Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH theo tư tưởng HCM hãy nêu rõ ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.77 KB, 16 trang )

Đề bài:
"độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội theo t tởng Hồ Chí
Minh Hãy nêu rõ ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận điểm.

LI NểI U
Dõn tc Vit Nam ta cú truyn thng yờu nc, anh dng bt khut, ó
tng chin thng nhiu quc phong kin hung hón. T khi thc dõn Phỏp
xõm lc nc ta, phong tro yờu nc ó dy lờn ht sc mnh m. Liờn tip
n ra cỏc cuc ni dy khp mi min t nc, thu hỳt ụng o cỏc tng lp
nhõn dõn, cỏc bc s phu, k c mt b phn quan li phong kin. Cỏc phong
tro Cn Vng, khi ngha Yờn Th; cỏc phong tro Duy Tõn, ụng Du,
khi ngha Yờn Bỏi v hng chc cuc u tranh khỏc na u b thc dõn
Phỏp thng tay n ỏp v tht bi.
c lp, t do l khỏt vng ln nht ca cỏc dõn tc thuc a. c lp
dõn tc tr nờn l yờu cu c bn, cp bỏch. Cụng cuc gii phúng dõn tc
Vit Nam khi y trong tỡnh hỡnh en ti nh khụng cú ng ra. Bng
con ng no v giai cp no cú kh nng gỏnh vỏc s mnh trng i ú?
Nguyn i Quc l ngi gieo ht, gõy mm cỏch mng Vit Nam.
Ngi ó i t ch ngha yờu nc n vi ch ngha xó hi. Vi k cụng ca
Nguyn i Quc, ch ngha Mỏc Lờnin kt hp vi phong tro yờu nc v
phong tro cụng nhõn Vit Nam chuyn húa thnh mt tt yu a n mt s
kin trng i: nm 1930, ng Cng sn Vit Nam ra i. S kin ny l
mc son ỏnh du s kt hp cỏc nhõn t dõn tc v giai cp, quc gia v
quc t, c lp dõn tc v ch ngha xó hi trong bn cht ca ng. Khỏc
1


với các con đường cứu nước của ông cha, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa
phong kiến hoặc chủ nghĩa tư bản, con đường của Hồ Chí Minh là “độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc trong được thể hiện trên


những luận điểm cơ bản sau đây :
- Một là, độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của
các dân tộc.
Lịch sử Việt Nam là lịch sử không ngừng đấu tranh dựng nước và giữ
nước. Tinh thần yêu nước luôn luôn đứng ở hàng đầu trong bảng giá trị tinh
thần truyền thống Việt Nam. Đối với một người dân mất nước, cái quý nhất
trên đời là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân. Như Hồ Chí Minh đã
từng nói: "Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc
tôi được độc lập...". Hồ Chí Minh là người đã đưa ra chân lý bất hủ, có giá trị
cho mọi thời đại: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Đó không chỉ là lý
tưởng mà còn là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh, là lý do
chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng, nguồn động viên đối với
các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
- Hai là, kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc
với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế.
Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực lớn của đất
nước. Xuất phát từ vị trí của người dân thuộc địa mất nước, từ truyền thống
dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa
yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính, coi đó là một động lực lớn mà

2


những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, không để rơi vào tay giai
cấp nào khác, phải nhận thức và giải quyết trên lập trường của giai cấp vô sản.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng này vừa phản
ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách
mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng
dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Đến Hồ
Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã phát triển thành chủ nghĩa yêu

nước hiện đại, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc. Hồ
Chí Minh đã khẳng định: Quyền tự do, độc lập là quyền bất khả xâm phạm
của các dân tộc, "dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do". Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ
đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập của tất
cả các dân tộc bị áp bức. Chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn luôn thống
nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng ở Hồ Chí Minh.

* Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, những đặc trưng bản chất của chủ
nghĩa xã hội (CNXH) bao gồm:
- Một là, CNXH là một chế độ do nhân dân làm chủ, Nhà nước phải
phát huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng
tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng CNXH.
- Hai là, CNXH có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không

3


ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân
dân lao động.
- Ba là, CNXH là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong
đó người với người là bè bạn, là đồng chí, là anh em, con người được giải
phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú,
được tạo điều kiện để phát triển hết mọi khả năng sẵn có của mình.
- Bốn là, CNXH là một xã hội công bằng và hợp lý, làm nhiều hưởng
nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng, các dân tộc bình đẳng, miền
núi tiến kịp miền xuôi.
- Năm là, CNXH là một công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân

tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc

* Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội :
+ Độc lập dân tộc là mục tiêu trước hết, là cơ sở, tiền đề để tiến lên
chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai
đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Hai giai đoạn ấy không có bức tường ngăn cách, mà gắn bó chặt chẽ với nhau.
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân có hai nhiệm vụ chiến lược:
chống thực dân xâm lược và chống địa chủ phong kiến. Nhiệm vụ dân tộc và
4


dân chủ quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó nhiệm vụ giải phóng dân tộc đặt
lên trên hết, trước hết, nhiệm vụ dân chủ cần thực hiện từng bước và phải
phục tùng sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tư tưởng trên đây được Hồ Chí
Minh thể hiện rõ nét trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930 và Người
nhấn mạnh tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám (khóa I) 51941.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao gồm cả nội dung dân
tộc dân chủ. Không phải bất kỳ độc lập dân tộc nào cũng tạo cơ sở, tiền đề để
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh, để tạo cơ sở, tiền đề cho việc
tiến lên chủ nghĩa xã hội, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải
được thực hiện một cách triệt để, "đến nơi". Đó là một nền độc lập thực sự,
độc lập hoàn toàn không lệ thuộc vào bất cứ lực lượng nào cả về đối nội, lẫn
đối ngoại. Hồ Chí Minh nhiều lần phê phán sự lệ thuộc về mọi mặt của những
chính quyền do thực dân cũ và mới lập nên ở Việt Nam. Người gọi đó là độc
lập giả hiệu, độc lập kiểu Mỹ.

Để tạo cơ sở, tiền đề cho việc tiến lên chủ nghĩa xã hội, đối với Việt
Nam, một đòi hỏi có ý nghĩa sống còn là độc lập dân tộc phải gắn liền với
thống nhất chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Nước Việt Nam là
một, dân tộc Việt Nam là một, Bắc - Trung - Nam là một khối thống nhất
không thể phân chia, đồng bào Kinh, Mường, Thái, Êdê, Bana… đều là con
dân nước Việt, là con Rồng cháu Tiên. Đó là quan điểm nhất quán, mang tính
nguyên tắc của Hồ Chí Minh. Không duy trì và phát triển được khối thống
nhất đó thì không thể có độc lập dân tộc, càng không thể nói đến việc tạo cơ
sở tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội.

5


Để tiến lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi độc lập dân tộc phải đi đôi với tự
do hạnh phúc của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh "nếu nước được độc lập mà
người dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập chẳng có ý nghĩa
gì".
+ Chủ nghĩa xã hội là con đường bảo vệ và phát triển thành quả của
độc lập dân tộc
Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan hệ giữa
mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài. Theo lôgíc của sự phát triển, hai mục
tiêu ấy quan hệ chặt chẽ với nhau. Không thể đi đến mục tiêu cuối cùng nếu
không thực hiện được mục tiêu trước mắt. Chỉ thực hiện được mục tiêu cuối
cùng mới bảo vệ và phát triển được những thành quả của mục tiêu trước mắt.
Vì vậy, nếu độc lập dân tộc tạo cơ sở, tiền đề để đi lên chủ nghĩa xã hội là con
đường tốt nhất để giữ vững và phát triển lên một tầm cao mới - thành quả của
độc lập dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là làm cho dân giàu, nước mạnh,
ai cũng có công ăn, việc làm, được ăn no, mặc ấm, được học hành, các dân
tộc trong nước bình đẳng đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau. Về mặt phân phối sản

phẩm lao động thì chủ nghĩa xã hội là ai làm nhiều hưởng nhiều, ai làm ít hưởng
ít, ai có sức lao động mà không làm thì không hưởng, những người già, đau yếu,
tàn tật và trẻ em thì xã hội và cộng đồng có trách nhiệm chăm sóc nuôi dưỡng.
Trong chủ nghĩa xã hội, văn hóa, khoa học kỹ thuật, chính trị và kinh tế, đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân được quan tâm và ngày một nâng cao.
Về mặt đối ngoại, chủ nghĩa xã hội là hòa bình, hữu nghị, làm bạn với tất cả các
nước. Chủ nghĩa xã hội với những đặc trưng đó không chỉ bảo vệ những thành
quả của độc lập dân tộc mà cơ bản tạo nên sự phát triển mới vế chất. Hồ Chí
6


Minh khẳng định chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới bảo đảm cho
một nền độc lập dân tộc chân chính, mới giải phóng các dân tộc một cách
thực sự, hoàn toàn.
Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng, cả cách mạng giải phóng dân tộc và
cách mạng xã hội chủ nghĩa là việc khó, là cuộc đấu tranh gay go, ác liệt, lâu
dài. Giành độc lập dân tộc đã khó, xây dựng chủ nghĩa xã hội còn khó khăn
hơn. Hồ Chí Minh so sánh: thắng đế quốc phong kiến là tương đối dễ, thắng
bần cùng lạc hậu khó khăn hơn. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Đánh đổ giai cấp
địch đã khó, đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội còn gian khổ, khó khăn hơn
nhiều". Từ những khó khăn gian khổ ấy, Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi Đảng,
Nhà nước và mỗi người dân phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội.
* Sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội :
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
xuất hiện từ năm 1920, khi Người bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin, và nó được
thể hiện rõ nét từ năm 1930. Sự thể hiện tư tưởng của Người về độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội có thể phân thành 3 thời kỳ chủ yếu.
+ Thời kỳ 1930 - 1945

Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí
Minh thời kỳ này thể hiện rõ trong những Văn kiện do Hồ Chí Minh soạn
thảo được Hội nghị hợp nhất thông qua. Chánh cương vắn tắt của Đảng chỉ rõ
Đảng chủ trương "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để
đi tới xã hội xã hội cộng sản". Hồ Chí Minh khẳng định sự nghiệp giải phóng
7


dân tộc ở Việt Nam được thực hiện bằng con đường cách mạng vô sản:
"Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản". Theo tư tưởng Hồ Chí Minh điều đó có ý nghĩa là:
Đối tượng của cuộc đấu tranh là thực dân đế quốc và bọn tay sai chống
lại độc lập dân tộc.
Ở trong nước lực lượng cách mạng bao gồm công nông là gốc và tất cả
những ai có lòng yêu nước, thương nòi.
Về lực lượng cách mạng ngoài nước trong thời kỳ này, Hồ Chí Minh
nhấn mạnh sự ủng hộ của Quốc tế Cộng sản, Liên bang cộng hòa xã hội chủ
nghĩa xô viết, giai cấp công nhân và nhân dân lao động chính quốc, các dân
tộc thuộc địa và phụ thuộc.
Nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc
là sự lãnh đạo của Đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin.
+ Thời kỳ 1945 - 1954
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở thời kỳ này được thể
hiện ở những chủ trương, đường lối chiến lược do Hồ Chí Minh khởi xướng
"vừa kháng chiến, vừa kiến quốc", "kháng chiến đi đôi với kiến quốc", "kháng
chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến".
Kháng chiến tức là bảo vệ nền độc lập dân tộc, chống sự xâm lược lần
thứ hai của thực dân Pháp theo phương châm trường kỳ kháng chiến nhất
định thắng lợi.


8


Kiến quốc theo Hồ Chí Minh là xây dựng, củng cố Nhà nước dân chủ
nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, xây dựng đời sống mới, xây dựng những
cơ sở đầu tiên của chủ nghĩa xã hội.
+ Thời kỳ 1954 - 1969
Ở thời kỳ này độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong tư
tưởng Hồ Chí Minh thể hiện qua chủ trương: một Đảng Cộng sản lãnh đạo
thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược ở hai miền: xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến
tới thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một
sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh.
Ngày 2-9-1969, Hồ Chí Minh qua đời. Theo chỉ dẫn của Người, nhân
dân ta đã đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào. Với chiến dịch lịch sử mang
tên Hồ Chí Minh, mục tiêu của thời kỳ này được hoàn thành vào ngày 30-41975.
* Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam:
Thứ nhất, trong suốt quá trình cách mạng, sự lãnh đạo của Đảng phải
được giữ vững, củng cố và tăng cường. Xuất phát từ quan điểm xây dựng chủ
nghĩa xã hội là một nhiệm vụ khó khăn hơn đánh đổ đế quốc, phong kiến, Hồ
Chí Minh khẳng định trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội Đảng phải
mạnh hơn bao giờ hết.
Thứ hai, khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công - nông trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng phải được củng cố và mở rộng. Hồ Chí
Minh luôn đòi hỏi Đảng, Nhà nước và mỗi người dân cần nêu cao trách nhiệm
9


trong việc làm cho "rừng cây đại đoàn kết ấy đã nở hoa kết trái và gốc rễ nó
đang ăn sâu lan rộng khắp toàn dân, và nó có một cái tương lai 'trường xuân

bất lão'".
Thứ ba, sự ủng hộ giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hòa bình, dân
chủ và tiến bộ trên thế giới được giữ vững và phát triển. Để làm được việc đó,
ngay từ 1947, Hồ Chí Minh đã nêu cao chủ trương: "Làm bạn với tất cả mọi
nước dân chủ và không gây thù oán với một ai".
Ba nhân tố trên luôn được giữ vững và tăng cường, tác động qua lại,
liên quan chặt chẽ với nhau là điều kiện bảo đảm cho sự thắng lợi của mục
tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
"Đó là ba bài học lớn mà mỗi cán bộ và đảng viên cần ghi sâu vào lòng và
phát huy thêm mãi".

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc
sắc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt và bao trùm trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng đặc sắc ấy thể hiện nhất quán mục tiêu của con đường cách mạng
mà Người đã lựa chọn, nó vừa đáp ứng được yêu cầu bức xúc của dân tộc và
khát vọng của quần chúng nhân dân giành lấy độc lập, tự do, ấm no và hạnh
phúc, giải phóng cuộc đời lầm than, đói khổ dưới ách thống trị tàn bạo của
chủ nghĩa thực dân, đế quốc và bè lũ tay sai. Tư tưởng ấy đã đưa dân tộc ta
đến độc lập, tự do, nước nhà Bắc – Nam thống nhất và ngày nay, đó là nguồn
sức mạnh trong sự nghiệp xây dựng một xã hội Việt Nam mới xã hội chủ
nghĩa: dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.

10


Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc
sắc của Hồ Chí Minh. Bởi lẽ, Người đã vượt qua giới hạn của những nhà yêu
nước đương thời và phát hiện ra con đường cứu dân, cứu nước. Chúng ta tự
hào với lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh kiên cường và bền bỉ để giữ vững
độc lập dân tộc của dân tộc ta. Khi nước nhà bị bọn xâm lược giầy xéo thì dân

tộc không có khát vọng nào cao hơn là giành độc lập dân tộc. Nhưng chúng ta
vẫn biết là không phải bất cứ lúc nào những người con yêu nước của dân tộc
cũng tìm thấy cho mình con đường cứu dân, cứu nước đúng đắn. Thực tiễn
khi thực dân Pháp xâm lược nước ta cho đến những năm đầu của thế kỷ XX
cho thấy, nhân dân ta, các thế hệ nối tiếp nhau đứng lên, mong đánh đuổi thực
dân Pháp, giành lại non sông đất nước. Song do chưa có đường lối đúng đắn
như con đường “Tây du” và “Đông du” của các cụ Phan khởi xướng, do ngọn
cờ tư tưởng phong kiến đã lỗi thời, nên các phong trào, các cuộc khởi nghĩa
yêu nước lần lượt thất bại, quần chúng cách mạng bị dìm trong biển máu. Sự
thể đau lòng đến nỗi nhà yêu nước Phan Bội Châu buông lời: “Trăm lần thất
bại chưa có một lần thành công”. Sinh ra trong cảnh nước mất, nhà tan, người
thanh niên Nguyễn Tất Thành sau nhiều trăn trở đã ra đi tìm đường cứu nước
vào năm 1911. Sau hơn 10 năm lăn lộn, qua nhiều nước để tìm tòi và thử
nghiệm, Người đã đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với tư tưởng Cách
mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Người cho rằng phải học tập cách mạng Nga,
khi được tiếp xúc: “Bản luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của
Lênin, Người đã sung sướng nói to lên: “Hởi đồng bào bị đọa đày đau khổ!
Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”.
Vậy là, từ lòng yêu nước, thương dân thúc giục Người ra đi tìm đường cứu
nước, cứu dân thì đến với Cách mạng tháng Mười và chủ nghĩa Lê-nin, Người
11


đã tìm thấy ở đó con đường cứu nước, cứu dân và giải phóng lao động và quả
quyết: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản”.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc
sắc của Hồ Chí Minh còn thể hiện ở tư duy sáng tạo độc đáo của Người đối
với Chủ nghĩa Mác – Lênin về tiến trình, logic phát triển của cách mạng vô
sản ở Việt Nam. Lựa chọn con đường cách mạng vô sản là sự thống nhất giữa

điều kiện khách quan với nhận thức và hoạt động chủ quan của Hồ Chí Minh.
Đó là sự gặp gỡ của thời đại và Hồ Chí Minh, đồng thời cũng là đóng góp to
lớn nhất của Người với thời đại, đặc biệt là đối với các nước thuộc địa và phụ
thuộc. Đi theo con đường cách mạng vô sản, cách mạng giải phóng dân tộc
khỏi ách nô dịch của chủ nghĩa thực dân, giải phóng quần chúng lao động
khỏi áp bức bóc lột và đi đến mục tiêu cao cả của chủ nghĩa cộng sản là giải
phóng con người. Thực hiện thắng lợi mục tiêu ấy thuộc về sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân Việt Nam.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội diễn ra trong suốt quá
trình cách mạng, ở mỗi giai đoạn của cách mạng; thống nhất ở mục tiêu trước
mắt cũng như lâu dài. Bởi vì, đối với một dân tộc đã phải trải qua một ngàn
năm đô hộ của phong kiến phương Bắc và gần một trăm năm dưới gót sắt của
chủ nghĩa thực dân thì khát vọng cao nhất và trực tiếp nhất là giành độc lập
dân tộc, giải phóng dân tộc. Nhưng để có độc lập thực sự cho dân tộc phải đi
lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã
hội. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng, là điều kiện đảm bảo cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc cho nhân dân, là nhân tố đảm bảo vững chắc của nền độc lập
12


dân tộc. Hồ Chủ Tịch đã từng nói : “Nhưng nếu nước được độc lập mà dân
không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Và
“Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc
đủ”. Như thế nghĩa là cách mạng Việt Nam phải hướng tới mục tiêu giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người thoát khỏi mọi áp
bức, bóc lột và bất công, tiến tới một xã hội “trong đó sự phát triển tự do của
mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Chính vì
vậy, trong “Chính cương vắn tắt”, Người chủ trương tiến hành tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.

Tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng hay là cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân và ngay trong cách mạng ấy, Người cũng xác định
cần phải giải quyết hai nội dung cơ bản đó là : độc lập dân tộc và dân chủ
nhân dân. Trong đó độc lập dân tộc là nhu cầu bức thiết cần phải tập trung sức
lực giải quyết. Bởi mâu thuẫn giữa đế quốc xâm lược với nhân dân ta mà
đông đảo là công nhân và nông dân là mâu thuẫn bao trùm lên tất cả, còn
phong kiến chỉ là tay sai và chịu sự chi phối của thực dân đế quốc. Mâu thuẫn
này nổi lên sâu sắc, gay gắt, đòi hỏi phải giải quyết. Ngay từ khi thực dân
Pháp xâm lược nước ta, nhiệm vụ giải phóng dân tộc chống thực dân Pháp và
tay sai đã là sự nghiệp nổi lên hàng đầu của nhân dân Việt Nam, cách mạng
Việt Nam. Đặt lên hàng đầu nhiệm vụ giải phóng dân tộc không có nghĩa là
coi nhẹ vấn đề giai cấp, coi nhẹ chủ nghĩa xã hội. Trái lại, Người luôn quan
niệm độc lập dân tộc là mục tiêu trước tiên phải giành được để tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Tuy trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nhất là ở giai
đoạn đấu tranh giành chính quyền, chủ nghĩa xã hội mới chỉ là mục tiêu,
nhưng nó chỉ rõ phương hướng đi lên của cách mạng Việt Nam – một cuộc
13


cách mạng do giai cấp công nhân Việt Nam thông qua đội tiên phong của nó
là Đảng Cộng sản lãnh đạo. Chính vì vậy, sau mỗi bước thắng lợi của cách
mạng giải phóng dân tộc, Người luôn quan tâm phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội, xây dựng lực lượng cách mạng đi đôi với củng cố chính quyền cách
mạng. Đường lối vừa kháng chiến, vừa kiến quốc thực sự đóng vai trò to lớn
vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và tạo lập chế độ mới trong cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân. Đường lối đó là cơ sở cho tiến hành đồng thời hai
nhiệm vụ chiến lược cách mạng, cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam
và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giai đoạn 1954-1975, cũng như
thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc trên phạm vi cả nước hiện nay.

Tư tưởng của Người còn sâu sắc ở chỗ, độc lập dân tộc không chỉ là
khẩu hiệu mà phải độc lập thực sự, phải gắn liền với thống nhất tổ quốc. Độc
lập bao giờ cũng gắn liền với tự do dân chủ và ấm no hạnh phúc của nhân
dân, nhất là đối với một nước thuộc địa, nửa phong kiến có trên 90% là nông
dân. Dân chủ trước hết lúc này là phải giành lại ruộng đất cho dân cày và xác
định quyền làm chủ của nông dân trên đồng ruộng của họ. Độc lập dân tộc và
dân chủ là hai mục tiêu cơ bản, hai nội dung lớn mà cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân phải thực hiện. Hai nội dung đó quan hệ chặt chẽ và thúc đẩy
nhau, song trước hết cần tập trung vào độc lập dân tộc vì nó giải quyết mâu
thuẫn chủ yếu giữa toàn thể nhân dân ta với đế quốc xâm lược. Giải quyết
mâu thuẫn này cũng là thực hiện được hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội thuộc
địa nửa phong kiến. Và như thế, rõ ràng, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường
cách mạng Việt Nam là tư tưởng cách mạng không ngừng, là sự thống nhất
giữa độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, chủ nghĩa xã hội là
14


con đường phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do
Đảng Cộng sản lãnh đạo, sau khi đã căn bản thực hiện thắng lợi các mục tiêu
trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đó là sự lựa chọn của Hồ Chí
Minh, của nhân dân Việt Nam và của chính lịch sử cách mạng Việt Nam
những năm đầu thế kỷ XX. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là
quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là xu thế phát triển của xã hội
Việt Nam phù hợp với xu thế chung của lịch sử, của thời đại ngày nay.
Xuất phát từ đặc điểm của thực tiễn xã hội Việt Nam, một nước nông
nghiệp lạc hậu, thuộc địa, nửa phong kiến bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa,
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nên trong quan niệm về chủ nghĩa xã hội của
Người không phải là đưa ra những ý tưởng cao xa, mà là đề cập đến những lợi
ích rất cụ thể thiết thực, gần gũi với những nhu cầu đời thường của nhân dân
lao động. Những quan niệm về chủ nghĩa xã hội được diễn đạt rất dễ hiểu, dễ

đi vào lòng người và cổ vũ họ đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ cho
nhân dân và hướng tới chủ nghĩa xã hội. Để quần chúng dễ hiểu về chủ nghĩa
xã hội, Người giải thích rõ : “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn,
đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già
không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần
được xóa bỏ (…). Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng,
tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội” .

15


Mục lục:

Đề bài

1

Mở đầu

2

I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tôc

2

II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH

3

III. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc gắn liền với CNXH


4

IV. Sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về
độc lập dân tộc gắn liền với CNXH

6

V. Những điều kiện bảo đảm độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH của cách mạng Việt Nam

7

Tài liệu tham khảo: - Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh
- Một số tài liệu trên Internet

16



×