Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

HCM người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ tự lực tự cường, đổi mới và sáng tạo (21)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.37 KB, 20 trang )

ĐỀ BÀI:
Trong câu diễn văn tại lễ kỉ niệm 100 năm ngày sinh chủ tịch Hồ Chí
Minh có viết: “Người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội (CNXH), là mẫu mực của tinh thần độc lập,
tự chủ, tự lực, tự cường, đổi mới và sáng tạo”.
Hãy phân tích và chứng minh nhận định trên. Liên hệ với thực tiễn
Việt Nam hiên nay.

Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 – 1969)

1


BÀI LÀM:
Lịch sử cách mạng của nước ta gần 100 năm qua gắn liền với tên
tuổi, sự nghiệp, tư tưởng và đạo đức Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh,
người anh hùng dân tộc vĩ đại, nhà tư tưởng lỗi lạc của cách mạng Việt
Nam được cả thế giới ca ngợi. Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước
và thế giới có nhiều biến động, phải chứng kiến cảnh nước mất nhà tan,
người dân lầm than, cùng cực, ở Người đã sớm hình thành một tinh thần
yêu nước thương dân sâu sắc. Đó chính là một trong những cơ sở chính để
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, một tư tưởng vĩ đại. “Tư tưởng Hồ Chí
Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại....”, “Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh
của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân
tộc ta...” (Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng
sản Việt Nam). Xuyên suốt, thấm đượm trong tư tưởng Hồ Chí Minh là tư
tưởng độc lập dân tộc, là khát vọng xây dựng một xã hội XHCN công bằng


dân chủ, văn minh. Cả cuộc đời của Người đã dành trọn cho nhân dân, cho
đất nước, cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng con người, giải phóng nhân
loại cần lao, thoát khỏi mọi áp bức, bất công, vươn tới cuộc sống ấm no, tự
do và hạnh phúc. Cũng chính vì vậy mà vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề
dân tộc trong cách mạng Việt Nam được Người quan tâm, nung nấu suốt cả
đời. Trong diễn văn tại lễ kỉ niệm 105 năm ngày sinh của Người đã viết:
“Người là hiện thân sáng chói của tinh thần độc lập dân tộc gắn liền với

2


CNXH, là mẫu mực của tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, đổi mới
và sáng tạo”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học
là Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng lấy tên là
Nguyễn Ái Quốc và nhiều bí danh, bút danh khác) sinh ngày 19 tháng 5
năm 1890 ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, mất ngày 2 tháng
9 năm 1969 tại Hà Nội.
Sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, lớn lên ở một địa
phương giàu truyền thống cách mạng, sống trong hoàn cảnh đất nước chìm
dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, Người đã sớm chứng kiến nỗi khổ cực
của đồng bào và những phong trào đấu tranh chống thực dân. ở Người sớm
hình thành chí đuổi thực dân, giành lại nền độc lập cho non sông đất nước.
Người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là tư tưởng chính trị đặc sắc, là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt và bao trùm trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư
tưởng đặc sắc ấy thể hiện nhất quán mục tiêu của con đường cách mạng mà
Người đã lựa chọn. Nó vừa đáp ứng được nhu cầu bức xúc của dân tộc và
khát vọng của quần chúng nhân dân giành lấy độc lập, tự do, ấm no và hạnh
phúc, giải phóng cuộc đời lầm than, đói khổ dưới ách thống trị tàn bạo của

chủ nghĩa thực dân, đế quốc và bè lũ tay sai.
Khác với con đường cứu nước của các thế hệ đi trước, vượt qua giới
hạn của các nhà yêu nước đương thời, con đường cứu nước của Hồ Chí
Minh là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Chúng ta tự hào với truyền
thống yêu nước, với tinh thần hiên ngang bất khuất của cha ông ta trong
lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Khi nước nhà bị bọn xâm
3


lăng giày xéo thì cả dân tộc không có một khát vọng nào hơn là giành lại
được nền độc lập. Nhưng không phải tất cả những con người yêu nước đều
tìm được con đường cứu nước đúng đắn. Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX,
khi đất nước ta kiệt quệ vì các cuộc khai thác thuộc địa, nhân dân ta bị kìm
kẹp dưới ách thống trị của bọn Thực dân Pháp thì các thế hệ nối tiếp nhau
đứng lên, quyết giành lại non sông đất nước. Song do chưa có đường lối
đúng đắn nên các phong trào, các cuộc khởi nghĩa lần lượt thất bại, quần
chúng cách mạng bị dìm trong biển máu như tư tưởng gắn độc lập dân tộc
với chủ nghĩa phong kiến của các cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới khẩu hiệu
“Cần vương” do các sĩ phu, văn thân lãnh đạo, con đường khởi nghĩa của
người anh hùng Hoàng Hoa Thám, hay tư tưởng gắn độc lập dân tộc với
chủ chủ nghĩa tư bản như con đường “Đông du” của cụ Phan Bội Châu, “ỷ
Pháp cầu tiến bộ” của cụ Phan Chu Trinh… Sinh ra và lớn lên trong cảnh
nước mất nhà tan, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành, sau nhiều
năm trăn trở đã ra đi tìm đường cứu nước vào năm 1911. Sau hơn 10 năm
bôn ba, qua nhiều nước để tìm tòi và thử nghiệm, Người đã đến với Chủ
nghĩa Mác – Lênin, đến với tư tưởng Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại.
Khi đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc
địa” của Lênin đăng trên báo L’Humanité, số ra ngày 16 và 17 tháng 7 năm
1920, Người đã “cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng…vui mừng đến
phát khóc…” và sung sướng nói to “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây

là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”.
Người đã tìm thấy ở đó con đường cứu nước cứu dân và quả quyết: “Muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản.” Ở Người đã có sự gắn bó thống nhất giữa dân tộc và
giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và CNXH. Người nhận thức

4


được chỉ có CNXH mới có thể giải phóng được dân tộc đồng thời đem lại
hạnh phúc cho nhân dân.
Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH của chủ tịch Hồ Chí
Minh còn thể hiện ở tư duy sáng tạo độc đáo của Người đối với chủ nghĩa
Mác – Lênin về tiến trình, lôgic phát triển của cách mạng vô sản ở Việt
Nam. Lựa chọn con đường cách mạng vô sản là sự thống nhất giữa điều
kiện khách quan với nhận thức và hoạt động chủ quan của Người. Đó là sự
gặp gỡ của thời đại và Hồ Chí Minh, là đóng góp to lớn nhất của Người với
thời đại, đặc biệt là đối với các nước thuộc địa và phụ thuộc. Đi theo con
đường cách mạng vô sản, cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách nô dịch
của chủ nghĩa thực dân, giải phóng quần chúng lao động khỏ áp bức bóc lột
và đi tới mục tiêu cao cả của chủ nghĩa cộng sản là giải phóng con người,
thực hiện thắng lợi mục tiêu ấy thuộc về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân Việt Nam. Trong quá trình hoạt động cách mạng của mình, Người
luôn đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, nhưng không bao giờ
tách rời nhiệm vụ đó với nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người
không chỉ đấu tranh cho độc lập dân tộc mà còn nỗ lực truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin vào trong nước, tạo cơ sở cho việc xây dựng CNXH ở nước ta.
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH diễn ra trong suốt quá trình,
trong từng giai đoạn của cách mạng, thống nhất ở mục tiêu trước mắt cũng
như lâu dài. Để có độc lập thực sự cho dân tộc phải đi lên CNXH. Độc lập

dân tộc là điều kiện tiên quyết để xây dựng CNXH, CNXH là mục tiêu, lý
tưởng, là điều kiện đảm bảo cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân
dân, là nhân tố đảm bảo vững chắc của nền độc lập dân tộc. Bởi “Yêu Tổ
quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu CNXH, vì có tiến lên chủ nghĩa
xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ Quốc mỗi ngày

5


một giàu mạnh thêm.” Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng nói: “nếu được
độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng
có nghĩa lý gì.” Và “dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân
được ăn no mặc đủ.” Nghĩa là cách mạng Việt Nam phải hướng tới mục
tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người thoát
khỏi mọi áp bức, bóc lột và bất công, tiến tới một xã hội “trong dó sự phát
triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi
người.” Người luôn coi vấn đề giải phóng dân tộc là mục tiêu quan trọng
nhất của cách mạng Việt Nam, tuy nhiên bên cạnh việc giành độc lập thì
Người luôn mong ước xây dựng thành công CNXH để đem lại hạnh phúc
cho dân tộc. Chính vì vậy, sau mỗi bước thắng lợi của cách mạng, Người
luôn quan tâm đến phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng lực lượng
cách mạng đi đôi với củng cố chính quyền cách mạng.
Sau cách mạng tháng 8, Người trực tiếp chỉ đạo công cuộc kháng
chiến bảo vệ nền độc lập dân tộc đồng thời cũng là người soi đường chỉ lối
cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Người chủ trương
củng cố chính quyền non trẻ, đẩy lùi giặc đói, gặc dốt, khắc phục nạn tài
chính thiếu hụt. Về đối ngoại, Người vận dụng sách lược khôn khéo, mềm
dẻo thêm bạn, bớt thù, tranh thủ thời gian để chuẩn bị thế và lực trường kì
kháng chiến. Ngày 19 tháng 12 năm 1946, với niềm tin sắt đá vào thắng lợi
của sức mạnh toàn dân, Người đã kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống

thực dân Pháp. Trong khi đó, Người đặc biệt chăm lo xây dựng Đảng, xây
dựng lực lượng cán bộ, đấu tranh chống tệ quan liêu, mệnh lệnh, xây dựng
đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, phát động phong
trào thi đua yêu nước. Người đề ra đường lối vừa kháng chiến vừa kiến
quốc, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh.

6


Khi đế quốc Mỹ xâm lược miền Nam Việt Nam, Người vẫn giữ vững
niềm tin độc lập dân tộc và luôn coi miền Nam là một phần của dân tộc
Việt Nam. Người cho rằng: “đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam, sông
có thể cạn, núi có thể mòn song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”. Người
luôn tâm niệm giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất nước nhà, khi đó
sẽ xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu đẹp hơn, to đẹp hơn,
nhân dân ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.
Đường lối vừa kháng chiến vừa kiến quốc thực sự đóng vai trò to lớn
vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và tạo lập chế độ mới trong cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân. Đường lối đó là cơ sở cho việc tiến hành đồng
thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng: Cách mạng giải phóng dân tộc ở
miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giai đoạn 1954 –
1975, cũng như việc thực hiêni hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH
và bảo vệ Tổ quốc trên phạm vi cả nước hiện nay và trong tương lai.
Tư tưởng của Người còn sâu sắc ở chỗ, độc lập dân tộc không phải là
khẩu hiệu mà phải độc lập thực sự, phải gắn liền với thống nhất Tổ quốc.
Độc lập bao giờ cũng gắn liền với dân chủ và ấm no hạnh phúc của nhân
dân, nhất là đối với một nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến có trên 90% là
nông dân. Dân chủ trước hết lúc này là phải giành lại ruộng đất cho dân cày
và xác định quyền làm chủ của nông dân trên đồng ruộng của họ. Độc lập
dân tộc và dân chủ là hai mục tiêu cơ bản lớn mà cách mạng dân tộc dân

chủ nhân dân phải thực hiện. Hai nội dung đó có mối quan hệ chặt chẽ và
thúc đẩy nhau, song trước hết cần tập trung vào độc lập dân tộc vì nó giải
quyết mâu thuẫn chủ yếu giữa toàn thể nhân dân ta với đế quốc xâm lược.
Giải quyết được mâu thuẫn này cũng là giải quyết được mâu thuẫn của xã
hội thuộc địa nửa phong kiến. Và như vậy, rõ ràng tư tưởng Hồ Chí Minh
về con đường cách mạng Việt Nam là tư tưởng cách mạng không ngừng, là
7


sự thống nhất giữa độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH. Vì vậy, CNXH là
con đường phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do
Đảng Cộng Sản lãnh đạo, sau khi đã đạt được thắng lợi trong các mục tiêu
căn bản. Đó là sự lựa chọn của Hồ Chí Minh, của nhân dân Việt Nam và
của chính lịch sử cách mạng Việt Nam. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH
là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là xu thế phát triển của xã
hội Việt Nam phù hợp với xu thế chung của lịch sử và của thời đại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự
nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc vừa phản ánh
mối quan hệ khắng khít giữa mục tiêu giải phóng giai cấp với giải phóng
con người. Chỉ có xoá bỏ tận gốc tình trạng áp bức bóc lột, thiết lập một
nhà nước của dân do dân vì dân, mới đảm bảo cho người lao động có quyền
làm chủ, mới thực hiện sự phát triển hài hoà giữa cá nhân và xã hội, giữa
độc lập dân tộc với tự do và hạnh phúc của con người. Theo người, sau khi
giành được độc lập phải tiến lên xây dựng CNXH, làm cho dân giàu nước
mạnh, mọi người được sung sướng, tự do.
Xuất phát từ đặc điểm thực tiễn của xã hội Việt Nam, một nước nông
nghiệp lạc hậu, thuộc địa, nửa phong kiến bỏ qua giai đoạn tư bản chủ
nghĩa, quá độ lên CNXH, nên trong quan niệm về CNXH của người không
phải là những ý tưởng cao xa mà là những lợi ích rất cụ thể, thiết thực, gần
gũi với những nhu cầu đời thường của nhân dân lao động. Những quan

niệm về CNXH được diễn đạt rất dễ hiểu, dễ đI vào lòng người và cổ vũ họ
đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ cho nhân dân và hướng tới CNXH.
Người giải thích rõ: “CNXH là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày
càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động
được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ

8


(...) Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày
càng tốt, đó là CNXH.”
Như vậy, tư tưởng về CNXH của Người thể hiện đậm nét sự công
bằng xã hội. Nó không chỉ phản ánh mục tiêu, lý tưởng, bản chất sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam và còn thể hiện tính nhân văn sâu
sắc, tất cả vì con người, do con người. Trung thành với con đường đã chọn,
suốt cuộc đời Hồ Chí Minh đã phấn đấu không mệt mỏi cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con
người, vì một xã hội XHCN hiện thực trên đất nước Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực của tinh thần độc lập,
tự chủ, tự lực, tự cường. Người độc lập từ trong cách suy nghĩ, cách nói,
cách làm, từ những việc bình thường nhất. Nói như vậy bởi, trong suốt cuộc
đời học tập, nghiên cứu và hoạt động cách mạng, Người không bao giờ ỷ lại
mà tự mình làm mọi việc, không ngừng vừa học tập vừa rèn luyện bản thân
một cách hoàn toàn chủ động. Lời kêu gọi trong dịp 1000 ngày kháng chiến
10/6/1948, Người căn dặn: “Mỗi người dân phải hiểu, có tự lập mới có độc
lập, có tự cường mới có tự do.” Tư tưởng tự lực tự cường thể hiện nhất
quán, rõ nét, xuyên suốt trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của
Người, từ việc một mình ra đi tìm đường cứu nước, đến việc chọn con
đường giải phóng dân tộc mình, từ trong kháng chiến cũng như trong xây
dựng CNXH.

Tư tưởng độc lập dân tộc là nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc và
thuộc địa. Người luôn khẳng định độc lập dân tộc là quyền lợi mà dân tộc ta
đáng được hưởng, “không ai có thể chối cãi được”. Độc lập dân tộc là khát
vọng mà bất kì một dân tộc thuộc địa nào cũng đều khao khát: “tự do cho
dân tộc tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy
9


là tất cả những điều tôi hiểu”. Cả cuộc đời mình, Người luôn đặt vấn đề dân
tộc độc lập lên trên tất cả. Năm 1919, thay mặt người Việt Nam yêu nước,
Người đã gửi tới hội nghị Vecxây yêu sách đòi quyền tự do dân chủ cho
dân tộc Việt Nam và kí tên Nguyễn Ái Quốc. Năm 1930, khi soạn thảo
cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, một cương lĩnh giải phóng dân tộc
đúng đắn và sáng tạo Người cũng đề cao vấn đề độc lập dân tộc, xác định
nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên giải phóng giai cấp. Mặc dù lúc đó
khuynh hướng chung của Quốc tế cộng sản là đấu tranh giai cấp, Người vẫn
kiên trì đoàn kết mọi thành phần dân tộc miễn là có lòng yêu nước tham gia
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Chính vì vậy, Người đã bị quốc tế cộng
sản phê bình và khiến cho không thể tham gia lãnh đạo phong trào cách
mạng ở Việt Nam trong giai đoạn 1933-1939. Tuy vậy, cuối cùng Người
vẫn được trở về lãnh đạo cuộc đấu tranh của dân tộc, Người đã khẳng định
được vai trò của vấn đề độc lập dân tộc trong cuộc cách mạng XHCN của
nhân dân các nước thuộc địa.
Tháng 5-1941, trong thư “kính cáo đồng bào”, Người chỉ rõ “trong
lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”, Người khẳng định
độc lập dân tộc là điều kiện then chốt cho cuộc đấu tranh của toàn thể dân
tộc.
Tháng 8-1945, Người đúc kết ý chí đấu tranh cách mạng đang sục sôi
ở trong nước trong câu nói bất hủ: “dù hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả
dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Cách mạng

tháng 8 thành công, ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình
lịch sử, Người thay mặt chính phủ lâm thời long trọng khẳng định trước thế
giới quyền được hưởng nền tự đo độc lập của cả dân tộc Việt Nam. Và
Người cũng khẳng định “Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất
nước, không chịu làm nô lệ”. Người trịnh trọng tuyên bố: “Nước Việt Nam
10


có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc
lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng,
tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Trả lời các nhà
báo nước ngoài tháng 1 năm 1946, Người đã nói: “Tôi chỉ có một sự ham
muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập,
dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành”
Tư tưởng của Người, tấm gương mẫu mực của Người thể hiện qua
câu nói “không có gì quý hơn độc lập tự do”. Độc lập tự do là mục tiêu
chiến đấu là lý tưởng đấu tranh, là nguồn sức mạnh cho ý chí Việt Nam,
tinh thần đấu tranh của dân tộc Việt Nam. Chân lý ấy có giá trị vĩnh hằng
cho mọi dân tộc, mọi quốc gia, trong mọi thời kì lịch sử.
Trong nhiều bài viết của mình, Người khẳng định: “phải tự lực tự
cường trong cuộc đấu tranh có như thế mới có thể giành được thắng lợi”, và
Người đề cao sức mạnh của tinh thần: “muốn lên sự nghiệp lớn, tinh thần
càng phải cao”.
Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, tinh thần tự lực cánh
sinh, dựa vào sức mình là chính luôn được đề cao trong tinh thần của
Người. Trong xây dựng CNXH, Người lại đòi hỏi: “Trước đây nhân dân ta
đã nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, trường kì kháng chiến thì ngày nay
chúng ta cần phải nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, cần kiệm xây dựng
nước nhà”.

Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thực sự
và độc lập hoàn toàn, nghĩa là dân tộc đó phải có đầy đủ chủ quyền quốc
gia trên tất că các lĩnh vực là toàn vẹn lãnh thổ, chứ không phải sự độc lập
giả hiệu, chủ quyền do ngoại bang ban phát, lãnh thổ bị chia cắt. Trong lời
kêu gọi nhân ngày kỉ niệm mùng 2 tháng 9 năm 1948, Người nhấn mạnh:
11


“Chúng ta sẵn sàng hợp tác thân thiện với nhân dân Pháp, chúng ta yêu
chuộng hòa bình. Nhưng chúng ta quyết không chịu làm nô lệ. Chúng ta
quyết kháng chiến đến cùng, tranh cho kì được thống nhất và độc lập, thống
nhất và độc lập thực sự chứ không phải cái thứ thống nhất và độc lập bánh
vẽ mà thực dân vừa thí cho bọn bù nhìn. Thống nhất mà bị chia rẽ thành
“nước Nam Kì”, “nước Tây Kì”, “liên bang Thái”... Độc lập mà không có
quân đội riêng, ngoại giao riêng, kinh tế riêng. Nhân dân Việt Nam quyết
không thèm thứ thống nhất và độc lập giả hiệu ấy”. Độc lập phải được thực
hiện triệt để, mọi vấn đề chủ quyền của dân tộc đều do dân tộc đó tự quyết,
chứ không chấp nhận bất cứ sự can thiệp thô bạo của bất cứ thế lực nào.
Nhưng nói như vậy không có nghĩa độc lập là đóng cửa, là quay lưng
lại với thế giới. Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập không có nghĩa là biệt
lập đứng riêng một mình mà để có thể hợp tác bình đẳng với tất cả các nước
thì cần phải độc lập, tự chủ. Mọi sự giúp đỡ từ bên ngoài để đấu trạnh cho
độc lập tự do đều được hoan nghênh, ghi nhận. Tự lực, tự chủ, tự cường là
biểu hiện của tinh thần yêu nước chân chính, gắn bó mật thiết với tinh thần
quốc tế trong sáng.
Đường lối độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường đã giúp chủ tịch Hồ Chí
Minh chèo lái con thuyền Việt Nam vững vàng trước hai ngọn sóng Xô Trung trong thập niên 60, thời kì mà giữa hai nước Liên Xô, Trung Quốc có
những bất đồng lớn. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam luôn cần đến sự
giúp đỡ, ủng hộ của quốc tế, nhưng Người chỉ rõ, sự nghiệp cách mạng Việt
Nam phải do nhân dân Việt Nam quyết định. Vì chúng ta có thế, có lực thì

bên ngoài mới ủng hộ, giúp đỡ và sự ủng hộ, giúp đỡ đó mới mang lại hiệu
quả.
Trong tư tưởng của Người, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường có mối
quan hệ chặt chẽ với mở rộng hợp tác quốc tế. Người đã từng nói: “nhờ
12


Liên Xô thắng lợi mà những nước thuộc địa như Trung Quốc và những
nước thuộc địa như Triều Tiên, Việt Nam đã đánh được hoặc đang đánh
đuổi bọn đế quốc xâm lăng trả lại tự do, độc lập”. Trên báo L’Humanité
ngày 2/8/2919, Người viết: “Xét về nguyên tắc, tiến bộ chung phụ thuộc
vào sự phát triển chủ nghĩa quốc tế và văn minh chỉ có lợi khi các quan hệ
quốc tế được mở rộng và tăng cường”. Trả lời cho câu hỏi: “khi ngoại
thương của Việt Nam khôi phục thì Việt Nam sẽ giao dịch với những nước
dân chủ nhân dân những gì?” của phóng viên báo Telepress, tháng 3/1949,
Người khẳng định: “Việt Nam sẽ giao dịch với tất cả các nước nào trên thế
giới muốn giao dịch với Việt Nam một cách thật thà.”
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, thắng lợi của cách mạng Việt Nam
cần đến sự ủng hộ quốc tế nhưng không được trông chờ, ỷ lại mà phải tự
lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ
thắng lợi. “Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cáI tiếng. Chiêng có to
thì tiếng mới lớn”. “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân
tộc khác đến giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”. Sự giúp đỡ của
bạn bè là quý báu, chúng ta phải biết ơn sự giúp đỡ đó, song chớ vì bạn
giúp ta nhiều mà trông chờ ỷ lại, mà phải đem sức ta ra mà giải phóng cho
ta.
Theo quan điểm của Người, mở cửa hội nhập kinh tế không chỉ nhằm
mục đích nhận được sự giúp đỡ của bạn bè năm châu, mà thông qua sự giúp
đỡ đó có điều kiện để phát triển những tiềm năng vốn có của Việt Nam.
Muốn vậy phải sử dụng hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài để phát triển

kinh tế xã hội. Người nhắc nhở, các nước bạn giúp ta cũng như thêm vốn
cho ta. Ta phải khéo dùng vốn ấy để bồi bổ lực lượng, phát triển khả năng
của ta, tức là có thêm điều kiện để tự lực cánh sinh. Bởi vậy, Chính phủ
phải có kế hoạch sử dụng hợp lý sự giúp đỡ ấy. Cán bộ ta phải ra sức công
13


tác, phải làm việc tốt với các chuyên gia bạn, học tập kinh nghiệm tiên tiến
của các nước bạn, phải bảo quản và sử dụng tốt những máy móc và vật liệu
các nước bạn đã giúp ta, phải nghiêm khắc chống bệnh quan liêu, lãng phí,
tham ô.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tính đổi mới sáng tạo luôn là một
trong những luận điểm quan trọng. Người đã kết tinh văn hoá phương Đông
với chủ nghĩa Mác Lênin một cách sáng tạo để từ đó vận dụng vào thực tiễn
cách mạng và xây dựng CNXH ở Việt Nam và tạo ra nguồn sức mạnh cho
cả dân tộc. Người đã tích cực chủ động sáng tạo trong nhiều việc làm của
mình để đạt được hiệu quả cao nhất.
Luận điểm về chủ nghĩa thực dân và vấn đề giải phóng dân tộc của
người đã vạch trần những âm mưu, thủ đoạn và tội ác của thực dân Pháp
với các dân tộc thuộc địa, nêu rõ nỗi đau khổ và khát vọng giải phóng của
những người dân mất nước. Đây là luận điểm “có một không hai” mà ở đó,
sự phân tích về chủ nghĩa thực dân đã vượt hẳn những gì mà lý luận mácxít đề cập đến.. Những luận điểm của Người về chủ nghĩa thực dân, đặc biệt
là hình ảnh “con đỉa hai vòi” không chỉ thức tỉnh các dân tộc thuộc địa mà
còn thức tỉnh cả Đảng Công Sản ở chính quốc.
Khi phân tích xã hội của các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh tiếp thu,
vận dụng quan điểm về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác –
Lênin một cách sáng tạo chủ yếu xuất phát từ mâu thuẫn ở các nước thuộc
địa, giữa chủ nghĩa đế quốc, thực dân thống trị, bè lũ tay sai với toàn thể
nhân dân, dân tộc, không phân biệt giai cấp, tôn giáo. Theo Người, ở Việt
Nam cũng như các nước phương Đông, do trình độ sản xuất còn thấp kém

nên sự phân hóa và đấu tranh giai cấp không giống như các nước phương
Tây. Từ đó, Người có quan điểm hết sức sáng tạo là gắn chủ nghĩa dân tộc
chân chính với chủ nghĩa quốc tế, và nêu lên luận điểm: “Chủ nghĩa dân tộc
14


là động lực lớn của đất nước”. Người còn cho rằng, chủ nghĩa dân tộc nhân
danh Quốc tế Cộng sản “là một chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời”.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh
luôn giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. Người
khẳng định, phải đi từ giải phóng dân tộc đến giải phóng giai cấp. Đường
lối cách mạng của Việt Nam là đi từ giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ
dân chủ nhân dân, từng bước tiến lên CNXH; độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH. Động lực cơ bản của toàn bộ sự nghiệp cách mạng đó là đại đoàn
kết toàn dân trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân, trí thức dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Cũng từ luận điểm cơ bản đó mà Người đã có
những phát hiện sáng tạo về Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa nửa
phong kiến, nông dân chiếm đa số; xác định quy luật hình thành của Đảng
là kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào
yêu nước. Đảng vừa đại diện cho lợi ích của giai cấp, vừa đại diện cho lợi
ích của dân tộc.
Xuất phát từ nhiệm vụ cơ bản hàng đầu của cách mạng Việt Nam là
đánh đổ đế quốc, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân, ngay từ
đầu, chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định: phải giành chính quyền bằng bạo
lực, bằng khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng nếu kẻ thù ngoan
cố, không chịu hạ vũ khí. Trên cơ sở kế thừa truyền thống quân sự của dân
tộc, học tập kinh nghiệm hoạt động quân sự của thế giới, tổng kết thực tiễn
đấu tranh vũ trang, chiến tranh cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản, Người đã sáng tạo ra học thuyết quân sự hiện đại của
Việt Nam. Trong đó, nổi bật là quan điểm về chiến tranh nhân dân, chiến

tranh toàn dân, toàn diện, trường kì; về xây dựng lực lượng vũ trang toàn
dân với ba thứ quân chủ lực, địa phương, dân quân tự vệ, về nền quốc
phòng toàn dân, toàn diện, hiện đại...
15


Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, khi cách mạng vô sản
thắng lợi, giai cấp vô sản sẽ thiết lập nền chuyên chính vô sản. Vận dụng
sáng tạo quan điểm đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí
Minh cho rằng, chúng ta phải căn cứ vào trình độ chính trị, kinh tế xã hội
của đất nước mà đề ra đường lối, chiến lược cách mạng phủ hợp, “chứ
không phải nước nào cũng phải làm cách mạng vô sản, lập chuyên chính
như nhau”. Vì vậy, ngay từ chính cương vắn tắt (1930), Người đã nêu:
Thiết lập chính phủ công nông binh, tổ chức ra quân đội công nông. Tại hội
nghị Trung ương VIII tháng 5-1941, Người đề ra chủ chương thành lập
“một nước Việt Nam dân chủ mới theo tinh thần tân dân chủ. Chính quyền
cách mạng của nước dân chủ ấy không phải thuộc quyền riêng giai cấp nào,
mà của chung toàn thể dân tộc”.
Trong công cuộc xây dựng CNXH, Người luôn phê phán tính rập
khuôn máy móc, xa rời thực tiễn. Người đề cao thực tiễn và việc bám sát
thực tiễn, bằng chứng là trong những năm làm chủ tịch nước, Người luôn
theo dõi sát sao chỉ đạo cán bộ và thường xuyên thăm hỏi nhân dân để nắm
bắt tình hình nhân dân. Người có nhiều bài viết đề cao vai trò của việc
thường xuyên đổi mới lề lối làm việc của cán bộ Đảng viên. Người nhấn
mạnh vai trò của việc đổi mới trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Không thể cứ rập nguyên xi mô hình của Liên Xô, Trung Quốc vào
Việt Nam. Người đã nhiều lần khẳng định: chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
khác với Liên Xô cũng như Trung Quốc bởi điều kiện ở Liên Xô và Trung
Quốc là khác với Việt Nam. Người chỉ rõ bản chất của cuộc cách mạng
XHCN ở Việt Nam là: “Đánh thắng lạc hậu và bần cùng, để xây dựng hạnh

phúc muôn đời cho nhân dân ta, cho con cháu ta.” Đặc điểm lớn nhất của
thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta là: “từ một nước nông nghiệp lạc hậu
tiến thẳng lên CNXH không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
16


nghĩa.” Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng
nền tảng vật chất và kĩ thuật của CNXH, có công nghiệp và nông nghiệp
hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến.
Trong thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam hiện nay, tư tưởng Hồ
Chí Minh vẫn luôn soi đường chỉ lối cho Đảng, cho nhân dân trên mọi lĩnh
vực. Qua nửa thế kỉ giành và giữ nền độc lập, xây dựng CNXH và bảo vệ
Tổ quốc, đặc biệt qua hơn 20 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
xứng đáng là hình ảnh tiêu biểu cho bản lĩnh Việt Nam trong việc giữ vững
định hướng XHCN, đã tỏ rõ tính độc lập tự chủ trong mọi đường lối, chính
sách đưa đời sống nhân dân ngày một cao hơn, đưa đất nước và dân tộc lên
một vị thế mới trong khu vực và trên thế giới.
Từ những gì chúng ta phân tích, soi chiếu vào công cuộc đổi mới mà
dân tộc ta đang thực hiện, chúng ta cần nhận ra nhiều bài học.
Thứ nhất là luôn đề cao tinh thần độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH, giữ vững nền độc lập dân tộc mà chúng ta đã phải đánh đổi bằng
máu xương. Khẳng định độc lập dân tộc là điều kiện then chốt cho mọi
hành động của dân tộc, đồng thời hướng đi của dân tộc là đi tới CNXHmột xã hội thật sự tốt đẹp, công bằng, dân chủ, văn minh, không có người
bóc lột người.
Mặc dù hiện nay, CNXH thế giới, sau những biến động khủng hoảng,
sụp đổ, đã có nhiều dấu hiệu phát triển tích cực, song các thế lực thù trong,
giặc ngoài vẫn đang ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây
bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”,
“tôn giáo”...hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong đó, ngay cả
một bộ phân nhân dân ta, trong đó có cả những cán bộ, đảng viên, đứng

trước những khó khăn trong thời kì quá độ lên CNXH, trước những tác
17


động tiêu cực của cơ chế thị trường kết hợp vời sự chống phá nham hiểm
của kẻ thù, đã đánh mất phương hướng chính trị, dao động về lập trường tư
tưởng. Những diễn biến phức tạp của tình hình đòi hỏi mỗi cán bộ Đảng
viên đều phải có lập trường chính trị vững vàng, xác định rõ con đường
chúng ta đang đi là con đường tiến lên CNXH để từ đó vững bước trên con
đường mà Đảng, Bác và nhân dân ta đã chọn. Đảng ta cần phải có kế hoạch
tăng cường công tác an ninh quốc phòng kết hợp với giáo dục ý thức cách
mạng và bảo vệ tổ quốc, song song với đó là phải nâng cao dân trí và nhận
thức của người dân, phát triển toàn diện về kinh tế, văn hóa, xã hội, đặc biệt
là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số, nơi mà các
thế lực phản cách mạng luôn hướng tới lợi dụng dân trí thấp và địa bàn khó
khăn để chống phá công cuộc xây dựng XHCN ở nước ta. Từ đó, ta tạo ra
một vị thế chắc chắn, vững vàng trên con đường mà ta đã, đang và sẽ đi.
Độc lập dân tộc và CNXH với Việt Nam không chỉ là mục tiêu, là
cương lĩnh hành động, là ngọn cờ hiệu triệu và còn là động lực, là niềm tin
sắt son của cả dân tộc. Thế kỉ XXI mở đầu thiên niên kỉ thứ ba của một thế
giới đầy biến động, đồng thời cũng mở ra một kỉ nguyên hội nhập, đua
tranh gay gắt của cộng đồng quốc tế. Dù thời cuộc biến đổi, dù phải đối mặt
với xu thế toàn cầu hóa với tất cả các mặt tích cực và tiêu cực, cho dù ai đó
bị lóa mắt bởi vẻ ngoài hào nhoáng của chủ nghĩa tư bản thì hệ giá trị ấy,
độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, trong ý thức và trong mọi hành động
vẫn là mục tiêu, là quốc bảo phù hợp với xu thế thời đại. Độc lập dân tộc
gắn với CNXH là sự gắn kết hai sức mạnh thành một sức bật mới, là cội
nguồn thắng lợi của cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và mã mãi về
sau.
Thứ hai, luôn đề cao tính độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường trong việc

xây dựng đất nước, không ỷ lại vào sự trợ giúp từ bên ngoài, không nên vì
18


nhận được sự trợ giúp mà quên đi việc phải tự chủ động tích cực của mình
trong việc xây dựng công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ, tự lực, tự
cường, Đại hội X đã xác định: “phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ
tối đa ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều
kiện mới”; “thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại tự chủ, hòa bình, hợp
tác và phát triển... Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong
cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và trong
khu vực”. Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chúng
ta phải chủ động tích cực hội nhập kinh tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại đi đôi với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, phát huy tối đa nội
lực. Hợp tác quốc tế để một mặt học hỏi về khoa học công nghệ hiện đại và
kinh nghiệm quản lý của các nước phát triển, chia sẻ khó khăn, giúp đỡ các
nước còn lạc hậu, mặt khác để tăng cường tình hữu nghị, tranh thủ sự đồng
tình, ủng hộ của các nước bạn trong công cuộc xây dựng CNXH, đảm bảo
quyền độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Và thứ ba là bài học của việc luôn tích cực đổi mới sáng tạo. Trước
hết là đổi mới trong từng cá nhân, từng cách suy nghĩ. Học theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi người dân, học sinh, sinh
viên đều phải có ý thức không ngừng học hỏi, tu dưỡng đạo đức, liên tục
làm mới mình cả về mặt trí dục lẫn đức dục. Hiện nay, vẫn tồn tại một bộ
phận cán bộ, đảng viên không chịu học tập, rèn luyện mà quay về những hủ
tục mê tín dị đoan, rượu chè cờ bạc, xa hoa lãng phí, tham ô, đạo đức suy
thoái. Họ đã nêu tấm gương xấu làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, làm
sa sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Mỗi cá nhân, mỗi
cơ quan, mỗi cấp, mỗi ngành đều phải tăng cường công tác kiểm tra giám

sát, tự phê bình và phê bình, kiên quyết bài trừ cái xấu, xử lí nghiêm minh
19


những trường hợp vi phạm đạo đức cách mạng, làm trong sạch bộ máy Nhà
nước.
Chúng ta đang xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa bỏ qua giai
đoạn tư bản chủ nghĩa, cộng thêm hậu quả nặng nề của chiến tranh nên vẫn
còn khá lạc hậu so với các nước trên thế giới, đặc biệt là so với các nước tư
bản chủ nghĩa. Vì vậy, chúng ta một mặt phải chủ động học hỏi từ các nước
phát triển về khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý, mặt khác, nhìn vào
những sai lầm thiếu sót của các nước và của chính mình, áp dụng một cách
sáng tạo vào tình trong nước để phát triển kinh tế, chính trị, khoa học kĩ
thuật. Về văn hóa, trong xu thế hội nhập, chúng ta cần phải học tập những
nét văn hóa tiến bộ trên cơ sở gìn giữ và phát huy truyền thống văn hóa lâu
đời của dân tộc, “hòa nhập nhưng không hòa tan”.
Chúng ta đã trải qua những sai lầm trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, trong việc bao cấp rập khuôn, quan liêu. Nhưng nhờ sự sáng
tạo và chủ động đổi mới mà giờ chúng ta mới có kết quả như ngày hôm
nay. Chính vì thế cần phải ra sức hơn nữa, sáng tạo đổi mới liên tục để có
thể hoà nhập vào nhịp vận động phát triển của nhân loại, từ đó tạo ra bước
phát triển tiến lên cho toàn dân tộc, vững bước trên con đường tiến lên
CNXH, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trải qua bao biến động, lịch sử đã chứng minh tư tưởng Hồ Chí
Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc về cách mạng và công
cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam. Những lý luận của Người luôn là ngọn
đèn soi sáng cho chúng ta trên con đường xây dựng một xã hội XHCN qua
mọi thời đại và sẽ còn sống mãi trong sự nghiệp vủa mỗi chúng ta.

20




×