Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng HCM (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.17 KB, 16 trang )

Đề Tài: BIỆN CHỨNG GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ GIAI CẤP TRONG TƯ

TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Dân tộc ta, nhân dân ta,
non song đất nước ta
đã sinh ra Hồ Chủ Tịch,
người anh hùng dân tộc vĩ đại
và chính Người
đã làm rạng rỡ dân tộc ta,
nhân dân ta
và non song đất nước ta.
( Điếu văn của BCH TW Đảng Cộng sản Việt Nam tại Lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày
6/9/1969 )
Hồ Chí Minh – vị cha già kính yêu của dân tộc – là nhân vật lịch sử vô cùng vĩ đại – một
danh nhân văn hóa thế giới. Người không chỉ là một nhà tư tưởng nỗi lạc mà còn là một chính trị
quân sự thiên tài. Người không chỉ là sản phẩm của dân tộc Việt Nam, của giai cấp công nhân
Việt Nam mà Người còn là sản phẩm của thời đại, của nhân loại tiến bộ.
Cả cuộc đời của Hồ Chí Minh đã dành trọn cho nhân dân, cho đất nước, cho sự nghiệp đấu
tranh giải phóng con người, giải phóng nhân loại cần lao, thoát khỏi mọi áp bức, bất công, vươn
tới cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc. Người đã để lại cho chúng ta một tái sản tinh thần vô
giá đó là tư tưởng Hồ Chí Minh với hạt nhân là chủ nghĩa Mac – Lênin. Qua thực tiễn cách
mạng, tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng tỏa sáng, chiếm lĩnh trái tim, khối óc của hàng triệu triệu
con người.
Nét đặc sắc nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh chính là những vấn đề xung quanh việc giải
phóng dân tộc và định hướng cho sự phát triển của dân tộc. Nhưng dù xem xét ở bất kì vấn đề
nào trong tư tưởng Hồ Chí Minh ta đều thấy rõ Bác thể hiện quan điểm của mình trong mối quan
hệ biện chứng giữa hai vấn đề dân tộc và giai cấp rất sâu sắc . Mối quan hệ biện chứng này là
một trong những nhân tố đảm bảo thành công của cách mạng Việt Nam và là một trong những
đóng góp quan trọng của Người vào kho tàng lí luận cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin.
I. Vấn đề dân tộc và giai cấp trong chủ nghĩa Mác – Lênin.
Nói đến vấn đề dân tộc, giai cấp và sự thống nhất biện chứng chúng là cả một chủ đề lớn,


thể hiện ở nhiều mặt lí luận và thực tiễn.

1


Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, giai cấp là những tập đoàn người to lớn có địa
vị khác nhau trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ sở
hữu của họ đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò trong tổ chức lao động xã hội… Đấu tranh
giai cấp là cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và bóc lột sức lao động,
chống bọn đặc quyền đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám. Đó là cuộc đấu tranh của những người
công nhân làm thuê hay những người vô sản chống lại những người hữu sản hay giai cấp tư sản.
Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn về mặt địa vị và lợi ích
giữa giai cấp bị trị và giai cấp thống trị. Đỉnh cao của đấu tranh giai cấp là những cuộc cách
mạng xã hội. Nguyên nhân dẫn tới đấu tranh giai cấp là do sư đối lập về lợi ích cơ bản( lợi ích
kinh tế) giữa các giai cấp trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định. Thông qua đấu tranh giai
cấp, mâu thuẫn cơ bản giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được giải quyết, từ đó thúc
đẩy sự phát triển của toàn xã hội.
Đi cùng với vấn đề giai cấp là vấn đề dân tộc. Khái niệm dân tộc được dung để chỉ một
cộng đồng người cụ thể nào đó có những mối liên hệ chặt chẽ, bền vững, có sinh hoạt kinh tế
chung, có ngôn ngữ chung của cộng đồng và trong sinh hoạt văn hóa có những nét đặc thù so với
những cộng đồng khác. Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì dân tộc dung để chỉ một cộng đồng người
ổn định, bền vững hợp thành nhân dân của một quốc gia, dân tộc. Nghiên cứu vế dân tộc và
phong trào dân tộc trong chủ nghĩa tư bản, V.I.Lênin đã phân tích và chỉ ra hai xu hướng phát
triển có tính khách quan:
Xu hướng thứ nhất: Do sự chin muồi của ý thức dân tộc, sự thức tỉnh về quyền sống của
mình, các cộng đồng dân cư muốn tách ra để thành lập các quốc gia dân tộc độc lập tức là xu
hướng khẳng định quyền tự chủ tự quyết dân tộc, bảo vệ bản sắc dân tộc, chống lại các lực lượng
thù địch. Xu hướng này còn được gọi là xu hướng li tâm.
Xu hướng thứ hai: Các dân tộc ở từng quốc gia, kể cả các dân tộc ở nhiều quốc gia muốn
liên hiệp lại với nhau. Khi dân tộc xuất hiện trong xã hội có giai cấp thì vấn đề dân tộc cũng

mang nội dung giai cấp. Trong đó vấn đề giai cấp giữ vai trò quyết định đối với vấn đề dân tộc.
Tuy nhiên vấn đề dân tộc cũng có tính độc lập tương đối của nó. Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng
định: Chỉ trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, khi tình trạng áp bức giai cấp bị thủ tiêu thì tình
trạng áp bức dân tộc mới bị xóa bỏ. Với thắng lợi của cách mạng vô sản, giai cấp công nhân đã
trở thành giai cấp cầm quyền, mở ra quá trình hình thành và phát triển của dân tộc xã hội chủ
nghĩa. Cùng với vấn đề giai cấp, vấn đề dân tộc luôn luôn là một nội dung quan trọng có ý nghĩa
chiến lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giải quyết vấn đề dân tộc là một trong những vấn đề
có ý nghĩa quyết định đến sự ổn định, phát triển hay khủng hoảng, tan rã của một quốc gia dân
tộc. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, vấn đề dân tộc là một bộ phận của những vấn
đề chung về cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản. Do đó giải quyết vấn đề vấn đề dân tộc
2


phải gắn với cách mạng vô sản và trên cơ sở của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác –
Lênin cũng nhấn mạnh rằng, khi xem xét và giải quyết vấn đề dân tộc phải đứng trên lập trường
của giai cấp công nhân. Trên cơ sở tư tưởng của C.Mac và Ph.Ănghen về vấn đề dân tộc và giai
cấp, cùng với sự phân tích hai xu hướng của vấn đề dân tộc, V.I.Lênin đã nêu ra “ Cương lĩnh
dân tộc” với ba nội dung cơ bản : Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự
quyết; liên hiệp các công nhân tất cả các dân tộc. Trong đó nội dung thứ ba là nội dung tư tưởng
cơ bản. Tư tưởng liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là sự thể hiện bản chất quốc tế của giai
cấp công nhân, phong trào công nhân và đặc biệt phản ánh tính thống nhất giữa sự nghiệp giải
phóng dân tộc với giải phóng giai cấp. Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc có ý nghĩa lớn
lao đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đến đây ta có thể thấy mối quan hệ biện chứng giữa
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Quan hệ giai cấp xét
đến cùng cũng qui định sự hình thành dân tộc, quyết định bản chất, xu hướng phát triển của dân
tộc, xác định tính chất các mối quan hệ dân tộc. Áp bức giai cấp là cơ sở, nguyên nhân của áp
bức dân tộc. Ngược lại, áp bức dân tộc tác động mạnh mẽ tới áp bức giai cấp, nuôi dưỡng áp bức
giai cấp làm sâu sắc thêm áp bức giai cấp. Vấn đề dân tộc là vấn đề của cách mạng vô sản. Nhân
tố giai cấp là nhân tố cơ bản trong phong trào giải phóng dân tộc. Đấu tranh giải phóng dân tộc
tạo cơ sở sức mạnh cho giải phóng giai cấp. Như vậy, vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan

hệ mật thiết gắn bó khăng khít. Vấn đề dân tộc là một bộ phận của vấn đề giai cấp. Nguyên nhân
của mâu thuẫn dân tộc là do mâu thuẫn giai cấp qui định. Mỗi giai đoạn lịch sử của dân tộc đều
cần có một giai cấp tiến bộ đại biểu cho dân tộc ở giai đoạn đó.
II. Mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Dân tộc là một vấn đề rộng lớn. Tuy nhiên C.Mác, Ph.Ăngghen đã không đi sâu giải
quyết vấn đề dân tộc, vì thời đó ở Tây Âu vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách mạng
tư sản; hơn nữa, các ông chưa có điều kiện nghiên cứu sâu về vấn đề dân tộc thuộc địa.
Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, cách mạng giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận
của cách mạng vô sản thế giới, V.I. Lênin có cơ sở thực tiễn để phát triển vấn đề dân tộc thuộc
địa thành một hệ thống lý luận. Tuy cả C.Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin đã nêu lên những
quan điểm cơ bản về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, tạo cơ sở
lý luận và phương pháp luận cho việc xác định chiến lược, sách lược của các Đảng Cộng sản
về vấn đề dân tộc và thuộc địa, nhưng từ thực tiễn cách mạng vô sản ở châu Âu, các ông vẫn
tập trung nhiều hơn vào vấn đề giai cấp. Điều kiện từ những năm đầu thế kỷ XX trở đi đã đặt
ra yêu cầu cần phải vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lênin cho phù hợp với thực
tiễn ở các nước thuộc địa và chính Hồ Chí Minh là người đã thấm nhuần sâu sắc tư tưởng đó.
3


Nếu trước kia Mác cho rằng giai cấp vô sản trước hết phải trở thành dân tộc, rằng đấu tranh để
giải phóng nhân loại là tiền đề để giải phóng giai cấp vô sản thì Bác Hồ coi giải phóng dân tộc là
tiền đề để giải phóng giai cấp bị áp bức bóc lột trong xã hội Việt Nam. Nếu dân tộc không được
giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột của giai cấp tư bản đế quốc thì muôn đời cũng không giải
phóng được nhân dân lao động.Sự sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện trên hai
mặt. Một mặt phải tìm mọi khả năng quy tụ nhân dân thuộc mọi tầng lớp xã hội có lòng yêu nước
thương nòi vào một mặt trận rộng lớn, chống quan điểm biệt phái, quan điểm giai cấp cực đoan
có hại cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Mặt khác, phải từng bước giải quyết mâu thuẫn
giai cấp trong nội bộ xã hội Việt Nam, chủ yếu là giữa nông dân với địa chủ, bằng những biện
pháp thích hợp (hiến điền, giảm tô, tức, tạm cấp ruộng đất v.v…) để tăng cường sức dân nhưng

không phá vỡ mặt trận đoàn kết dân tộc. Sự quy tụ lực lượng rộng rãi đó đã tạo nên sức mạnh
quyết định thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Và cũng nhờ đó làm thất bại
chính sách chia để trị của kẻ thù trong bất cứ giai đoạn nào.Trong tư tưởng Hồ Chí Minh người
đề cao vấn đề dân tộc hơn vấn đề giai cấp. Đây là điểm khác biệt so với chủ nghĩa Mác –
Lênin.Ở đây cần nhấn mạnh rằng, trong khi nêu cao vấn đề dân tộc, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh không bao giờ hạ thấp hoặc coi thường vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp. Nhiều nhà
nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh đều có chung nhận định rằng: “Hồ Chí Minh đã giải quyết
đúng đắn, sáng tạo mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa
xã hội trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, đối với Việt Nam, không thể giải quyết vấn đề giai cấp trước rồi mới
giải quyết vấn đề dân tộc như ở các nước tư bản phát triển phương Tây. Mà ngược lại, chỉ có
giải phóng dân tộc thì mới giải phóng được giai cấp, giải phóng dân tộc đã bao hàm một phần
giải phóng giai cấp và tạo tiền đề cho giải phóng giai cấp”. Sở dĩ như vậy là vì, “ở Việt Nam,
cùng với sự tồn tại của mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp trong nội bộ dân tộc, nổi lên mâu
thuẫn dân tộc và đấu tranh giữa toàn dân tộc với chủ nghĩa thực dân đế quốc và bè lũ tay sai”.
Nói tóm lại, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh,
điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam để đề ra con đường cách mạng đầy sáng tạo của Việt Nam
là: “giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội (giai cấp), giải phóng con người với khẩu hiệu: “Đoàn
kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”.
Như vậy, vấn đề “chủ nghĩa dân tộc” trong tư tưởng Hồ Chí Minh là khá rõ ràng. Đối với
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, chủ nghĩa dân tộc chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản thống
nhất với nhau. Hơn thế, trong những điều kiện nhất định, chủ nghĩa dân tộc có thể phát triển
thành chủ nghĩa quốc tế vô sản. Trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, Nguyễn Ái
Quốc cho rằng, “khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi, thì đã lâu lắm rồi, phần lớn thế giới sẽ
xôviết hoá và lúc đó, nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”. Bởi vậy,
4


“chủ nghĩa dân tộc theo Hồ Chí Minh, hoàn toàn không phải là thứ chủ nghĩa dân tộc phong kiến,
tư sản hay của Quốc tế II, (càng không phải là chủ nghĩa dân tộc cải lương), mà là chủ nghĩa dân

tộc chân chính, theo lập trường chủ nghĩa Mác – Lênin, gắn dân tộc với quốc tế, dân tộc với giai
cấp, hướng tới triệt để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người”. Học
thuyết về đấu tranh giai cấp là một nội dung quan trọng trong chủ nghĩa Mác. Khi vận dụng học
thuyết này vào Việt Nam, bằng sự hiểu biết và suy tư sâu sắc về thực tiễn phương Đông và thực
tiễn Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định suy nghĩ riêng của mình về vấn đề đấu tranh giai
cấp ở phương Đông. Ngay ở dòng đầu tiên của Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ,
Nguyễn Ái Quốc đã trình bày ngắn gọn và dứt khoát ý kiến cho rằng, ở phương Đông và ở Việt
Nam, “cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như phương Tây” (phương Tây diễn ra quyết
liệt và đẫm máu hơn). Bởi vì, ở phương Tây, có đấu tranh giai cấp vì có xung đột về quyền lợi
giữa các giai cấp, nhưng ở phương Đông nói chung và ở Việt Nam nói riêng, theo Nguyễn Ái
Quốc, “sự xung đột về quyền lợi của họ được giảm thiểu”. Vì sao giảm thiểu, Nguyễn Ái Quốc
đã phân tích rất cụ thể và thuyết phục như sau: ở Việt Nam, “nếu nông dân gần như chẳng có gì
thì địa chủ cũng không có vốn liếng gì lớn; nếu nông dân chỉ sống bằng cái tối thiểu cần thiết thì
đời sống của địa chủ cũng chẳng có gì là xa hoa; nếu thợ thuyền không biết mình bị bóc lột bao
nhiêu thì chủ lại không hề biết công cụ để bóc lột của họ là máy móc”. Để làm rõ quan điểm này,
Nguyễn Ái Quốc đã so sánh đặc điểm trên ở phương Đông với tình hình ở phương Tây, từ đó,
dựa trên một chuẩn chung theo học thuyết của Mác về giai cấp để nhìn nhận mức độ đấu tranh
giai cấp ở phương Đông. Nguyễn Ái Quốc đã phác họa ra kẻ bóc lột ở phương Đông là “những
kẻ mà ở đó được coi là địa chủ thì chỉ là những tên lùn tịt bên cạnh những người trùng tên với họ
ở châu Âu và châu Mỹ” và “những tên trọc phú ở đó thì ở đây chỉ là những kẻ thực lợi khá giả
thôi”.
Như vậy, khi tiếp thu học thuyết Mác về đấu tranh giai cấp, Nguyễn Ái Quốc cũng thừa nhận đấu
tranh giai cấp là một động lực trong xã hội có giai cấp, nhưng Người không cho đó là động lực
duy nhất. Xuất phát từ điều kiện cụ thể của một nước thuộc địa, mất nước với nhiệm vụ cứu nước
giành độc lập dân tộc đang đặt lên hàng đầu, thì “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất
nước”. Bởi vì, chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính của nhân dân Việt Nam đã
được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử, vốn là động lực tinh thần vô giá trong các cuộc đấu
tranh chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc. Hơn nữa, ở một nước thuộc địa nửa phong kiến,
nông nghiệp lạc hậu, sự phân hoá giai cấp đã bắt đầu nhưng chưa triệt để và sâu sắc, xung đột
giai cấp chưa gay gắt và mạnh mẽ, cả dân tộc đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc giành độc

lập, tự do, thì chủ nghĩa dân tộc là động lực vĩ đại.
Tuy nhiên người luôn trung thành với quan điểm, đường lối tư duy của Quốc tế Cộng sản
5


và Chủ nghĩa Mac – Lênin. Người đã vận dụng linh hoạt sang tạo trong hoàn cảnh cách mạng
Việt Nam.
Quá trình hình thành tư tưởng về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh đã gắn
liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Người ngay từ những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX. Như mọi người đều thấy rõ, trước khi học thuyết Mác – Lênin được truyền bá vào Việt
Nam thì các phong trào yêu nước của người Việt Nam chống thực dân Pháp liên tục nổ ra một
cách rầm rộ: các phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế, các phong trào Duy Tân, Đông
Du, khởi nghĩa Yên Bái… nhưng kết cục tất cả đều thất bại. Nguyên nhân quan trọng nhất khiến
cho các phong trào đó thất bại chính là do sự bế tắc về đường lối, mặc dù các bậc lãnh tụ của
những phong trào yêu nước ấy đã dành nhiều tâm huyết cho sự nghiệp của mình, nhưng do họ
không nhận thức được xu thế và bối cảnh của thời đại, nên không xác định được giai cấp trung
tâm của thời đại lúc này là giai cấp công nhân - giai cấp đại biểu của xã hội cho một phương thức
sản xuất mới, một lực lượng tiến bộ xã hội. Do đó, mục tiêu đi tới của những phong trào ấy
không phản ánh đúng xu thế vận động của lịch sử và thời đại, nên không thể đem lại kết quả và
triển vọng tốt đẹp cho sự phát triển của xã hội Việt Nam. Những nhà nho, sĩ tu yêu nước tuy
mang trong mình tấm lòng yêu nước thương dân , tinh thần dân tộc lớn lao nhưng lại thiếu một
yếu tố quan trọng đó là lập trường tư tưởng đúng đắn.
Trước yêu cầu bức xúc của vấn đề giải phóng dân tộc, từ chủ nghĩa yêu nước, người thanh
niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước năm 1911. Người ra
đi mang theo chủ nghĩa yêu nước bên mình, quyết chí tìm lời giải cho sự bế tắc đó. Người tiếp
xúc với ánh hào quang chân lí của chủ nghĩa Mac – Lênin, để rồi từ đó mở ra con đường sang
chói cho dân tộc Việt Nam. Như đã trình bày ở trên trong tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh rất
coi trọng vấn đề dân tộc, nhưng người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải
quyết vấn đề dân tộc. Điều đó thể hiện sự thấm nhuần sâu sắc, sự kế thừa trung thành của Hồ Chí
Minh đối với hệ tư tưởng Mac – Lênin vế vấn đề này cũng như mọi vấn đề khác của chủ nghĩa xã

hội. Sự kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh được thể hiện
ở những điểm sau:
Một là: Người khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo duy
nhất của Đảng Cộng Sản trong quá trình cách mạng Việt Nam.
Hai là: Chủ trương đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công nhân, nông
dân và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Ba là: Sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng
của kẻ thù.
Bốn là: Thiết lập chính quyền của dân, do dân, vì dân.
Năm là: Gắn mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
6


Đi lên từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh một mặt đi theo lí luận của chủ nghĩa Mac –
Lênin, một mặt vẫn luôn nhấn mạnh đến vấn đề dân tộc. Người cho rằng: giải phóng dân tộc là
vấn đề trên hết và trước hết, nhưng giải phóng để giành độc lập dân tộc thì độc lập dân tộc phải
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Con đường cứu nước của Hồ Chí Minh khác với con đường giải
phóng của ông cha ta – gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa phong kiến ( cuối thế kỉ XIX), với chủ
nghĩa tư bản ( đầu thế kỉ XX). Độc lập dân tộc ý thức hệ phong kiến và ý thức hệ tư bản không
tránh khỏi những hạn chế và mâu thuẫn bắt nguồn từ bản chất kinh tế - chính trị của các chế độ
ấy. Những hình thái kinh tế - xã hội dựa trên quan hệ tư hữu về tư liệu sản xuất và các quan hệ
đối kháng giai cấp. Vượt qua hạn chế đó chỉ có thể là con đường gắn liền độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội, tức là giải quyết độc lập dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân, của chủ
nghĩa xã hội khoa học. Giải phóng dân tộc dẫn tới độc lập dân tộc là phạm trù thuộc về vấn đề
dân tộc. Nhưng chủ nghĩa xã hội là phạm trù thuộc về vấn đề giai cấp. Năm 1960, Người nói: “
chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và
những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Hồ Chí Minh khẳng định rằng: “ chỉ có chủ
nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn
gốc sống tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất…” Trong xã hội chủ nghĩa không
còn mâu thuẫn giai cấp nữa, vấn đề giai cấp được giải quyết triệt để. Chỉ có xóa bỏ tận gốc tình

trạng áp bức, bóc lột, xóa bỏ đến tận gốc rễ của quan hệ bóc lột giai cấp thiết lập một nhà nước
mới thực sự của dân, do dân, vì dân. Tất cả đều mang tính dân tộc trên cơ sở nền tảng tư tưởng
của giai cấp lãnh đạo, thì mới đảm bảo cho người lao động có quyền làm chủ, mới thực hiện
được sự phát triển hài hòa giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc với tự do và hạnh phúc
của con người. Như vậy, giải quyết vấn đề dân tộc luôn phải gắn với mục đích để sao cho vấn đề
giai cấp cũng đồng thời được giả quyết. Người khẳng định rằng: “ Muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc không còn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Kết luận trên đây của
Nguyễn Aí Quốc là sự khẳng định một hướng đi mới, nguyên tắc chiến lược mới, mục tiêu giả
pháp hoàn toàn mới, khác về căn bản so với các lãnh tụ của các phong trào yêu nước trước đó ở
Việt Nam. Đưa cách mạng giải phóng dân tộc vào quĩ đạo của cách mạng vô sản, tức là sự
nghiệp cách mạng ấy phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy hệ tư tưởng của chủ
nghĩa Mac – Lênin làm nền tảng. Vì vậy, con đường phát triển tất yếu của cách mạng giải phóng
dân tộc phải là phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người chỉ rõ: “ Cách mạng giải
phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi
hoàn toàn”. Tư tưởng này của Hồ Chí Minh vừa phản ánh qui luật khách quan của sự ngiệp giải
phóng dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục
tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người.

7


Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, qua khảo sát thực tế ở các nước trên các châu lục
Âu, Phi, Mỹ và ngay cả trên đất Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra nhận xét: chủ nghĩa tư bản, chủ
nghĩa thực dân là nguồn gốc mọi sự đau khổ của công nhân, nông dân lao động ở cả “chính
quốc” cũng như ở thuộc địa. Nghiên cứu các cuộc cách mạng dân chủ tư sản Mỹ (1776); Pháp
(1789), Nguyễn Ái Quốc nhận thấy các cuộc cách mạng này tuy nêu khẩu hiệu ''tự do'', ''bình
đẳng'', nhưng không đưa lại tự do, bình đẳng thực sự cho quần chúng lao động. Người viết: Tiếng
là cộng hoà, dân chủ kì thực trong thì nó bóc lột công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Tuy
khâm phục các cuộc cách mạng ấy, nhưng Nguyên Ái Quốc cho rằng đó là cách mạng chưa đến
nơi. Vì thế, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia hoạt động đấu tranh trong phong trào giải

phóng của các dân tộc bị áp bức, phong trào giải phóng giai cấp công nhân ở các nước tư bản.
Chính vì vậy mà Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến với cách mạng Tháng Mười Nga, đến với V.I.
Lênin như một tất yếu lịch sử. Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi là một sự kiện chính trị đặc
biệt quan trọng trong quá trình hoạt động tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Đặc biệt,
sau khi đọc ''Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin, Nguyễn
Ái Quốc đã thấy rõ hơn con đường đúng đắn mà cách mạng Việt Nam sẽ trải qua. Người khẳng
định: ''Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức
và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ''; ''Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản''. Kết luận trên đây của Nguyễn Ái
Quốc là sự khẳng định một hướng đi mới, nguyên tắc chiến lược mới, mục tiêu và giải pháp hoàn
toàn mới, khác về căn bản so với các lãnh tụ của các phong trào yêu nước trước đó ở Việt Nam;
đưa cách mạng giải phóng dân tộc vào quỹ đạo của cách mạng vô sản, tức là sự nghiệp cách
mạng ấy phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác Lênin làm nền tảng. Vì vậy, con đường phát triển tất yếu của cách mạng giải phóng dân tộc phải
phát triển thành cách mạng XHCN. Người chỉ rõ: ''Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát
triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn''.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã đấu tranh và chỉ đạo giải
quyết mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, bền bỉ chống các quan điểm
không đúng về vấn đề dân tộc và thuộc địa, đã phát triển lý luận về cách mạng giải phóng dân
tộc. Ngay từ khi hoạt động trong phong trào công nhân ở Pháp, Người đã nhận thấy một hố sâu
ngăn cách giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động ''chính quốc'' với giai cấp công nhân và
nhân dân lao động thuộc địa. Đó là chủ nghĩa sô-vanh nước lớn của các dân tộc đi thống trị và
chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi đối với các dân tộc bị thống trị.
Trong Đại hội Tua, thành lập Đảng Cộng sản Pháp (1920), Nguyễn Ái Quốc đã kêu gọi
những người xã hội ủng hộ phong trào giải phóng ở các thuộc địa và lên án phái nghị viện đi theo
đường lối cơ hội của Đệ nhị quốc tế, theo đuổi bọn thực dân phản động, từ chối yêu cầu giải
8


phóng của các dân tộc thuộc địa. Trong nhiều tham luận tại các Đại hội quốc tế và các bài viết,
Nguyễn Ái Quốc đã bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, phê bình một cách kiên quyết và chân thành

những sai lầm, khuyết điểm của các Đảng Cộng sản chính quốc. Các Đảng Cộng sản này, tuy
thừa nhận 21 điều kiện của Quốc tế cộng sản, trong đó Điều 8 quy định các Đảng Cộng sản ở
chính quốc phải ủng hộ và hoạt động một cách thiết thực giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc;
nhưng trên thực tế hoạt động rất ít, do không nhận thức đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc
địa.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, trong ''Chính cương vắn tắt''
do Nguyên Ái Quốc khởi thảo đã khẳng định: ''Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản''. Như vậy là, lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng
Việt Nam, với Hồ Chí Minh, sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng
XHCN. Cuộc cách mạng này kết hợp trong bản thân nó tiến trình của hai sự nghiệp giải phóng:
giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân và giải phóng giai cấp khỏi ách áp bức bóc lột. Vấn đề
dân tộc được giải quyết trên lập trường của giai cấp công nhân - điều đó phù hợp với xu thế thời
đại và lợi ích của các giai cấp và lực lượng tiến bộ trong dân tộc. Sức mạnh đi tới thắng lợi của
cách mạng Việt Nam không phải là cái gì khác mà là mục tiêu dân tộc luôn thống nhất với mục
tiêu dân chủ trên cơ sở định hướng XHCN. Đặc điểm nổi bật của cách mạng Việt Nam là cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân triệt để, tạo tiền đề cho bước chuyển sang thời kỳ quá độ lên
CNXH tức là, cách mạng XHCN là bước kế tiếp ngay khi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
thắng lợi và giữa hai cuộc cách mạng này không có một bức tường nào ngăn cách. Đây là quan
điểm hết sức căn bản của tư tưởng Hồ Chí Minh: chỉ có hoàn thành cách mạng giải phóng dân
tộc mới có điều kiện để tiến lên CNXH và chỉ có cách mạng XHCN mới giữ vững được thành
quả cách mạng giải phóng dân tộc, mới mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi
tầng lớp nhân dân, mới có độc lập dân tộc thực sự.
Như chúng ta đều biết, Hồ Chí Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác Lênin. Từ đó, Người đã phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, trong sự
thống nhất với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Bởi vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đúng như Ph.
Ăng-Ghen đã nói:
Những tư tưởng dân tộc chân chính... đồng thời cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính.
Sự phát triển tự tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ đạo sự phát triển của thực tiễn cách mạng Việt Nam,
trong sự thúc đẩy lẫn nhau giữa dân tộc và giai cấp, ý thức giác ngộ về cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc là tiền đề quyết định nhất, cũng là động lực chủ yếu để Nguyễn Ái Quốc đến với chủ
nghĩa Mác - Lênin và tiếp thu quan điểm mác-xít về giai cấp. Đó chính là nhân tố đảm bảo tính

khoa học và cách mạng cho sự phát triển tinh thần dân tộc đúng đắn ở người chiến sĩ cộng sản
9


Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh chính là vấn đề
dân tộc thuộc địa. Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp, nhưng đồng
thời đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc tạo tiền đề giải phóng giai cấp.
Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân là điều kiện tiên quyết để giải
phóng giai cấp bị trị khỏi sự áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị. Chính vì vậy lợi ích của giai
cấp phải phục tùng lợi ích của dân tộc. Điều này hoàn toàn phù hợp với lập luận của chủ nghĩa
Mac – Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai cấp đã đề cập ở trên. Trong tiến
trình cách mạng, nhất là ở những thời điểm có ý nghĩa quyết định như khi chuẩn bị tổng khởi
nghĩa trong cách mạng tháng Tám – 1945 hay những năm tháng cực kì cam go của cuộc kháng
chiến chống Mĩ sau này. Hồ Chí Minh nhấn mạnh quyền lợi dân tộc lên trên hết và trước hết.
Tháng 5/1941, Người cùng với Trung ương Đảng khẳng định: “ Trong lúc này quyền lợi của bộ
phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này,
nếu không giải quyết được vấn đề giải phóng dân tộc, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể
dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của
bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Bởi vì “giai cấp vô sản mỗi nước trước
hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành
dân tộc”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình đấu tranh cách mạng:
giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản không phải chỉ là chứng minh cho sự đúng đắn của chủ
nghĩa Mác - Lênin, mà còn là sự phát triển sáng tạo và có giá trị định hướng rất cơ bản. Qua thực
tiễn đấu tranh và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, luôn bám sát đặc điểm thực tiễn Việt Nam và
tham khảo kinh nghiệm các nước khác, Hồ Chí Minh đã có những giải pháp đúng đắn, sáng tạo,
đáp ứng đòi hỏi của lịch sử, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin.Đó cũng chính là nguồn gốc sức mạnh của cách mạng nước ta trong suốt bảy thập kỷ qua.
Phân tích sự kết hợp hữu cơ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, ta có thể thấy Hồ Chí
Minh đã vạch ra hướng đi vô cùng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Đó là chìa khóa đi đến thành

công của cách mạng Việt Nam bởi vì:
Trước hết, muốn giành được thắng lợi triệt để thì cách mạng giải phóng dân tộc trong thời
đại mới phải đi theo quỹ đạo và là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản. Cuộc cách
mạng đó phải được lãnh đạo bởi chính Đảng của giai cấp công nhân nhưng phải có toàn dân
tham gia trong đó lực lượng nòng cốt là liên minh công – nông. Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ,
nếu chỉ đưa vào lực lượng của riêng giai cấp công nhân, thậm chí cả giai cấp nông dân là hoàn
toàn không đủ mà theo Người, chỉ khi nào toàn dân tộc cùng tham gia đấu tranh mới biến sức
mạnh dân tộc thành lực lượng vô địch.
10


Hai là, cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ dân tộc (mâu thuẫn địa
chủ - nông dân, mâu thuẫn tư sản - vô sản) không tách rời cuộc đấu tranh dân tộc - giải quyết
mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với các thế lực đế quốc xâm lược. Nhưng trước hết và trên hết là
phải giải quyết được vấn đề dân tộc , giải phóng dân tộc. “ Chính lập trường và lợi ích của giai
cấp công nhân đòi hỏi phải giải phóng dân tộc’. Ở đây cần nhấn mạnh rằng, vấn đề giai cấp được
thể hiện ở vấn đề dân tộc còn vấn đề dân tộc được giải quyết trên lập trường của giai cấp công
nhân chứ không phải là hi sinh cái nọ cho cái kia.
Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản ở chính quốc như ''hai cánh của
một con chim'', phải thực hiện sự liên minh giữa vô sản ở chính quốc với vô sản và nhân dân các
nước thuộc địa thì cách mạng mới thắng lợi. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa
không phụ thuộc một chiều vào cách mạng vô sản ở chính quốc, mà có thể phải chủ động tiến lên
giành thắng lợi, thậm chí có thể giành thắng lợi trước, từ đó góp phần tích cực hỗ trợ cho cách
mạng ở các nước tư bản. Đó là nhận định hết sức đúng đắn, táo bạo và sáng tạo của Hồ Chí
Minh. Đáng tiếc là có lúc quan điểm này của Hồ Chí Minh không được một số người, trong đó
có một vài người của Quốc tế cộng sản cũng không thừa nhận.
Bốn là, sau khi giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị ngoại bang, khỏi chế độ thuộc địa.
Dân tộc vừa được giải phóng phải quá độ lên CNXH và trong bước quá độ ấy phải tự mình tìm
tòi con đường, phương thức riêng phù hợp với tình hình và đặc điểm đất nước. Tránh giáo điều,
dập khuôn những hình thức, bước đi, biện pháp của nước khác.

Từ quan điểm độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, Người đã khẳng định: Cách
mạng giải phóng trong thời đại mới phải do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo và “ Đảng Cộng
sản Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất”. Theo Hồ Chí Minh, “ Đảng Cộng sản Việt Nam là
Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam”. Phát triển
sáng tạo học thuyết Mac – Lênin về Đảng Cộng sản, Người cho rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam
là “ Đảng của giai cấp

vô sản” đồng thời là “ Đảng của dân tộc Việt Nam”, “ Đảng của giai

cấp công nhân và nhân dân lao động, nhĩa là những người thợ thuyền, dân cày và lao động trí
óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ Quốc và nhân
dân ( trích: Hồ Chí Minh toàn tập). Đảng có sự gắn kết chặt chẽ với giai cấp công nhân với nhân
dân lao động và cả dân tộc trong mọi thời kì của cách mạng Việt Nam. Ngay từ khi mới ra đời,
Đảng do Hồ Chí Minh sang lập đã qui tụ được lực lượng và sức mạnh của toàn bộ giai cấp công
nhân và cả dân tộc việt nam. Nhờ đó ngay từ đầu Đảng đã nắm ngọn cờ lãnh đạo duy nhất đối
với cách mạng Việt Nam và trở thành nhân tố hàng đầu bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng.
Điều này cũng thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trung thành với những quan điểm của V.I.Lênin, Bác vẫn khẳng định bản chất giai cấp công
11


nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hơn thế nữa Bác còn giữ được tinh thần dân tộc trong quan
điểm của mình. Trong báo cáo chính trị tại Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng
( thắng 2/1951) Hồ Chí Minh nêu rõ: “ Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động và của cả dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”. Năm
1953, Bác viết: “ Đảng Lao động là tổ chức cao nhất của giai cấp cần lao và đại biểu cho lợi ích
của cả dân tộc…Đảng là đảng của giai cấp lao động mà cũng là đảng của toàn dân”. Năm 1957,
Hồ Chí Minh khẳn định: “ Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là đội
tiên phong của dân tộc”. Năm 1961, Bác tiếp tục khẳng đinh: “ Đảng ta là đảng của giai cấp,

đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư thiên vị”. Năm 1965, Người cho rằng: “ Đảng ta
xứng đáng là đội tiên phong, là bộ tham mưu của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của
cả dân tộc”. Qua hàng loạt các cách thể hiện khác nhau như vậy, Hồ Chí Minh vẫn khẳng định
được bản chất giai cấp của Đảng ta là Đảng mang bản chất của giai cấp công nhân. Đảng không
những là Đảng của giai cấp công nhân mà còn là Đảng của toàn dân tộc. Quan điểm này có ý
nghĩa lớn lao đối với cách mạng Việt Nam. Đảng đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc cho nên
nhân dân Việt Nam coi Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của chính mình. Trong thành phần của
Đảng, ngoài công nhân, còn có những người ưu tú trong giai cấp công nhân, trí thức và các thành
phần khác. Đảng ta cũng khẳng định rằng, để đảm bảo và tăng cường bản chất giai cấp công
nhân, Đảng luôn gắn bó mật thiết với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc
trong tất cả các thời kì cách mạng. Hồ Chí Minh rèn luyện Đảng luôn chú trọng tính thống nhất
giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc. Sức mạnh của Đảng không chỉ bắt nguồn từ giai cấp công
nhân mà còn bắt nguồn từ các tầng lớp nhân dân lao động khác. Nghị quyết Đại Hội lần VII của
Đảng đã chỉ rõ: “ Khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng, chúng ta không tách rời
Đảng và giai cấp công nhân với các tầng lớp nhân dân lao động khác, với toàn thể dân tộc. Ngay
từ khi mới thành lập Đảng ta đã mang trong mình tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố
dân tộc…”. Ở đây, Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ nét sự thống nhất biện chứng giữa bản chất giai
cấp công nhân và tính dân tộc, tính nhân dân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mọi hoạt động của
Đảng đều đồng thời giải quyết cả vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Mọi biểu hiện tuyệt đối hóa
vấn đề giai cấp coi nhẹ vấn đề dân tộc hoặc quá nhấn mạnh vấn đề dân tộc mà xem nhẹ vấn đề
giai cấp đều đi ngược lạị với quan điểm của Hồ Chí Minh. Vì vậy mà một trong bốn nội dung về
công tác xây dựng Đảng về tư tưởng, lí luận, có nôi dung như sau: Đảng ta phải tăng cường đấu
tranh để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, chú ý chống giáo điều, cơ hội, chống
chủ nghĩa cá nhân…Thực tiễn đã cho thấy, trong 80 năm tồn tại và phát triển của mình, Đảng
Cộng sản Việt Nam là người duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam và cách mạng Việt Nam 80
năm qua luôn “ cần có sự lãnh đạo của một Đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân,
12


toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân” để đưa cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi và

cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công.
Đây là một tư tưởng lớn trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh mang tính sang tạo cao nó
cho phép khơi dậy sức mạnh đoàn kết thống nhất của cả dân tộc. Vì lợi ích chung của cả dân tộc.
Bởi vậy trong tư tưởng của mình, Ngời luôn thể hiện chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ
sở lãnh đạo tổng hợp của Đảng Cộng sản. Trong tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc,
Người cho rằng: Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn bộ dân tộc. Hồ Chí
Minh hết sức nhấn mạnh vai trò động lực cách mạng của công nhân và nông dân, nhưng cũng
không coi nhẹ khả năng tham gia sự nghiệp giải phóng dân tộc của các giai cấp và các tầng lớp
khác. Người chỉ rõ: Công nông là” gốc cách mệnh”, “ học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng
bị tư bản áp bức, song không cưc khổ bằng công nông, ba hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của
công nông thôi”. Như thế là Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh yếu tố giai cấp trong lực lượng, nhưng
lại luôn giữ vững tinh thần dân tộc trong đó. Hai yếu tố dân tộc và giai cấp luôn đan xen gắn bó
trong tư duy của Người và được thể hiện rất sâu sắc trong hệ thống tư tưởng của Hồ Chí Minh.
III. Ý nghĩa thực tế đối với cách mạng Việt Nam.
Trong thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay, việc vận
dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hố Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân
tộc và vấn đề giai cấp ngày càng có ý nghĩa vô cùng quan trọng và hết sức cấp thiết. Bởi vì, thực
tế đã cho ta bài học là, có thời kỳ, trong giai đoạn triển khai công cuộc xây dựng và phát triển
CNXH, khi vạch ra các nhiệm vụ đã có lúc Đảng ta phạm sai lầm đưa ra các quyết định nóng
vội, chủ quan, duy ý chí, quá nhấn mạnh vấn đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân tộc trong
việc hoạch định và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến lợi ích các giai cấp,
tầng lớp không được tính đến đầy đủ không có sự thống nhất và kết hợp chặt chẽ trong nhân dân
về mục tiêu và li tưởng, làm cho sức mạnh dân tộc không được phát huy, không trở thành động
lực cốt yếu cho sự phát triển của đất nước. Nhưng ngay sau đó, khi nhận ra sai lầm, rút ra bài học
kinh nghiệm, Đảng ta đã kịp thời khắc phục có hiệu quả cả về phương diện nhận thức lý luận
cũng như trong hoạt động thực tiễn đi đúng hướng đi của một Đảng Cộng sản.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, ở nước ta đã nảy sinh ý kiến cho rằng: mối quan hệ
giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp luận chứng trong chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh chỉ đúng với một số nước khác nào đó, còn ở Việt Nam vốn là nước thuộc địa, nửa
phong kiến, vấn đề dân tộc bao giờ cũng chi phối, khi nào Đảng nhấn mạnh vấn đề giai cấp thì

đều dẫn đến sai lầm. Từ đó, họ đề xuất ý kiến theo hướng nhấn mạnh một chiều vấn đề dân tộc,
tách vấn đề dân tộc khỏi vấn đề giai cấp, chỉ nhấn mạnh tuyệt đối vấn đề dân tộc, hạ thấp vai trò
và vị trí cũng như quan hệ mật thiết của vấn đề giai cấp với vấn đề dân tộc, không lấy quan điểm
giai cấp làm quan điểm cơ sở lập trường để xem xét, giải quyết vấn đề dân tộc mà có thể giải
13


quyết vấn đề dân tộc một cách độc lập, riêng rẽ. Theo họ, nước ta hiện nay chỉ nên đề ra và giải
quyết những vấn đề dân tộc, còn vấn đề giai cấp không nên đặt ra. Mục tiêu ''dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh'' được họ đồng tình, nhưng lại giải thích theo hướng
phi giai cấp, nghĩa là không nhất thiết phải theo định hướng XHCN. Thực chất là họ bác bỏ
đường lối giải quyết vấn đề dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân. Quan điểm nêu trên
đi ngược với con đường mà Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn, và rõ ràng là
không phù hợp với thực tiễn của lịch sử cách mạng Việt Nam. Thực tiễn đó đã chỉ ra rằng, trong
bất cứ giai đoạn lịch sử nào, sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đều phải kết hợp nhuần
nhuyễn lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc. Trong chủ nghĩa yêu nước Việt Nam luôn luốn gắn bó
hữu cơ với lý tưởng của giai cấp công nhân Việt Nam. Nền độc lập thật sự của dân tộc, tự do, sự
giàu mạnh, văn minh và hạnh phúc của nhân dân chỉ có thể đạt được một cách bền vững khi cuộc
đấu tranh dân tộc dựa trên ý chí và bản lĩnh của giai cấp công nhân. Sự nghiệp cách mạng phải đi
theo mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân. Bởi vậy, ngay từ khi khởi xướng và lãnh đạo
công cuộc đổi mới, Đảng ta đã xác định rõ: đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là
quan niệm đúng đắn hơn về CNXH để từ đó có những bước đi và hành động phù hợp hơn nữa
tránh mắc vào những quan điểm sai lầm, lạc lối . Nói cách khác, giữ vững định hướng XHCN là
nguyên tắc cơ bản của quá trình đổi mới.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, Đảng ta đã
ngày càng cụ thể hoá và hoàn thiện đường lối đổi mới toàn diện, mà thực chất là nhận thức đúng
đắn và sâu sắc hơn về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp đúng đắn vấn đề
dân tộc với vấn đề giai cấp trong công cuộc xây đựng CNXH ở nước ta.
Trong văn kiện của Đảng ta tại Đại hội lần thứ IX đã xác định rõ: “mối quan hệ giữa các
giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và

hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây đựng và bảo vệ Tổ quốc chịu dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi
ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là: độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.
Giờ đây trong thời bình, nhìn lại quá khứ gian nan mà đầy oanh liệt của đất nước ta lại càng
nhận thấy nhân tố quan trọng đưa cách mạng Việt Nam di đến thắng lợi vẻ vang chính là nhờ có
có sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản, sâu sa hơn là nhờ sự thiên tài, sáng suốt của Hồ Chí
Minh trong việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong điều kiện cụ thể
của đất nước. Nét đặc sắc trong mối quan hệ ấy là việc gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã
hội. Yếu tố đó xuyên suốt toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam, chi phối các mặt khác của
cuộc cách mạng. Đặc biệt trong thế kỉ XX, một thế kỉ vận động mạnh mẽ và phát triển mau lẹ
cùng với những biến động phức tạp của tình hình thế giới, chúng ta càng thấy rõ tầm quan trọng
và sự đúng đắn cao độ trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp. Để tận dụng
14


thời cơ và đẩy lùi thách thức, Việt Nam đã giải quyết mối quan hệ này bằng việc giải quyết tốt
mối quan hệ giữa giai cấp với đoàn kết dân tộc, giải quyết mối quan hệ giữa phát triển nền kinh
tế thị trường với đoàn kết dân tộc, giải quyết mối quan hệ giữa giữ vững độc lập tự chủ với mở
rộng hợp tác quốc tế, phát huy sức mạnh nội lực của dân tộc và tranh thủ sức mạnh của thời đại.
Theo Hồ chí Minh sức mạnh của thời đại là sức mạnh của giai cấp vô sản thế giới, của nhân dân
lao động thế giới. Người cho rằng, phải dựa vào sức mạnh dân tộc là chủ yếu nhưng cũng phải
biết tận dụng của thời đại thì mới dễ bề thắng lợi. Tư tưởng đó đã được kiểm nghiệm bằng thực
tế cả trong chiến tranh ác liệt và trong hòa bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, trong bối
cảnh các dân tộc đang đứng trước những thử thách mới về nguy cơ bạo loạn, lật đổ của các thế
lực thù địch, hiếu chiến, chúng dựa vào sức mạnh và sự hiện đại tối tân của quân sự để gây ra các
cuộc chiến đẫm máu, hòng xâm lược các nước có chủ quyền, bất chấp luật pháp. Điều đó càng
cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, học tập, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề dân tộc và giai cấp trong tình hình mới, làm cơ sở vững chắc cho việc vận dụng, hoạch định,
tổ chức và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, để đưa dân tộc ta vượt qua
mọi thử thách, vững bước trong quá trình xây dựng một đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Chúng ta đã bàn tới rất nhiều luận điểm cũng như các mặt trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tất
cả chỉ để làm sáng tỏ mối quan hệ biện chứng vô cùng phức tạp và quan trọng trong tư tưởng của
Người. Đó là mối quan hệ khăng khít giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Ta có thể thấy hai
vấn đề này luôn tồn tại đan xen nnhau trong bất cứ luận chứng nào của Bác. Khi nói đến vấn đề
dân tộc luôn phải lấy cơ sở giai cấp làm điểm tựa để giải thích và phát triển. Còn khi bàn về vấn
đề giai cấp thì chắc chắn phải đi liền với việc giải quyết tốt cho vấn đề dân tộc. Điều đó không
những là minh chứng đắt giá cho sự trung thành của Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mac – Lênin mà
còn thể hiện sự tài tình của Người trong việc vận dụng hợp lí và phát triển sáng tạo lí luận ấy
trong thực tiễn cách mạng nước nhà. Tư tưởng ấy như ánh hào quang le lói đến từng ngõ nhỏ của
hệ tư tưởng Hồ Chí Minh, là một mái chèo đắc lực đưa con thuyền cách mạng Việt Nam đến bến
bờ thành công rực rỡ.
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài
sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta. Đối với Đảng và cách mạng nước ta kiên trì, vận
dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mac – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được quán triệt trong
mọi chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mac –
Lênin ở Việt Nam, có nắm được tư tưởng Hồ Chí Minh mới hiểu thấu đáo đường lối cách mạng
Việt Nam. Nghiên cứu học tập tư tưởng Hồ Chí Minh là nhằm thấm nhuần sâu sắc hệ thống quan
điểm và phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh, nâng cao thêm lòng yêu nước, tinh thần phục vụ

15


nhân dân, đạo đức cách mạng của mỗi người để làm cho chủ nghĩa Mac –Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh thực sự trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam trong hoạt động của chúng ta.
Bởi thế nên dù đang sống trong thời bình mỗi công nhân Việt Nam cần có ý thức trau dồi
và rèn luyện không ngừng để thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, hiểu rõ và sâu mối quan hệ
giữa vấn đề dân tộc và giai cấp. Điều này đặc biệt quan trọng đối với những cán bộ, Đảng viên và
những nhà lãnh đạo đất nước trong việc vận dụng tư tưởng đó làm cơ sở để hoạch định chiến
lược, chính sách xây dựng và phát triển đất nước đưa dân tộc vượt qua mọi khó khăn thử thách,

vững bước trong tiến trình: “ Xây dựng một đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng dân chủ văn minh”. Đặc biệt là ở thế kỉ XXI này, mở đầu thiên nhiên kỉ thứ ba của
một thế giới đầy biến động, cũng động thời mở ra một kỉ nguyên hội nhập, cạnh tranh gay gắt
của cộng động quốc tế. Nhưng dù thời cuộc có biến đổi xoay vần ra sao, dù có phải đối mặt với
xu thế toàn cầu hóa thì giá trị tư tưởng của Hồ Chí Minh trong đó có mối quan hệ giữa vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp sẽ luôn là di sản vô giá của lịch sử của thời đại và mãi mãi trường tồn
vĩnh cửu với thời gian. Từ đó chứng tỏ cho cả dân tộc Việt Nam và bạn bè trên thế giới biết rằng:
“ Tư tưởng cao đẹp của Hồ Chí Minh đã đang và sẽ mãi mãi là chân lí sáng ngời, góp phần vào
sự kiến tạo và phát triển của cả một dân tộc và của nhân loại”.

16



×