A. LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một chiến sĩ cách mạng quốc tế, anh hùng giải
phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng
của chủ tịch Hồ Chí Minh phong phú như một huyền thoại đầy sức hấp dẫn
được nhân dân ta và bạn bè quốc tế ngưỡng mộ kính yêu. Người đã để lại cho
chúng ta một di sản tinh thần vô cùng quý giá và ở phương diện nào đó Bác
cũng để lại những bài học giản dị mà sâu sắc.
Trong tâm khảm của mọi người dân Việt Nam và những người tiến bộ trên
toàn thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một lãnh tụ vĩ đại, một nhà tư tưởng lớn,
một anh hùng giải phóng dân tộc, một danh nhân văn hóa kiệt xuất. Cuộc đời
hoạt động cách mạng của Người đã để lại dấu ấn không thể phai mờ trong quá
trình phát triển của nhân loại, góp phần vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là
một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mac_Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư
tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc
lập dân tộc gắn liền với CNXH, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại; về sức mạnh nhân dân của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của
nhân dân…”.
Trải qua bao thăng trầm lịch sử, từ thời kỳ kháng chiến chống giặc ngoại
xâm cho đến khi nước nhà hoàn toàn độc lập thống nhất, xây dựng CNXH, tư
tưởng Hồ Chí Minh vẫn luôn là ngọn đuốc soi sáng cho bao thế hệ dân tộc Việt
Nam.
1
Trong xu thế hội nhập toàn cầu tình hình chính trị quốc tế và trong nước có
nhiều biến động phức tạp và nhạy cảm. Đảng và nhà nước ta vẫn kiên định lập
trường và khẳng định chủ nghĩa Mac_Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền
tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh
đã dẫn dắt dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác và tiếp tục có ý nghĩa
quyết định sự phát triển của cách mạng nước nhà. Xuyên suốt tư tưởng của
Người là tư tưởng: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, tinh thần độc
lập, tự chủ, tự lực tự cường, đổi mới và sáng tạo”. Vì vậy trong bài diễn văn tại
lễ kỷ niệm 105 năm ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Người là
hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, là mẫu
mực của tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, đổi mới và sáng tạo”. Dưới
đây là bài phân tích và chứng minh nhận định trên cùng với thực tiễn Việt Nam
về tư tưởng đó.
Tuy đã có nhiều cố gắng nhưng bài viết không thể tránh khỏi những sai
lầm và thiếu sót, rất mong cô giáo và các bạn góp ý để bài viết được hoàn thiện
hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
2
3
B. NỘI DUNG
I. Hồ Chí Minh là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn
liền với CNXH, là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường,
đổi mới và sáng tạo
1. Cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH
1.1 Cơ sở hình thành tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH
Trong lịch sử phát triển, nhân loại đã sản sinh ra biết bao giá trị cao đẹp,
nhưng cũng gây ra không ít những hậu quả tai hại. Chủ nghĩa thực dân là một
trong những hậu quả tai hại nhất của nhân loại, “Nó đem xiềng xích, áp bức, đói
nghèo, ngu dốt, bệnh tật…đè nặng lên số phận các dân tộc nhược tiểu”. Vì vậy
trong thế kỷ XX, việc giành độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là khát vọng
cháy bỏng của dân tộc thuộc địa bị áp bức và Hồ Chí Minh là biểu tượng của
khát vọng đó.
Ở Việt Nam vào năm 1858, thực dân Pháp đã nổ súng xâm lược nước ta.
Để giữ ngai vàng của mình, triều đình nhà Nguyễn đã từng bước chấp nhận sự
bảo hộ của Pháp; và đến năm 1884 với hiệp ước Patonot ( 6/ 6 / 1884 ) Việt
Nam từ một quốc gia phong kiến độc lập trở thành thuộc địa nửa phong kiến.
Phát huy chủ nghĩa yêu nước và giá trị truyền thống Việt Nam, nhân dân
ta từ Bắc chí Nam đã liên tục nổi dậy chống thực dân Pháp, tiêu biểu là cuộc
khởi nghĩa của Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám ( miền Bắc ), Nguyễn
Xuân Ôn, Phan Đình Phùng ( ở miền Trung ), và Trương Công Định, Nguyễn
Trung Thực ( ở miền Nam ).Trong những thập niên đầu thế kỉ XX, có các phong
trào đấu tranh chống thực dân Pháp như: Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Việt
Nam Quang phục hội, khởi nghĩa Yên Bái…Tất cả các cuộc khởi nghĩa và
phong trào đấu tranh này đã gây ra cho thực dân Pháp những tổn thất, khó khăn
nhất định nhưng cuối cùng đều thất bại chứng tỏ rằng, những con đường giải
4
phóng dân tộc dưới ngon cờ tư tưởng phong kiến hoặc tư tưởng tư sản là không
đáp ứng được yêu cầu khách quan là giành độc lập, tự do của dân tộc do lịch sử
đặt ra. Hồ Chí Minh đã rất khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng
Người không tán thành các con đường cứu nước ấy, mà quyết tâm ra đi tìm một
con đường cứu nước mới.
Trên con đường cứu nước, cứu dân, Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở chủ nghĩa
Mac_Lênin
Con đường mới của cách mạng Việt Nam. Người khẳng định: “Muốn cứu nước
và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản…”_Đó chính là con đường “Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH”.
Con đường “Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH” của Hồ Chí Minh khác
về cơ bản với con đường giải phóng dân tộc của những người đi trước. Con
đường giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh phản ánh đúng yêu cầu, tất yếu của
cách mạng và dựa trên chủ nghĩa Mac_Lênin gắn liền với tiến bộ xã hội nên nó
là con đường duy nhất đúng đắn và tất yếu giành thắng lợi.
1.2 Mối quan hệ biện chứng của “Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH”
+ Độc lập dân tộc là mục tiêu trước mắt, là tiền đề và điều kiện tiên quyết để
xây dựng CNXH.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc là sự tồn tại và phát triển của dân tộc
trong đó bảo đảm sự thống nhất chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Người đã từng khẳng định: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một,
sông có thể cạn, núi có thể mòn; song chân lý ấy không bao giờ thay đổi. Độc
lập dân tộc gồm sự độc lập và tự chủ trong việc lựa chọn con đường phát triển
và tự mình quyết định vận mệnh của dân tộc mình trong quan hệ hợp tác bình
đẳng với các quốc gia, dân tộc khác; không lệ thuộc, phụ thuộc vào bất cứ nước
nào, dân tộc nào”. Vì vậy độc lập dân tộc nhất thiết phải là độc lập về kinh tế và
chính trị, đó là cơ sở bảo đảm cho độc lập về văn hóa, cho việc bảo tồn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc khi tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
5
Độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn với dân chủ, tự do, bình đẳng và hạnh
phúc. Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Tất cả dân tộc trên thế giới sinh ra đều có
quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, được sung sướng và quyền tự
do_đó là những quyền chính đáng và không ai có thể xâm phạm được”. Người
đã chỉ rõ: “Nếu nước được độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc,
tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Với những nội dung cơ bản như trên, độc lập dân tộc là mục tiêu trước
mắt của cách mạng và trở thành tiền đề, điều kiện không thể thiếu để xây dựng
CNXH.
+ CNXH là con đường bảo vệ một cách chắc chắn và phát triển có hiệu quả
những thành tựu của độc lập dân tộc.
Chủ nghĩa xã hội thực hiện độc lập dân tộc để mở đường đưa dân tộc tới
sự phát triển phồn vinh về kinh tế, sự phát triển phong phú đa dạng về văn hóa,
tinh thần, sự thực hiện đầy đủ nhất quyền lực của nhân dân. Chỉ với chủ nghĩa
xã hội, độc lập dân tộc mới đạt tới chân giá trị của nó ở chỗ nó hướng tới phục
vụ lợi ích và quyền lực của mọi người lao động, làm cho mọi thành viên của
cộng đồng dân tộc trở thành người chủ thực sự có cuộc sống vật chất ngày càng
đầy đủ và cuộc sống tinh thần ngày càng phong phú. Chính điều đó làm cho nền
tảng của sự độc lập tự chủ càng thêm vững chắc, khả năng bảo vệ nền độc lập
dân tộc càng đầy đủ và mạnh mẽ. Như Hồ Chí Minh đã nói CNXH là một xã hội
“Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”.
Với những đặc trưng như trên, CNXH không chỉ bảo vệ vững chắc thành
quả độc lập dân tộc mà về cơ bản tạo nên sự phát triển mới về chất của nó. Hoàn
toàn có thể nói rằng: “Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH” là chân lý không thể
chối bỏ, không có độc lập dân tộc không thể có CNXH. Độc lập dân tộc là tiền
đề, là điều kiện tiên quyết và căn bản để xây dựng thành công CNXH. CNXH là
sự bảo đảm chắc chắn nhất, bền vững nhất cho độc lập dân tộc.
6
1.3 Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH qua các
thời kỳ
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
xuất hiện từ năm 1920, khi Người bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin, và nó được thể
hiện rõ nét từ năm 1930. Sự thể hiện tư tưởng của Người về độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội có thể phân thành 3 thời kỳ chủ yếu.
+ Thời kỳ 1930 – 1945: Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội của Hồ Chí Minh thời kỳ này thể hiện rõ trong những Văn kiện do Hồ Chí
Minh soạn thảo được Hội nghị hợp nhất thông qua. Chính cương vắn tắt của
Đảng chỉ rõ Đảng chủ trương “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội xã hội cộng sản”. Hồ Chí Minh khẳng định sự nghiệp giải
phóng dân tộc ở Việt Nam được thực hiện bằng con đường cách mạng vô sản:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản”. Điều đó có nghĩa là, cách mạng Việt Nam phải trải
qua hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng XHCN.
+ Thời kỳ 1945 – 1954: Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền
với CNXH được thể hiên cụ thể ở đường lối “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”,
“kháng chiến đi đôi với kiến quốc”. Kháng chiến để bảo vệ độc lập dân tộc còn
kiến quốc để củng cố nhà nước dân chủ nhân dân xây dựng cơ sở đầu tiên của
CNXH.
+ Thời kỳ 1954 – 1969: Ở thời kỳ này độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện qua chủ trương: một Đảng Cộng sản
lãnh đạo thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược ở hai miền: xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam,
tiến tới thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một
sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh.
7