Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Bài thu hoạch BDTX Tiểu học Module 31323435

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.65 KB, 23 trang )

PHÒNG GD-ĐT X
TRƯỜNG TH XYZ
Tổ 1, 2, 3

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Ngày 28 tháng 3 năm 2017

BÁO CÁO KẾT QUẢ HỌC TẬP BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN
Năm học : 2016 – 2017
Họ và tên giáo viên:
Ngày, tháng, năm, sinh:
Trình độ chuyên môn:
Thuộc tổ chuyên môn:
Nhiệm vụ chuyên môn:
MODULE TH 31: TỔ CHỨC DẠY HỌC CẢ NGÀY
* Tiểu học là bậc nền tảng, là nền móng cho hệ thống giáo dục, đặt cơ sở
ban đầu cho sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh sau này. Đối với
học sinh tiểu học, hoạt động trong nhà trường là chủ đạo, nhà trường là nơi tổ
chức các hoạt động chuyên biệt, là nơi giáo dục trẻ theo mục tiêu giáo dục của
bậc học. Bởi vậy nhà trường là nơi diễn ra cuộc sống của trẻ, là nơi trẻ bộc lộ
khả năng, năng lực, nhân cách một cách đầy đủ, rõ ràng nhất.
* Việc thực hiện dạy học cả ngày nhằm thực hiện tốt mục tiêu giáo dục
tiểu học, đó là: Giúp HS hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng
đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẫm mỹ và các kỹ năng cơ bản để
HS tiếp tục học trung học cơ sở.
A,. Mục tiêu
* Thực hiện dạy học cả ngày nhằm:
- Thực hiện tốt mục tiêu giáo dục tiểu học, nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện.
- Giảm sức ép, tránh quá tải làm cho việc học tập của HS ở trường hứng


thú hơn. Xây dựng môi trường giáo dục thân thiện với HS ở trường và ở từng
lớp học. Dạy học cả ngày sẽ mang đến cho các em những giờ học nhẹ nhàng, tự
nhiên, hiệu quả, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý. Góp phần hình thành ở các
em những cơ sở ban đầu cho sự phát triển nhân cách của con người, phù hợp với
đặc điểm của xã hội hiện đại: tự tin, năng động, sáng tạo, giàu lòng nhân ái, có
khả năng hợp tác và hội nhập.
- Thực hiện dạy học phân hóa, HS sẽ có nhiều cơ hội để phát huy những
khả năng và sở thích, nhu cầu của cá nhân người học sẽ được đáp ứng tốt hơn;
HS yếu kém có nhiều cơ hội được quan tâm giúp đỡ hơn để đạt Chuẩn kiến
thức, kỹ năng của chương trình.
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ - Mỹ Tho – Tiền Giang
1


- Dạy học cả ngày mang lại cơ hội được học tập trong môi trường thuận
lợi cho mọi trẻ em, đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em dân tộc
thiểu số, trẻ em gái. Đồng thời, góp phần tạo sự bình đẳng về quyền lợi học tập
cho trẻ em ở những vùng, miền khác nhau, có điều khiện kinh tế không giống
nhau.
B,. Nội dung
1. Về lí luận
Tìm hiểu một số khái niệm có liên quan như: giáo dục tiểu học, nhà
trường, trường tiểu học, mô hình, trường tiểu học hai buổi/ ngày. Trường TH hai
buổi/ ngày được đề tài sử dụng để nghiên cứu đó là trường tiểu học tổ chức cho
HS được giáo dục ở nhà trường cả buổi sáng và buổi chiều. Trong trường có thể
có một bộ phận/ toàn bộ HS bán trú.
Phân tích cơ sở pháp lý, cơ sở giáo dục học, cơ sở xã hội, cơ sở tâm - sinh
lý của dạy học hai buổi/ ngày.
Xác định một số yếu tố cơ bản trong cấu trúc của một mô hình giáo dục
có hiệu quả.

2. Về thực tiễn
Phân tích kinh nghiệm giáo dục tiểu học ở nước ngoài cho thấy:
- Hoạt động giáo dục ở nhà trường tiểu học: bên cạnh chương trình chung có
những nội dung dạy học tự chọn nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của HS.
- Công tác quản lý và tổ chức hoạt động giáo dục: Sự tự chủ tự chịu trách
nhiệm của nhà trường tăng lên, trách nhiệm quản lý nhà trường thuộc Hội đồng
nhà trường.
- Về thời lựợng và kế hoạch giáo dục: Ở nhiều nước trên thế giới HS tiểu học
được học cả ngày ở trường. Đa số các nước thực hiện hoặc hướng tới thực hiện
tuần 5 ngày học. So với các nước, thời lượng học của HS tiểu học Việt Nam
thuộc loại thấp. Ở Anh, các trường thường theo 3 mô hình sau: Mô hình 1: buổi
sáng Toán, Tiếng Anh; Buổi chiều: các môn khác; Mô hình 2: Toán + Tiếng
Anh + môn khác để đa dạng hóa việc sử dụng buổi sáng; Chiều: các môn khác;
Mô hình 3: Toán + Tiếng Anh dạy vào các thời điểm khác nhau những lúc HS
cảm thấy khỏe khoắn. Công tác bán trú, nhiều nước cung cấp bữa ăn trưa miễn
phí cho HS.
- Đội ngũ CBQL, GV: GV dạy hầu hết các môn. Ngoài ra có các GV chuyên
biệt dạy thể dục, nghệ thuật, ngoại ngữ,…. 5/ Sự phối hợp gia đình, cộng đồng,
nhà trường: Chú trọng đến sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và cộng đồng,
coi đây là một tiêu chí quan trọng để đảm bảo chất lượng và hiệu quả của trường
tiểu học.
- Về cách tổ chức: Khá đa dạng tùy theo điều kiện của nhà trường, có thể một
khối lớp hoặc vài khối lớp được học hai buổi/ ngày; các lớp bán trú học hai
buổi/ ngày; các trường học hai buổi/ngày,.…
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ - Mỹ Tho – Tiền Giang
2


- Về chương trình và kế hoạch dạy học: Chương trình tiểu học mới được thiết
kế cho trường học 1 buổi/ ngày thực hiện được. Các trường tiểu học hai buổi/

ngày học theo chương trình chung.
- Điều kiện thực hiện: điều kiện về cơ sở vật chất, kinh phí, đội ngũ, nhu cầu
học hai buổi/ ngày.
- Kết quả giáo dục: Thực tế khẳng đinh học hai buổi/ ngày là một chủ trương
đúng đắn góp phần thực hiện có hiệu quả việc triển khai đổi mới chương trình,
SGK nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, hạn chế dạy thêm, học thêm
tràn lan, góp phần đảm bảo công bằng trong giáo dục. Chất lượng dạy học được
khẳng định rõ nét ở những lớp tổ chức dạy hai buổi/ngày. Kết quả học tập của
HS học hai buổi / ngày cao hơn.
- Về nội dung giáo dục: Bên cạnh việc đảm bảo kế hoạch dạy học chung, các
trường đã dành thời gian để rèn luyện kĩ năng cho HS, đặc biệt là Toán, Tiếng
Việt,… tổ chức dạy tự chọn, bồi dưỡng HS giỏi, giúp đỡ HS yếu.
- Về các thức tổ chức các hoạt động giáo dục: Hình thức tổ chức các hoạt
động giáo dục cũng đa dạng, phong phú theo hướng cá thể hóa HS. Nhìn chung
các trường học hai buổi/ ngày từ thứ hai đến thứ 6, buổi sáng 4 tiết, buổi chiều 3
tiết. Việc phân bổ thời lượng tăng thêm khá đa dạng, có thể tùy vào mục đích,
quan điểm riêng của nhà trường, điều kiện CSVC, GV của trường.
- Về đội ngũ: Các trường đều có GV có trình độ chuyên môn tốt, có GV dạy
các môn chuyên biệt như Tiếng Anh, Tin học, Âm nhạc, Mĩ thuật,.…
- Về điều kiện CSVC: Các trường đều có phòng máy tính, phòng âm nhạc,
phòng mĩ thuật, phòng thư viện,.… Một số trường có CSVC khá tốt.
- Về công tác bán trú: Nhiều trường đã tổ chức tốt công tác bán trú cho HS.
Một số trường có bảo mẫu chịu trách nhiệm về giờ ăn, ngủ của HS, GV không
phải
lo.
- Kết quả đạt được khi thực hiện dạy học hai buổi/ ngày: Nhìn chung dạy học
hai buổi/ ngày đã nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. HS được quản lý ở
trường cả ngày có điều kiện để rèn luyện văn hóa, đạo đức, thể chất. HS được
học thêm các tiết Mĩ thuật, Âm nhạc, Thể dục, các môn tự chọn khác và các hoạt
động ngoại khóa, rèn luyện kỹ năng sống, PP tự học và có nhiều thời gian luyện

tập thực hành. Học cả ngày giúp HS rèn luyện tính tập thể, tinh thần đoàn kết,
tính cộng đồng, tinh stự lập, nếp sống khoa học,…. GV dạy hai buổi/ngày sẽ
năng động, tích cực đầu tư vào các hình thức tổ chức dạy học để thu hút HS và
nâng cao chất lượng dạy học.
Đề xuất phương hướng vận dụng mô hình cho khu vực thành thị và nông
thôn: Đối tượng vận dụng chính: thành phố, thị xã, thị trấn, khu công nghiệp,
nông thôn phát triển. Thời lượng: 7h30/ ngày, sáng: 3h30 phút: Tiếng việt,
Toán, Khoa học, Lịch sử và Địa lý: 40 phút x 3 tiết = 120 phút; Môn khác, hoạt
động GD, tự chọn: 30 phút x 2 tiết = 60 phút; Giải lao: 30 phút. Tổng: 210 phút.
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ - Mỹ Tho – Tiền Giang
3


Trưa: 2 giờ, ăn trưa (hoạt động GD): 60 phút; Nghỉ trưa: 60 phút. Tổng: 120
phút. Chiều: 2h30 phút, tự học, môn khác, tự chọn, hoạt động GD: 30 phút x 4
tiết = 120 phút; Giải lao: 30 phút. Tổng: 150 phút. Phương án vận dụng:
- Ở một số địa bàn, chẳng hạn vùng nông thôn, các điểm trường gần khu
vực dân cư HS về nhà vào buổi trư thì sẽ không có nội dung buổi trưa như trên.
- Trên đây là thời lượng tối đa, tùy theo điều kiện thực tế của nhà trường mà có
thể giảm bớt số tiết nhưng không giảm quá 5 tiết/tuần. Khi phân bố thời lượng
và xác đinh nội dung cần đảm bảo theo thứ tự ưu tiên sau: Chương trình GD
chung, đảm bảo đạt chuẩn tối thiểu và GD toàn diện (đặc biệt với các đối tượng
HS có hoàn cảnh khó khăn cần đảm bảo các kỹ năng cơ bản nhất như nghe, nói,
đọc, viết, tính toán); Các môn tự chọn Tiếng Anh, Tin học,... các nội dung dạy
học tự chọn của các môn học, hoạt động GD NGLL giúp HS rèn kỹ năng vận
dụng kiến thức, giải quyết vấn đề, rèn kỹ năng học tập, KNS, tạo điều kiện để
phát triển năng lực cá nhân HS. Việc xác định cụ thể sẽ tùy điều kiện thực tế nhà
trường, mục đích ưu tiên của nhà trường và nhu cầu HS. Lưu ý: một số điểm
khác biệt về diện tích khi vận dụng cho khu vực thành thị và nông thôn đã được
trình bày trong mô hình.

C. Một số khuyến nghị:
Về chương trình, tài liệu: Bộ GD - ĐT cần khẩn trương hoàn thiện và ban
hành chương trình dạy học tự chọn, tài liệu dạy học tự chọn, chương trình và tài
liệu cho hoạt động GD NGLL ở tiểu học. Đưa ra những định hướng để địa
phương lựa chọn, phát triển tài liệu dạy học thích hợp,….
Về đội ngũ: Cần có sự đầu tư tăng tỉ lệ GV/ lớp cho các trường dạy hai buổi/
ngày. Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho GV tiểu học dạy hai buổi/
ngày…. Tạo cơ hội cho các trường trao đổi kinh nghiệm tổ chức dạy hai buổi/
ngày….
Về CSVC: Có kế hoạch xây dựng CSVC như sân bãi, phòng chức năng và các
trang thiết bị dạy học cần thiết cho việc dạy học hai buổi/ ngày bên cạnh việc xã
hội hóa công tác GD.
Về tài chính: Cần có sự đầu tư của Nhà nước và đóng góp hợp lý của cộng đồng
và gia đình HS - đặc biệt cần có sự hỗ trợ của Chính phủ cho các vùng khó
khăn. Tùy theo tình hình kinh tế của địa phương để hướng dẫn thu - chi hai
buổi/ ngày phù hợp thống nhất theo cùng, miền. Cần có kinh phí của NN để
giảm thu học phí của HS…;
Ngoài ra cần xây dựng khung chính sách nâng cao tính pháp lý của dạy học
hai buổi/ ngày; giải pháp nâng cao nhận thức của cộng đồng để tạo sự đồng
thuận của địa phương.

Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ - Mỹ Tho – Tiền Giang
4


MODULE 32: Dạy học phân hoá ở tiểu học
* Nội dung bài thu hoạch
1. Phương pháp thực hiện dạy học phân hoá đối tượng ở một số môn học ở
tiểu học.
Đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) ở tiểu học tập trung theo những định

hướng cơ bản: Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS; hình thành và
phát triển khả năng tự học cho HS; đảm bảo tính phù hợp với đối tượng giáo dục
và đặc điểm vùng, miền; đảm bảo tính trực quan; thực hiện dạy học tích hợp…
nhằm khơi dậy hứng thú học tập cho HS.
Phương pháp thực hiện dạy học phân hoá đối tượng ở một số môn học ở tiểu
học gắn liền với việc tổ chức dạy học. Tổ chức dạy học ở tiểu học linh hoạt, đa
dạng phù hợp với mỗi đối tượng HS và điều kiện của nhà trường. Có thể tổ chức
học theo cá nhân, theo nhóm, theo lớp; có thể học trong lớp hoặc ngoài lớp; có
thể chuẩn bị bài ở nhà hay sinh hoạt theo các câu lạc bộ… giúp HS học tập hứng
thú và đạt kết quả cao. Như vậy, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học ở tiểu
học phải phù hợp với nội dung, đối tượng, điều kiện cụ thể của mỗi lớp học.
2. Các điều kiện để thực hiện hiệu quả việc dạy học phân hoá ở tiểu học
DHPH là phương pháp dạy học có tính đến sự khác biệt của người học (cá
nhân) hoặc nhóm người học. Ở tiểu học, DHPH thường được thể hiện ở việc lấy
chuẩn kiến thức, kĩ năng làm nền cơ bản. Ngoài kế hoạch dạy học, thông thường
phân hóa để có những kế hoạch dạy học phù hợp, đưa HS yếu kém đạt chuẩn và
giúp các đối tượng đã đạt chuẩn hoặc khá, giỏi phát triển ở mức cao hơn. Ngoài
ra, ở một số nơi DHPH thể hiện ở việc tổ chức cho HS học theo chương trình tự
chọn môn học.
* Một số khó khăn trong thực tiễn hiện nay khi thực hiện DHPH
Qua trực tiếp làm công tác giảng dạy và qua trao đổi với các đồng nghiệp đã
tổng hợp được một số khó khăn khi tiến hành dạy học phân hóa như sau:
- Sĩ số lớp học hiện nay khá đông (mỗi lớp thường trên dưới 30 HS), nên việc
dạy học phù hợp với từng đối tượng HS rất khó.
- Cơ sở vật chất còn thiếu thốn;
- Trình độ đào tạo và năng lực sư phạm của đội ngũ GV tiểu học hiện nay
chưa đồng đều.
- GV tiểu học phải dạy nhiều môn nên khó khăn trong việc chuẩn bị kế hoạch
bài dạy theo định hướng phân hóa.
- Có thể xuất hiện những biểu lộ mất tự tin hay mặc cảm về tâm lí đối với HS

đầu cấp khi bị xếp vào nhóm yếu, kém cũng như tâm lí lo lắng của phụ huynh
HS.
Để khắc phục những khó khăn trong thực tiễn nói trên, cần phải kết hợp
nhiều giải pháp tổng thể như điều chỉnh sĩ số lớp học; tăng cường cơ sở vật chất,
phương tiện dạy học; tổ chức biên soạn chương trình, nội dung; bồi dưỡng
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ - Mỹ Tho – Tiền Giang
5


chuyên đề cho đội ngũ GV, tăng cường học liệu cho HS.... Nâng cao năng lực
nghề nghiệp GV, hỗ trợ cho GV những nghiệp vụ sư phạm để DHPH có hiệu
quả là cần thiết.
c. Một số biện pháp về nghiệp vụ sư phạm để thực hiện dạy học phân hóa ở
tiểu học đạt hiệu quả
Trong từng công đoạn của tiến trình DHPH như đã trình bày ở trên, GV cần
thực hiện những biện pháp về nghiệp vụ sư phạm như sau:
c.1. Kết hợp nhiều hình thức kiểm tra để đánh giá, chẩn đoán, phân loại đối
tượng HS theo trình độ
c.2. Phân bậc nhiệm vụ trong thiết kế kế hoạch bài dạy
c.3. Linh hoạt trong tổ chức hoạt động nhóm khi DHPH
c.4. Giao tiếp trong dạy học phân hóa

Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ - Mỹ Tho – Tiền Giang
6


MODULE TH 34. CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP Ở TIỂU HỌC
A . Mục tiêu:
- Nắm được những vấn đề lí luận cơ bản về công tác chủ nhiệm lớp và yêu
cầu đối với người giáo viên chủ nhiệm (GVCN) lớp ở tiểu học trong giai đoạn

hiện nay.
- Hiểu vị trí, vai trò quan trọng của GVCN đối với lớp chủ nhiệm trong phát
triển giáo dục toàn diện học sinh trong giai đoạn hiện nay;
- Có kĩ năng lập hồ sơ chủ nhiệm lớp.
- Hiểu và phân tích được nhiệm vụ chung của GVCN cần thực hiện trong năm
học;
- Có mối quan hệ tốt với Ban giám hiệu, đồng nghiệp, phụ huynh, Ban đại
diện cha mẹ học sinh và cộng đồng.
- Có kĩ năng phân tích thực hiện nhiệm vụ chủ nhiệm thông qua các bài học
kinh nghiệm bản thân.
B . Chức năng, nhiệm vụ và quan hệ của người giáo viên chủ nhiệm trong
trường tiểu học:
1 . GVCN trước hết là người đại diện cho Hiệu trưởng quản lí toàn
diện học sinh một lớp học ở trường tiểu học:
Hiệu trưởng không thể quản lí trong lớp học, nắm vững từng học sinh (trừ
trường hợp đặc biệt), Hiệu trưởng thường giao trách nhiệm cho GVCN là “Hiệu
trưởng nhỏ”.
Quản lí toàn diện một lớp học không chỉ là quản lí nhân sự như: Số lượng, tuổi
tác, giới tính, hoàn cảnh gia đình, trình độ học sinh về học lực và đạo đức,... mà
điều quan trọng là phải đưa ra dự báo, vạch được một kế hoạch giáo dục phù
hợp với thực trạng để dắt dẫn học sinh thực hiện kế hoạch đó, khai thác hết
những điều kiện khách quan, chủ quan trong và ngoài nhà trường đạt tới mục
tiêu giáo dục.
Để thực hiện chức năng quản lí toàn diện giáo dục, đòi hỏi GVCN phải nắm
chắc mục tiêu lớp học, cấp học, có những kiến thức cơ bản về Tâm lí học, Giáo
dục học, có hiểu biết về văn hoá, pháp luật, chính trị,... đặc biệt cần có hàng loạt
kĩ năng tổ chức hoạt động giáo dục như: kĩ năng giao tiếp, ứng xử với các đối
tượng trong và ngoài nhà trường, kĩ năng “chẩn đoán” đặc điểm học sinh, kĩ
năng lập kế hoạch, kĩ năng tác động nhằm cá thể hoá quá trình giáo dục học sinh
(bồi dưỡng học sinh giỏi, học sinh kém, học sinh ngoan, học sinh hư, học sinh có

năng khiếu,... GVCN phải tự xác định như “bà đỡ” tinh thần, tâm lí đối với học
sinh. Nhiều khi một lời khen, một cử chỉ giáo dục đúng lúc, kịp thời... có thể giúp
học sinh từ yếu, kém thành khá, giỏi, ngăn ngừa được những ảnh hưởng tiêu
cực,...
2 . Quản lí toàn diện hoạt động giáo dục là :
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ - Mỹ Tho – Tiền Giang
7


+ Trước hết tiếp thu, nắm vững những đặc điểm của từng học sinh của lớp với
tất cả các tiêu chí về nhân thân (họ tên, tuổi, giới tính, địa chỉ, hoàn cảnh gia
đình, cha mẹ, nghề nghiệp), đặc điểm của gia cảnh (về văn hóa, kinh tế, về tâm
lí...). Cần đặc biệt quan tâm tới những đặc điểm của học sinh (về sức khoẻ, sở
thích, học lực, đạo đức, quan hệ xã hội, bạn bè, tính tình...).
+ Đánh giá phân loại, xác định những mặt mạnh, mặt yếu của tập thể học sinh.
GVCN phải xác định được và phân loại học sinh lớp học theo mục tiêu giáo dục
toàn diện như: Năng lực học tập, sự phát triển trí tuệ, khả năng học tập các môn
để xây dựng kế hoạch phụ đạo, bồi dưỡng học sinh theo môn học. Phân loại
được đặc điểm nhân cách, thái độ, đạo đức học sinh, để có kế hoạch tác động cá
thể hoá và phối hợp trong giáo dục. Phải phát hiện, nắm vững và phân loại được
những học sinh có năng khiếu về các mặt hoạt động như thể dục thể thao
(TDTT), văn nghệ, hoạt động xã hội để sử dụng cho các hoạt động của lớp. Đặc
biệt phải quan tâm tới những học sinh yếu về mọi mặt học tập, kĩ năng để có kế
hoạch rèn luyện, bồi dưỡng.
+ Nắm vững gia cảnh, đặc điểm của các gia đình học sinh. Nắm vững đặc
điểm gia đình học sinh bao gồm: đời sống kinh tế, nghề nghiệp, trình độ văn hoá
của bố mẹ học sinh, bầu tâm lí của gia đình, sự quan tâm của các thành viên,
truyền thống, cách sinh hoạt, lối sống của các gia đình... khả năng và thái độ của
các bậc cha mẹ đối với các hoạt động giáo dục của nhà trường...
Việc nghiên cứu, nắm vững đặc điểm từng gia đình học sinh, giúp GVCN có

phương hướng kết hợp giáo dục con em họ và liên kết với họ trong việc thực
hiện các nội dung hoạt động của lớp chủ nhiệm.
+ Nắm vững mục tiêu, nội dung dạy học, giáo dục của lớp chủ nhiệm. Trong
cuộc đổi mới giáo dục lần này mỗi lớp học có mục tiêu, nội dung hoạt động cụ
thể, nhất là chương trình hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt động hướng
nghiệp... vì vậy phải nắm vững mục tiêu, nội dung dạy học, giáo dục ở mỗi lớp
mới có thể xây dựng được kế hoạch chủ nhiệm lớp, xác định những nội dung,
hình thức hoạt động.
3 . GVCN lớp là người đại diện quyền lợi, nguyện vọng chính đáng của tập
thể học sinh, là “cầu nối” giữa lớp với Hiệu trưởng và các thầy cô giáo:
Đối với tập thể học sinh một lớp học, không có một giáo viên nào (kể cả
Hiệu trưởng) lại có cơ hội, có điều kiện thiết lập quan hệ thân thiện, tự nhiên
như GVCN lớp. Với ưu thế của GVCN, nhiều người đã xây dựng được mối
quan hệ vừa là thầy trò, vừa là anh em, bạn bè... là chỗ dựa tinh thần, luôn
được học sinh tin yêu, chia sẻ những băn khoăn thắc mắc, bộc lộ những
nguyện vọng, khát khao... GVCN lớp cần tận dụng những điều kiện đó để thu
thập tất cả những thông tin của học sinh để xử lí theo hai phương án:
- Vơi những ý kiến không hợp lí của học sinh thì GVCN giải thích, thuyết
phục bằng tình cảm, bằng sự đồng cảm của một nhà sư phạm có kinh
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ - Mỹ Tho – Tiền Giang
8


nghiệm..., các em sẽ dễ dàng được giải toả (không ít những học sinh đòi hỏi,
thắc mắc, có những vướng mắc trong quan hệ, về học tập, công việc với bạn
bè, thầy cô, cha mẹ và quan hệ xã hội,... nhiều khi không hợp lí).
- Nếu những phản ánh, nguyện vọng thấy cần phải đáp ứng thì GVCN bàn
với các thầy cô khác, báo cáo Hiệu trưởng tìm biện pháp giải quyết cho có
tình có lí, tạo cơ hội cho học sinh, tập thể lớp có cơ hội phát triển.
Cần khẳng định, GVCN vừa là một nhà sư phạm vừa là đại diện của Hiệu

trưởng, đại diện của tập thể học sinh. Tính giao thoa của vị trí người GVCN
đã tạo nên “cái cầu nối” giữa hiệu trưởng và tập thể học sinh, sẽ tạo ra cơ hội,
điều kiện giải quyết kịp thời, có hiệu quả cao trong tổ chức tác động giáo dục,
tránh được những “mâu thuẫn”, những hiểu lầm của các quan hệ trong và
ngoài nhà trường, trong và ngoài lớp chủ nhiệm.
Ngày nay vị trí “cầu nối” của GVCN vô cùng quan trọng bởi trong bối
cảnh hội nhập, học sinh luôn bị tác động bởi các yếu tố tích cực và tiêu cực,
các em có nhiều suy nghĩ nhạy cảm, năng động, sáng tạo, muốn tự khẳng
định nhưng lại thiếu kinh nghiệm, hiểu biết còn có hạn,... đã dẫn tới sự khó
khăn khi lựa chọn các phương án ứng xử. Có thể thấy rất rõ, chưa bao giờ vị
trí, vai trò của người GVCN lớp lại quan trọng như hiện nay.
4 . GVCN lớp còn là “cầu nối” giữa nhà trường với gia đình và các tổ chức
xã hội, là người tổ chức phối hợp, liên kết các lực lượng trong quá trình
thực hiện mục tiêu giáo dục:
Chưa bao giờ trong lịch sử giáo dục của dân tộc lại đặt trên vai người GVCN
lớp (nhất là ở trường phổ thông) một trọng trách nặng nề như hiện nay, đó là tổ
chức, phối hợp, liên kết các lực lượng giáo dục xã hội và gia đình để thực hiện
mục tiêu giáo dục toàn diện.
Phải thừa nhận rằng sự nghiệp đổi mới đất nước đã có những thành quả vĩ đại,
kì diệu, những mơ ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lí tưởng của dân tộc, của
Đảng đã và đang trở thành hiện thực đó là “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”. Chúng ta có quyền tự hào vì đã có những đóng góp
không nhỏ vào sự nghiệp chung của nhân loại những thập niên đầu của thế kỉ
XXI. Song, chúng ta cũng phải tỉnh táo mà nhận diện rõ rằng chưa bao giờ
chúng ta gặp những khó khăn, thách thức phức tạp như hiện nay. Thời cơ là vô
cùng thuận lợi, thách thức cũng vô cùng khó khăn do những yếu tố chủ quan và
khách quan đem lại. Có thể thấy chưa bao giờ thế hệ trẻ được sống và phải sống
trong sự lựa chọn giữa cái tốt và cái xấu, giữa tích cực và tiêu cực, giữa thiện và
ác, giữa giá trị vật chất và tinh thần, giữa trách nhiệm và quyền lợi... như ngày
nay. Chính bối cảnh ấy cũng cần các thế hệ lớn tuổi, những người có trách

nhiệm với thế hệ trẻ và dân tộc phải nâng cao ý thức trách nhiệm trong giáo dục.
GVCN phải là người có trách nhiệm đầu tiên nghiên cứu thực trạng, xác định
nội dung, các biện pháp, hình thức, lên kế hoạch và tổ chức sự phối hợp liên kết
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ - Mỹ Tho – Tiền Giang
9


các lực lượng xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, thiết lập quan hệ tốt
đẹp nhằm phát huy những yếu tố tích cực, hạn chế tối đa những ảnh hưởng tiêu
cực đến quá trình giáo dục thế hệ trẻ
Việc xây dựng một môi trường giáo dục lành mạnh là trách nhiệm của tất cả
mọi người, mọi thế hệ lớn tuổi, không chỉ là của GVCN. Tuy nhiên, đối với môi
trường giáo dục học sinh phổ thông, GVCN cần tự xác định phải có trách nhiệm,
vì GVCN nắm vững mục tiêu, có năng lực tổ chức phối hợp các lực lượng xã
hội và gia đình.
Việc thực hiện liên kết giáo dục của GVCN có không ít khó khăn vì vậy cần
tận dụng, tranh thủ sự hỗ trợ giúp đỡ của Hiệu trưởng vì cương vị của Hiệu
trưởng mới đủ tư cách pháp nhân quản lí để liên hệ với các tổ chức xã hội ngoài
nhà trường.
C . Vị trí vai trò của GVCN:
1. GVCN có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển học sinh
của lớp chủ nhiệm :
- GVCN là thành viên của tập thể sư phạm và hội đồng sư phạm, là người thay
mặt hiệu trưởng, hội đồng nhà trường và phụ huynh học sinh (PHHS) quản lý và
chịu trách nhiệm về chất lượng toàn diện học sinh lớp mình phụ trách, tổ chức
thực hiện chủ trương, kế hoạch của nhà trường ở lớp chủ nhiệm
- Đối với HS và tập thể lớp, GVCN là nhà giáo dục và là người lãnh đạo gần
gũi nhất, người lãnh đạo, tổ chức, điều khiển, kiểm tra toàn diện mọi hoạt động
và các mối quan hệ ứng xử thuộc phạm vi lớp mình phụ trách dựa trên đội ngũ
tự quản là cán bộ lớp, cán bộ Đội và tính tự giác của mọi HS trong lớp .

- Trong quan hệ với các lực lượng giáo dục khác trong và ngoài nhà trường,
GVCN là nhân vật trung tâm để hình thành, phát triển nhân cách học sinh và là
cầu nối giữa gia đình, nhà trường và xã hội.
Trong lí luận GDH truyền thống công tác chủ nhiệm lớp chủ yếu được xem xét
từ bình diện của giáo dục học (GDH), mà ít được quan tâm phân tích từ bình
diện quản lí, trong khi đó 2 chức năng này bổ trợ và quy định lẫn nhau. GVCN
thực hiện chức năng quản lí tập thể lớp để thực hiện chức năng giáo dục từng cá
nhân có hiệu quả.
Vì vậy, cần quan tâm tìm hiểu chức năng lãnh đạo, tổ chức, quản lí của người
GVCN. Chức năng lãnh đạo và quản lí là không giống nhau. Người quản lý có
chức năng tổ chức thực hiện để đạt mục tiêu, còn lãnh đạo có chức năng định ra
đường lối, chiến lược và phương pháp hoạt động, đồng thời tác động, ảnh
hưởng, động viên người bị lãnh đạo thực hiện mục đích chung. Tuy vậy, cả hai
chức năng này được tích hợp hài hòa ở chủ thể quản lý là người GVCN.
Người GVCN thực hiện chức năng quản lí khi là đại diện cho Hiệu trưởng,
Hội đồng nhà trường thực hiện các chủ trương, kế hoạch chung của trường,
nhưng lại là người lãnh đạo khi phải xác định tầm nhìn cho sự phát triển của HS
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ - Mỹ Tho – Tiền Giang
10


trong lớp chủ nhiệm với tư cách là người đứng đầu một tập thể lớp, đưa tập thể
lớp phát triển thành một tập thể thân thiện thực sự.
Nhìn tổng thể, chức năng của người GV chủ nhiệm lớp là lãnh đạo, tổ chức,
quản lí tập thể lớp trên cơ sở tổ chức các hoạt động GD, các mối quan hệ GD
của HS theo mục tiêu giáo dục nhân cách HS toàn diện trong tập thể phát triển
và môi trường học tập thân thiện.
Quan niệm trên đó phản ánh sự thống nhất giữa:
Chức năng quản lí và chức năng giáo dục,
Tổ chức các hoạt động GD và các quan hệ của HS theo định hướng phát triển

toàn diện nhân cách,
Giáo dục tập thể và giáo dục cá nhân,
Tập thể phát triển với môi trường học tập thân thiện
2 . Công việc của GVCN lớp với GVCN các lớp khác cùng khối
Trong tổ chức nhân sự của nhà trường, những GVCN thuộc cùng một khối lớp
được thiết lập thành một tổ chủ nhiệm khối lớp, có tổ trưởng phụ trách và sinh
hoạt theo định kỳ hàng tháng, học kỳ và năm học, là thành viên thuộc tổ, mỗi
GVCN cần thực hiện những công việc sau:
Bàn bạc, thống nhất với những thành viên thuộc tổ về nội dung, kế hoạch,
cách thức, tiến bộ các hoạt động chủ nhiệm tương ứng với những thời điểm cụ
thể của kế hoạch năm học, trao đổi kế hoạch phối hợp với các khối chủ nhiệm
khác trong trường.
Báo cáo hoạt động của lớp chủ nhiệm về các mặt giáo dục, đề xuất thỉnh cầu
sự giúp đỡ, phối hợp của các lớp cùng khối đối với một số công việc nhằm tạo
phong tráo, phát huy sức mạnh của cộng đồng khối lớp.
Trao đổi những kinh nghiệm thành công hoặc thất bại, sáng kiến được chọn
lọc trong quá tình thực thi công tác chủ nhiệm của bản thân với đồng nghiệp để
cùng chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau, tạo môi trường đồng cảm, đồng trách nhiệm đối
với thế hệ trẻ.
3 . Công việc của GVCN với các giáo viên bộ môn giảng dạy tại lớp chủ
nhiệm
Các giáo viên bộ môn giảng dạy tại chủ nhiệm lớp chủ nhiệm ở tiểu học có số
thời gian làm việc tiếp xúc với học sinh không nhiều, nhưng vẫn có điều kiện
hiểu biết năng lực, sở trường của mỗi học sinh đói với hoạt động chủ đạo của
các em - hoạt động học tập. Vì thế việc phối hợp chặt chẽ GVCN với giáo viên
bộ môn trong công tác chủ nhiệm sẽ giúp cho GVCN nắm bắt tình hình học sinh
thường xuyên, liên tục, cụ thể để từ đó có những tác động cần thiết tới đối tượng
giáo dục, vừa góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả giảng dạy, vừa đảm bảo
tính đồng bộ khách quan, thực tiễn và cá biệt trong khi triển khai kế hoạch chủ
nhiệm và đánh giá kết quả phấn đấu rèn luyện của học sinh. Việc phối hợp

GVCN với giáo viên bộ môn được thực hiện thông qua những công việc sau:
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ - Mỹ Tho – Tiền Giang
11


Nắm bắt số lượng cụ thể giáo viên bộ môn dạy lớp chủ nhiệm, lịch trình giảng
dạy của mỗi người trong năm học.
Có hiểu biết cơ bản về tính cách năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, vai trò và
vị thế của mỗi người giáo viên trong trường, hoàn cảnh sống của họ.
Liên hệ mật thiết với giáo viên bộ môn để nắm bắt được tình hình học tập của
mỗi học sinh đối với bộ môn họ giảng dạy về thái độ, trình độ nhận thức, kết
quả học tập. Nhờ những thông tin do giáo viên bộ môn cung cấp, GVCN có thể
có được một bức tranh cụ thể, rõ nét hơn về mỗi học sinh, từ đó có được cách
thức tác động, điều chỉnh, bổ xung phù hợp với đặc điểm phát triển nhân cách
của đối tượng giáo dục.
Thông báo cho giáo viên bộ môn tình hình phấn đấu rèn luyện, những mặt
mạnh và mặt yếu của tập thể lớp, những học sinh có năng lực học tập tốt, những
học sinh có năng lực học tập yếu kém, những học sinh có phẩm chất đạo đức cần
phải lưu tâm, uốn nắn.
Phối hợp với giáo viên bộ môn tổ chức các hoạt động ngoại khoá phục vụ
hoạt động dạy học, đồng thời tạo cơ hội để tập thể lớp có được môi trường giao
lưu và tăng thêm khả năng nắm bắt tình hình thực tế xã hội cho mỗi học sinh.
Tổ chức học sinh trong lớp thăm hỏi, động viên các thầy, cô giáo giảng dạy
tại lớp nhân các ngày lễ (ngày 8/3; ngày 2/9; ngày 20/11, tết nguyên đán...) hoặc
những thầy, cô giáo có hoàn cảnh khó khăn.
4 . Giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh học sinh cần phải có mối liên hệ gắn
bó, mật thiết?
Hình thành nhân cách cho học sinh là quá trình tổ chức hoạt động có mục đích
có kế hoạch đến các mặt nhận thức, tình cảm và hành động ý chí của các em.
Hiệu quả của quá trình tổ chức náy phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó việc

phối hợp với các bậc cha mẹ và thân nhân của gia đình học sinh là yếu tố cần
được coi trọng. Bởi vì, gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi
dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành
nhân cách. Đảm bảo sợi dây liên kết gắn bó giữa nhà trường với gia đình là một
đảm bảo cho việc thực hiện tính liên tục và đồng bộ trong tổ chức hoạt động
giáo dục, vừa là sự bù đắp những tác động giáo dục mà trong điều kiện của nhà
trường khó có thể làm được.
Để có mối liên hệ gắn bó, mật thiết với phụ huynh học sinh, người giáo viên
chủ nhiệm cần phải:
- Liên lạc với phụ huynh ngay khi năm học bắt đầu, có nghĩa là khi tiếp nhận
danh sách HS của lớp là tiếp nhận luôn danh sách cha mẹ hoặc người nuôi
dưỡng HS.
- Có thể hình thành một bộ phận hồ sơ gửi cho mỗi phụ huynh học sinh để có
thông tin như:
+ Tên họ, nghề nghiệp cha mẹ hoặc người nuôi dưỡng.
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ - Mỹ Tho – Tiền Giang
12


+ Địa chỉ gia đình.
+ Số điện thoại để liên lạc khi cần thiết.
+ Những đặc điểm cần chú ý khi giáo dục con em của mình mà gia đình thấy
cần thiết đề nghị với GVCN.
+ Có thể ghi chú thêm thời gian hay cách tốt nhất để liên lạc giữa GV với gia
đình khi cần thiết.
- Lập một danh sách số điện thoại chung của các gia đình HS gửi cho tất cả
các GV của lớp.
- Chuẩn bị đưa ra một danh sách những đồ dùng, những sách vở và dụng cụ
cần thiết mà các em phải mang theo vào mỗi ngày đến lớp.
- Gửi thông báo cho cha mẹ hoặc người nuôi dưỡng biết về kế hoạch Đại hội

Cha Mẹ HS, kể cả nội dung và ngày giờ cụ thể. Có thể gợi ý những vấn đề cần
thảo luận cũng như những mối quan tâm đặc biệt về việc học tập của con em
mình.
D . Yêu cầu đối với giáo viên chủ nhiệm trong công tác giáo dục ở địa
phương trong giai đoạn hiện nay.
1. Lập được kế hoạch dạy học; biết cách soạn giáo án theo hướng đổi
mới. Bao gồm các tiêu chí sau:
- Xây dựng được kế hoạch giảng dạy cả năm học thể hiện các hoạt động dạy
học nhằm cụ thể hoá chương trình của Bộ phù hợp với đặc điểm của nhà trường
và lớp được phân công dạy;
- Lập được kế hoạch tháng dựa trên kế hoạch năm học bao gồm hoạt động
chính khoá và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp;
- Có kế hoạch dạy học từng tuần thể hiện lịch dạy các tiết học và các hoạt
động giáo dục học sinh;
- Soạn giáo án theo hướng đổi mới, thể hiện các hoạt động dạy học tích cực
của thầy và trò (soạn giáo án đầy đủ với môn học dạy lần đầu, sử dụng giáo án
có điều chỉnh theo kinh nghiệm sau một năm giảng dạy).
2. Tổ chức và thực hiện các hoạt động dạy học trên lớp phát huy được
tính năng động sáng tạo của học sinh. Bao gồm các tiêu chí sau:
- Lựa chọn và sử dụng hợp lý các phương pháp dạy học theo hướng phát huy
tính sáng tạo, chủ động trong việc học tập của học sinh; làm chủ được lớp học;
xây dựng môi trường học tập hợp tác, thân thiện, tạo sự tự tin cho học sinh;
hướng dẫn học sinh tự học;
- Đặt câu hỏi kiểm tra phù hợp đối tượng và phát huy được năng lực học tập
của học sinh; chấm, chữa bài kiểm tra một cách cẩn thận để giúp học sinh học
tập tiến bộ;
- Có sử dụng thiết bị, đồ dùng dạy học, kể cả đồ dùng dạy học tự làm; biết
khai thác các điều kiện có sẵn để phục vụ giờ dạy, hoặc có ứng dụng phần mềm
dạy học, hoặc làm đồ dùng dạy học có giá trị thực tiễn cao;
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ - Mỹ Tho – Tiền Giang

13


- Lời nói rõ ràng, rành mạch, không nói ngọng khi giảng dạy và giao tiếp trong
phạm vi nhà trường; viết chữ đúng mẫu; biết cách hướng dẫn học sinh giữ vở
sạch và viết chữ đẹp.
3. Công tác chủ nhiệm lớp; tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ
lên lớp. Bao gồm các tiêu chí sau:
- Xây dựng và thực hiện kế hoạch công tác chủ nhiệm gắn với kế hoạch dạy
học; có các biện pháp giáo dục, quản lý học sinh một cách cụ thể, phù hợp với
đặc điểm học sinh của lớp;
- Tổ chức dạy học theo nhóm đối tượng đúng thực chất, không mang tính hình
thức; đưa ra được những biện pháp cụ thể để phát triển năng lực học tập của học
sinh và thực hiện giáo dục học sinh cá biệt, học sinh chuyên biệt;
- Phối hợp với gia đình và các đoàn thể ở địa phương để theo dõi, làm công tác
giáo dục học sinh;
- Tổ chức các buổi ngoại khóa hoặc tham quan học tập, sinh hoạt tập thể thích
hợp; phối hợp với Tổng phụ trách, tạo điều kiện để Đội thiếu niên, Sao nhi đồng
thực hiện các hoạt động tự quản.
4. Thực hiện thông tin hai chiều trong quản lý chất lượng giáo dục;
hành vi trong giao tiếp, ứng xử có văn hoá và mang tính giáo dục. Bao gồm
các tiêu chí sau:
- Thường xuyên trao đổi góp ý với học sinh về tình hình học tập, tham gia các
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp và các giải pháp để cải tiến chất lượng học
tập sau từng học kỳ;
- Dự giờ đồng nghiệp theo quy định hoặc tham gia thao giảng ở trường, huyện,
tỉnh; sinh hoạt tổ chuyên môn đầy đủ và góp ý xây dựng để tổ, khối chuyên môn
đoàn kết vững mạnh;
- Họp phụ huynh học sinh đúng quy định, có sổ liên lạc thông báo kết quả học
tập của từng học sinh, tuyệt đối không phê bình học sinh trước lớp hoặc toàn thể

phụ huynh; lắng nghe và cùng phụ huynh điều chỉnh biện pháp giúp đỡ học sinh
tiến bộ;
- Biết cách xử lý tình huống cụ thể để giáo dục học sinh và vận dụng vào tổng
kết sáng kiến kinh nghiệm giáo dục; ứng xử với đồng nghiệp, cộng đồng luôn
giữ đúng phong cách nhà giáo.
5. Xây dựng, bảo quản và sử dụng có hiệu quả hồ sơ giáo dục và giảng
dạy. Bao gồm các tiêu chí sau:
- Lập đủ hồ sơ để quản lý quá trình học tập, rèn luyện của học sinh; bảo quản
tốt các bài kiểm tra của học sinh;
- Lưu trữ tốt hồ sơ giảng dạy bao gồm giáo án, các tư liệu, tài liệu tham khảo
thiết thực liên quan đến giảng dạy các môn học được phân công dạy;
- Sắp xếp hồ sơ một cách khoa học, đúng thực tế và có giá trị sử dụng cao;
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ - Mỹ Tho – Tiền Giang
14


- Lưu trữ tất cả các bài làm của học sinh chậm phát triển và học sinh khuyết tật
để báo cáo kết quả giáo dục vì sự tiến bộ của học sinh.
6 . GVCN phải có sự phối hợp với các lực lượng xã hội
Tận dụng tiềm năng giáo dục trong trường và ngoài xã hội để đạt tới hiệu quả
trong việc thực hiện giáo dục là một nhiệm vụ đặc trưng của người giáo viên chủ
nhiệm lớp trong trường phổ thông. Giải quyết tốt nhiệm vụ này cũng chính là
thực hiện xã hội hoá giáo dục, một trong những giải pháp trọng yếu thực hiện
chiến lược phát triển giáo dục của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.

Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ - Mỹ Tho – Tiền Giang
15


MODULE TH 35: GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM

TRONG CÁC HOẠT ĐỘNG Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC
Tiểu học là bậc nền tảng, là nền móng cho hệ thống giáo dục, đặt cơ sở
ban đầu cho sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh sau này. Đối với
học sinh tiểu học, hoạt động trong nhà trường là chủ đạo, nhà trường là nơi tổ
chức các hoạt động chuyên biệt, là nơi giáo dục trẻ theo mục tiêu giáo dục của
bậc học. Bởi vậy nhà trường là nơi diễn ra cuộc sống của trẻ, là nơi trẻ bộc lộ
khả năng, năng lực, nhân cách một cách đầy đủ, rõ ràng nhất.
A . Mục tiêu:
- Nắm được những vấn đề lí luận cơ bản về công tác chủ nhiệm lớp và yêu
cầu đối với người giáo viên chủ nhiệm (GVCN) lớp ở tiểu học trong giai đoạn
hiện nay.
- Hiểu vị trí, vai trò quan trọng của GVCN đối với lớp chủ nhiệm trong phát
triển giáo dục toàn diện học sinh trong giai đoạn hiện nay;
- Có kĩ năng lập hồ sơ chủ nhiệm lớp.
- Hiểu và phân tích được nhiệm vụ chung của GVCN cần thực hiện trong năm
học;
- Có mối quan hệ tốt với Ban giám hiệu, đồng nghiệp, phụ huynh, Ban đại
diện cha mẹ học sinh và cộng đồng.
- Có kĩ năng phân tích thực hiện nhiệm vụ chủ nhiệm thông qua các bài học
kinh nghiệm bản thân.
B . GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM TRONG CÁC HOẠT ĐỘNG Ở TRƯỜNG
TIỂU HỌC
1. Giáo viên chủ nhiệm với công tác quản lý và giáo dục học sinh trong các
giờ học chính khóa:
Như chúng ta đã biết, bản chất của quá trình giáo dục là quá trình tổ chức cuộc
sống, hoạt động và giao lưu cho học sinh. Như vậy, để giáo dục học sinh, giáo
viên chủ nhiệm lớp cần tổ chức tốt các hoạt động và thu hút các em tham gia
một cách tích cực nhất. Trong trường tiểu học cần tổ chức tốt các hoạt động sau
đây:
Học tập là hoạt động quan trọng nhất của học sinh, để giúp cho lớp học tập

tốt, giáo viên chủ nhiệm lớp phải chú ý:
Rèn cho học sinh thói quen đi học đầy đủ, đùng giờ, bằng các biện pháp cụ thể
sau:
- Giáo viên chủ nhiệm có mặt thường xuyên tại lớp 10 phút trước giờ học mỗi
ngày, đặc biệt là những ngày đầu tuần.
- Tổ chức 10 phút “ Ôn bài” đầu giờ học mỗi ngày. Ôn bài là biện pháp giúp
nhau ôn tập nhanh, chuẩn bị sẵn sàng cho ngày học mới. Truy bài đầu giờ còn là
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ - Mỹ Tho – Tiền Giang
16


biện pháp khắc phục tình trạng đi học muộn, cho nên cần được tổ chức tốt và
duy trì lâu dài.
- Thành lập đội “Sao đỏ” của lớp để theo dõi thi đua giữa các tổ và tham gia
trực tuần với các lớp trong trường.
Rèn cho học sinh thói quen tích cực tham gia học tập bằng các biện pháp sau:
- Tổ chức thi đua giữa các tổ trong lớp, ghi lại số lần tham gia phát biểu ý kiến
trong các giờ học.
- Tổ chức cho học sinh chuẩn bị trước các bài học trong ngày.
- Tổ chức cho học sinh trao đổi về phương pháp đọc sách, ghi chép và sử dụng
tài liệu và thảo luận trên lớp.
- Nêu gương những học sinh có phương pháp học tập tốt, đặc biệt những học
sinh nghèo học giỏi.
- Tổ chức cho học sinh học nhóm, đôi bạn cùng học để hỗ trợ nhau học tập.
2 . Giáo viên chủ nhiệm với các hoạt động ngoài giờ lên lớp: Tiết cháo cờ,
hoạt động của sao nhi đồng và Đội TNTPHCM
a. Với Tiết chào cờ đầu tuần:
Sau tiết sinh hoạt dưới cờ (tiết đầu tuần), các GVCN nắm danh sách các học
sinh (HS) vắng có phép, không phép, đi trễ, hoặc vi phạm nội quy như mang dép
lê, áo không có phù hiệu, tóc tai xịt keo hay nhuộm màu… để GVCN làm việc

với các em, quán triệt nội quy hoath động của lớp…. Bởi vì trong giờ này, ngoài
những vấn đề “thời sự” liên quan đến nhà trường và học sinh, thầy cô còn cung
cấp cho học sinh những bài học đạo đức . Khi trong lớp có học sinh nào gặp
hoàn cảnh khó khăn là thầy cô gợi ý cho lớp thể hiện tinh thần tương thân tương
ái, giúp một bạn vượt khó, với tinh thần “lá lành đùm lá rách”, chuyện kỷ luật
trong lớp, việc thi đua nội bộ lớp, việc đánh giá học sinh cũng được giáo viên
hướng dẫn thực hiện một cách nhẹ nhàng và chân tình.
b. Với hoạt động của sao nhi đồng và Đội TNTPHCM:
Phối hợp với Tổng phụ trách trong hoạt động Đội – Sao: - Mỗi tiết học hiệu
quả hơn nếu nề nếp lớp học tốt. Bởi vậy, cần phối hợp với ban thi đua yêu cầu
chấm điểm về nề nếp lớp học và trao đổi các hoạt động ngoài giờ lên lớp phù
hợp.
- Trong sinh hoạt 15 phút, GVCN định hướng cho các em phụ trách sao (HS 45) đến giao lưu chi đội các lớp bằng một số hoạt động giao tiếp hàng ngày đơn
giản; hay kiểm tra bảng cửu chương, kỹ năng tính toán, thi vẽ tranh. Vậy là chỉ 15
phút sinh hoạt Sao đầu buổi học các em được rèn rất nhiều kỹ năng nhờ vào anh
chị phụ trách Sao.
3 . Giáo viên chủ nhiệm với công tác quản lý và giáo dục học sinh 2 buổi/
ngày
Dạy học cả ngày, GVCN có cơ hội tốt nhất để thực hiện việc dạy phân hoá HS,
có thời gian bù đắp lỗ hổng kiến thức cho HS yếu, có điều kiện tốt nhất để phát
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ - Mỹ Tho – Tiền Giang
17


triển năng lực tư duy cho HS khá giỏi. Ngoài ra, dạy học cả ngày, GV có thể tạo
những sân chơi thật bổ ích cho việc phát triển toàn diện nhân cách học sinh. Lâu
nay, trong dạy học GV đã thực sự đổi mới từ việc chọn nội dung, hình thức, thời
lượng, đồ dùng dạy học, cách đánh giá,… cho phù hợp với đối tượng nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục (GD).
Trong giai đoạn hiện nay, công tác chủ nhiệm lớp ngày càng đòi hỏi sự dày

công của người giáo viên hơn nữa; bởi trong một xã hội đang phát triển, mặt trái
của kinh tế thị trường có tác động đến việc hình thành nhân cách của học sinh,
bên cạnh đó để mưu sinh nên không ít phụ huynh đã giao phó việc giáo dục con
cái cho nhà trường. Vì vậy, thầy cô giáo chủ nhiệm giống như người cha, người
mẹ thứ hai của các em. Chính vì thế mà công tác chủ nhiệm đòi hỏi ở các thầy,
cô phải có nhiều kinh nghiệm và sự hy sinh cao cả.
* Công tác chủ nhiệm lớp là hệ thống những kế hoạch, những biện pháp mà
người giáo viên đã đưa ra nhằm tổ chức hướng dẫn học sinh thực hiện tốt những
nhiệm vụ của mình do nhà trường, Đoàn, Đội đưa ra. Bao gồm:
- Khảo sát đối tượng học sinh để đưa ra những phương pháp giáo dục phù
hợp.
+ Học sinh gặp hoàn cảnh khó khăn.
+ Học sinh khuyết tật.
+ Học sinh cá biệt về đạo đức.
+ Học sinh yếu.
+ Học sinh có những năng lực đặc biệt.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ lớp giỏi quản lý, tổ chức, kiểm tra.
- Phối kết hợp thường xuyên với phụ huynh.
- Đầu tư, tổ chức các phong trào trong nhà trường.
- Nêu gương và khen thưởng.
4 . Vấn đề phối hợp giữa giáo viên chủ nhiệm với Ban đại diện cha mẹ học
sinh
- Giáo viên chủ nhiệm là người nắm rõ mọi chủ trương, nhiệm vụ giáo dục
của nhà trường, do đó trở thành “nhịp cầu” trung gian trao đổi thông tin giữa nhà
trường với Ban đại diện cha mẹ học sinh. Mặt khác, thu nhận thông tin, ý kiến,
nguyện vọng của cha mẹ học sinh để báo lại với lãnh đạo nhà trường. Từ đó gắn
kết được trách nhiệm giữa nhà trường và gia đình trong việc giáo dục học sinh.
Sự phối hợp giữa Ban đại diện cha mẹ học sinh với giáo viên chủ nhiệm được
thực hiện có tổ chức theo kế hoạch chung của nhà trường bằng những cuộc họp
định kỳ. Thông qua những cuộc họp này, giáo viên chủ nhiệm ngoài việc truyền

đạt chủ trương, thông báo của nhà trường, còn trực tiếp báo cáo với cha mẹ học
sinh về thực trạng của lớp, tình hình học tập, tư cách đạo đức của từng học sinh.
Muốn vậy, giáo viên chủ nhiệm cần phải bám sát, gần gũi, có trách nhiệm và
tình thương để có những nhận xét, đánh giá phân minh nhất đối với từng đối
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ - Mỹ Tho – Tiền Giang
18


tượng - điều này sẽ giúp phụ huynh học sinh tin tưởng đối với việc giáo dục của
nhà trường và kịp thời chấn chỉnh việc học và tác phong đạo đức học sinh.
- Ngoài ra, giáo viên chủ nhiệm còn chủ động liên hệ mời phụ huynh đến
trường hoặc giáo viên chủ nhiệm đến nhà trao đổi riêng, bàn bạc giải pháp giáo
dục và khắc phục những sai phạm của học sinh.
- Mỗi lớp đều có ban chấp hành chi hội, giáo viên chủ nhiệm tham vấn với
ban chấp hành chi hội nhằm có những hành động thiết thực để động viên, quan
tâm đúng mức với mọi hoạt động của lớp, của trường. Mặt khác, để nắm bắt
những hành động sát thực của học sinh ở trường, lớp, giáo viên chủ nhiệm mời
đại diện chi hội cùng tham gia sinh hoạt lớp, tiếng nói động viên, căn dặn của
phụ huynh học sinh cũng có tác dụng tích cực trong việc giáo dục đạo đức học
sinh, đây cũng là cơ hội gặp gỡ để phụ huynh học sinh trao đổi những suy nghĩ,
mong muốn của gia đình trong việc giáo dục. Sự phối hợp chặt chẽ đó sẽ giúp
giáo viên chủ nhiệm hiểu cặn kẽ hơn từng đối tượng học sinh và có phương
pháp phù hợp cho từng đối tượng (đặc biệt là những học sinh cá biệt, có hành vi,
lối sống lệch chuẩn).
- Gia đình là nơi đầu tiên và có trách nhiệm cao hơn cả trong việc hình thành
nhân cách học sinh. Song có những gia đình thiếu kiến thức sư phạm nên đi
ngược lại với mục tiêu giáo dục của nhà trường. Do đó, giáo viên chủ nhiệm có
liên hệ, trao đổi với phụ huynh học sinh thì mới thống nhất được phương pháp
giáo dục hiệu quả.
5 . Giáo viên chủ nhiệm với công tác giáo dục học sinh cá biệt

a . Thưc trạng vấn đề
Từ thực tiễn của nhà trường, hiện nay học sinh cá biệt, chưa ngoan không phải
là phổ biến nhưng ở trường nào cũng chịu ảnh hưởng bởi đối tượng học sinh này
đối với phong trào chung của lớp, chúng gây ảnh hưởng thường xuyên đến kết
quả thi đua của bạn bè toàn lớp. Nhìn chung những biểu hiện của các em là chưa
có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình – nhà trường – xã hội. Bên cạnh còn có
nhiều nguyên nhân khác gây ra:
b . Nguyên nhân dẫn đến học sinh cá biệt:
- Các em đi học do gia đình ép buộc.
- Do tác động của xã hội, bị bè bạn không tốt lôi kéo.
- Sự kích động của phim ảnh, các trò trơi bạo lực từ game.
- Chưa có sự quan tâm của cha mẹ đến việc học của con cái.
- Do gia đình khá giả, chỉ biết cung cấp tiền cho con mà không quan tâm đến
kết quả học tập của con mình, dẫn đến tính ỷ lại.
- Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, phải làm thêm giúp gia đình nên thường
xuyên bỏ học, học lực sa sút.
- Do cho mẹ ly hôn, dẫn đến buồn chán.
- Do lớp học có quá nhiều học sinh yếu, kém…
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ - Mỹ Tho – Tiền Giang
19


Bên cạnh cũng có thể một số nguyên nhân xuất phát từ giáo viên như:
* Đối với giáo viên bộ môn:
- Do học yếu kém nên giáo viên bộ môn phân biệt trong cư xử.
- Thường xuyên gọi trả bài.
- Cho nhiều điểm kém.
- So sánh giữa học sinh này với học sinh khác.
- Hâm dọa sẽ ở lại lớp … làm cho học sinh mất đi niềm tin dẫn đến bi oan,
chán chường, không muốn học những môn đó…

* Đối với giáo viên chủ nhiệm:
- Trong quá trình giáo dục học sinh cá biệt còn sử dụng tùy tiện các phương
pháp không phù hợp và chưa khoa học.
- Xử lý học sinh trong lớp không công bằng
- Không xây dựng được quy định riêng cho lớp.
- Xử lý không đến nơi, đến chốn.
- Chỉ nhắc nhỡ mà không có biện pháp cưỡng chế.
- Học sinh vi phạm lỗi nhẹ cũng mời phụ huynh.
- Chưa kết hợp với phụ huynh, chưa thông báo kịp thời với phụ huynh.
- Có thái độ kỳ thị đối với học sinh yếu, kém (cá biệt).
- Không thường xuyên theo dõi lớp mà chỉ giao cho lớp trưởng quản lý.
- Bầu Ban cán sự lớp không đủ năng lực.
- Phạt học sinh vi phạm quá nặng.
- Chỉ nói mà không thực hiện…
* Đối với học sinh cá biệt thường có các biểu hiện sau:
- Bỏ học, cúp tiết, thường đi học trễ.
- Không đồng phục, phù hiệu.
- Đầu tóc, tác phong.
- Mất trật tự trong giờ học.
- Không chú ý nghe thầy cô giảng dạy.
- Thiếu văn hóa (nói tục, chưỡi thề).
- Đùa giỡn, chọc gẹo người khác quá mức.
- Sách vỡ không đầy đủ, thường xuyên không chép bài.
- Mê chơi game, lôi kéo, rủ rê bè bạn.
- Đi học về nhà không đúng giờ.
- Thường nói dối.
- Không giữ vệ sinh trường lớp …
6. Những giải pháp tăng cường năng lực làm công tác chủ nhiệm lớp cho
giáo viên tiểu học
Công tác chủ nhiệm lớp là một trong hai công tác vô cùng quan trọng của

người giáo viên, điều này càng quan trọng hơn khi được đặt trong phong trào thi
đua “Xây dựng trường học thân thiện - Học sinh tích cực”. Để lớp chủ nhiệm
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ - Mỹ Tho – Tiền Giang
20


của mình thực sự thân thiện, học sinh của mình thực sự tích cực, bên cạnh việc
nắm chắc vai trò, chức năng, nhiệm vụ của người GVCN, GVCN có định hướng
cụ thể cho công việc của mình. Đặc biệt để các em xích lại gần nhau hơn, để xây
dựng được một tập thể lớp học đoàn kết, thân thiện GVCN đặc biệt chú trọng
đến các công việc sau.
*Về rèn nề nếp
- Đây là công tác đóng vai trò quan trọng, có thể quyết định đến học tập và
mọi phong trào của lớp vì lớp học có trật tự, có nề nếp tốt thì học sinh mới chú ý
nghe giảng và hiểu bài được. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên
trong việc giúp học sinh lĩnh hội hết các kiến thức của tiết học.
Ngay từ khi nhận lớp, GVCN cho các em học sinh học Nội quy học sinh và
yêu cầu các em tìm hiểu cụ thể, chi tiết từng mục một, phân tích kỹ để các em
hiểu nội quy đó vì các em còn quá nhỏ, nếu giáo viên chỉ nêu qua thì học sinh
không thể hiểu hết được yêu cầu của Nội quy.
- Trong quá trình lên lớp, học sinh phải trật tự thì giáo viên mới giảng, tuyệt
đối không có tình trạng thầy nói - trò nói, không ai nghe ai. Tuy nhiên, trong
công tác này luôn phải nghiêm khắc nhưng cũng cần phải nhẹ nhàng với các em,
học ra học, chơi ra chơi.
- Ngay từ đầu năm, GVCN đưa ra các yêu cầu thi đua giữa các tổ và các cá
nhân ngay từ buổi học đầu tiên để các em cùng thi đua, phấn đấu.
- Luôn duy trì đều đặn hoạt động thi đua giữa các tổ, các cá nhân, có khen chê
kịp thời nhưng lấy tiêu chí khen, động viên là chính.
- Bên cạnh đó, GVCN luôn giáo dục các em ý thức giữ gìn môi trường xung
quanh xanh, sạch, đẹp giúp cho chúng ta có sức khoẻ tốt, hướng dẫn các em cụ

thể cả việc đi vệ sinh đúng nơi quy định, vứt rác đúng chỗ.
- Người GVCN luôn đề cao vai trò của cán bộ lớp, các em này thực sự là những
cô giáo nhỏ của lớp học. GVCN đã hướng dẫn các em cách tự quản lớp học và
cách xử lí một số tình huống thường xảy ra. Đội ngũ cán bộ lớp không những chỉ
có học sinh tiêu biểu mà còn có cả một số em hiếu động ở trong lớp để các em có
ý thức tự giác, biết sửa chữa bản thân, hầu hết các em đều có tiến bộ và trở thành
những học sinh gương mẫu.
- GVCN luôn đề cao tinh thần tự quản của các em, khen ngợi những tập thể cá
nhân có ý thức tự quản tốt, từ đó giúp các em có ý thức học tập lẫn nhau để cùng tiến
bộ.
- GVCN luôn giành thời gian cho các em tự bình bầu thi đua giữa các tổ, các cá
nhân vào các tiết sinh hoạt cuối tuần và tiến hành tổng kết thi đua vào cuối tháng.
Các tổ và cá nhân xuất sắc được tuyên dương, khen thưởng trước tập thể lớp.
- Do các em còn nhỏ, ít chú ý ghi nhớ các yêu cầu, nội quy của lớp do vậy tôi
luôn phải nhắc nhở đến khi các em quen dần, đặc biệt trong một, hai tháng đầu
giáo viên phải chỉ dẫn tỉ mỉ cho học sinh từng tí một để các em thực hiện.
Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ - Mỹ Tho – Tiền Giang
21


- Người GVCN thiết lập sổ Nhật ký giáo viên chủ nhiệm. Nhật ký giáo viên
chủ nhiệm khác với Sổ công tác chủ nhiệm. Nhật ký chủ nhiệm để ghi về từng
học sinh ưu nhược điểm, tính cách, sự tiến bộ, suy nghĩ, tình cảm của giáo viên
đối với các em, những kỉ niệm, những hiện tượng của học sinh. Nhật ký chủ
nhiệm giúp giáo viên có nguồn tư liệu đánh giá khoa học về học sinh, là tư liệu
nghiên cứu về tâm lý học.
* Về vấn đề học tập
- Ngay từ đầu năm học, GVCN điều tra học lực của các em, phân loại học
sinh để có biện pháp giảng dạy cho phù hợp với từng đối tượng, luôn ưu tiên đến
các học sinh yếu trong lớp, giành cho các em này những câu hỏi đơn giản để các

em cảm thấy tự tin khi phát biểu ý kiến.
- GVCN cũng luôn tạo ra trong lớp một không khí thi đua học tập tốt, sôi nổi
trong mọi tiết dạy.
- Duy trì phong trào thi đua hoa điểm mười, phong trào Đôi bạn cùng tiến.
- Khi xếp chỗ ngồi, người GVCN luôn chú ý xếp xen kẽ HS kém với HS khá,
giỏi để các em tự giúp đỡ nhau trong học tập, cuối tuần luôn có bình bầu đôi bạn
nào tiến bộ nhất trong tuần đó.
- Ngay trong đầu năm học đã hướng dẫn học sinh nắm được các ký hiệu trên
bảng, cách giơ tay phát biểu, cách sắp xếp đồ dùng học tập, cách đứng trả lời, ...
từ đó rèn cho HS tác phong nhanh nhẹn trong mọi hoạt động.
- Duy trì nề nếp truy trao bài đầu giờ và kiểm tra bài của nhau trong các tiết
dạy giúp GV tiết kiệm được thời gian và hướng các em vào mục tiêu tự đánh giá
kết quả của mình.
- Luôn có kế hoạch kèm cặp các em yếu kém, thường xuyên gọi các em nhút
nhát để các em tự tin và bạo dạn hơn.
- Phát động phong trào thi đua học tập giữa các tổ, nhóm, cá nhân có tiến hành
tổng kết tuyên dương, khen thưởng nhằm khuyến khích tinh thần học tập tiến bộ
của các em.
* Trong công tác phối kết hợp với các cơ quan đoàn thể
Điều tra lí lịch học sinh nắm được hoàn cảnh cũng như cá tính của từng em và
có biện pháp giáo dục các em cho phù hợp.
- Xây dựng thư viện riêng của lớp để giúp đỡ những học sinh thiếu sách giáo
khoa học tập. Cuối mỗi kỳ, cuối năm dùng toàn bộ số sách này cùng với việc
huy động thêm số sách không sử dụng nữa của mỗi học sinh để tặng cho nhà
trường nhằm xây dựng “Thư viện thân thiện”.
- Làm tốt công tác bảo vệ cảnh quan môi trường. Xây dựng và bảo vệ cơ sở vật
chất nhà trường. Thực hiện phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực”.

Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ - Mỹ Tho – Tiền Giang

22


- Trong buổi họp phụ huynh đầu năm cần nêu rõ cho phụ huynh biết những
quy định mà lớp cũng như trường, đề nghị cha mẹ học sinh phối hợp thực hiện
nghiêm túc nhằm đạt hiệu quả giáo dục như mong muốn.
- Tạo mối liên hệ gắn bó mật thiết với cha mẹ học sinh, trao đổi kịp thời với
phụ huynh học sinh các vấn đề có liên quan trong công tác giáo dục học sinh.
- Chủ động nắm bắt kế hoạch hàng tháng của tổ chức Đoàn - Đội để xây dựng
kế hoạch riêng phù hợp với đặc điểm tình hình của lớp và động viên các em tích
cực tham gia.
*Tự nhận xét đánh giá:
Trong quá trình học tập bản thân đã cố gắng tìm hiểu, nghiên cứu nội dung và
ghi chép một cách nghiêm túc. Bản thân tôi cho rằng đây là một nội dung hay,
bổ ích cho việc dạy học nên cần phải học tập thường xuyên.
Đây mới chỉ là kết quả học tập và vận dụng kiến thức của bản thân, mong tổ
khối nhận xét và giúp đỡ để nội dung được hoàn thiện hơn.
- Tự đánh giá: 8
- Xếp loại: khá
Người báo cáo

Lê Quốc Thiện – Trường tiểu học Nguyễn Huệ - Mỹ Tho – Tiền Giang
23



×