI (2002 – 2007) 136 498 27.31
17
Website:

Email :
X (1997 – 2002) 118 450 26.22
IX (1992 – 1997) 73 395 18.48
VIII (1987 – 1992) 88 496 17.74
VII (1981 – 1987) 108 496 21.77
VI (1976 -1981) 132 492 26.83
V (1975 -1976) 137 424 32.31
IV (1971 – 1975) 125 420 29.76
III (1964 -1971) 62 366 16.94
II (1960 -1964 ) 49 362 13.54
I (1946 -1961) 11 403 2.7
(Nguồn: Tác giả xử lý trên cơ sở số liệu của Văn phòng Quốc hội) [11,151]
Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất, quyết định các vấn đè trọng yếu
của đất nước. Sự gia tăng nữ Đại Biểu Quốc hội có ý nghĩa chính trị và xã hội
hết sức to lớn. đặt những con số này với một số nước trong khu vực ( Trung
Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc…) có thể thấy được sự vượt bậc của phụ nữ nước ta.
Ghi chú: Từ 1 đến 12 là từ khoá I đến khoá XII
Biểu 1: Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội qua các kỳ
Quan sát biểu 1 ta có thể thấy được sự biến đổi về tỷ lệ nữ Đại Biểu Quốc
hội diến ra theo 3 giai đoạn.Giai đoạn đầu từ khoá I đến khoá V số lượng nữ đại
biểu tăng một cách nhanh chóng và dần đều qua các khoá, cao nhất là 32.3 %
vào khoá V (1975-1976), con số cao nhất từ trước tới nay. Giai đoạn 2, ngay
trong khoá sau – khoá VI (1976-1981), là thời điểm chiến tranh vừa kết thúc thì
nam giới lại khẳng định được vị trí ban đầu của mình còn tỷ lệ nữ đại biểu thì
18
Website:


Email :
tiếp tục giảm một cách bất ngờ xuồng còn 17.8%. Giai đoạn 3, từ khoá VIII
(1986-1992) tới khoá XI(2002-2007): Nhờ có chỉ thị số 37 năm 1994 của Ban
chấp hành TW Đảng ( tất cả các cấp quản lý Nhà nước và Đảng phải có từ 20%
đến 30% vị trí được bầu do phụ nữ đảm nhiệm ) mà tỷ lệ nữ cán bộ đã tăng lên
từ 17.8% (khoá VIII ) lên 27.3 (khoá XI). Tuy trong 3 khoá gần đay số nữ đại
biểu trong Quốc hội tăng chậm nhưng với con số 27.3%( khoá XI ) đã dẫn đầu
Châu á, điều này cho thấy phụ nữ Việt Nam đã có những đóng góp lớn cho sự
phát triển của đất nước, cho bộ mặt chính trị của quốc gia.Nhiệm kỳ Quốc hội
khoá XII (2007-2012) tuy tỷ lệ nữ cán bộ trong Quốc hội có giảm khoảng 1.5 %,
nhưng điều đó chưa nói lên được điều gì.
Bảng 3a. Cơ cấu giới tính và chức vị lãnh dạo của đại biểu Quốc hội.
Giới tính Khoá VIII Khoá IX Khoá X Khoá XII
Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ
Đại Biểu Quốc hội
82.2 17.8 81.5 18.5 73.8 26.2 74.24 25.76
Phó Chủ tịch
80 20 100.0 0.0 75.0 25.0 80 20
Chủ nhiệm ban
57.7 42.9 77.8 22.2 66.7 33.3 77.8 22.2
Tại buổi tọa đàm về công tác tuyên truyền bình đẳng giới trong kỳ bầu cử
đại biểu Quốc hội khoá XII, giữa Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ
(UBQGVSTBPN) và báo giới, (6/4/2007) tại Hà Nội, bà Trần Thị Mai Hương,
Phó Chủ tịch UBQGVSTBPN, đã cho biết: "mặc dù Việt Nam đứng đầu châu Á
về sự tham gia của phụ nữ cho biết trong Quốc hội là 27,3% khoá XI, nhưng tỷ
lệ này vẫn chưa tương xứng với năng lực đóng góp của phụ nữ."
Bảng 3b. Cơ cấu giới tính các chức vụ lãnh đạo trong QH khoá X, XI
Giới tính
Chức vụ

Khoá X(1997-2002) Khoá XI(2002-2007)
Số người Tỷ lệ % Số người Tỷ lệ %
Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ
UBTV Quốc hội:
- Chủ tịch
- Phó chủ tịch
10
1
4
0
71.4
100.
28.6
0.00
11
1
2
0
84.6
100
15.4
0.00
Các Uỷ Ban khác: 191 57 77.0 23.0 224 71 75.9 24.1
19
Website:

Email :
- Chủ tịch
- Phó chủ tịch
6

21
2
4
75.0
84.0
25.0
16.0
6
24
2
8
75.0
75.0
25.0
25.0
Đoàn thư ký:
- Trưởng đoàn
- Các thư ký
7
1
6
1
0
1
87.5
100
85.7
12.5
0.00
14.3

8
1
7
3
0
3
72.7
100
70.0
27.3
0.00
30.0
(Nguồn : Văn phòng Quốc hội,2003) [12, 41]
(
(*) :
Tác giả xử lý số liệu dực trên số liệu của Văn phòng QH )
Một thực tế không thể phủ nhận là tỷ lệ nữ đại biểu trong Quốc hội không
chỉ ngày càng có xu hướng gia tăng về số lượng mà còn cả về trình đọ và chất
lượng khi họ tham gia công tác quản lý, lãnh đạo.
Bảng 4. Số lượng và tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội có trình độ từ đại học trở lên
Khoá Tổng số nữ ĐBQH Trình độ từ ĐH trở lên
Số lượng Tỷ lệ %
VI (1976-1981) 132 14 10.6
VII (1981-1987) 108 12 11.1
VIII (1987 – 1992) 88 43 48.9
IX ( 1992-1997) 73 43 58.9
X (1997 – 2002) 118 104 88.1
XI (2002-2007) 136 125 91.9
XII (2007-2012)
(*)

127 116 91.4
( Nguồn :Văn phòng Quốc hội, 2003) [ 12.42]
(
(*):
Tác giả xử lý trên cơ sở số liệu của Văn phòng Quốc hội,2007) [15]
So với các giai đoạn trước, phụ nữ tham gia Quốc hội không chỉ tăng lên
về số lượng mà còn tăng lên cả về chất lượng. Cụ thể, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội
có học vấn từ ĐH trở lên tăng từ 10.6% ( khoá VI) leê tới 58.9%( khoá IX) ,
87.28% ( khoá X), 90.4% ( khoá XII ).
Với trình độ học vấn cao của mình, các nữ đại biểu Quốc hội đã tự tin và
tích cực tham gia vào các hoạt động của các Uỷ ban của Quốc hội.Tỷ lệ nữ đại
biểu tham gia vào các Uỷ ban ngày càng có xu hướng tăng lên. Song, "hầu hết
nữ đại biểu chỉ làm việc tại Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban về vấn đề xã hội, Uỷ
ban văn hoá giáo dục –thanh thiếu niên, nhi đồng ( trung bình nữ chiếm 40.1%
đến 43.6% ).Trong khi đó ở các Uỷ ban kinh tế- ngân sách , Uỷ ban đối ngoại,
Uỷ ban pháp luật, Uỷ ban khoa học công nghệ và Môi trường, nữ chỉ chiếm từ
11.8 đến 11.9%, thậm chí không có nữ trong Uỷ ban quốc phòng- an ninh, tức là
20
Website:

Email :
cac lĩnh vực có vai trò quyết định quan trọng thì đại diện của phụ nữ càng hiếm
hoi."[ 11, 150]. Mặc dù phụ nữ Việt Nam tham gia chính trường chiếm vào tỷ lệ
cao so với khu vực và trên với thế giới.
Bảng 5: Cơ cấu giới tính nữ đại biểu Quôc hội theo vùng
Vùng
Khoá IX Khoá X Khoá XI
Số
lượng
Tỷ lệ

%
Số
lượng
Tỷ lệ
%
Số
lượng
Tỷ lệ
%
Toàn quốc
Đồng Bằng Sông Hồng
Đông Bắc
Tây Bắc
Bắc Trung Bộ
Duyên Hải Nam Trung Bộ
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Đồng Bằng Sông CL
73
19
9
4
9
6
4
9
13
18.5
17.6
22.5

28.7
17.0
19.6
22.2
17.0
16.7
18
25
15
6
12
10
6
16
28
26.2
25.0
24.2
37.5
21.8
26.3
26.1
23.9
31.5
136
25
22
6
12
12

8
19
32
27.3
24.0
30.6
31.6
20.3
28.0
25.8
25.7
33.3
(Nguồn: Báo cáo hành chính của Văn phòng Quốc hội,2003) [12,44]

Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy rõ một điều rằng tỷ lệ nữ đại biểu
Quốc hội (ĐBQH) tại một số vùng như Tây Bắc và Đồng Bắng Sông Cửu Long
luôn vượt trội hẳn so với tỷ lệ nữ đại biểu toàn quốc.Nếu như khoá IX tỷ lệ nữ
đại biểu Quốc hội toàn quốc là 18.5% thì ở Tây Bắc là 28.7%, vào khoá X, tỷ lệ
nữ ĐBQH là 26.2% thì ở Tây Bắc chiếm tới 37.5%, ở Đồng Bằng Sông Cửu
Long chiếm 31.5%.Sang khoá tiếp theo XI vẫn tiếp diễn. Điều đặc biệt ở đây là
Đồng Bằng Sông Hồng và Đông Nam Bộ là 2 khu vực có 2 thành phố lớn là Hà
Nội và Thành Phố Hồ Chí Minh ( là 2 trung tâm kinh tế-văn hoá-chính trị của
gương mặt đất nước ) thì tỷ lệ nữ ĐBQH ở các khu vực này đều thấp hơn hẳn
so với tỷ lệ chung của cả nưởctong 3 khoá gần đây. Ngược lai, một số vùng có
điều kiện kinh tế- xã hội hạn chế , khó khăn thì tỷ lệ nữ ĐBQH lại có xu hướng
gia tăng qua các khoá.
21
Website:

Email :

Tại Hội đồng nhân dân các cấp- cơ quan quyền lực nhà nước tại địa
phương, vị thế của phụ nữ cũng được dần được nâng cao hơn.Tỷ lệ nữ Đại biểu
hội dồng nhân dân các cấp đã tăng những chưa đạt được chỉ tiêu dề ra trong Chỉ
thị 37 ( 20-30 % thành viên nữ ở tất cả các lĩnh vực lãnh đạo quản lý ).Nhờ có
sự quan tâm luôn kịp thời của Đảng và Chính phủ nên số lượng đã tăng lên.

Bảng 6: Tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp theo nhiệm kỳ .
Nhiệm kỳ
Cấp
1985-1989 1989- 1994 1994-1999 1999-2004 2004-2009
Tỉnh /Thành Phố
Quận / Huyện
Xã / Phường
28.6
19.4
19.7
12.2
12.3
13.2
20.4
18.0
14.4
22.5
20.7
16.3
23.9
23.0
19.5
(Nguồn: Ban tổ chức Chính phủ , 1993-2000) [12,47]
Bảng 6 cho ta thấy càng xuống cấp cơ sở thì tỷ lệ nữ đại biểu HĐND càng

thấp. Nhiệm kỳ (1989-1994) giảm xuống tương ứng ở các cấp so với nhiệm kỳ
trước.Nhưng đến các nhiệm kỳ sau lại tăng lên , cụ thể ở nhiệm kỳ gần đây
(2004-2009) đã tăng lên ttương ứng ở các cấp là: 23.95, 23.0%, 19.5%.
Tỷ lệ nữ trong các cơ quan dân cử (HĐND các cấp) ngày càng tăng,
nhiệm kỳ 2004-2009 cao hơn so với nhiệm kỳ trước.Toàn quốc có 3 Chủ tịch,
32 Phó Chủ tịch UBND là nữ, tăng gấp rưỡi so với nhiệm kỳ 1999-2004.
2.3.2. Trong cơ quan hành pháp
Trong cơ quan hành pháp vị thế của phụ nữ cũng được nâng cao, song
vẫn không đáng kể. Ở cấp TW đã có 1 nữ phó chủ tịch nước mà trước đây
không có. Số lượng nữ thứ trưởng, bộ trưởng cũng tăng lên. Tuy nhiên, lại cứ
xuống cấp cơ sở thì tỷ lệ lại càng thấp. Điều này chưa tương xứng với sự phát
triển của đội gnũ cán bộ nữ hiện nay.
Bảng 7. Cán bộ nữ tham gia quản lý Nhà nước %()
Chức danh
Nhiệm kỳ
(1889-994)
Nhiệm kỳ
(1994- 1999)
Nhiệm kỳ
(1999-2004)
22
Website:

Email :
Phó Chủ tịch nước 16.67 100.0 100.0
Bộ trưởng & tương đương 9.50 11.90 11.29
Thứ trưởng & tương đương 7.00 7.30 12.85
Vụ trưởng & tương đương 13.30 13.0 12.10
Vụ phó & tương đương 8.90 12.10 8.10
( Nguồn : Ban tổ chức cán bộ Chính phủ, 2003) [12,50]

23
Website:

Email :
Bảng 9: Tỷ lệ nữ trong các cấp lãnh đạo ở chính quyền địa phương địa
phương (%)
Cấp Nhiệm kỳ(1994-1999) Nhiệm kỳ (1999-2004)
Cấp Tỉnh /thành
Chủ tịch
Phó chủ tịch
Giám đốc sở & tương đương
Phó giám đốc sở & tương đương
1.89
11.60
4.40
8.50
1.64
12.50
7.38
9.90
Cấp huyện/ Quận
Chủ tịch
Phó chủ tịch
Trưởng phòng & tương đương
Phó trưởng phòng & tương đương
1.80
8.50
19.50
20.62
5.27

8.43
11.70
16.00
Cấp xã / phường
Chủ tịch
Phó chủ tịch
2.17
3.11
3.02
2.40
(Nguồn: Ban tổ chức chính phủ , 2003 ) [12]
Tỷ lệ nữ lao động trong cấp chính quyền địa phương từ tỉnh trở xuống có
xu hướng tăng trong những năm gần đây nhưng không đáng kể, còn các cấp
huyện, xã không tăng mà còn giảm xuống.Cũng giống như trong hệ thống
HĐND, càng xuống cấp cơ sở thì tỷ lệ nữ cán bộ càng thấp.
Tỷ lệ nữ cán bộ quản lý Nhà nước ở cấp TW có tăng nhưng không đáng
kể, chủ yếu ở lĩnh vực văn hoá - xã hội. Ở các ngành như kinh tế, công nghiệp,
khoa học và công nghệ…ít có nữ giới giữ chức vụ lãnh đạo chủ chốt như bộ
trưởng, thứ trưởng.
2.3.3. Trong cơ quan tư pháp
Tỷ lệ nữ tham gia công tác trong các cơ quan pháp luật cũng tăng lên, góp
phần vào việc bảo vệ trật tự, kỷ cương, giữ nghiêm phép nước và cũng nhằm
góp phần bảo vệ quyền lợi phụ nữ và trẻ em.

Bảng10: Tỷ lệ nữ làm công tác pháp luật
24
Website:

Email :
Chức danh Năm 1989 Năm 1992

Tổng số Tỷ lệ % Tổng số Tỷ lệ %
Thẩm phán 2379 18 1514 32
Uỷ viên công tố 4630 31 5086 32.26
Luật sư 550 7.24 2168 34
Nhân viên pháp luật 1800 33.33 2168 34
( Nguồn :Uỷ ban Pháp luật Quốc hội , 1993) [ 12.53]
Bảng 11: tỷ lệ nữ trong cơ quan tư pháp (cấp TW)
Toà án nhân dân tối cao Viện kiểm soát nhân dân
Chức danh
Phó tránh án
Thẩm phán
Chuyên viên, thẩm phán viên
Tỷ lệ %
15.38
16.66
40.53
Chức danh
Phó viện trưởng
Vụ trưởng, vụ phó
Trưởng phòng
Kiểm soát viên cao cấp
Tỷ lệ %
20
4.5
13.63
9.34
(Nguồn : Vụ Tổ chức cán bộ, T5/2000) [12,54]
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy một điều rất khác lạ đó là ở cấp huyện quận
có sự tăng đột biến
2.3.4. Trong các cấp Uỷ Đảng

Tỷ lệ nữ tham gia cấp Đảng ít khi nắm giữ những vị trí quyết định.Tỷ lệ
trung bình nữ Bí thư chỉ vào khoảng 3- % đến 8% ở mọi cấp. Mặt khác, đa số
những thành viên nữ trong cấp Uỷ Đảng thường đảm nhận những công việc
hành chính, công tác kiểm tra, dân vận hơn là những nhiệm vụ mang tính chiến
lược.

25

×