Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

HCM người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ tự lực tự cường, đổi mới và sáng tạo (17)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.4 KB, 18 trang )

I. Lời mở đầu
Hồ Chí Minh (19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969) là một nhà
cách mạng, một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu
tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam. Ông là người viết và
đọc bản Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam khai sinh nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, là Chủ
tịch nước trong thời gian 1945 – 1969, Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Lao Động Việt Nam trong thời gian 1951 – 1969, kiêm Tổng Bí thư
Ban chấp hành Trung ương Đảng từ 10/1956 đến 1960. Là nhà lãnh đạo được
nhiều người ngưỡng mộ và tôn sung,một vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của
dân tộc. Người _ sinh ra và lớn lên khi nhân dân Việt Nam đang rên xiết dưới
ách thống trị tàn bạo, hà khắc của thực dân Pháp. Lựa chọn một con đường đi
đúng, Người đã giành cả cuộc đời mình để kiên trì thực hiện hoài bão: Độc
lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân. Mang trong mình chủ nghĩa
nhân đạo sâu sắc, Người còn khởi xướng cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc
ở các nước thuộc địa trong thế kỷ XX, hết lòng, hết sức đóng góp cho một
tình đoàn kết quốc tế trong sáng, cho nền hoà bình và hữu nghị giữa các dân
tộc trên thế giới.
Hồ Chí Minh là một trong những vĩ nhân của thế kỷ XX, là hình mẫu cao
đẹp nhất của sự kết hợp truyền thống văn hiến của dân tộc với tinh hoa văn
hoá của nhân loại. Kế thừa những tư tưởng đạo đức truyền thống như cần cù,
giản dị, gắn kết cộng đồng, yêu thương con người, sự tu dưỡng đạo đức cá
nhân, v.v... Hồ Chí Minh đã nâng những đức tính quý báu đó lên một tầm cao
mới dưới ánh sáng tư tưởng đạo đức học của chủ nghĩa Mác-Lênin. Trong
hành trình hoạt động cách mạng để thực hiện hoài bão của mình, Hồ Chí
Minh là một trong những vị lãnh tụ cộng sản có điều kiện được đi nhiều nơi
trên thế giới và từ những khảo nghiệm thực tiễn đó, Người đã không chỉ làm
giàu tri thức cho bản thân mình, mà còn thâu thái được những tinh hoa của tư
tưởng đạo đức phương Tây. Đồng thời, từ những hoạt động thực tiễn, Người
cũng nhận thức được rằng: Trước thời đại cách mạng vô sản, các học thuyết
đạo đức, dù đã nói nhiều về lòng yêu thương con người, tôn trọng con người,


nhưng vẫn còn tồn tại những hạn chế. Vào những năm 20 của thế kỷ XX, khi

1


đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, trở thành một người cộng sản, hướng con
đường cứu nước của mình theo con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh
đã nhận thức được sự vĩ đại của chủ nghĩa quốc tế vô sản trong lý tưởng và
tấm gương đạo đức của những người cộng sản (Lênin). Từ đó, Người đã dành
trọn tâm huyết của mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng nhân loại của một người cộng sản chân chính.
Trong diễn văn tại lễ kỷ niệm 105 năm ngày sinh Chủ Tịch Hồ Chí
Minh có viết : “Người là hiện than sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chụ tự
lực tự cường , đổi mới và sang tạo. Phân tích, tìm hiểu và vận dụng thực
tiễn ở nước ta” Để làm rõ nhận định trên chúng ta cùng phân tích và tìm hiểu
thực tiễn ở việt nam hiện nay với tư tưởng đó của Người

2


II. Nội dung
1.Phân tích và chứng minh nhận định : Hồ Chí Minh - Người là hiện
than sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là
mẫu mực của tinh thần độc lập tự chụ tự lực tự cường , đổi mới và sang tạo.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị
đặc sắc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt và bao trùm trong di sản tư tưởng Hồ
Chí Minh.
"Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên
suốt quá trình cách mạng của nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết

để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc
cho độc lập dân tộc”. Nhìn ra bên ngoài và nhìn lại lịch sử Việt Nam trong thế
kỷ XX vừa qua, chúng ta càng thấy rằng sự lựa chọn của Bác Hồ hoàn đúng.
Như chúng ta đã biết, dân tộc ta có truyền thống yêu nước, anh dũng bất
khuất, đã từng chiến thắng nhiều đế quốc phong kiến hung hãn. Từ khi thực
dân Pháp xâm lược nước ta, phong trào yêu nước đã dấy lên hết sức mạnh mẽ.
Liên tiếp nổ ra các cuộc nổi dậy trên khắp mọi miền đất nước thu hút đông
đảo các tầng lớp nhân dân, các bậc sĩ phu, kể cả một bộ phận quan lại phong
kiến. Các phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế; các phong trào Duy
Tân, Đông Du, khởi nghĩa Yên Bái và hàng chục cuộc đấu tranh khác nữa đều
bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp và thất bại. Điều đó chứng tỏ rằng, vẫn là
nhân dân giàu lòng yêu nước, có truyền thống chống giặc ngoại xâm, sẵn sàng
ủng hộ và tham gia các phong trào yêu nước; còn các bậc sĩ phu, các nhà lãnh
đạo các phong trào chống thực dân Pháp đều có thừa trí dũng, không thiếu
quyết tâm nhưng họ, cả giai cấp phong kiến và đại diện cho chế độ phong
kiến, cả giai cấp tư sản và đại diện cho thế lực tư sản khi đó đều không giải
quyết được vấn đề độc lập dân tộc ở nước ta. Trong bối cảnh đó, chưa bao giờ
như lúc bấy giờ, độc lập dân tộc càng trở nên là yêu cầu cơ bản, cấp bách.
Công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam khi ấy ở trong “tình hình đen tối như
không có đường ra”. Bằng con đường nào và giai cấp nào có khả năng gánh
vác sứ mệnh trọng đại đó?
Nhưng rồi chính lịch sử có lời giải đáp. Chủ nghĩa Mác ra đời đã vạch ra cái
tất yếu từng bị che lấp bởi màn sương mù trong lịch sử. Chủ nghĩa Mác khẳng
3


định chủ nghĩa tư bản nhất định bị thay thế bằng một chế độ tốt đẹp hơn - chế
độ cộng sản chủ nghĩa không có người bóc lột người. Và người đào huyệt
chôn chủ nghĩa tư bản chính là giai cấp công nhân - sản phẩm của nền đại
công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Đó là một tiếng sét trong lòng chủ nghĩa tư bản

ở vào thời thịnh trị, sau khi nó chiến thắng các chế độ chuyên chế phong kiến
và đã bành trướng ra khắp thế giới, chi phối mọi mặt đời sống xã hội loài
người. Chính vào thời điểm ấy Cách mạng Tháng Mười đã nổ ra, mở đầu cho
một xu thế mới của lịch sử thế giới, tạo ra phản ứng dây chuyền của hàng loạt
cuộc đấu tranh giải phóng có quy mô to lớn và chiều sâu cách mạng chưa
từng thấy trong lịch sử nhân loại.
Toàn bộ tình hình đó của thế giới, bằng nhiều con đường, dội vào và thấm sâu
trong mảnh đất Việt Nam – nơi mà chính “sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã
chuẩn bị đất rồi; chủ nghĩa cộng sản chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt của
công cuộc giải phóng nữa thôi”. Nguyễn Ái Quốc là người gieo hạt, gây mầm
cách mạng Việt Nam. Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa
xã hội. Vời kỳ công của Nguyễn Ái Quốc, chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với
phong trào yêu nước và phong trào công nhân Việt Nam chuyển hóa thành
một tất yếu đưa đến một sự kiện trọng đại: năm 1930, Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời. Sự kiện này là mốc son đánh dấu sự kết hợp các nhân tố dân tộc
và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong bản
chất của Đảng.

. Tư tưởng đặc sắc ấy thể hiện nhất quán mục tiêu của con đường cách
mạng mà Người đã lựa chọn, nó vừa đáp ứng được yêu cầu bức xúc của dân
tộc và khát vọng của quần chúng nhân dân giành lấy độc lập, tự do, ấm no và
hạnh phúc, giải phóng cuộc đời lầm than, đói khổ dưới ách thống trị tàn bạo
của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và bè lũ tay sai. Tư tưởng ấy đã đưa dân tộc
ta đến độc lập, tự do, nước nhà Bắc – Nam thống nhất và ngày nay, đó là
nguồn sức mạnh trong sự nghiệp xây dựng một xã hội Việt Nam mới xã hội
chủ nghĩa: dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc trong thời đại cách mạng vô
sản được thể hiện trên những luận điểm cơ bản sau đây:

4



Một là, độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của các
dân tộc.
Lịch sử Việt Nam là lịch sử không ngừng đấu tranh dựng nước và giữ
nước. Tinh thần yêu nước luôn luôn đứng ở hàng đầu trong bảng giá trị tinh
thần truyền thống Việt Nam. Đối với một người dân mất nước, cái quý nhất
trên đời là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân. Như Hồ Chí Minh đã
từng nói: "Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc
tôi được độc lập...". Hồ Chí Minh là người đã đưa ra chân lý bất hủ, có giá trị
cho mọi thời đại: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Đó không chỉ là lý
tưởng mà còn là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh, là lý do
chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng, nguồn động viên đối với
các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Hai là, kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế.
Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực lớn của đất
nước. Xuất phát từ vị trí của người dân thuộc địa mất nước, từ truyền thống
dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa
yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính, coi đó là một động lực lớn mà
những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, không để rơi vào tay giai
cấp nào khác, phải nhận thức và giải quyết trên lập trường của giai cấp vô sản.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng này vừa phản ánh
quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách
mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng
dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Đến Hồ
Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã phát triển thành chủ nghĩa yêu
nước hiện đại, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc. Hồ
Chí Minh đã khẳng định: Quyền tự do, độc lập là quyền bất khả xâm phạm

của các dân tộc, "dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do". Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ
đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập của tất

5


cả các dân tộc bị áp bức. Chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn luôn thống nhất
với chủ nghĩa quốc tế trong sáng ở Hồ Chí Minh.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc
sắc của Hồ Chí Minh. Bởi lẽ, Người đã vượt qua giới hạn của những nhà yêu
nước đương thời và phát hiện ra con đường cứu dân, cứu nước. Chúng ta tự
hào với lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh kiên cường và bền bỉ để giữ vững
độc lập dân tộc của dân tộc ta. Khi nước nhà bị bọn xâm lược giầy xéo thì dân
tộc không có khát vọng nào cao hơn là giành độc lập dân tộc. Nhưng chúng ta
vẫn biết là không phải bất cứ lúc nào những người con yêu nước của dân tộc
cũng tìm thấy cho mình con đường cứu dân, cứu nước đúng đắn. Thực tiễn
khi thực dân Pháp xâm lược nước ta cho đến những năm đầu của thế kỷ XX
cho thấy, nhân dân ta, các thế hệ nối tiếp nhau đứng lên, mong đánh đuổi thực
dân Pháp, giành lại non sông đất nước. Song do chưa có đường lối đúng đắn
như con đường “Tây du” và “Đông du” của các cụ Phan khởi xướng, do ngọn
cờ tư tưởng phong kiến đã lỗi thời, nên các phong trào, các cuộc khởi nghĩa
yêu nước lần lượt thất bại, quần chúng cách mạng bị dìm trong biển máu. Sự
thể đau lòng đến nỗi nhà yêu nước Phan Bội Châu buông lời: “Trăm lần thất
bại chưa có một lần thành công”. Sinh ra trong cảnh nước mất, nhà tan, người
thanh niên Nguyễn Tất Thành sau nhiều trăn trở đã ra đi tìm đường cứu nước
vào năm 1911. Sau hơn 10 năm lăn lộn, qua nhiều nước để tìm tòi và thử
nghiệm, Người đã đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với tư tưởng Cách
mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Người cho rằng phải học tập cách mạng Nga,
khi được tiếp xúc: “Bản luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của

Lênin, Người đã sung sướng nói to lên: “Hởi đồng bào bị đọa đày đau khổ!
Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!” (1).
Vậy là, từ lòng yêu nước, thương dân thúc giục Người ra đi tìm đường cứu
nước, cứu dân thì đến với Cách mạng tháng Mười và chủ nghĩa Lê-nin, Người
đã tìm thấy ở đó con đường cứu nước, cứu dân và giải phóng lao động và quả
quyết: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản”(2).

(
(

6


Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc
sắc của Hồ Chí Minh còn thể hiện ở tư duy sáng tạo độc đáo của Người đối
với Chủ nghĩa Mác – Lênin về tiến trình, logic phát triển của cách mạng vô
sản ở Việt Nam. Lựa chọn con đường cách mạng vô sản là sự thống nhất giữa
điều kiện khách quan với nhận thức và hoạt động chủ quan của Hồ Chí Minh.
Đó là sự gặp gỡ của thời đại và Hồ Chí Minh, đồng thời cũng là đóng góp to
lớn nhất của Người với thời đại, đặc biệt là đối với các nước thuộc địa và phụ
thuộc. Đi theo con đường cách mạng vô sản, cách mạng giải phóng dân tộc
khỏi ách nô dịch của chủ nghĩa thực dân, giải phóng quần chúng lao động
khỏi áp bức bóc lột và đi đến mục tiêu cao cả của chủ nghĩa cộng sản là giải
phóng con người. Thực hiện thắng lợi mục tiêu ấy thuộc về sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân Việt Nam.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội diễn ra trong suốt quá trình
cách mạng, ở mỗi giai đoạn của cách mạng; thống nhất ở mục tiêu trước mắt
cũng như lâu dài. Bởi vì, đối với một dân tộc đã phải trải qua một ngàn năm
đô hộ của phong kiến phương Bắc và gần một trăm năm dưới gót sắt của chủ

nghĩa thực dân thì khát vọng cao nhất và trực tiếp nhất là giành độc lập dân
tộc, giải phóng dân tộc. Nhưng để có độc lập thực sự cho dân tộc phải đi lên
chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng, là điều kiện đảm bảo cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc cho nhân dân, là nhân tố đảm bảo vững chắc của nền độc lập
dân tộc. Hồ Chủ Tịch đã từng nói : “Nhưng nếu nước được độc lập mà dân
không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” (3). Và
“Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc
đủ”(4). Như thế nghĩa là cách mạng Việt Nam phải hướng tới mục tiêu giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người thoát khỏi mọi áp
bức, bóc lột và bất công, tiến tới một xã hội “trong đó sự phát triển tự do của
mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” (5). Chính
vì vậy, trong “Chính cương vắn tắt”, Người chủ trương tiến hành tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
(
(
(

7


Tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng hay là cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân và ngay trong cách mạng ấy, Người cũng xác định cần
phải giải quyết hai nội dung cơ bản đó là : độc lập dân tộc và dân chủ nhân
dân. Trong đó độc lập dân tộc là nhu cầu bức thiết cần phải tập trung sức lực
giải quyết. Bởi mâu thuẫn giữa đế quốc xâm lược với nhân dân ta mà đông
đảo là công nhân và nông dân là mâu thuẫn bao trùm lên tất cả, còn phong
kiến chỉ là tay sai và chịu sự chi phối của thực dân đế quốc. Mâu thuẫn này
nổi lên sâu sắc, gay gắt, đòi hỏi phải giải quyết. Ngay từ khi thực dân Pháp

xâm lược nước ta, nhiệm vụ giải phóng dân tộc chống thực dân Pháp và tay
sai đã là sự nghiệp nổi lên hàng đầu của nhân dân Việt Nam, cách mạng Việt
Nam. Đặt lên hàng đầu nhiệm vụ giải phóng dân tộc không có nghĩa là coi
nhẹ vấn đề giai cấp, coi nhẹ chủ nghĩa xã hội. Trái lại, Người luôn quan niệm
độc lập dân tộc là mục tiêu trước tiên phải giành được để tiến lên chủ nghĩa
xã hội. Tuy trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nhất là ở giai đoạn
đấu tranh giành chính quyền, chủ nghĩa xã hội mới chỉ là mục tiêu, nhưng nó
chỉ rõ phương hướng đi lên của cách mạng Việt Nam – một cuộc cách mạng
do giai cấp công nhân Việt Nam thông qua đội tiên phong của nó là Đảng
Cộng sản lãnh đạo. Chính vì vậy, sau mỗi bước thắng lợi của cách mạng giải
phóng dân tộc, Người luôn quan tâm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xây
dựng lực lượng cách mạng đi đôi với củng cố chính quyền cách mạng. Đường
lối vừa kháng chiến, vừa kiến quốc thực sự đóng vai trò to lớn vào sự nghiệp
giải phóng dân tộc và tạo lập chế độ mới trong cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân. Đường lối đó là cơ sở cho tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến
lược cách mạng, cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam và cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc giai đoạn 1954-1975, cũng như thực hiện hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc trên phạm vi cả
nước hiện nay.
Tư tưởng của Người còn sâu sắc ở chỗ, độc lập dân tộc không chỉ là
khẩu hiệu mà phải độc lập thực sự, phải gắn liền với thống nhất tổ quốc. Độc
lập bao giờ cũng gắn liền với tự do dân chủ và ấm no hạnh phúc của nhân
dân, nhất là đối với một nước thuộc địa, nửa phong kiến có trên 90% là nông
dân. Dân chủ trước hết lúc này là phải giành lại ruộng đất cho dân cày và xác
định quyền làm chủ của nông dân trên đồng ruộng của họ. Độc lập dân tộc và
8


dân chủ là hai mục tiêu cơ bản, hai nội dung lớn mà cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân phải thực hiện. Hai nội dung đó quan hệ chặt chẽ và thúc đẩy

nhau, song trước hết cần tập trung vào độc lập dân tộc vì nó giải quyết mâu
thuẫn chủ yếu giữa toàn thể nhân dân ta với đế quốc xâm lược. Giải quyết
mâu thuẫn này cũng là thực hiện được hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội thuộc
địa nửa phong kiến. Và như thế, rõ ràng, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường
cách mạng Việt Nam là tư tưởng cách mạng không ngừng, là sự thống nhất
giữa độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, chủ nghĩa xã hội là
con đường phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do
Đảng Cộng sản lãnh đạo, sau khi đã căn bản thực hiện thắng lợi các mục tiêu
trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đó là sự lựa chọn của Hồ Chí
Minh, của nhân dân Việt Nam và của chính lịch sử cách mạng Việt Nam
những năm đầu thế kỷ XX. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là
quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là xu thế phát triển của xã hội
Việt Nam phù hợp với xu thế chung của lịch sử, của thời đại ngày nay.
Xuất phát từ đặc điểm của thực tiễn xã hội Việt Nam, một nước nông
nghiệp lạc hậu, thuộc địa, nửa phong kiến bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa,
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nên trong quan niệm về chủ nghĩa xã hội của
Người không phải là đưa ra những ý tưởng cao xa, mà là đề cập đến những lợi
ích rất cụ thể thiết thực, gần gũi với những nhu cầu đời thường của nhân dân
lao động. Những quan niệm về chủ nghĩa xã hội được diễn đạt rất dễ hiểu, dễ
đi vào lòng người và cổ vũ họ đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ cho
nhân dân và hướng tới chủ nghĩa xã hội. Để quần chúng dễ hiểu về chủ nghĩa
xã hội, Người giải thích rõ : “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn,
đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già
không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần
được xóa bỏ (…). Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng,
tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”(6).
Như vậy, có thể khẳng định rằng tư tưởng về chủ nghĩa xã hội của
Người thể hiện đậm nét sự công bằng xã hội. Nó không chỉ phản ánh mục
tiêu, lý tưởng, bản chất sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam mà
còn thể hiện tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc, đó là một chủ nghĩa xã hội tất cả

(

9


vì con người và do con người. Trung thành với con đường đã chọn, suốt cuộc
đời Hồ Chí Minh đã phấn đấu không mệt mỏi cho sự nghiệp giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người, vì một xã
hội xã hội chủ nghĩa hiện thực trên đất nước Việt Nam.
Mặc dù hiện nay chủ nghĩa xã hội thế giới sau những biến động khủng
hỏang, sụp đổ đã có những dấu hiệu phát triển tích cực, nhiều nước khu vực
Mỹ- latin tuyên bố xây dựng chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI, sự nghiệp đổi mới
chủ nghĩa xã hội ở nước ta đạt thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử … Song
các thế lực thù địch vẫn đang ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”,
gây bạo lọan lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân
tộc”, “tôn giáo” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Hơn nữa, ngay
một bộ phận nhân dân ta, trong đó có cả những cán bộ, đảng viên đã một thời
không tiếc máu xương cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, nhưng đứng trước
những khó khăn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những tác động
tiêu cực của cơ chế thị trường kết hợp với sự chống phá quyết liệt của kẻ thù,
đã mất phương hướng chính trị, dao động về lập trường tư tưởng. Thậm chí
có người phủ nhận những thành quả cách mạng mà nhân dân ta giành được,
cho rằng chúng ta tiến hành kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ là sai lầm,
gây nên sự mất mát hy sinh không cần thiết… Trong điều kiện nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần và cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay, một số
người còn cho rằng đã là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần thì phải tự do
hóa, chế độ một đảng lãnh đạo là không tương dung với kinh tế nhiều thành
phần, hoặc đã chấp nhận kinh tế thị trường thì đừng nói đến định hướng xã
hội chủ nghĩa. Từ đó, họ khuyên chúng ta không nên tiếp tục con đường xã
hội chủ nghĩa mà nên đi theo chủ nghĩa xã hội dân chủ hay dừng lại ở chế độ

dân chủ nhân dân, củng cố chế độ dân chủ nhân dân đến khi nào chuẩn bị đầy
đủ các yếu tố hãy đi lên chủ nghĩa xã hội cũng chưa muộn, v.v…
Trước những diễn biến của tình hình trên đây, rõ ràng đều nhắm tới mục
tiêu, ý đồ đen tối là phủ định tư tưởng xuyên suốt trong di sản Hồ Chí Minh
đối với cách mạng nước ta, mong muốn lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước
ta. Do vậy, đòi hỏi chúng ta phải vững tin vào con đường Bác Hồ đã lựa chọn,
giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong giai đọan cách
mạng hiện nay, tiếp tục quá trình đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
10


nước và hội nhập quốc tế, tiến lên xã hội xã hội chủ nghĩa, vì dân giàu, nước
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh./. Việt Nam - Độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội
Tư tưởng Hồ Chí Minh là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, đổi
mới và sáng tạo
Trong những năm kháng chiến chống xâm lược, Hồ Chí Minh luôn nêu
cao tinh thần "dựa vào sức mình là chính". Nếu như trong đấu tranh giành
chính quyền, Người đòi hỏi phải "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta thì
những năm kháng chiến chống xâm lược, tư tưởng ấy của Người là "Dân ta
phải giữ nước ta". Khi miền bắc bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội,
Người chỉ rõ: "Trước đây, nhân dân ta đã nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh,
trường kỳ kháng chiến, thì ngày nay chúng ta càng phải nêu cao tinh thần tự
lực cánh sinh, cần kiệm xây dựng nước nhà"(8).
Nhân dân Việt Nam và tất cả những người yêu chuộng hòa bình trên thế
giới đều biết đến câu nói mang tính thời đại của Hồ Chí Minh: "Không có gì
quý hơn độc lập, tự do". Người nhấn mạnh: "Mỗi một người dân phải hiểu: có
tự lập mới độc lập, có tự cường mới tự do"(9).
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn,
độc lập tự chủ không có nghĩa là biệt lập, đứng một mình. Ngay từ năm 1947,

Người đã chủ trương: "Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây
thù oán với một ai"(10). Người đề cao việc học tập, tiếp thu sáng tạo kinh
nghiệm của các đảng anh em, đồng thời phê phán mọi sự sao chép, giáo điều.
. Trung thành và vận dụng sáng tạo Tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp
đổi mới, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân vượt qua những thử thách to lớn, đặc
biệt là vào thời điểm chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ.
Đảng và nhân dân ta luôn kiên định con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội ngay trong lúc sóng to gió cả; nghiêm túc học tập bạn bè, những nước
đi trước, những kinh nghiệm hay và phù hợp nhưng không sao chép, dập
khuôn; đã xác định đường lối đổi mới với các bước đi thích hợp. Thắng lợi
của 17 năm đổi mới là thắng lợi của việc vận dụng sáng tạo và phát triển Tư

11


tưởng Hồ Chí Minh, trước hết trong việc xác định đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, trong giáo dục và rèn luyện cán bộ, đảng viên.
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh với tình hình thực tiễn ở Việt
Nam
Hiện nay trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và trước
tình hình thế giới diễn biến phức tạp, nhanh chóng, trên cơ sở những quan
điểm có tính nguyên tắc, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta hơn bao giờ hết,
càng phải phát huy cao độ tinh thần độc lập, tự chủ, đổi mới và sáng tạo của
Tư tưởng Hồ Chí Minh. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các
nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển.
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương
hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế, chúng ta đang tận dụng mọi khả
năng để thu hút ngày một nhiều hơn các nguồn lực bên ngoài, nhưng cần
khẳng định rằng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trước hết là sự nghiệp của bản
thân nhân dân ta, do trí tuệ và sức lực của dân ta. Văn kiện Đại hội IX viết:

"Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách... Xây dựng nền kinh
tế độc lập tự chủ phải đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng
và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành
nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước"(11).
Học tập, vận dụng và phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta cần vận
dụng tinh thần cách mạng và khoa học của Người để giải quyết tốt những vấn
đề đặt ra trong thực tiễn đổi mới hiện nay, luôn luôn gắn lý luận với thực tiễn,
từ tổng kết thực tiễn mà bổ sung, làm phong phú thêm lý luận, trước hết về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta và công tác xây dựng Đảng
trong tình hình mới.
Một trong những nội dung cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh là "lấy dân
làm gốc", xác định mọi quyền hành, lực lượng đều ở nơi dân; Đảng và Nhà
nước cũng như mọi cán bộ, công chức phải tôn trọng, lắng ghe ý kiến nhân
dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hết lòng chăm lo mọi mặt đời sống nhân
dân, thật sự là người lãnh dạo và là người đày tớ trung thành của nhân dân.
Phải ra sức củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đại đoàn
kết toàn dân tộc không phải là sách lược trong một thời kỳ, một giai đoạn

12


cách mạng mà là chiến lược cơ bản lâu dài xuyên suốt tiến trình cách mạng
Việt Nam, là nguồn sức mạnh vô tận của cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ
Chí Minh nói: "Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của
dân ta"(12). Người đòi hỏi mỗi người, trước hết là đảng viên, phải giữ gìn sự
đoàn kết, thống nhất như "giữ gìn con ngươi của mắt mình". Đoàn kết là sức
mạnh. Với truyền thống đoàn kết, sức mạnh sẽ được nhân lên, trở thành nhân
tố hàng đầu để giành và giữ độc lập dân tộc, xây dựng xã hội mới xã hội chủ
nghĩa, thể hiện trong câu nói nổi tiếng của Người:

Đoàn kết, Đoàn kết, Đại đoàn kết Thành công, Thành công, Đại thành
công
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng đoàn kết là "điểm mẹ". "Điểm này mà
thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt". Người nhấn mạnh: "Công, nông, trí
cần phải đoàn kết chặt chẽ thành một khối"(13). Người còn chủ trương đoàn kết
với tất cả những ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ
nhân dân. Trong xây dựng và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân, Người
chăm chú tìm kiếm, nâng niu, trân trọng những điểm tương đồng, hạn chế,
giảm dần những điểm khác biệt. Nguyên tắc được Người nêu lên từ năm 1946
là: "Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau
lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng
thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng
đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều
lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân
ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đại đoàn kết, có đại đoàn kết thì
tương lai chắc sẽ vẻ vang"(14).
Tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành đường lối,
chiến lược đại đoàn kết của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội IX của Đảng,
đại hội đầu tiên trong thế kỷ XXI, đã nêu rõ: "Kế thừa truyền thống quý báu
của dân tộc, Đảng ta luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân" của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, phấn đấu để tăng cường và mở rộng khối đại đoàn kết toàn
dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức làm nền tảng, Lấy mục tiêu độc lập, thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng, tôn trọng những ý
kiến khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, xóa bỏ mặc cảm,

13


định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh

thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai. Xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân gắn với việc phát huy dân chủ trong đời sống xã hội dưới sự lãnh
đạo của Đảng"(15).
Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) vừa qua đã
ra các nghị quyết về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì "dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", về công tác dân tộc,
về công tác tôn giáo. Các nghị quyết đó đã cụ thể hóa tư tưởng chiến lược đại
đoàn kết toàn dân của Đại hội IX, đồng thời làm sáng tỏ thêm bằng những
luận điểm mới, cách luận giải mới và giải pháp mới. Nghị quyết Trung ương
7 là sự vận dụng, phát triển tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh phù hợp với
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đáp ứng yêu cầu vừa cơ bản,
vừa cấp bách của sự nghiệp xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, làm cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc "trường xuân bất lão" (16) như Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra cách đây hơn nửa thế kỷ.
Hội nghị Trung ương 4, khóa IX; tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động xây
dựng, chỉnh đốn Đảng gắn liền với cải cách hành chính, kiên quyết đấu tranh
chống tham nhũng, quan liêu; nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình và
tạo điều kiện để nhân dân góp ý kiến phê bình cán bộ, đảng viên, công chức;
biểu dương những cán bộ, đảng viên, công chức tốt, gương mẫu, được nhân
dân tín nhiệm; kiên quyết đấu tranh, xử lý kỷ luật và xét xử theo Điều lệ Đảng
và pháp luật Nhà nước những người mắc lỗi, phạm tội, bất kể họ là ai. Cán
bộ, đảng viên, công chức phải tu dưỡng đạo đức suốt đời, gương mẫu chấp
hành kỷ luật Đảng và pháp luật Nhà nước, có trách nhiệm với gia đình trong
việc thi hành luật pháp, thực hiện bằng được điều Chủ tịch Hồ Chí Minh viết
trong Di chúc: "Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thực sự cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn Đảng
ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân.
Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã làm thay đổi
bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc

và chủ nghĩa xã hội, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc
tế. Nhân tố hàng đầu tạo nên những thành tựu đó là sự đúng đắn trong đường

14


lối của Đảng, sự phấn đấu bền bỉ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta,
trong đó có vai trò tiên phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Tuy vậy, cần
thẳng thắn chỉ ra rằng vẫn còn không ít cán bộ, đảng viên công chức chưa có
sự thống nhất giữa lời nói và việc làm. Còn có những cán bộ, đảng viên, công
chức nói nhiều làm ít, thậm chí nói một đằng làm một nẻo, nói mà không làm.
Để khắc phục tình trạng này, một trong những giải pháp lớn của Đảng đã
được nêu trong văn kiện Hội nghị Trung ương 5 (khóa IX) là: "Toàn Đảng,
trước hết là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cán bộ chủ
chốt các cấp, các ngành kiên quyết thực hiện: nói đi đôi với làm, nói và làm
đúng đường lối, chính sách, pháp luật"
Như Đại hội IX của Đảng đã chỉ rõ: "Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường
cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn
của Đảng và dân tộc ta". Đáp ứng yêu cầu học tập, nghiên cứu Tư tưởng Hồ
Chí Minh của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, ngày 27 tháng 3 năm 2003,
Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra chỉ thị "Đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên
truyền, giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới". Đây là một
sinh hoạt chính trị rộng lớn, rất quan trọng cần được tổ chức chặt chẽ, khoa
học, có hệ thống, trở thành nền nếp thường xuyên trong hệ thống chính trị,
các lực lượng vũ trang, hệ thống nhà trường và các tầng lớp nhân dân. Nhân
kỷ niệm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh năm nay, thay mặt Ban Chấp hành
Trung ương, tôi đề nghị toàn Đảng, các cấp, các ngành, trong đó các cấp ủy
đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cùng các cơ quan tư tưởng, lý
luận của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể và quân đội tổ chức tốt chương trình
học tập Tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần phát triển đất nước nhanh chóng và

bền vững trong thế kỷ XXI và xây dựng Đảng, bộ máy nhà nước và toàn bộ
hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh theo Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tự hào được dẫn dắt bởi một đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta quyết tâm phấn đấu giành những thắng lợi ngày càng
lớn trong sự nghiệp mà Đại hội IX đã nêu lên: "Phát huy sức mạnh toàn dân
tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

15


Hồ Chí Minh chuẩn mực đạo đức: “Trung với nước, hiếu với dân” cần
quán triệt những nội dung của chủ nghĩa yêu nước trong giai đoạn mới; phát
huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới đất nước,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển.
Tư tưởng và phẩm chất đạo đức tiêu biểu của Hồ Chí Minh là tinh thần
yêu nước nồng nàn, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân,
toàn tâm, toàn ý cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Từ quyết tâm “ dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn
cũng quyết giành cho được tự do, độc lập”, để rồi phấn đấu cho “ đồng bào ta
ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”, để nước ta “ sánh vai với
cường quốc năm châu”. Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh chúng ta cần:
- Mỗi người cần nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn những hy sinh to lớn
của ông cha để chúng ta có non sông, Tổ quốc Việt Nam độc lập, tự do, thống
nhất trọn vẹn hôm nay. Nâng cao tinh thần yêu nước, tự hào về truyền thống
anh hùng của dân tộc là lương tâm và trách nhiệm của mỗi người Việt Nam
chân chính. Trung với nước ngày nay là trung thành vô hạn với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nền

văn hóa, bảo vệ Đảng, chế độ, nhân dân và sự nghiệp đổi mới, bảo vệ lợi ích
của đất nước.
- Trung với nước, hiếu với dân ngày nay là luôn luôn tôn trọng, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân dưới cả ba hình thức: làm chủ đại diện, làm
chủ trực tiếp và tự quản cộng đồng; hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, giải
quyết kịp thời những yêu cầu, kiến nghị hợp tình, hợp lý của dân; khắc phục
cho được thói vô cảm, lãnh đạm, thờ ơ trước những khó khăn, bức xúc... của
nhân
dân.
- Trung với nước, hiếu với dân ngày nay thể hiện ở ý chí vươn lên quyết
tâm vượt qua nghèo nàn, lạc hậu, góp phần dựng xây đất nước phồn vinh,
sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, theo kịp trình độ các nước
phát triển trong khu vực và thế giới; thực hiện bằng được mong ước của Bác
Hồ kính yêu: “xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.

16


- Trung với nước, hiếu với dân là phải luôn luôn có ý thức giữ gìn đoàn
kết toàn dân tộc, đoàn kết trong Đảng, trong cơ quan, đơn vị; kiên quyết đấu
tranh không khoan nhượng trước mọi mưu đồ của các thế lực thù địch, cơ hội
hòng chia rẽ dân tộc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, chia rẽ Đảng với
nhân dân. Đoàn kết là yêu nước, chia rẽ là làm hại cho đất nước. Mọi biểu
hiện cục bộ, bản vị là trái với tinh thần yêu nước chân chính.
- Trung với nước hiếu với dân là phải có tinh thần trách nhiệm cao đối
với công việc, có lương tâm nghề nghiệp trong sáng; quyết tâm phấn đấu để
thành đạt và cống hiến nhiều nhất cho đất nước, cho dân tộc; quyết tâm xây
dựng quê hương giàu đẹp, văn minh. Phải có tinh thần ham học hỏi, phát huy
truyền thống hiếu học và quý trọng nhân tài của ông cha ta; biết vận dụng
sáng tạo các tri thức khoa học, công nghệ hiện đại, các sáng kiến trong sản

xuất, công tác, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Mọi sự bảo thủ, trì
trệ, lười học tập, ngại lao động, đòi hỏi hưởng thụ vượt quá khả năng và kết
quả cống hiến là trái truyền thống đạo lý dân tộc và trái với tư tưởng yêu nước
của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Trung với nước, hiếu với dân yêu cầu mỗi chúng ta phải giải quyết
đúng đắn mối quan hệ cá nhân - gia đình - tập thể - xã hội; quan hệ giữa
nghĩa vụ và quyền lợi. Theo gương Chủ tịch Hồ Chí Minh, yêu nước là sẵn
sàng phấn đấu hy sinh cho lợi ích chung, việc gì có lợi cho dân, cho nước, cho
tập thể thì quyết chí làm, việc gì có hại thì quyết không làm. Làm việc gì
trước hết phải vì tập thể, vì đất nước, vì nhân dân, phải nêu cao trách nhiệm
của người lãnh đạo, không tham lam, vụ lợi, vun vén cá nhân...

17


III. Kết luận
Hồ Chí Minh và những cống hiến của Người đã đi vào lịch sử thế giới
hiện đại. Tên tuổi, sự nghiệp, tư tưởng và đạo đức cách mạng vẹn toàn của
Người luôn được trân trọng trong ký ức của mỗi người, dù Hồ Chí Minh đã
rời xa chúng ta để trở về với cõi vĩnh hằng hơn 40 năm. Cuộc đời của Người
thực sự là một tấm gương sáng chói của những phẩm chất đạo đức cách mạng
cao cả và nhân đạo nhất, và “chỉ có ít nhân vật lịch sử trở thành một bộ phận
của huyền thoại ngay từ khi còn sống và rõ ràng Hồ Chí Minh là một trong
số đó. Người sẽ được ghi nhớ không phải chỉ là người giải phóng cho Tổ
quốc và nhân dân bị đô hộ mà còn là một nhà hiền triết hiện đại đã mang một
viễn cảnh và hy vọng mới cho những người đang đấu tranh không khoan
nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng khỏi trái đất này”.
Hồ Chí Minh và con đường Người lựa chọn, sự nghiệp Người tiến hành
đã trở thành một nhân tố quan trọng, đưa đất nước Việt Nam thoát ra khỏi
những năm dài là thuộc địa, đem tên Việt Nam trở lại với bản đồ thế giới.

Người và cuộc đời Người là một “pho lịch sử đấu tranh”, đã “xây đắp nền tự
do của nhân dân Việt Nam”. Hồ Chí Minh là một trong những vĩ nhân, “luôn
luôn là nhân vật thần thoại của cuộc đấu tranh cách mạng chống chủ nghĩa
đế quốc. Cuộc cách mạng của Người đã vượt ra ngoài biên giới” Việt Nam,
và “dù chúng ta không cùng quan điểm chính trị với Người, nhưng không thể
không cảm thấy một niềm kính trọng và mến phục sâu sắc đối với tinh thần
dân tộc mãnh liệt, đối với người chiến sĩ không mệt mỏi đó”

18



×