Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị cấp trung ương ở cộng hòa dân chủ nhân dân lào hiện nay (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (388.04 KB, 27 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LĂM PHUN ĐUÔN SỤ VĂN

PHỤ NỮ THAM GIA LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP TRUNG ƯƠNG
Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Mã số: 62 22 03 08

HÀ NỘI - 2017


Công trình được hoàn thành tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đỗ Thị Thạch

Phản biện 1: ............................................................
............................................................

Phản biện 2: ............................................................
............................................................

Phản biện 3: ............................................................
............................................................

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


Vào hồi...... giờ....... ngày...... tháng...... năm 20....

Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia
và Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Phong trào giải phóng phụ nữ cùng với sự tham gia vào đời sống chính trị của
phụ nữ phát triển mạnh mẽ từ thế kỷ XIX nhằm đấu tranh đòi quyền bình đẳng giới,
bao gồm bình đẳng về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Phụ nữ và nam giới cùng
được hưởng các quyền, đồng thời chia sẻ lợi ích, trách nhiệm và hưởng thụ các giá trị
chân, thiện, mỹ. Ngày nay, vấn đề giải phóng phụ nữ, tăng cường sự tham gia chính
trị của phụ nữ đã và đang gắn liền với vấn đề bình đẳng giới và được thực hiện bằng
hành động, thực tiễn chứ không chỉ dừng lại ở những khái niệm, ý tưởng trừu tượng
hay những tuyên bố pháp lý.
Ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, từ khi Đảng Nhân dân Cách
mạng (NDCM) Lào được thành lập, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến công tác
phụ nữ, vấn đề bình đẳng giới, tạo điều kiện để phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý
(LĐ, QL) đất nước, quản lý xã hội. Điều đó được khẳng định và thể hiện nhất quán
trong các cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước. Đặc biệt, trong giai đoạn thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước,
Đảng và Nhà nước nhấn mạnh đến việc thực hiện quyền bình đẳng giới, chú trọng
công tác cán bộ nữ, coi trọng tăng tỷ lệ cán bộ nữ tham gia quản lý nhà nước, quản lý
kinh tế - xã hội; nâng cao trình độ học vấn cho phụ nữ là tạo điều kiện quan trọng để
thực hiện quyền bình đẳng, dân chủ cho phụ nữ, phát huy vai trò và nâng cao địa vị
cho phụ nữ. Nhờ đó, ngày càng có nhiều phụ nữ trở thành những người LĐ, QL năng
động và giữ những chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị (HTCT), nhất là

HTCT cấp trung ương, cấp cao nhất cả về quyền lực chính trị, cả về trình độ tổ chức,
có vai trò lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành quản lý toàn bộ các hoạt động của đất nước.
Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn tồn tại khoảng cách khá lớn về sự tham gia LĐ, QL
giữa nam và nữ ở tất cả các cấp trong HTCT, trước hết là ở cấp trung ương. Tỷ lệ phụ
nữ tham gia vào các vị trí ra quyết định vẫn còn hạn chế nhất định cả về số lượng và
chất lượng. Hiện nay, tỷ lệ phụ nữ Lào tham gia vào Bộ Chính trị (BCT) là 9,1%
(nam: 90,9%); trong số các Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương (BCHTW) Đảng, nữ
chỉ chiếm 10,1%, (nam: 89,9%); ở cấp Bộ trưởng và tương đương, nữ chiếm tỷ lệ
12,5% (nam: 87,5%), v.v
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên, trong đó có việc nhận thức
về giới và bình đẳng giới trong HTCT chưa đầy đủ và sâu sắc, cơ chế, chính sách về
cán bộ nữ chưa có tính chiến lược lâu dài, thiếu tính đột phá. Sự tự ti, an phận cùng
với gánh nặng công việc gia đình mà người phụ nữ phải đảm nhận… đã làm hạn chế
phụ nữ tham gia LĐ, QL nhất là ở cấp cao. Đây là rào cản lớn không chỉ ngăn cản sự


2

tiến bộ của một nửa nhân loại, mà còn cản trở sự phát triển bền vững của xã hội, ảnh
hưởng không chỉ đến phụ nữ mà còn đến cộng đồng, xã hội.
Với những lý do trên, NCS chọn đề tài: Phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý
trong hệ thống chính trị cấp trung ương ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
hiện nay” làm luận án tiến sĩ chuyên ngành CNXHKH”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở những vấn đề lý luận và thực tiễn về phụ nữ tham gia LĐ, QL trong
HTCT cấp trung ương, luận án đề xuất một số quan điểm cơ bản, giải pháp và kiến
nghị nhằm tăng cường số lượng, chất lượng phụ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT
cấp trung ương ở CHDCND Lào đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Trình bày tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài của luận án.
Hệ thống, khái quát cơ sở lý luận và các yếu tố tác động đến phụ nữ tham gia
LĐ, QL trong HTCT cấp trung ương.
Phân tích thực trạng và một số vấn đề đặt ra đối với phụ nữ tham gia LĐ, QL
trong HTCT cấp Trung ương ở CHDCND Lào hiện nay.
Đề xuất quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu và kiến nghị nhằm tăng cường phụ
nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT cấp trung ương ở CHDCND Lào hiện nay.
3. Đối tượng, giới hạn phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Luận án nghiên cứu phụ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT cấp trung ương ở
CHDCND Lào (từ cấp Phó Vụ trưởng và tương đương trở lên).
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Về lĩnh vực: Luận án nghiên cứu phụ nữ tham gia LĐ, QL: Cơ quan đảng; (2) Cơ
quan nhà nước; (3) Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội ở cấp trung ương.
Về không gian: Luận án chỉ tập trung nghiên cứu phụ nữ tham gia LĐ, QL cấp
trung ương ở CHDCND Lào.
Về thời gian: đề tài tập trung nghiên cứu và sử dụng số liệu từ Đại hội IX của
Đảng NDCM Lào (2011) đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan
điểm của Đảng NDCM Lào về phụ nữ tham gia LĐ, QL, phụ nữ và bình đẳng giới,
có tham khảo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về


3

vấn đề nghiên cứu. Luận án cũng sử dụng lý thuyết phân tích giới để nghiên cứu các
vấn đề phụ nữ, bình đẳng giới.
Cơ sở thực tiễn của luận án là thực trạng phụ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT

cấp trung ương ở Lào đã xác định ở phạm vi nghiên cứu.
Luận án kế thừa các tài liệu, các công trình của các nhà nghiên cứu, hoạt động
thực tiễn ở Lào, Việt Nam cũng như các tổ chức quốc tế liên quan đến đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời sử
dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành, cụ thể như kết hợp phương pháp
lôgic với lịch sử, diễn giải và quy nạp, điều tra xã hội học, trong đó gồm: các cuộc
phỏng vấn sau được kết hợp trong quá trình nghiên cứu, khảo sát, với đối tượng là
cán bộ LĐ, QL của một số cơ quan cấp trung ương. (Bảng hỏi: gồm 9 câu hỏi, với
dung lượng mẫu là 300 phiếu, đối tượng hỏi là cán bộ LĐ, QL tại một số bộ, ban,
mặt trận và tổ chức chính trị - xã hội đại diện trong HTCT cấp trung ương ở
CHDCND Lào).
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án góp phần làm rõ thực trạng phụ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT cấp
Trung ương ở CHDCND Lào hiện nay; chỉ ra những hạn chế, thách thức phụ nữ
tham gia LĐ, QL trong HTCT cấp trung ương đang phải đối mặt và nguyên nhân.
Luận án đề xuất quan điểm, giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường phụ nữ
tham gia LĐ, QL trong HTCT cấp trung ương ở CHDCND Lào, góp phần tạo lập căn
cứ cho việc hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách đối với phụ nữ.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
(1) Góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về phụ nữ
tham gia LĐ, QL trong HTCT cấp trung ương ở CHDCND Lào hiện nay; (2) Cung
cấp thêm những luận cứ cho việc hoạch định, thực hiện chính sách về phụ nữ, bình
đẳng giới, đặc biệt là chính sách cán bộ nữ trong HTCT cấp trung ương ở CHDCND
Lào. (3) Làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy những chuyên đề
liên quan đến vấn đề phụ nữ trong LĐ, QL, bình đẳng giới...
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án
gồm 4 chương, 9 tiết.



4

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài của luận án
1.1.1. Các công trình nghiên cứu của một số tác giả nước ngoài
Thứ nhất: Những nghiên cứu về phụ nữ và bình đẳng giới
Có nhiều công trình nghiên cứu xung quanh vấn đề phụ nữ và bình đẳng giới,
trong đó có thể kể đến: Lê Thi, Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới ở Việt nam
hiện nay; Dương Thị Minh, Gia đình Việt Nam và vai trò người phụ nữ hiện nay; Đỗ
Thị Thạch, Phát huy nguồn lực trí thức nữ Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá; Trịnh Quốc Tuấn, Đỗ Thị Thạch - Đồng chủ biên, Khoa học giới Những vấn đề lý luận và thực tiễn; Lê Minh Tiến, Chính sách và pháp luật của
ASEAN về các vấn đề liên quan đến phụ nữ; và nhiều công trình khác. Qua những
công trình này, đã gợi mở ra tính cấp thiết của việc nghiên cứu vấn đề phụ nữ, vấn đề
giới và bình đẳng giới; làm sáng tỏ nhiều vấn đề liên quan đến phụ nữ và bình đẳng
giới; hệ thống hóa các chính sách và pháp luật liên quan đến quyền của phụ nữ và
bình đẳng giới ở Việt Nam và một số quốc gia, khu vực v.v..
Thứ hai: Nghiên cứu chung về hệ thống chính trị và phụ nữ tham gia lãnh đạo,
quản lý nói chung, trong hệ thống chính trị nói riêng
Nguyễn Văn Huyên, Hệ thống chính trị Anh, Pháp, Mỹ (Mô hình tổ chức và
hoạt động); Lê Minh Thông, Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của hệ thống
chính trị trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; Trần Đình Hoan,
Quan điểm và nguyên tắc đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam giai đoạn 20052020. Trần Thị Tuy Hòa, phụ nữ tham gia LĐ, QL; Nguyễn Đức Hạt, Nâng cao năng
lãnh đạo của cán bộ nữ trong HTCT; Vương Thị Hanh, Phụ nữ Việt Nam và việc
tham gia chính trị; Nguyễn Thị Phương, Một số yếu tố tác động đến tỷ lệ nữ trúng cử
đại biểu Quốc hội khóa XII; Vũ Mạnh lợi, Phụ nữ làm quản lý và lãnh đạo trong khu
vực công ở Việt Nam; Đỗ Thị Thạch, Tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong công
tác LĐ, QL ở nước ta hiện nay; Nguyễn Thị Hà - Nguyễn Thị Tuyết, “Sự chủ động

của phụ nữ trong tiếp cận và hưởng thụ quyền về tham gia LĐ, QL trong hệ thống
chính trị; Nguyễn Thị Tuyết, Vai trò của phụ nữ Việt Nam trong HTCT hiện nay...
Các công trình đã luận giải sự cần thiết về phụ nữ tham gia LĐ, QL nói chung,
phụ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT nói riêng; đã làm sáng tỏ và thống nhất về khái
niệm về LĐ, QL; chỉ ra tỷ lệ chênh lệch giữa nam và nữ trong bộ máy lãnh đạo các
cấp; tập trung phân tích những trở ngại, rào cản, định kiến giới đối với phụ nữ khi
tham gia LĐ, QL ở các cấp. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường sự
tham gia của phụ nữ trong công tác LĐ, QL hiện nay.


5

1.1.2. Các công trình nghiên cứu về phụ nữ, phụ nữ tham gia lãnh đạo,
quản lý ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
Thứ nhất: Những công trình nghiên cứu về phụ nữ và bình đẳng giới
Ụ Thạ Ki Chụ Lạ Mạ Ni - Kham Phủi, Vai trò nam - nữ trong sự phát triển; Sỉ
Am Phay Sổ Lạ Thí, Nâng cao vai trò nam - nữ trong sự phát triển kinh tế - xã hội;
Xỉ Xúc Phị La Vông, Khăm Chăn Phôm Sẻng Sạ Vẳn, Tài liệu tập huấn đối với toàn
bộ phụ nữ; Phỉu La Văn Luẩng Văn Na, Sổm Chăn Tha Nạ Vông, Lịch sử truyền
thống của Hội Liên hiệp Phụ nữ Lào; Sụ Lị Khon Phôm Mạ Vông Sả, Tổng hợp một
số Điều của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ của phụ nữ
Lào; Chăn Đi Păn Kẹo, Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về sự khuyến
khích bình đẳng giới…. Các công trình đã làm rõ nhận thức cơ bản về vai trò nam nữ trong sự phát triển, phân tích thực trạng việc thực hiện vai trò nam - nữ; đã luận
giải vị trí, vai trò của người phụ nữ từ lịch sử cho đến hiện tại, vai trò trong gia đình
và cộng đồng, chỉ ra con đường giải phóng phụ nữ; đã hệ thống hóa các văn bản chỉ
đạo của Đảng NDCM Lào, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước liên quan đến quyền
và lợi ích của phụ nữ nhằm đảm bảo quyền tham gia của phụ nữ về mọi mặt, trong đó
gồm cả quyền tham gia chính trị của phụ nữ.
Thứ hai: Nghiên cứu về hệ thống chính trị và phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản
lý nói chung, trong hệ thống chính trị nói riêng

Sổm Lít Phước Kẹo, Đổi mới hệ thống chính trị cấp tỉnh ở CHDCND Lào
trong giai đoạn hiện nay; Vi Xúc Phôm Phi Thắc, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào
lãnh đạo hệ thống chính trị trong sự nghiệp đổi mới hiện nay; La Chay Sinh Su Văn,
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lãnh đạo hệ thống chính trị ở CHDCND Lào; La
Chay Sinh Su Văn, Đổi mới hệ thống chính trị cấp cơ sở ở nông thôn Lào hiện nay.
Boa Von On Chăn Hỏm, Phải đào tạo cán bộ nữ cho tương xứng với cán bộ nam;
Ních Khăm, Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt Hội Liên hiệp Phụ nữ ở
CHDCND Lào trong thời kỳ đổi mới; Sổm Chay Sẻng Phu Phả Ngân, Phụ nữ với sự
phát triển trong giai đoạn mới; Băn Đít Pạ Thum Văn, Vai trò của HLHPN Lào trên
trường quốc tế; Sỉ Sảy Lư Đệt Mun Sỏn, Vai trò của phụ nữ Lào trong Ủy ban Phụ
nữ ASEAN; Thắt Sạ Đa Phon Sẻng Sụ Lỵ Nha, Vai trò của đại biểu Quốc hội nữ
trong việc xây dựng Quốc hội bền vững; On Chăn Sụ Văn Nạ Sẻng, Vai trò phụ nữ
dưới sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào; Bun Nhông Búp Phả, Liệu Quốc hội nước
CHDCND Lào có cần một “Pháp luật nhạy cảm giới”? Vai trò và nhiệm vụ của Ủy
Ban phụ nữ của Quốc hội nước CHDCND Lào….
Các công trình nghiên cứu đã đề cập và làm sáng tỏ vị trí, vai trò của cán bộ
nữ, phân tích thực trạng cán bộ nữ tham gia LĐ, QL cả về số lượng và chất lượng và
chỉ rõ những hạn chế trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ; đề cập đến vị trí, vai
trò của phụ nữ dưới sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào; đề cập đến sự tham gia LĐ,


6

QL của phụ nữ Lào trong tổ chức Đảng (BCT, BCHTW Đảng), chỉ rõ và so sánh tỷ lệ
tham gia của phụ nữ trong các kỳ Đại hội của Đảng; đã đề cập đến sự tham gia của
phụ nữ trong Quốc hội, nêu những đóng góp to lớn của nữ đại biểu Quốc hội, tỷ lệ
tham gia của nữ đại biểu Quốc hội.
1.2. Những giá trị của các công trình nghiên cứu và định hướng nghiên
cứu của luận án
1.2.1. Những giá trị của các công trình nghiên cứu luận án cần tham khảo

(1) Kết quả của các công trình nghiên cứu là những tài liệu quý cả về cơ sở lý
luận và cơ sở thực tiễn để luận án tham chiếu trong quá trình triển khai mục tiêu và
nhiệm vụ của mình. Các công trình này đã phần nào gợi mở ra tính cấp thiết của việc
nghiên cứu vấn đề phụ nữ, vấn đề bình giới nói chung, vấn đề phụ nữ tham gia LĐ,
QL nói riêng. (2) Làm sáng tỏ nhiều vấn đề liên quan đến phụ nữ và bình đẳng giới;
quan niệm về bình đẳng giới, thực hiện bình đẳng giới trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. (3) Hệ thống hóa các văn bản chỉ đạo
của Đảng NDCM Lào; các văn bản quy định hiện hành về bình đẳng giới vì sự tiến
bộ của phụ nữ, đồng thời chỉ ra sự cần thiết tham gia của phụ nữ vào các lĩnh vực của
đời sống xã hội, nhất là trong lĩnh vực LĐ, QL, góp phần quan trọng trong việc xóa
bỏ định kiến giới. (4) Đã luận giải và làm sáng tỏ ở mức độ nhất định về những vấn
đề cơ bản của sự tham gia LĐ, QL của phụ nữ trong quá trình đổi mới đất nước và
hội nhập quốc tế; vị trí, vai trò của phụ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT xét trên góc
độ công bằng và góc độ hiệu quả đối với sự phát triển bền vững hiện nay. (5) Đã tập
trung phân tích những trở ngại, rào cản, định kiến giới đối với phụ nữ khi tham gia
LĐ, QL ở các cấp. Từ đó đề xuất một số phương hướng, kiến nghị để tăng cường sự
tham gia của phụ nữ trong công tác LĐ, QL hiện nay.
1.2.2. Định hướng nghiên cứu của luận án
(1) Các nghiên cứu trên mới giới hạn ở một số lĩnh vực theo từng giai đoạn
lịch sử nhất định, mô tả tình hình bất bình đẳng giữa nam và nữ trong đời sống chính
trị ở Việt Nam và ở Lào. Chưa có công trình nghiên cứu mang tính hệ thống và toàn
diện trực tiếp về phụ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT cấp trung ương ở CHDCND
Lào hiện nay. (2) Lý giải về bất bình đẳng giới trong HTCT ở Việt Nam, Lào nhưng
giới hạn trong phân tích các vấn đề của cấu trúc kinh tế - xã hội. (3) Chưa có tính
thống nhất cao, các phân tích chưa thật sự làm sáng tỏ những luận cứ khoa học, đề
xuất những giải pháp hữu hiệu nâng cao số lượng, chất lượng phụ nữ LĐ, QL trong
bộ máy Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam, nhất là ở Lào
trong giai đoạn hiện nay. (4) Chưa có tác giả, công trình nào nghiên cứu chuyên sâu,
có hệ thống dưới góc độ chính trị - xã hội về phụ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT
cấp trung ương ở CHDCND Lào hiện nay.



7

Do vậy luận án cần tiếp tục làm sáng tỏ: (1) Trình bày một cách hệ thống cơ sở
lý luận và các yếu tố tác động cho việc nghiên cứu phụ nữ tham gia LĐ, QL trong
HTCT cấp trung ương ở CHDCND Lào hiện nay. (2) Phân tích thực trạng về số
lượng, cơ cấu và vị trị, về chất lượng phụ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT cấp trung
ương hiện nay. (3) Đề xuất quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu và một số kiến nghị
nhằm tăng cường phụ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT cấp trung ương ở CHDCND
Lào hiện nay, góp phần thực hiện thắng lợi Chiến lược quốc gia về Bình đẳng giới
của đất nước.
Chương 2
PHỤ NỮ THAM GIA LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP TRUNG ƯƠNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG
2.1. Lãnh đạo, quản lý và phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ
thống chính trị cấp trung ương
2.1.1. Lãnh đạo, quản lý
Về khái niệm lãnh đạo: Qua phân tích một số quan niệm khác nhau về LĐ, QL,
luận án khái quát lãnh đạo là sự chỉ đạo, dẫn dắt, dẫn đường và định hướng, tạo động
lực cho một nhóm người, một tập thể, một tổ chức nhằm liên kết thực hiện các chủ
trương, đường lối đã xác định để đạt được mục tiêu đã đề ra.
Về khái niệm quản lý: Từ các quan niệm của nhiều nhà nghiên cứu, tác giả luận
án cho rằng, quản lý là hoạch định, tổ chức, điều khiển, điều chỉnh và kiểm soát công
việc, khai thác các nguồn lực nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Theo tác giả, LĐ, QL là hai khái niệm không đồng nhất nhưng có ảnh hưởng
tương tác qua lại lẫn nhau. Tuy nhiên, hai khái niệm này không phải lúc nào cũng
tách bạch, lãnh đạo và quản lý gắn chặt với nhau trong hoạt động của HTCT.
2.1.2. Hệ thống chính trị và hệ thống chính trị cấp trung ương ở Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào

Thứ nhất, Hệ thống chính trị ở CHDCND Lào là chế độ dân chủ nhân dân theo
hướng đi lên CNXH. Cơ cấu tổ chức của HTCT nước CHDCND Lào bao gồm: Đảng
NDCM Lào, Nhà nước CHDCND Lào, Mặt trận Lào xây dựng đất nước và các tổ
chức chính trị - xã hội (Liên hiệp Công đoàn Lào, Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách
mạng Lào, HLHPN Lào, Hội Cựu chiến binh Lào); hoạt động theo một cơ chế nhất
định nhằm từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm mọi quyền lực thuộc
về nhân dân và thực hiện mục tiêu nước mạnh, dân giàu hạnh phúc, xã hội đoàn kết,
hòa hợp, dân chủ, công bằng và văn minh.
Thứ hai, Cấp trung ương là cấp cao nhất trong HTCT ở CHDCND Lào cả về
quyền lực chính trị và trình độ tổ chức, đội ngũ cán bộ (có tính chất vĩ mô), gồm: tổ


8

chức Đảng (các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng, như BCHTW Đảng, BCT, Ban
Bí thư) với tổ chức Nhà nước (Quốc hội, Chính phủ, Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện
Kiểm sát Nhân dân Tối cao) và tổ chức Mặt trận Lào xây dựng đất nước, các tổ chức
chính trị - xã hội (Mặt trận Lào xây dựng đất nước, Liên hiệp Công đoàn Lào, Đoàn
Thanh niên Nhân dân Cách mạng Lào, Hội Liên hiệp Phụ nữ Lào và Hội Cựu chiến
binh Lào) và mối quan hệ giữa ba bộ phận của Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các tổ
chức chính trị - xã hội ở cấp trung ương.
2.1.3. Lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị
Lãnh đạo trong HTCT là những cá nhân, tổ chức có quyền lực và trách nhiệm
cao nhất, có khả năng hoạch định, đề ra các chủ trương, đường lối chính trị để thực
hiện các mục tiêu, chiến lược phát triển đất nước của Đảng, Nhà nước; được bầu hoặc
bổ nhiệm theo vị trí chức danh, họ giữ vai trò nòng cốt trong một cơ quan, tổ chức
của HTCT; thực thi các hoạt động của tổ chức và tạo lập các quan hệ trong lãnh đạo,
chỉ huy, điều hành, góp phần định hướng phát triển, hoàn thành các nhiệm vụ của tổ
chức theo các mục tiêu đã đề ra.
Quản lý trong HTCT là những cá nhân, tổ chức có chức năng điều hành hoạt

động và tổ chức thực hiện các công việc được lãnh đạo ủy quyền, phân quyền trong
các cơ quan của đảng, nhà nước, mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội ở Trung
ương, tỉnh/thành phố, huyện.
2.1.4. Nội dung phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị
cấp trung ương
Phụ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT cấp trung ương là những người phụ nữ
có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, phẩm chất đạo đức tốt, tiêu biểu, xuất sắc
tham gia vào các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã
hội cấp trung ương, đại diện cho quyền lợi cho phụ nữ và nhân dân cả nước thực hiện
vai trò LĐ, QL trong HTCT cấp trung ương.
Trong khuôn khổ của luận án, tác giả đi sâu phân tích nội dung phụ nữ tham
gia LĐ, QL trong HTCT cấp trung ương ở CHDCND Lào trên các góc độ: Thứ nhất,
về số lượng phụ nữ tham gia; thứ hai, về cơ cấu, các vị trí phụ nữ tham gia; thứ ba, về
chất lượng phụ nữ tham gia ở khối đảng, nhà nước, mặt trận và các tổ chức chính trị xã hội cấp trung ương.
2.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, của Đảng và chính sách của Nhà
nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào về phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý
2.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về phụ nữ tham gia lãnh đạo,
quản lý
Chủ nghĩa Mác - Lênnin đã chỉ rõ phụ nữ có vai trò to lớn trên mọi mặt của đời
sống xã hội. Phụ nữ là một lực lượng quan trọng trong đội ngũ đông đảo những
người lao động. Bằng lao động của mình, phụ nữ không những đã góp phần tạo ra


9

của cải vật chất và tinh thần, mà còn tham gia tích cực vào công cuộc đấu tranh giải
phóng giai cấp và giải phóng dân tộc. Theo các ông, công cuộc giải phóng phụ nữ là
hết sức khó khăn và phức tạp. Tuy nhiên, thực hiện sự nghiệp giải phóng phụ nữ, tăng
cường sự tham gia của phụ nữ vào quản lý đất nước, quản lý xã hội là một trong
những nội dung quan trọng của cách mạng xã hội chủ nghĩa.

2.2.2. Quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào về phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng NDCM Lào đã kế thừa và phát
triển sáng tạo quan điểm Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề phụ nữ và
cán bộ nữ. Trong mỗi giai đoạn cách mạng, đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã
đề ra và thực hiện nhiều chủ trương, chính sách nhằm thực hiện bình đẳng giới trong
các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó quan tâm nhiều đến lĩnh vực chính trị;
đồng thời Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội xây
dựng các chính sách, biện pháp tạo các điều kiện để tăng tỷ lệ phụ nữ tham gia LĐ,
QL, nhất là cấp trung ương. Trên cơ sở những quan điểm của Đảng, Chính phủ
nước CHDCND Lào đã quan tâm phát huy quyền bình đẳng giữa nam - nữ về mọi
mặt, gồm cả mặt chính trị, được thể hiện rất rõ trong Hiếp pháp 1991 (Điều 22, 24)
và được khẳng định lại trong Hiến pháp 2003 và 2015 (bản sửa đổi) (Điều 35, 36,
37); luật về Sự phát triển và bảo vệ phụ nữ, Kế hoạch hoành động quốc gia về
Bình đẳng giới giai đoạn 2006-2010; 2011-2015; 2016-2020… Đây là những căn
cứ pháp lý quan trọng quy định việc tăng tỷ lệ phụ nữ LĐ, QL trong HTCT ở Lào
hiện nay.
2.3. Các yếu tố tác động đến phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ
thống chính trị cấp trung ương ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
2.3.1. Yếu tố tự nhiên, địa lý
Nước CHDCND Lào có vị trí là trung tâm trung chuyển của các nước trong
khu vực, với quá trình đẩy mạnh hội nhập quốc tế, đã tạo cho phụ nữ nói chung, phụ
nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT cấp trung ương nói riêng có cơ hội nhanh chóng
nắm bắt, lĩnh hội và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
Lào, nhất là chủ trương, chính sách về hội nhập kinh tế.
Tuy nhiên, ở Lào, do chịu ảnh hưởng của tập quán sản xuất lúa nước, nền sản
xuất nông nghiệp, hình thành tâm lý sản xuất tiểu nông, bảo thủ… ảnh hưởng khá rõ
nét trong phong cách LĐ, QL của phụ nữ trong HTCT các cấp ở Lào nói chung, cấp
trung ương nói riêng. Đa số phụ nữ thường bằng lòng với cuộc sống, ít quan tâm đến
những công việc liên quan đến đời sống chính trị, thậm chí, ngại tham gia chính trị.

2.3.2. Yếu tố kinh tế
Sự phát triển kinh tế khá cao của Lào đã tạo điều kiện, cơ hội thuận lợi cho phụ
nữ tham gia các hoạt động chính trị - xã hội, nhất là tham gia LĐ, QL các cấp, trong


10

đó có cấp trung ương. Vị thế, vai trò của phụ nữ từng bước được thiết lập và khẳng
định trên các lĩnh vực đời sống xã hội.
Bên cạnh những thuận lợi đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhưng chưa bền
vững, tính chất tự cấp, tự túc vẫn khá rõ nét; kinh tế quốc doanh yếu kém, người lao
động thiếu việc làm… Điều kiện thu nhập của nhiều hộ gia đình thấp đã tăng gánh
nặng cho phụ nữ trong việc kiếm sống cho gia đình. Đa số nữ giới làm LĐ, QL trong
HTCT các cấp nói chung, cấp trung ương nói riêng vẫn phải tham gia vào các hoạt
động kinh tế ngoài giờ để tăng thêm thu nhập cho gia đình. Do vậy, thời gian dành
cho công việc LĐ, QL cũng như phát triển chuyên môn bị hạn chế, ảnh hưởng đến
hiệu quả, chất lượng tham gia.
2.3.3. Yếu tố lịch sử, văn hóa và xã hội
Trải qua các giai đoạn cách mạng, phụ nữ các bộ tộc Lào đã kề vai sát cánh với
nam giới luôn luôn thể hiện tinh thần yêu nước, cần cù, chịu thương, chịu khó, vượt
qua mọi khó khăn thử thách, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của
Đảng - xây dựng và vảo vệ Tổ quốc. Truyền thống quý báu này đã ảnh hưởng tích
cực đến sự tham gia LĐ, QL của phụ nữ Lào nói chung, cán bộ nữ trong HTCT cấp
trung ương nói riêng.
Bện cạnh đó, yếu tố lịch sử, văn hóa, xã hội cũng gây nên một số rào cản trở sự
tham gia của phụ nữ trong LĐ, QL trong HTCT các cấp nói chung, cấp trung ương
nói riêng. Tàn dư của tư tưởng phong kiến, tập tục truyền thống lạc hậu coi thường
phụ nữ vẫn còn ăn sâu bám rễ trong cách nghĩ một bộ phận quần chúng nhân dân.
Định kiến giới về vai trò của phụ nữ nói chung, phụ nữ tham gia LĐ, QL nói riêng
còn tồn tại khá nặng nề.

Chương 3
PHỤ NỮ THAM GIA LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ TRONG
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP TRUNG ƯƠNG Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ
NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. Thực trạng phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính
trị cấp trung ương ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay
3.1.1. Thực trạng về số lượng và cơ cấu vị trí của phụ nữ tham gia lãnh đạo,
quản lý trong hệ thống chính trị cấp trung ương ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào hiện nay
3.1.1.1. Trong khối đảng
- Trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị
Từ trước đến nay, trong HTCT cấp trung ương của Lào, tỷ lệ phụ nữ tham gia
rất thấp. Theo khảo sát, từ khóa I (1955) đến khóa VII (2001) trong BCT không có


11

phụ nữ tham gia. Từ khóa VIII (2006), IX (2011) và X (2016) có 1 nữ trên tổng số 11
ủy viên BCT, chiếm 9,1%. Tỷ lệ phụ nữ tham gia vào BCHTW Đảng còn rất khiêm
tốn, Trừ khóa I (1955) không có nữ tham gia, từ khóa II (1972) đến khóa VI (1996)
đã có nữ tham gia, tuy nhiên số lượng tăng không bền vững (3,4%; 7,3%; 8,3%;
6,8%; 8,2%). Riêng khóa VII (2001) tỷ lệ nữ tham gia giảm rất nhiều so với mấy
khóa trước đó, chỉ còn 5,7%. Từ khóa VIII, IX và X tỷ lệ nữ là Ủy viên BCHTW có
tăng dần theo tỷ lệ: 7,3%; 8,2% và 13,0%. Xét về cơ cấu độ tuổi của phụ nữ tham gia
vào vị trí BCHTW Đảng ở nhóm tuổi 60 trở lên chiếm tỷ lệ cao nhất so với các độ
tuổi khác.
- Trong các ban đảng
Nhiệm kỳ 2016-2021, trong 4 ban đảng và 2 Học viên (Ban Tổ chức Trung
ương, Ban Tuyên huấn Trung ương, Văn phòng Trung ương, Ban Đối ngoại Trung
ương, Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia Lào, Học viện Khoa học - Xã hội)

có 43 nữ/173 người (chiếm 24,85%), tăng 8,42% so với nhiệm kỳ 2011-2016. Trong
đó, cấp Trưởng Ban có 1 (Ban Đối ngoại Trung ương), chiếm 16,66%; cấp Phó
trưởng ban có 22 nữ (chiếm 18,18%). Cấp Vụ trưởng, nữ chiếm 28,84% (15/52). Ban
Tuyên huấn Trung ương có tỷ lệ nữ tham gia cấp Vụ trưởng cao nhất (50,0%), Văn
phòng Trung ương có tỷ lệ thấp nhất (20,0%); riêng Học viện Khoa học - Xã hội
không có nữ cấp Vụ trưởng. Cấp Phó vụ trưởng, nữ chiếm 24,73% (23/93), Ban
Tuyên huấn Trung ương có tỷ lệ nữ cấp Phó vụ trưởng cao nhất (33,33%), Học viện
Khoa học - Xã hội có tỷ lệ thấp nhất (8,33%). Tuy nhiên, cũng có cơ quan chưa có nữ
tham gia cấp Phó vụ trưởng (Ban Đối ngoại Trung ương).
Xét về cơ cấu độ tuổi của phụ nữ tham gia LĐ, QL ở các ban đảng cấp trung
ương, ở độ tuổi 40-49 có 18 nữ (chiếm 41,86%); ở nhóm tuổi 50-59, nữ có 21 (chiếm
48,84%). Ngoài ra, độ tuổi 60 trở lên có 4 nữ (chiếm 9,30%), chủ yếu giữ chức
Trưởng ban và Phó trưởng ban (tương đương với Bộ trưởng và Thứ trưởng).
3.1.1.2. Trong khối nhà nước
- Trong Quốc hội
Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội ngày càng có xu hướng tăng nhưng so với nam giới
vẫn thấp khá nhiều. Trong khóa I (nhiệm kỳ 1975-1989), có 4 nữ/45 (chiếm 8,8%),
nam chiếm 91,2%, khóa II (nhiệm kỳ 1989-1992), nữ đại biểu Quốc hội giảm 2,5%
so với khóa I. Từ khóa IV (nhiệm kỳ 1997-2002) đến khóa VIII (nhiệm kỳ 20162021), nữ đại biểu Quốc hội tăng nhanh, đặc biệt khóa VIII, có tỷ lệ nữ cao nhất so
với các khóa (27,5%), nhưng so với mục tiêu đề ra của Đảng, Nhà nước (30%) thì
vẫn chưa đạt.
Phụ nữ tham gia đại biểu Quốc hội ở độ tuổi 39 trở xuống chỉ chiếm 2,44%, độ
tuổi từ 40-49 tuổi chiếm 22,0%, ở độ tuổi 50-59 chiếm tỷ lệ cao nhất 68,3%, từ độ
tuổi 60 trở lên chiếm 7,32%;


12

- Trong các Bộ của Chính phủ
Trong những năm qua, số lượng phụ nữ tham gia LĐ, QL ở các bộ có tăng,

nhưng rất chậm. Trong 16 bộ (nhiệm kỳ 2016-2021), phụ nữ tham LĐ, QL từ cấp Phó
vụ trưởng đến cấp Bộ trưởng có 202 nữ/1.373, chiếm 14,71%, tăng 1,46% so với
nhiệm kỳ 2011-2016. Hiện tại có 2 nữ Bộ trưởng (Bộ Giáo dục và Thể thao, Bộ Công
nghiệp và Thương mại) chiếm 12,5%; cấp Thứ trưởng có 9 nữ/ 60 (chiếm 15%). Cấp
Vụ trưởng có 40 nữ/ 302 người (chiếm 13,25%). Ở một số bộ, nữ Vụ trưởng chiểm tỷ
lệ khá cao: Bộ Kế hoạch và Đầu tư (30,77%), Bộ Khoa học và Công nghệ (27,27%).
Cũng có một số bộ, số lượng nữ cấp Vụ trưởng nhiều hơn so với bộ khác, nhưng so với
nam giới cùng bộ có tỷ lệ thấp: Bộ Giáo dục và Thể thao (11,11%). Có một số bộ, nữ
cấp Vụ trưởng có tỷ lệ rất thấp, chưa đến 10,0%: Bộ Tư pháp (7,14%), Bộ Công chính
và Vận tải (4,35%). Cá biệt, có một số bộ vẫn chưa có nữ tham gia vào cấp Vụ trưởng
(Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội, Bộ Bưu chính và Viễn thông). Cấp Phó vụ trưởng
trong các bộ, nữ chiếm 15,18% (151/995), Bộ Nội vụ có tỷ lệ nữ cấp Phó vụ trưởng
cao nhất (25,0%), Bộ Y tế (24,76%); có một số bộ tỷ lệ nữ cấp Phó Vụ trưởng rất thấp,
chưa đến 5% (Bộ Nông nghiệp và Lâm nghiệp (4,76%), Bộ Công chính và Vận tải
(3,85%) và Bộ Năng lượng và Mỏ (2,86%)).
Về cơ cấu độ tuổi của phụ nữ tham gia LĐ, QL từ cấp Phó vụ trưởng trở lên
trong 16 bộ, ở độ tuổi 39 trở xuống nữ chiếm tỷ lệ không cao, 9,4% (19/202); độ tuổi
từ 40-49, có 86/202 (chiếm 42,57%), từ 50-59 tuổi chiếm tỷ lệ khá cao 45,04%
(105/202), còn từ độ tuổi 60 trở lên chiếm 3,0% (6/202), ở nhóm tuổi này chủ yếu giữ
chức vụ cấp Bộ trưởng và Thứ trưởng.
3.1.1.3. Trong Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội cấp trung ương
Theo thống kê tháng 4/2016, trong Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội nữ
chiếm 29,37% (121/412) trong Ủy viên Ban Chấp hành của khối nhiệm kỳ 20162021, tăng 3,33% so với nhiệm kỳ 2011-2016. Còn các vị trí từ Phó vụ trưởng/Vụ
trưởng/Phó chủ tịch/Chủ tịch, nữ chiếm 43,12% (47/109), tăng 12,06% so với nhiệm
kỳ 2011-2016. Trong đó, Chủ tịch chiếm 20%, Phó chủ tịch chiếm 46,66%. Phụ nữ
tham gia cấp Vụ trưởng chiếm 43,24%. HLHPN Lào là tổ chức có tỷ lệ nữ tham gia
cấp Vụ trưởng cao nhất: 88,88%, Liên hiệp Công đoàn Lào (42,9%), Hội Cựu chiến
binh Lào là có tỷ lệ thấp nhất (14,29%). Vị trí cấp Phó vụ trưởng trong khối này, số
lượng nữ tham gia cũng có tỷ lệ tương đương như cấp Vụ trưởng, đó là 44,23%.
Trong đó, HLHPN Lào có tỷ lệ nữ giữ vị trí cấp Phó vụ trưởng cao nhất (92,85%),

còn Mặt trận và Hội Cựu chiến bình Lào chưa có nữ giữ chức vụ cấp Phó vụ trưởng.
Phụ nữ tham gia LĐ, QL trong Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội, ở độ
tuổi 39 trở xuống chiếm 12,76% (6/47), từ 40-49 tuổi chiếm 36,17% (17/47), từ 50-


13

59 tuổi chiếm 44,68% (21/47), từ độ tuổi 60 trở lên chiếm 6,38% (3/47). Điều này
cho thấy, nữ tham gia LĐ, QL ở khối này trẻ hơn so với khối đảng và nhà nước.
3.1.1.4. Đánh giá chung về số lượng, cơ cấu và vị trí phụ nữ tham gia lãnh
đạo, quản lý trong HTCT cấp trung ương ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào Lào
Cùng với sự phát triển của đất nước, nhiều mục tiêu vì sự tiến bộ của phụ nữ
về số lượng, vị trí tham gia ở CHDCND Lào đã đạt được và có sự chuyển biến tích
cực. Thứ nhất, trong BCT khóa VIII, IX và X đã có 01 nữ ủy viên; trong BCHTW
Đảng mấy khóa gần đây tỷ lệ nữ tăng lên rõ rệt. Thứ hai, tỷ lệ phụ nữ LĐ, QL trong
các ban đảng, mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội có tỷ lệ khá cao so với mục
tiêu đề ra (15%). Thứ ba, trong khối nhà nước, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, mặc dù
không đạt mục tiêu đề ra, nhưng đã tăng lên đáng kể, thậm chí có khóa (khóa VII), tỷ
lệ nữ đại biểu Quốc hội đứng đầu châu Á (25%), tỷ lệ trong khóa VIII cũng tăng lên
và đạt tỷ lệ cao nhất so với các khóa trước. Trong 16 bộ, tính trung bình cả 4 vị trí
chưa đạt được mục tiêu đặt ra, nhưng có một số vị trí đã đạt được (cấp Phó vụ trưởng
và Thứ trưởng). Hơn nữa, có một số vị trí rất quan trọng đã có nữ đứng đầu (Chủ tịch
Quốc hội và 2 nữ Bộ trưởng).
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, có thể nói, vai trò và vị thế của phụ nữ
tham gia LĐ, QL trong HTCT cấp trung ương chưa tương xứng với tiềm năng và sự
đóng góp của phụ nữ. Thứ nhất, trong khối đảng, ở một số vị trí, tỷ lệ nữ chưa đạt
mục tiêu đề ra (BCT, BCHTW Đảng). Thứ hai, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội có xu
hướng tăng nhanh, nhưng chưa có khóa nào đạt được mục tiêu đề ra. Ở 16 bộ, tỷ lệ
phụ nữ tham gia LĐ, QL từ cấp Phó vụ trưởng đến cấp Bộ trưởng, mặc dù so với
những năm qua đây đã tăng lên, nhưng vẫn còn rất thấp và không đạt chỉ tiêu đề ra,

đặc biệt, là ở cấp Vụ trưởng và Bộ trưởng. Điều này cho thấy, trong HTCT ở vị trí
càng cao, tỷ lệ phụ nữ LĐ, QL càng thấp. Thứ ba, trong HTCT cấp trung ương ở vị trí
cấp phó nữ chiếm đa số. Thứ tư, xem xét về cơ cấu độ tuổi đội ngũ cán bộ nữ tham
gia LĐ, QL cấp trung ương cũng còn bất cập. Số cán bộ nữ ở độ tuổi trên 50 chiếm tỷ
lệ rất cao, dưới 39 tuổi quá thấp (trên dưới 10%), đặc biệt, trong khối đảng chưa có
nữ cán bộ LĐ, QL nào ở nhóm độ tuổi này. Thứ năm, so với khối đảng và khối nhà
nước thì phụ nữ LĐ, QL trong Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội chiếm tỷ lệ
cao hơn. Nhận định trong xã hội cho rằng phụ nữ tham gia LĐ, QL chủ yếu ở lĩnh
vực xã hội, đoàn thể và cấp phó là hiện tượng đang hiện diện trong thực tiễn. Điều
này phản ánh sự bất bình đẳng giới trong vị thế, vai trò, tiếng nói của phụ nữ so với
nam giới trong các quyết định quan trọng trong HTCT cấp trung ương ở CHDCND
Lào hiện nay.


14

3.1.2. Thực trạng về chất lượng phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ
thống chính trị cấp trung ương ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay
3.1.2.1. Trong khối đảng
Thứ nhất, Về trình độ chuyên môn
Trong tổng số 10 nữ Ủy viên BCHTW Đảng có 3 người có trình độ đại học, 5
nữ có học vị thạc sĩ và 2 người có học vị tiến sĩ.
Ở 4 ban và 2 Học viện trong khối đảng trình độ học vấn của nữ LĐ, QL đã
được nâng lên rõ rệt trong nhiệm kỳ 2016-2021. Trong tổng số 43 nữ LĐ, QL, trình
độ trung cấp là 3 người (6,97%); trình độ cao đẳng là 7 người (16,28%); trình độ đại
học là 14 người (32,56%); trình độ thạc sĩ là 16 người và trình độ tiến sĩ là 3 (6,96%).
Thứ hai, về trình độ lý luận chính trị: Phụ nữ tham gia BCT và BCHTW Đảng
đều có trình độ cao cấp lý luận. Trong 4 ban và 2 Học viện, nữ LĐ, QL có trình độ sơ
cấp: 11,63%; trình độ Trung cấp chiếm 9,3%, trình độ cao cấp nữ có tỷ lệ 62,8%. có
16,28% nữ đã học lớp bồi dưỡng lý luận chính trị 45 ngày (lớp bồi dưỡng về chủ

trương, đường lối, chính sách của Đảng NDCM Lào).
3.1.2.2. Các cơ quan nhà nước
Trình độ chuyên môn của nữ đại biểu Quốc hội: trình độ trung cấp: 2,44%, trình
độ đại học chếm 53,66%, trình độ thạc sĩ chiếm 34,15% và 3 đại biểu nữ trình độ tiến
sĩ (7,32%). Trình độ lý luận chính trị: Trong 41 nữ đại biểu Quốc hội, chưa qua đào tạo
lý luận chính trị chiếm 2,44%, có 7,32% nữ đã học lớp bồi dưỡng lý luận chính trị 45
ngày; trình độ trung cấp lý luận (9,75%) và trình độ cao cấp lý luận (80,49%).
Trình độ chuyên môn của nữ LĐ, QL ở các cơ quan Chính phủ: Trong số 202
nữ LĐ, QL ở 16 bộ của chính phủ, trình độ trung cấp (2,0%); trình độ cao đẳng
(12,37%); trình độ đại học (33,17%); trình độ thạc sĩ là 83 người (41,1%); trình độ
tiến sĩ (11,38%). Trình độ lý luận chính trị: 32,18% nữ đã qua lớp bồi dưỡng lý luận
chính trị 45 ngày; trình độ sơ cấp (8,42%); trình độ trung cấp (10,9%); trình độ cao
cấp lý luận chính trị (48,51%).
3.1.2.3. Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội cấp trung ương
Về trình độ chuyên môn: Trong số 47 phụ nữ tham gia LĐ, QL trong khối này
có trình độ chuyên môn từ cao đẳng trở lên, trong đó: trình độ cao đẳng (19,15%);
trình độ đại học (42,55%); trình độ thạc sĩ (36,17%); trình độ tiến sĩ (2,13%). Về trình
độ lý luận chính trị: lớp 45 ngày chiếm 23,4%; trình độ sơ cấp lý (8,51%); trình độ
cao cấp lý luận chính trị, chiếm tỷ lệ cao nhất so với trình độ khác (68,1%).
3.1.2.4. Đánh giá chung về chất lượng phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong
hệ thống chính trị cấp trung ương ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay
Những thành tựu nổi bật: Thứ nhất, đa số nữ LĐ, QL cấp trung ương ở
CHDCND Lào có lập trường chính trị vững vàng, có ý thức tổ chức kỷ luật, nhiệt
tình phục vụ Tổ quốc và nhân dân, kiên định mục tiêu và con đương đi lên CNXH


15

mà Đảng NDCM Lào và nhân dân Lào đã lựa chọn. Thứ hai, đội ngũ nữ LĐ, QL đã
có bước phát triển về chất lượng, trình độ học vấn, chuyên môn và lý luận chính trị

được nâng lên đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn hóa cán bộ thời kỳ đổi mới. Thứ ba, ở bất
kỳ vị trí nào, đội ngũ nữ LĐ, QL cũng thể hiện rõ tinh thần trách nhiệm cao, trung
thực, thẳng thắn, khiêm tốn, mềm dẻo, nghị lực, kiên trì, v.v… Thứ tư, đa số cán bộ
nữ LĐ, QL đã tích cực rèn luyện phong cách LĐ, QL, điều hành công việc; coi trọng
việc rèn luyện, đổi mới hình thức, phương pháp vận động quần chúng thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước…
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, phụ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT
cấp trung ương còn có một số hạn chế: Thứ nhất, về trình độ chuyên môn của một số
nữ tham gia LĐ, QL mới ở trình độ trung cấp, nhất là cấp Vụ trưởng vẫn còn 7 nữ
chưa đạt chuẩn theo Quy định số 04/BCTTW, Về tiêu chuẩn cán bộ cán bộ của Bộ
Chính trị. Thứ hai, trình độ lý luận chính trị của cán bộ nữ tham gia LĐ, QL cấp trung
ương của một bộ phận cán bộ nữ (22 người) chưa đạt chuẩn theo Quy định số 04 của
Bộ Chính trị. Thứ ba, về năng lực LĐ, QL và tổ chức thực tiễn, tinh thần trách nhiệm
và phong cách của một bộ phận không nhỏ nữ LĐ, QL cấp trung ương đang khá hạn
chế, nhất là về năng lực tổ chức thực hiện và kinh nghiệm quản lý, tinh thần trách
nhiệm, ý thức chủ động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, hay giải
quyết những nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, v.v…
3.2. Một số vấn đề đặt ra đối với phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong
hệ thống chính trị cấp trung ương ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
hiện nay
3.2.1. Những vấn đề đặt ra từ những rào cản, định kiến giới trong nhận
thức của cộng đồng xã hội về vai trò phụ nữ tham gia trong lãnh đạo, quản lý
trong hệ thống chính trị cấp trung ương
Định kiến giới trong xã hội nói chung, đội ngũ cán bộ trong HTCT nói riêng là
một trong những nguyên nhân lớn ảnh hưởng đến tham gia LĐ, QL của cán bộ nữ,
đến việc quy hoạch, bồi dưỡng, bổ nhiệm, sử dụng cán bộ nữ. Do ảnh hưởng khá
nặng nề tư tưởng lạc hậu trọng nam khinh nữ nên trong nhận thức, thái độ và hành vi
của không ít người, kể cả cán bộ, đảng viên chưa đánh giá đúng vai trò, vị thế của
phụ nữ trong tham gia LĐ, QL; họ không muốn đề bạt chị em giữ vị trí chủ chốt hoặc
nhìn nhận, đánh giá phụ nữ còn hẹp hòi. Khuôn mẫu giới truyền thống đã in sâu trong

tâm thức của nhiều người với suy nghĩ phụ nữ yếu đuối, thụ động, tự ti, phụ thuộc;
còn nam giới luôn mạnh mẽ, quyết đoán, là người ra quyết định. Đây là rào cản vô
hình tác động trái chiều tới việc đề bạt, bổ nhiệm, bỏ phiếu cho cán bộ nữ vào các vị
trí LĐ, QL trong các cơ quan, nhất là ở cấp trung ương. Theo kết quả khảo sát của tác
giả cho thấy, có tới 39,7% ý kiến của cán bộ cho rằng điểm yếu của phụ nữ làm LĐ,


16

QL là áp lực từ trách nhiệm gia đình; 28,7% ý kiến cho rằng, do phụ nữ thiếu tự tin
và thụ động trong công việc, 27,3% ý kiến cho rằng, phụ nữ làm LĐ, QL hạn chế
trong ứng phó với tình huống thay đổi của thực tiễn.
3.2.2. Những vấn đề đặt ra từ nhận thức, lãnh đạo, chỉ đạo của các thành
viên trong hệ thống chính trị cấp trung ương về công tác cán bộ nữ
Trong thời gian qua, Đảng NDCM Lào đã có nhiều chủ trương, chính sách về
công tác cán bộ nữ, nhưng trên thực tế, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, chưa
thúc đẩy được phụ nữ tích cực tham gia LĐ, QL trong HTCT cấp trung ương đạt được
kết quả mong đợi. Nhiều chủ chương, chính sách còn chung chung trong việc đề ra
mục tiêu tăng tỷ lệ cán bộ nữ trong HTCT, còn kết quả như thế nào lại chưa có các cơ
chê kiểm tra, giám sát hoặc có thì tính ràng buộc pháp lý cũng chưa cao.
Nhận thức về giới và bình đẳng giới trong HTCT cũng như trong xã hội của
một số cấp ủy chưa đầy đủ, còn giản đơn, phiến diện. Một số cấp ủy, lãnh đạo của các
bộ, ban, ngành còn chưa nhận thức, đánh giá đúng vị trí, vai trò, khả năng của phụ nữ
trong sự nghiệp đổi mới nói chung, cán bộ nữ nói riêng. Mặt khác, một số cấp ủy
quán triệt chỉ thị, nghị quyết chưa sâu sắc, coi nhẹ công tác vận động phụ nữ, dẫn đến
buông lỏng sự lãnh đạo đối với công tác cán bộ nữ, v.v… Kết quả là, ở một số cơ
quan, cán bộ nữ chiếm tỷ lệ rất cao từ 30% trở lên, nhưng cán bộ nữ giữ chức vụ chủ
chốt (Phó vụ trưởng/Vụ trưởng/Thứ thưởng/Bộ trưởng) lại rất thấp (Học viện Khoa
học - Xã hội, tổng số nữ chiếm 39,74%, nhưng tỷ lệ cán bộ nữ chủ chốt chỉ là 8,69%;
Bộ Tư pháp, cán bộ nữ chủ chốt là 8,93%/34,72%,...).

Nhà nước chưa quán triệt sâu sắc quan điểm giới trong việc xây dựng và thực
hiện chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, chưa quan tâm chỉ
đạo đúng mức việc xây dựng và thực hiện Kế hoạch hành động quốc gia Vì sự tiến
bộ của phụ nữ. Ở các bộ, ngành đã thành lập Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ nhưng
hoạt động hình thức, chưa có tiếng nói và hiệu quả thiết thực là hiện tượng còn phổ
biến hiện nay.
Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội, so với chức năng, nhiệm vụ và yêu
cầu của xã hội, chưa phát huy hiệu quả, vai trò tham mưu trong việc đảm bảo quyền
tham chính của phụ nữ. Hình thức hoạt động chưa có nhiều đổi mới, có một số mặt
còn chồng chéo. Đặc biệt, HLHPN Lào chưa thực sự phát huy được vai trò và quyết
tâm cao trong thực hiện các kế hoạch, chương trình, tham mưu cho Đảng và Nhà
nước các khâu quan trọng trong việc tăng cường quyền tham chính cho phụ nữ, nhất
là cấp trung ương.


17

3.2.3. Những vấn đề đặt ra từ chính sách và việc thực hiện chính sách phát
huy vai trò của cán bộ nữ trong lãnh đạo, quản lý cấp trung ương
Việc xây dựng và thực hiện các văn bản chính sách pháp luật đối với công tác
cán bộ nữ diễn ra rất chậm chạp. Hơn nữa, việc triển khai chính sách, pháp luật vào
cuộc sống còn chậm chạp và bất cập. Ngoài ra, việc quán triệt quan điểm giới trong
xây dựng chính sách, pháp luật chưa thực sự quan tâm đúng mức; nhiều khi việc triển
khai chủ trương, chính sách pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn còn lỏng lẻo, chiếu
lệ. Cho đến thời điểm này, Lào chưa có Nghị quyết, Chỉ thị, Hướng dẫn, Quy định...
của Đảng và Nhà nước riêng biệt về công tác cán bộ nữ có tính chất pháp lý cao; Luật
Bình đẳng giới cũng chưa được quan tâm xây dựng.
Trong 5 năm qua, công tác cán bộ nữ của Đảng và Nhà nước CHDCND Lào tuy
có nhiều chuyển biến tích cực với tỷ lệ nữ tham gia các vị trí LĐ, QL trong khối đảng,
nhà nước, mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội cấp trung ương tăng lên, nhưng ở

chặng đường phía trước, vấn đề cán bộ nữ và mục tiêu bình đẳng giới vẫn còn nhiều
khó khăn, thách thức. Nhiều cơ quan cấp trung ương chưa có lãnh đạo chủ chốt là nữ,
đặc biệt ở cấp Thứ trưởng và Bộ trưởng như: Học viện Chính trị và Hành chính quốc
gia Lào, Bộ Tư pháp, Bộ Thông tin, văn hóa và Du lịch…
Đối với công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ chưa được thực
hiện một cách hiệu quả
Đối với công tác quy hoạch: thực tế cho thấy, để đảm bảo tỷ lệ nữ LĐ, QL trong
HTCT các cấp đạt 15% trở lên, trước hết phải làm tốt khâu quy hoạch cán bộ, trong đó
tỷ lệ quy hoạch phải lớn hơn tỷ lệ dự định (phải có). Tuy nhiên, ngay ở khâu quy
hoạch, nhiều bộ, ban, ngành cấp trung ương đã không đáp ứng được yêu cầu này, tỷ lệ
cán bộ nữ được đưa vào quy hoạch chức danh LĐ, QL chủ chốt ở 3 vị trí (Vụ
trưởng/Thứ trưởng/Bộ trưởng) giai đoạn 2011-2016 của các cơ quan so với mục tiêu
phấn đấu vẫn thấp (Văn phòng Trung ương, cán bộ nữ đưa vào quy hoạch chỉ chiếm
10%, Bộ Công chính và Vận tải (9,53%) và Hội Cựu chiến bình (5,88%)…).
Đối với chính sách đào tạo, bồi dưỡng
Trên thực tế, chính sách đào tạo cán bộ nữ chưa được quan tâm, đặc biệt là việc
đào tạo cán bộ chủ chốt và cán bộ kế cận thay thế từng chức danh cũng chưa có trách
nhiệm giới cao. Đồng thời, việc đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ và lý luận chính trị, quản lý nhà nước của cán bộ, công chức còn bất cập.
Thực trạng chung cho thấy, cơ hội đào tạo về chuyên môn, trình độ lý luận chính trị,
quản lý nhà nước của cán bộ nữ ở cấp trung ương còn hạn chế, đặc biệt là trình độ
tiến sĩ, như phần thực trạng đã chỉ rõ. Về trình độ cao cấp lý luận chính trị, theo Quy
định số 04/BCTTW, cán bộ LĐ, QL cấp từ cấp Vụ trưởng trở lên phải qua đào tạo hệ
cao cấp lý luận chính trị, tuy khi thực hiện tiêu chuẩn này đối với phụ nữ là một áp


18

lực không nhỏ. Ngoài ra khi tham gia công tác đào tạo theo thông báo của Ban Tổ
chức Trung ương, phụ nữ cũng gặp khó khăn nhiều hơn so với nam giới.

Trong thời gian qua công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn về kỹ năng LĐ, QL
cho cán bộ LĐ, QL cấp trung ương, đặc biệt là nữ cán bộ LĐ, QL chưa được quan
tâm đúng mức, nhiều cơ quan chưa xây dựng kế hoạch, cử cán bộ đi tập huấn không
đúng đối tượng; hơn nữa, nội dung chương trình tập huấn chưa đáp ứng được yêu cầu
đổi mới.
3.2.4. Vấn đề đặt ra từ gia đình và chủ thể - bản thân phụ nữ trong tham gia
lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị cấp trung ương
Một là, gánh nặng công việc gia đình ảnh hưởng sự tham gia LĐ, QL của phụ
nữ trong HTCT cấp trung ương. Theo văn hóa truyền thống ở CHDCND Lào, phụ nữ
phải đảm nhiệm chính công việc nội trợ, bếp núc, chăm sóc gia đình, do vậy, thời
gian để phụ nữ tham gia đào tạo, giao lưu, học hỏi nâng cao năng lực... rất hạn chế.
Sự ủng hộ của gia đình, bạn bè và của người chồng còn ở mức độ nhất định cũng là
rào cản cho phụ nữ khi tham gia LĐ, QL cấp trung ương.
Hai là, một trong những trở ngại không nhỏ làm hạn chế sự thăng tiến của
nữ LĐ, QL trong HTCT cấp trung ương, cũng như trong xã hội, chính là tình
trạng an phận, tự ti, níu kéo lẫn nhau, thiếu chí hướng phấn đấu vươn lên của nữ
giới.
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG PHỤ NỮ THAM GIA
LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP TRUNG
ƯƠNG Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY
4.1. Quan điểm cơ bản
4.1.1. Tăng cường phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính
trị cấp trung ương phải quán triệt đầy đủ quan điểm của Đảng Nhân dân Cách
mạng Lào về công tác phụ nữ trong thời kỳ đổi mới
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng NDCM Lào đã chú trọng việc thực hiện quyền
bình đẳng giới, quan tâm công tác phụ nữ, coi trọng việc tăng tỷ lệ nữ tham gia LĐ,
QL trong các lĩnh vực, nâng cao trình độ học vấn cho phụ nữ là tạo điều kiện quan
trọng để thực hiện quyền bình đẳng, dân chủ cho phụ nữ, là điều kiện để phát huy vai
trò và nâng cao địa vị cho phụ nữ. Thể hiện rất rõ qua các kỳ họp Đại hội của Đảng,

đặc biệt tại Đại hội lần thứ IX của Đảng (2011), đã đặt ra mục tiêu đến năm 2015:
“Phấn đấu tăng tỷ lệ nữ tham gia LĐ, QL ở các cơ quan tổ chức đảng, nhà nước, các
tổ chức đoàn thể đạt 15% trở lên, trong Quốc hội, đại biểu nữ phải đạt 30% trở lên”.
Để nhận thức và quán triệt quan điểm của Đảng về công tác phụ nữ nói chung, phụ


19

nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT cấp trung ương nói riêng, cấp ủy đảng của các cơ
quan cấp trung ương phải thường xuyên giáo dục, tuyên truyền, vận động và phổ biến
các quan điểm của Đảng về công tác cán bộ nữ. Đồng thời, cần có chiến lược,
chương trình, quy trình, kế hoạch cụ thể tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với công
tác phụ nữ; cần đưa ra kế hoạch cụ thể để phát hiện, tạo nguồn, bồi dưỡng và có
chính sách phù hợp để ngày càng có nhiều phụ nữ đủ các tiêu chuẩn tham gia vào các
chức danh LĐ, QL trong mọi lĩnh vực.
4.1.2. Tăng cường phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính
trị cấp trung ương gắn liền với việc xây dựng và củng cố hệ thống chính trị cấp
trung ương
Tăng cường phụ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT cấp trung ương gắn với việc
xây dựng và củng cố HTCT ở cấp trung ương nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo nâng
cao chất lượng lãnh đạo của Đảng NDCM Lào, phù hợp với nhiệm vụ chính trị trong
thời kỳ đổi mới; làm cho việc quản lý Nhà nước ngày càng có hiệu lực; đề cao vai trò
của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội, phát huy quyền làm chủ của các thành
viên, làm cho HTCT cũng như các thành viên của nó (trong đó có cán bộ, đảng viên cả
nam và nữ) có thể chủ động, sáng tạo và thực hiện nhiệm vụ của mình có hiệu quả.
4.1.3. Tăng cường phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính
trị cấp trung ương ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào phải gắn với việc thực hiện
Chiến lược và Kế hoạch hành động quốc gia về Bình đẳng giới
Chiến lược về Bình đẳng giới giai đoạn 2016-2025; Kế hoạch hành động quốc
gia về Bình đẳng giới 5 năm lần thứ III (2016-2020) là kết quả triển khai Nghị quyết

của Đại hội Đảng NDCM Lào lần thứ X (2016) và kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội 5 năm lần thứ VIII (2016-2020). Nhằm triển khai Tầm nhìn đến năm 2030 và
Chiến lược quốc gia về Bình đẳng giới. Kế hoạch đề ra mục tiêu tổng quát: “Đảm bảo
bình đẳng giới và phát triển phụ nữ về mọi mặt, được tham gia ngày càng đông đảo
vào lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội và gia đình… Trên lĩnh vực bình đẳng
giới về hoạt động chính trị, Kế hoạch xác định chỉ tiêu phấn đấu đạt tỷ lệ nữ tham gia
vị trí lãnh đạo và quyết định trong cơ quan tổ chức đảng, nhà nước, mặt trận và tổ
chức chính trị - xã hội phải đạt 20% trở lên, tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội là 30%.
Để thực hiện chỉ tiêu trên, các cơ quan cấp trung ương cần phải quán triệt, triển
khai phổ biến và cụ thể hóa trong việc thực hiện các chỉ tiêu của Chiến lược và Kế
hoạch hành động quốc gia về Bình đẳng giới. Đồng thời, các cơ quan cấp trung ương
cần phải xây dựng Kế hoạch hành động về Bình đẳng giới riêng biệt của cơ quan
mình. Một số cơ quan đã xây dựng Kế hoạch thì phải thực hiện có hiệu quả để đạt
được chỉ tiêu đã đề ra.


20

4.2. Một số giải pháp chủ yếu và kiến nghị nhằm tăng cường phụ nữ tham
gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị cấp trung ương ở Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào hiện nay
4.2.1. Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức về vai trò của phụ nữ tham gia
lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị, nhất là cấp trung ương
Để nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò phụ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT
cấp trung ương, cần phải tuyên truyền nâng cao nhận thức về giới, bình đẳng giới trên
lĩnh vực chính trị đối với xã hội, nhất là đội ngũ cán bộ và đặc biệt là người đứng đầu
(cấp ủy, ban lãnh đạo của các bộ, ban, ngành).
Công tác tuyên truyền về bình đẳng giới cần được tiến hành trong xã hội, ở
cộng đồng và trong các cơ quan cấp trung ương, đặc biệt là cho cán bộ LĐ, QL các
cấp trong các bộ, ban, ngành thông qua các hình thức: tuyên truyền qua báo chí, tạp

chí, lớp tập huấn, hội nghị, hội thảo chuyên đề,... Bên cạnh đó, cần phải lồng ghép
giới vào nội dung chương trình giảng dạy tại Học viện Chính và Hành chính quốc gia
Lào, trường Chính trị và Hành chính thủ đô Viêng Chăn, Đại học quốc gia Lào, các
trường Cao đẳng, kể cả các trường Trung học phổ thông.
Việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng về
bình đẳng giới góp phần quan trọng nâng cao nhận thức thực chất vị trí, vai trò của phụ
nữ, cán bộ nữ trong cộng đồng; nêu những tấm gương cán bộ nữ tiêu biểu, điển hình
trong tham gia LĐ, QL cấp trung ương, những phụ nữ có nhiều công lao đóng góp cho
sự phát triển của đất nước, qua đó tạo tính thuyết phục trong cộng đồng.
4.2.2. Nhóm giải pháp về xây dựng và thực hiện, hoàn thiện chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước về bình đẳng giới và công tác cán bộ nữ
Một là, xây dựng và thực hiện các chính sách, pháp luật có liên quan đến công
tác cán bộ nữ.
Hai là, nâng cao chất lượng quy hoạch cán bộ nữ LĐ, QL, trong đó chú ý đến
cấp trung ương.
Ba là, hoàn thiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ trong hệ thống chính
trị cấp trung ương.
4.2.3. Nhóm giải pháp về phát huy vai trò của các thành viên trong hệ thống
chính trị cấp trung ương
Trước hết, tổ chức Đảng các cấp phải xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
cụ thể công tác cán bộ nữ, lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong công tác cán bộ.
Hai là, nhà nước cần quán triệt chủ trương, chính sách của Đảng và quan
điểm giới trong việc xây dựng và thực hiện chiến lược, kế hoạch hành động quốc
gia về bình đẳng giới, chương trình mục tiêu, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước.


21

Ba là, phát huy vai trò và tiếng nói của Mặt trận và mỗi tổ chức chính trị - xã

hội trong việc đảm bảo quyền tham chính của phụ nữ, đặc biệt trong công tác quy
hoạch, đề bạt vào vị trí LĐ, QL then chốt cấp trung ương.
4.2.4. Nhóm giải pháp phát huy vai trò và nâng cao chất lượng hoạt động
của Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Lào và Hội Phụ nữ của các bộ, ban, ngành
đáp ứng yêu cầu phát triển thời kỳ đổi mới
Một là, phát huy vai trò của Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Lào và Hội Phụ
nữ của các bộ, ban, ngành: (1) Xây dựng HLHPN thực sự vững mạnh, phát huy đầy
đủ vai trò nòng cốt trong công tác vận động phụ nữ. (2) Thực hiện công tác cán bộ nữ
ở các cơ quan cấp trung ương trên nguyên tắc thực hiện mục tiêu công bằng, bình
đẳng giới thông qua việc phát huy vai trò to lớn của Hội Phụ nữ. (3) Trung ương
HLHPN Lào và Hội Phụ nữ tiếp tục tham mưu đề xuất với cấp ủy, ban lãnh đạo
những giải pháp để chỉ đạo thực hiện tốt công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục
nâng cao nhận thức về bình đẳng giới...
Hai là, nâng cao chất lượng hoạt động của Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ
Lào và Hội Phụ nữ các bộ, ban, ngành đáp ứng yêu cầu phát triển thời kỳ đổi mới:
(1) tăng cường nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tuyên truyền giáo dục của
Trung ương HLHPN Lào, Hội Phụ nữ cho hội viên và quần chúng chị em; (2) Trung
ương HLHPN Lào thông qua quy định trách nhiệm của Hội Phụ nữ trong công tác
cán bộ nữ phải tăng cường thực hiện chức năng đại diện của tổ chức; chủ động, tích
cực tham mưu, đề xuất, tham gia xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách
về công tác cán bộ nữ... (3) Tập trung nâng cao chất lượng công tác tổ chức cán bộ
của Hội Phụ nữ nhằm đáp ứng với yêu cầu trong thực tiễn đặt ra.
4.2.5. Nhóm giải pháp về thực hiện bình đẳng giới trong gia đình và sự nỗ
lực và vươn lên của phụ nữ
Một là, thực hiện bình đẳng giới trong gia đình: (1) Tăng cường tuyên truyền
giáo dục các vấn đề giới, bình đẳng giới trong gia đình: (2) Thay đổi định kiến cho
rằng việc nội trợ là việc của phụ nữ; cần tạo điều kiện để nam giới thật sự chia sẻ
công việc nhà với người vợ và con gái của mình: (3) Tạo điều kiện thuận lợi để mỗi
phụ nữ ý thức và tự phấn đấu vươn lên, tự giải phóng mình; không ngừng cố gắng
học tập nâng cao kiến thức để khẳng định vai trò vị trí của mình trong gia đình và

ngoài xã hội: (4) Đẩy mạnh giáo dục khoa học giới trong hệ thống nhà trường, giúp
cho thanh thiếu niên nhận thức được những vấn đề giới và bình đẳng giới một cách
cơ bản và có hệ thống: (5) Nâng cao trình độ dân trí, tăng cường vai trò của gia đình
và bình đẳng giới.
Hai là, về sự nỗ lực và vươn lên của phụ nữ: (1) Bản thân phụ nữ cần tích cực
nâng cao trình độ, năng lực: (2) Tiếp tục nâng cao nhận thức, quan điểm về bình đẳng
giới và công tác cán bộ nữ: (3) Bản thân phụ nữ phải không ngừng nâng cao học hỏi,


22

tìm tòi để trang bị cho mình những tri thức về kinh tế, quản lý nhà nước, am hiểu
chính sách pháp luật, am hiểu tình hình văn hóa, xã hội của đất nước, có kỹ năng làm
việc nhóm và thành thạo ngoại ngữ, công nghệ thông tin: (4) Bản thân phụ nữ ý thức
rõ những yêu cầu về năng lực, phẩm chất đối với cán bộ LĐ, QL nói chung, nữ LĐ,
QL nói riêng để có kế hoạch tự hoàn thiện mình, đáp ứng yêu cầu của cơ quan, đơn
vị, đất nước, sự tín nhiệm của nhân dân.
4.2.6. Một số kiến nghị nhằm tăng cường phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý
trong hệ thống chính trị cấp trung ương ở CHDCND Lào
(1) Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương: (1) Cần quan tâm
lãnh đạo, chỉ đạo việc rà soát, sửa đổi, bổ sung các chính sách, pháp luật và các văn
bản có nhiều bất lợi đối với phụ nữ nói chung, cán bộ nữ nói riêng trong các lĩnh vực.
(2) Cần xây dựng và ban hành các Nghị quyết, Quy định về công tác cán bộ nữ có
tính ràng buộc pháp lý.
(2) Quốc hội: (1) Sớm ban hành, rà soát, xây dựng, bổ sung, hoàn thiện các
chính sách đối với phụ nữ nói chung và cán bộ nữ nói riêng. (2) Theo dõi trực tiếp,
kiểm tra, giám sát việc thực hiện luật liên quan đến bình đẳng giới trong các lĩnh vực.
(3) Chính phủ cần triển khai, thông qua và thực hiện chủ trương, chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước đối với cán bộ nữ.
(4) Bộ, ban, mặt trận và tổ chức chính trị - xã hội: (1) Quán triệt sâu rộng các

chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác cán bộ nữ, tiếp tục chỉ đạo
và triển khai thực hiện có hiệu quả chủ chương, chính sách của Đại hội X của Đảng
NDCM Lào, Kế hoạch hành động quốc gia về Bình đẳng giới (2016-2020). (2) Nâng
cao nhận thức cho các cấp, nhất là người đứng đầu cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên
về ý nghĩa, tầm quan trọng của phụ nữ LĐ, QL. (3) Cần triển khai đầy đủ và hiệu quả
công tác cán bộ (trong đó có cán bộ nữ) của Ban Tổ chức Trung ương và Bộ Nội vụ;
nghiêm túc rà soát lại công tác quy hoạch cán bộ nữ, đánh giá tổng thể số lượng, chất
lượng, cơ cấu đội ngũ cán bộ nữ.
(5) Hội Liên hiệp phụ nữ Lào: (1) Nâng cao năng lực, kỹ năng tham gia ý kiến,
phản biện xã hội, quá trình soạn thảo và thực hiện chính sách, pháp luật có liên quan
đến phụ nữ, gia đình và bình đẳng giới. (2) Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
của đại diện Hội phụ nữ trong các cấp ủy, cơ quan dân cử, ban chỉ đạo. (3) Chủ động,
tích cực tham mưu, đề xuất, tham gia xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính
sách về công tác cán bộ nữ theo chức năng của HLHPN, phù hợp với từng cấp. (4)
Phối hợp với Ủy ban quốc gia Vì sự tiến bộ của phụ nữ và các cơ quan tổ chức các
hoạt động thực hiện tốt công tác tuyên truyền về công tác phụ nữ và bình đẳng giới
như Luật về Sự phát triển và bảo vệ phụ nữ, Chiến lược và Kế hoạch hành động quốc
gia về bình đẳng giới, Công ước CEDAW, dưới hình thức đa dạng hóa.


23

KẾT LUẬN
(1) Với đề tài “Phụ nữ tham gia LĐ, QL trong hệ thống chính trị cấp trung
ương ở Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào hiện nay”, tác giả đã hệ thống hóa các khái
niệm LĐ, QL; HTCT và HTCT cấp trung ương ở CHDCND Lào; LĐ, QL trong
HTCT. Tập trung làm rõ nội dung phụ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT cấp trung
ương ở CHDCND Lào trên các góc độ: Về số lượng phụ nữ tham gia; về cơ cấu, vị
trí phụ nữ tham gia; về chất lượng phụ nữ tham gia. Đồng thời, hệ thống khái quát
quan điểm của của chủ nghĩa Mác - Lênin về phụ nữ tham gia LĐ, QL, trong đó làm

rõ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò to lớn của phụ nữ trong lĩnh vực xã
hội, những khó khăn phụ nữ gặp phải khi tham chính và nêu nhiệm vụ quan trọng của
cách mạng XHCN là giải phóng phụ nữ, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
Vận dụng sáng tạo quan điểm của các nhà kinh điển, Đảng và Nhà nước CHDCND
Lào đã ban hành hàng loạt chủ chương, chính sách, các văn bản pháp luật nhằm tăng
cường vị trí, vai trò của phụ nữ trong xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực tham chính.
Luận án cũng tập trung phân tích những yếu tố tác động đến hiệu quả LĐ, QL của
phụ nữ trong HTCT cấp trung ương.
(2) Nghiên cứu về thực trạng phụ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT cấp Trung
ương ở CHDCND Lào hiện nay cho thấy, tỷ lệ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT
cấp trung ương đã tăng lên cả về số lượng, vị trí tham gia và chất lượng tham gia.
Đã có nhiều cơ quan trong cả ba khối (đảng, nhà nước, mặt trận và các tổ chức
chính trị - xã hội), đạt được mục tiêu đề ra về tỷ lệ phụ nữ tham gia LĐ, QL của
Đảng NDCM Lào. Đa số chị em tham gia LĐ, QL đều đã đạt trình độ chuyên môn,
trình độ lý luận chính trị theo tiêu chuẩn của Quy định số 04/BCT (2003). Ở một số
vị trí chủ chốt của Đảng, Nhà nước và Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội đã có
nữ giới tham gia (Chủ tịch Quốc hội, Bộ trưởng và tương đương). Phần lớn phụ nữ
giữ các vị trí từ Phó Vụ trưởng trở lên ở 3 khối đều có lập trường tư tưởng vững
vàng, có bản lĩnh chính trị, có trách nhiệm trong công việc được giao, có uy tín
trong nước và khu vực… Tuy nhiên, đến nay vẫn còn một bộ phận phụ nữ LĐ, QL
trong HTCT cấp trung ương chưa đủ tiêu chuẩn theo quy định, một số chị chưa
khẳng định được vai trò, uy tín trong chuyên môn. Tỷ lệ cán bộ nữ LĐ, QL có tăng
nhưng thiếu bền vững, đặc biệt có khoảng cách rất thấp so với tỷ lệ nam giới trong
cùng khối hoặc cùng cấp…
Bên cạnh những hạn chế nêu trên, luận án đã phân tích chỉ ra một số vấn đề đặt
ra cần phải giải quyết nhằm tăng cường phụ nữ tham gia LĐ, QL trong HTCT cấp
trung ương ở CHDCND Lào hiện nay: (1) Những rào cản, định kiến giới trong nhận



×