Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng HCM (4)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.31 KB, 10 trang )

Đề bài:Mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng
Hồ Chí Minh

Bài làm
1.Quan điểm của chủ nghĩa Mác - lênin về mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp, dân tộc
-Quan điểm của chủ nghĩa Mác - LêNin về mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp, dân tộc
+ Giai cấp: những tập đoàn to lớn, những tập đoàn này khác nhau về địa vị của họ
trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử.(khác về: đối với tài liệu
sản xuất ; vai trò trong tổ chức lao động ; cách hưởng thụ )
+ Đấu tranh giai cấp : là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp có lợi ích cơ bản đối lập
nhau và không thể điều hoà được. Đỉnh cao của đấu tranh giai cấp là cách mạngxã
hội.
Đấu tranh giai cấp nảy sinh do sự đối lập về lợi ích căn bản và không điều hoà được
của các giai cấp có địa vị khác nhau trong hệ thống sản xuất xã hội nhất định.Thông
qua đấu tranh giai cấp mà mâu thuẫn lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được
giải quyết. Trên cơ sở đó thúc đẩy xã hội phát triển.
+Dân tộc: là khái niệm chỉ hầu như tất cả các hình thức cộng đồng người trong lịch
sử.
*Quan hệ giai cấp - dân tộc:
- Vai trò giai cấp đối với dân tộc:
+ Quan hệ giai cấp xét cho cùng quy định sự hình thành dân tộc, xu hướng, bản chất
xã hội , tính chất quan hệ giữa các dân tộc.
+ Áp bức giai cấp là cơ sở , nguyên nhân của áp bức dân tộc.
+ Nhân tố giai cấp là nhân tố cơ bản trong phong trào giải phóng dân tộc.
- Vai trò dân tộc đối với giai cấp:
+ Vấn đề dân tộc là vấn đề hàng đầu của cách mạng vô sản
+ Áp bức dân tộc tác động mạnh mẽ tới áp bức giai cấp, nuôi dưỡng áp bức giai cấp,
làm sâu sắc thên áp bức giai cấp.
+ Đấu tranh dân tộc tác động mạnh mẽ tới đấu tranh giai cấp
+ Dân tộc là cơ sở của giai cấp, nuôi dưỡng đấu tranh giai cấp, tạo cơ sở sức mạnh
giai cấp


2. Hồ Chí minh xử lý vấn đề giai cấp và dân tộc như thế nào
Hồ Chí Minh, nhà cách mạng tiêu biểu nhất của các dân tộc bị áp bức trong thời đại
ngày nay, đã vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Mác - Lênin về quan hệ biện
chứng giữa giai cấp và dân tộc, đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc. Từ những
năm 20 của thế kỷ này, Hồ Chí Minh nhận định rằng cách mạng vô sản ở các nước tư
bản và cách mạng giải phóng dân tộc phải như: "đôi cánh của một con chim". Qua
nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, Hồ Chí Minh đi đến kết luận hết sức cơ bản:
"Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường
1


cách mạng vôsản"1. Hồ Chí Minh đã dự kiến một cách thiên tài rằng, cách mạng giải
phóng dân tộcthời đại ngày nay không phải là nhân tố bị động, phụ thuộc một chiều
vào cách mạng vô sản ở các nước tư bản phát triển; trái lại, nếu đảng của giai cấp
công nhân có đường lối
đúng đắn, biết phát huy nhân tố bên trong và điều kiện quốc tế, nắm vững thời cơ, thì
cách mạng ở nước thuộc địa có thể thành công trước cách mạng ở "chính quốc". Một
trong những bài học lớn nhất của cách mạng Việt Nam là bài học về sự kết hợp chặt
chẽ nhuần nhuyễn đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc, giải phóng dân tộc và giải
phóng xã hội. Đó là điểm cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Quan điểm của giai cấp công nhân đối với vấn đề giai cấp dân tộc còn thể hiện ở việc
giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc và quốc tế, lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế,
giữa mở rộng giao lưu quốc tế với giữ gìn độc lập, bản sắc dân tộc. Lợi ích dân tộc
chân chính và lợi ích quốc tế của giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước
không đối lập nhau mà thống nhất với nhau. Đảng cách mạng chân chính của giai cấp
công nhân, chủ trương tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, sự đoàn kết các dân tộc trên
thế giới trong cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội, kiên quyết
chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa sôvanh ích kỷ dân tộc, chủ nghĩa bá quyền áp dặt
cho các dân tộc cái trật tự thế giới phục vụ cho lợi ích ích kỷ của một nước nay một
nhóm nước có ưu thế về kinh tế, quân sự và thông tin.

Trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới theo đường lối
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam ngày càng thu
được những thắng lợi to lớn có ý nghĩa lịch sử. Đó là thắng lợi của đường lối nắm
vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
3.Tư tưởng biện chứng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn
đề giai cấp là một trong những nhân tố đảm bảo thành công của cách mạng Việt Nam,
một trong những đóng góp xuất sắc của Người vào kho tàng lý luận cách mạng của
chủ nghĩa Mác - Lênin.
Quá trình hình thành tư tưởng về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh
đã gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Người ngay từ những năm cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Như mọi người đều thấy rõ, trước khi học thuyết Mác –
Lênin được truyền bá vào Việt Nam thì các phong trào yêu nước của người Việt Nam
chống thực dân Pháp liên tục nổ ra, nhưng kết cục đều thất bại. Nguyên nhân quan
trọng nhất khiến cho các phong trào đó thất bại chính là do bế tắc về đường lối, mặc
dù các bậc lãnh tụ của những phong trào yêu nước ấy đã dành nhiều tâm huyết cho sự
nghiệp của mình, nhưng do họ không nhận thức được xu thế của thời đại, nên không
thấy được giai cấp trung tâm của thời đại lúc này là giai cấp công nhân - giai cấp đại
biểu cho một phương thức sản xuất mới, một lực lượng tiến bộ xã hội. Do đó, mục
tiêu đi tới của những phong trào ấy không phản ánh đúng xu thế vận động của lịch sử
và thời đại, nên không thể đem lại kết quả và triển vọng tốt đẹp cho sự phát triển của
xã hội Việt Nam.
Trước yêu cầu bức xúc của vấn đề giải phóng dân tộc, từ chủ nghĩa yêu nước, người
thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước.
2


''Công lao to lớn đầu tiên của Bác đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam là đã tìm ra
con đường cứu nước, khai phá con đường giải phóng dân tộc và các dân tộc bị áp bức
trên thế giới''.
Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, qua khảo sát thực tế ở các nước trên các

châu lục Âu, Phi, Mỹ và ngay cả trên đất Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra nhận xét:
chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân là nguồn gốc mọi sự đau khổ của công nhân,
nông dân lao động ở cả “chính quốc” cũng như ở thuộc địa. Nghiên cứu các cuộc
cách mạng dân chủ tư sản Mỹ (1776); Pháp (1789), Nguyễn Ái Quốc nhận thấy các
cuộc cách mạng này tuy nêu khẩu hiệu ''tự do'', ''bình đẳng'', nhưng không đưa lại tự
do, bình đẳng thực sự cho quần chúng lao động. Người viết: Tiếng là cộng hoà, dân
chủ kì thực trong thì nó bóc lột công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Tuy khâm
phục các cuộc cách mạng ấy, nhưng Nguyên Ái Quốc cho rằng đó là cách mạng chưa
đến nơi. Vì thế, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia hoạt động đấu tranh trong
phong trào giải phóng của các dân tộc bị áp bức, phong trào giải phóng giai cấp công
nhân ở các nước tư bản. Chính vì vậy mà Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến với cách mạng
Tháng Mười Nga, đến với V.I. Lênin; như một tất yếu lịch sử. Cách mạng Tháng
Mười Nga thắng lợi là một sự kiện chính trị đặc biệt quan trọng trong quá trình hoạt
động tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Đặc biệt, sau khi đọc ''Sơ thảo lần
thứ nhất Luận cương về dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã
thấy rõ hơn con đường đúng đắn mà cách mạng Việt Nam sẽ trải qua. Người khẳng
định: ''Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc
bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ''; rằng: ''Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản''. Kết luận trên đây của Nguyễn Ái Quốc là sự khẳng định một hướng đi mới,
nguyên tắc chiến lược mới, mục tiêu và giải pháp hoàn toàn mới, khác về căn bản so
với các lãnh tụ của các phong trào yêu nước trước đó ở Việt Nam; đưa cách mạng giải
phóng dân tộc vào quỹ đạo của cách mạng vô sản, tức là sự nghiệp cách mạng ấy phải
do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin
làm nền tảng. Vì vậy, con đường phát triển tất yếu của cách mạng giải phóng dân tộc
phải phát triển thành cách mạng XHCN. Người chỉ rõ: ''Cách mạng giải phóng dân
tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi
hoàn toàn''.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã đấu tranh và chỉ
đạo giải quyết mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, bền bỉ

chống các quan điểm không đúng về vấn đề dân tộc và thuộc địa, đã phát triển lý luận
về cách mạng giải phóng dân tộc. Ngay từ khi hoạt động trong phong trào công nhân
ở Pháp, Người đã nhận thấy một hố sâu ngăn cách giữa giai cấp công nhân và nhân
dân lao động ''chính quốc'' với giai cấp công nhân và nhân dân lao động thuộc địa. Đó
là chủ nghĩa sô-vanh nước lớn của các dân tộc đi thống trị và chủ nghĩa dân tộc hẹp
hòi đối với các dân tộc bị thống trị.
Trong Đại hội Tua, thành lập Đảng Cộng sản Pháp (1920), Nguyễn Ái Quốc đã kêu
gọi những người xã hội ủng hộ phong trào giải phóng ở các thuộc địa và lên án phái
nghị viện đi theo đường lối cơ hội của Đệ nhị quốc tế, theo đuổi bọn thực dân phản

3


động, từ chối yêu cầu giải phóng của các dân tộc thuộc địa. Trong nhiều tham luận tại
các Đại hội quốc tế và các bài viết, Nguyễn Ái Quốc đã bảo vệ chủ nghĩa Mác Lênin, phê bình một cách kiên quyết và chân thành những sai lầm, khuyết điểm của
các Đảng Cộng sản chính quốc. Các Đảng Cộng sản này, tuy thừa nhận 21 điều kiện
của Quốc tế cộng sản, trong đó Điều 8 quy định các Đảng Cộng sản ở chính quốc
phải ủng hộ và hoạt động một cách thiết thực giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc;
nhưng trên thực tế hoạt động rất ít, do không nhận thức đúng tầm quan trọng của vấn
đề thuộc địa.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, trong ''Chính cương
vắn tắt'' do Nguyên Ái Quốc khởi thảo đã khẳng định: ''Chủ trương làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản''. Như vậy là, lần đầu
tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, với Hồ Chí Minh, sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc gắn liền với cách mạng XHCN. Cuộc cách mạng này kết hợp trong bản
thân nó tiến trình của hai sự nghiệp giải phóng: giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực
dân và giải phóng giai cấp khỏi ách áp bức bóc lột. Vấn đề dân tộc được giải quyết
trên lập trường của giai cấp công nhân - điều đó phù hợp với xu thế thời đại và lợi ích
của các giai cấp và lực lượng tiến bộ trong dân tộc. Sức mạnh đi tới thắng lợi của
cách mạng Việt Nam không phải là cái gì khác mà là mục tiêu dân tộc luôn thống

nhất với mục tiêu dân chủ trên cơ sở định hướng XHCN. Đặc điểm nổi bật của cách
mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân triệt để, tạo tiền đề cho bước
chuyển sang thời kỳ quá độ lên CNXH; tức là, cách mạng XHCN là bước kế tiếp
ngay khi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thắng lợi và giữa hai cuộc cách mạng
này không có một bức tường nào ngăn cách. Đây là quan điểm hết sức căn bản của tư
tưởng Hồ Chí Minh: chỉ có hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc mới có điều
kiện để tiến lên CNXH và chỉ có cách mạng XHCN mới giữ vững được thành quả
cách mạng giải phóng dân tộc, mới mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho
mọi tầng lớp nhân dân, mới có độc lập dân tộc thực sự.
Như chúng ta đều biết, Hồ Chí Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa
Mác - Lênin. Từ đó, Người đã phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt
Nam, trong sự thống nhất với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Bởi vậy, trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, đúng như Ph. Ăng-Ghen đã nói: Những tư tưởng dân tộc chân chính...
đồng thời cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính. Sự phát triển tự tưởng Hồ Chí
Minh đã chỉ đạo sự phát triển của thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong sự thúc đẩy
lẫn nhau giữa dân tộc và giai cấp, ý thức giác ngộ về cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc là tiền đề quyết định nhất, cũng là động lực chủ yếu để Nguyễn Ái Quốc đến với
chủ nghĩa Mác - Lênin và tiếp thu quan điểm mác-xít về giai cấp. Đó chính là nhân tố
đảm bảo tính khoa học và cách mạng cho sự phát triển tinh thần dân tộc đúng đắn ở
người chiến sĩ cộng sản Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình đấu tranh
cách mạng: giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản không phải chỉ là chứng minh
cho sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn là sự phát triển sáng tạo và có
giá trị định hướng rất cơ bản. Qua thực tiễn đấu tranh và lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, luôn bám sát đặc điểm thực tiễn Việt Nam và tham khảo kinh nghiệm các nước

4


khác, Hồ Chí Minh đã có những giải pháp đúng đắn, sáng tạo, đáp ứng đòi hỏi của

lịch sử, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin;
đó cũng chính là nguồn gốc sức mạnh của cách mạng nước ta trong suốt bảy thập kỷ
qua. Bởi lẽ:
+Một là, cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay muốn thành công triệt
để nhất định phải đi theo quỹ đạo và là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô
sản. Cuộc cách mạng đó phải đưa vào lực lượng của nhân dân, nòng cốt là liên minh
công nông, do chính Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Hồ Chí Minh nhận thức
rất rõ, nếu chỉ đưa vào lực lượng của riêng giai cấp công nhân, thậm chí cả giai cấp
nông dân là hoàn toàn không đủ, mà theo Người, chỉ có phát động cả dân tộc tham
gia mới biến sức mạnh dân tộc thành lực lượng vô địch.
+Hai là, cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ dân tộc (mâu thuẫn
địa chủ - nông dân, mâu thuẫn tư sản - vô sản) không tách rời cuộc đấu tranh giải
quyết mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với các thế lực đế quốc xâm lược. Ở giai đoạn
đầu của cách mạng, cần đặt vấn đề dân tộc, độc lập dân tộc lên trên hết. ''Nếu không
giải quyết được vấn đề dân tộc, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì
chẳng những toàn thể dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận
giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được''. ''Chính lập trường và lợi ích giai cấp
công nhân đòi hỏi trước hết phải giải phóng dân tộc''. Ở đây rõ ràng cái giai cấp được
biểu hiện ở cái dân tộc, cái dân tộc được giải quyết theo lập trường giai cấp công
nhân, chứ đâu phải là “hy sinh cái nọ cho cái kia” như có người từng cố chứng minh.
+Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản ở chính quốc như ''hai
cánh của một con chim'', phải thực hiện sự liên minh giữa vô sản ở chính quốc với vô
sản và nhân dân các nước thuộc địa thì cách mạng mới thắng lợi. Cách mạng giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa không phụ thuộc một chiều vào cách mạng vô
sản ở chính quốc, mà có thể và phải chủ động tiến lên giành thắng lợi, thậm chí có thể
giành thắng lợi trước, từ đó góp phần tích cực hỗ trợ cho cách mạng ở các nước tư
bản. Đó là nhận định hết sức đúng đắn, táo bạo và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Đáng
tiếc là có lúc quan điểm này của Hồ Chí Minh không được một số người, trong đó có
một vài người của Quốc tế cộng sản cũng không thừa nhận.
+Bốn là, sau khi giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị ngoại bang, khỏi chế độ thuộc

địa, dân tộc vừa được giải phóng phải quá độ lên CNXH và trong bước quá độ ấy
phải tự mình tìm tòi con đường, phương thức riêng phù hợp với tình hình và đặc điểm
đất nước, tránh giáo điều, dập khuôn những hình thức, bước đi, biện pháp của nước
khác.
Trong thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay, việc
vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hố Chí Minh về mối quan hệ biện chứng
giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp càng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng hết sức cấp
thiết. Bởi vì, thực tế cho ta bài học là, có thời kỳ, khi triển khai các nhiệm vụ xây
dựng CNXH, đã có lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng vội, chủ quan, duy ý chí, quá nhấn
mạnh vấn đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân tộc trong việc hoạch định và thực

5


hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến lợi ích các giai cấp, tầng lớp không
được tính đến đầy đủ và kết hợp hài hoà, sức mạnh dân tộc không được phát huy như
một trong những động lực chủ yếu nhất. Nhưng ngay sau đó, Đảng ta đã kịp thời khắc
phục có hiệu quả cả về phương điện nhận thức lý luận cũng như trong hoạt động thực
tiễn về vấn đề này.
Tuy thế, trong những năm gần đây, ở nước ta đã nảy sinh ý kiến cho rằng: mối quan
hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp luận chứng trong chủ nghĩa Mác - Lê nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ đúng với một số nước khác nào đó, còn ở Việt Nam vốn là
nước thuộc địa, nửa phong kiến, vấn đề dân tộc bao giờ cũng chi phối, khi nào Đảng
nhấn mạnh vấn đề giai cấp thì đều dẫn đến sai lầm. Từ đó, họ đề xuất ý kiến theo
hướng nhấn mạnh một chiều vấn đề dân tộc, tách vấn đề dân tộc khỏi vấn đề giai cấp,
hạ thấp ý nghĩa quan trọng, bức thiết của vấn đề giai cấp, không lấy quan điểm giai
cấp làm quan điểm cơ sở lập trường để xem xét, giải quyết vấn đề dân tộc. Theo họ,
nước ta hiện nay chỉ nên đề ra và giải quyết những vấn đề dân tộc, còn vấn đề giai
cấp không nên đặt ra. Mục tiêu ''dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh'' được họ đồng tình, thưng giải thích theo hướng phi giai cấp, nghĩa là không

nhất thiết phải theo định hướng XHCN. Thực chất là họ bác bỏ đường lối giải quyết
vấn đề dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân. Quan điểm nêu trên đi ngược
với con đường mà Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn, và rõ ràng là
không phù hợp với thực tiễn của lịch sử cách mạng Việt Nam. Thực tiễn đó đã chỉ ra
rằng, trong bất cứ giai đoạn nào, sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đều phải kết
hợp nhuần nhuyễn lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc; trong chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam luôn luốn gắn bó hữu cơ với lý tưởng của giai cấp công nhân Việt Nam. Nền
độc lập thật sự của dân tộc; tự do, sự giàu mạnh, văn minh và hạnh phúc của nhân dân
chỉ có thể đạt được một cách bền vững trong sự nghiệp cách mạng theo mục tiêu, lý
tưởng của giai cấp công nhân. Bởi vậy, ngay từ khi khởi xướng và lãnh đạo công
cuộc đổi mới, Đảng ta đã xác định rõ: đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN
mà là quan niệm đúng đắn hơn về CNXH và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình
thức; bước đi và biện pháp phù hợp. Nói cách khác, giữ vững định hướng XHCN là
nguyên tắc cơ bản của quá trình đổi mới.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, Đảng
ta đã ngày càng cụ thể hoá và hoàn thiện đường lối đổi mới toàn diện, mà thực chất là
nhận thức đúng đắn và sâu sắc hơn về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp trong công cuộc xây đựng
CNXH ở nước ta.
Văn kiện của Đảng ta tại Đại hội lần thứ IX đã xác định rõ: “mối quan hệ giữa các
giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân,
đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây đựng và bảo vệ Tổ quốc được sự lãnh
đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong
mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.
Nhìn lại lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ XX, một thế kỷ vận động và phát triển mau lẹ
và phức tạp của tình hình quốc tế, chúng ta càng thấy sự đúng đắn, sáng tạo của tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp.
Vấn đề đó đã được kiểm nghiệm bằng thực tế, cả trong chiến tranh ác liệt lẫn trong

6



những khó khăn của hoà bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, tư tưởng Hồ
Chí Minh đang thể hiện giá trị trường tồn nhất là trong bối cảnh các dân tộc đang
đứng trước những thách thức cực kì nguy hiểm khi các thế lực hiếu chiến dựa vào
tiềm lực quân sự hiện đại tiến hành chiến tranh xâm lược những nước có chủ quyền,
bất chấp luật pháp.
Điều đó càng cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, học tập, quán triệt tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp trong tình hình mới, làm cơ sở vững
chắc cho việc vận dụng, hoạch định, tổ chức và thực hiện đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước, để đưa dân tộc ta vượt qua mọi thử thách, vững bước trong quá
trình xây dựng một đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
4.Các quan điểm của Hồ Chí Minh
*Về dân tộc
Tư tưởng HCM về giải phóng dân tộc có thể tóm tắt thành một hệ thống luận điểm
sau
đây:
- Một là, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường của
cách mạng vô sản.Từ đầu những năm 20 thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: chủ
nghĩa đế quốc là một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vòi bám vào
thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc, phải đồng thời cắt cả hai cái vòi của nó
đi, tức là phải kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân
tộc ở thuộc địa; phải xem cách mạng ở thuộc địa như là một trong những cái cánh của
cách mạng vô sản, mặt khác, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi
theo con đường cách mạng vô sản.
- Hai là, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp
công nhân lãnh đạo.
Nguyễn Ái Quốc đã sớm khẳng định: muốn giải phóng dân tộc thành công "trước hết
phải có đảng cách mệnh", "đảng có vững cách mệnh mới thành công" "Đảng muốn

vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt" đó là chủ nghĩa Lênin.
- Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân trên cơ sở
liên minh công nông.
- Bốn là, cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có
khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Đây là một luận điểm mới và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Trong phong trào cộng sản
quốc tế lúc bấy giờ đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa
phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách mạng vô sản chính quốc. Do nhận thức
được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc, do đánh giá
đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, ngay từ năm 1924,
Người đã sớm cho rằng cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách
mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước. Đây là một cống hiến rất
quan trọng vào kho tàng lý luận Mác - Lênin, đã được thắng lợi của cách mạng vô sản
chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
-Năm là, cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực,
kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang của nhân dân.
=>Tóm lại, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của Lênin về

7


cách mạng thuộc địa thành một hệ thống quan điểm mới mẻ, sáng tạo, bao gồm cả
đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân
tộc ở thuộc địa.
*Về Đảng
Cách mạng Việt Nam đi từ tự phát đến tự giác có tổ chức,có đường lối được giác ngộ
chủ nghĩa Mac-Lênin giành được thắng lợi to lớn đó là nhờ Đảng Cộng Sản Việt Nam
a) Đảng Cộng Sản Việt Nam là nhân tố quyết định hàng đầu đưa cách mạng Việt
Nam đến thắng lợi
-vận dụng sáng tạo lý luận cưa chủ nghĩa Mac-Lênin và thừa kế truyền thống dân

tộc,Hồ Chí Minh khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhưng quần
chúng phải được giác ngộ ,được tổ chức và được lãnh đạo theo 1 đường lối đúng đắn
mới trở thành lực lượng to lớn của cách mạng
- Đảng Cộng Sản Việt Nam là chính Đảng mang bản chất của giai cấp công nhân Việt
Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân có khả năng đòan kết tập hợp các tầng
lớp nhân dân khác làm cách mạng,Đảng là đội tien phong dũng cảm và là đội tham
mưu sáng suốt.Mục tiêu phấn đấu của Đảng là độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân
dân hạnh phúc cho mọi người
-Cách mạng là cuộc đấu tranh gian khổ.Kẻ địch rất mạnh, muốn thắng lợi thì quần
chúng phải tổ chức chặt chẽ, chí khí phải kiên quyết.Vì vậy phải có Đảng để tổ chức
và giáo dục nhân dân thành 1 đội quân thật mạnh đánh kẻ địch giành chính
quyền.Cách mạng thắng lợi rồi quần chúng vẫn cần có Đảng
b) Đảng Cộng Sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mac-Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước
Đây chính là qui luật hình thành và phát triển Đảng Cộng Sản Việt Nam đồng thời bổ
sung sáng tạo vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mac-Lênin.Vì sao Hồ Chí Minh lại
thêm yếu tố phong trào yêu nước?
-Phong trào yêu nước có vị trí quan trọng vai trò cực kì to lớn trong quá trình phát
triển của dân tộc Việt Nam
-Phong trào công nhân kết hợp với phong trào yêu nước vì nó đều có mục tiêu chung
-Phong trào nông dân kết hợp với phong trào công nhân ngay từ khi bắt đầu
-Phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự kết hợp
các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam
c) Đảng Cộng Sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân của nhân dân lao động
và của cả dân tộc Việt Nam
Từ qui luật hình thành và phát triển Đảng, Hồ Chí Minh đã đi đến luận điểm Đảng
Cộng Sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân đồng thời là Đảng của cả dân tộc
Việt Nam.Đảng mang bản chất giai cấp công nhân không chỉ thể hiện ở số lượng
đảng viên xuất thân từ giai cấp công nhân mà ở nền tảng tư tưởng của đảng là chủ
nghĩa Mac-Lênin.Mục tiêu và đường lối của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ

nghĩa xã hội và giải phóng dân tộc giải phóng con người.Đảng là sự thống nhất giữa
tính giai cấp và tính dân tộc lợi ích của giai cấp gắn liền với lợi ích của dân tộc’’nhân
dân và cả dân tộc thừa nhận Đảng là người lãnh đạo duy nhất đại biểu cho quyền lợi
cơ bản và thiết thân của mình’’
d) Đảng Cộng Sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mac -Lênin làm gốc

8


Đảng lấy chủ nghĩa Mac -Lênin làm cốt có nghĩa là Đảng nắm vững tinh thàn của chủ
nghĩa Mac-Lênin,lập trường quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mac -Lênin
đồng thời nắm vững tinh hoa văn hóa dân tộc và trí tuệ thời đại vận dụng sáng tạo vào
hoàn cảnh của nước ta không máy móc, giáo điều
e) Đảng Cộng Sản Việt Nam xây dựng theo nguyên tắc Đảng kiểu mới của giai cấp
vô sản
-Tập trung dân chủ
-Tập thể lãnh đạo,cá nhân phụ trách
-Tự phê bình và phê bình
-Kỉ luật nghiêm minh và tự giác
-Đòan kết,thống nhất trong Đảng
f)Tăng cường và củng cố quan hệ bền chặt giữa dân và Đảng
-Thuờng xuyên lắng nghe ý kiến của dân, khắc phục bệnh quan liêu
-Thuờng xuyên vận động nhân dân tham gia xây dựng Đảng dưới mọi hình thức
-Đảng có trách nhiệm nâng cao dân trí
-Trong quan hệ với dân Đảng không được theo đuôi quần chúng
g)Đảng phải thường xuyên chỉnh đốn,đổi mới làm cho Đảng thật trong sạch vững
mạnh
*Về chính trị
- Lênin đã khẳng định: vì thế, việc trang bị lý luận cách mạng cho cán bộ, đảng viên
là rất quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh, người học trò xuất sắc của Lênin, cũng nhận

thức rất rõ về vấn đề này. Trong suốt quá trình hoạt động, lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, vấn đề giáo dục lý luận chính trị luôn được Người đặc biệt quan tâm.
- Quan tâm đến giáo dục lý luận chính trị vì Người hiểu rõ vai trò và tầm quan trọng
của lý luận chính trị đối với phong trào cách mạng Đánh giá về vai trò lý luận như
vậy nên Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có cách nhìn đúng đắn, đầy đủ về giáo dục lý luận
chính trị: Mục đích, nội dung, phương châm, phương pháp giáo dục lý luận chính trị.
a)Về mục đích giáo dục lý luận chính trị
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết là nhằm trang bị lập trường giai cấp. Giữ vững
lập trường giai cấp công nhân là tiêu chuẩn hàng đầu của người cách mạng và để đạt
được điều đó phải trang bị lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Vì lý luận của Chủ
nghĩa Mác-Lênin cũng chính là hệ tư tưởng của giai cấp vô sản, giai cấp tiên tiến
nhất, cách mạng nhất trong xã hội.
Học lý luận chính trị còn nhằm mục đích củng cố, trau dồi đạo đức cách mạng. Đạo
đức cách mạng là tiêu chuẩn hàng đầu, Người yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên cần phải
có, vì, theo Người, “”. Để có đạo đức cách mạng trong sáng người học phải nắm vững
lý luận, từ đó nhận thức rõ đúng, sai, đấu tranh bảo vệ cái đúng, chống cái sai và phấn
đấu theo những chuẩn mực đạo đức cách mạng.
Như vậy, về mục đích học tập lý luận, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, là nhằm mục đích
để: và. Để phải hiểu Chủ nghĩa Mác-Lênin và biết vận dụng vào thực tiễn. Để phải có
lập trường giai cấp vững vàng, có đạo đức cách mạng, và phải Quan điểm của Người,

9


về mục đích học tập lý luận, là hoàn toàn đúng đắn, thấm đượm tình người, tình đồng
chí, ngời sáng tính nhân văn.
b)Về nội dung giáo dục lý luận chính trị
Như vậy, nội dung học tập lý luận chính trị, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là học Chủ
nghĩa Mác-Lênin song không đơn thuần là đọc sách, thuộc làu làu kinh điển mà phải
nắm được cái của Chủ nghĩa Mác-Lênin và sau đó thì tùy thuộc vào hoàn cảnh, điều

kiện mà vận dụng cho phù hợp. Bên cạnh đó, người còn yêu cầu phải nắm vững Chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, học tập những bài
học kinh nghiệm quý từ các đảng cộng sản anh em trên thế giới…
Từ mục đích, nội dung như trên, và căn cứ vào đối tượng (cán bộ, đảng viên), là
những cơ sở để xác định phương pháp, phương châm giáo dục lý luận chính trị.
c)Về phương châm, phương pháp giáo dục lý luận chính trị
Quán triệt quan điểm, đối với giáo dục nói chung, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ giáo
dục lý luận cũng phải quán triệt theo phương châm đó. Trên cơ sở xác định phương
châm như vậy, Người yêu cầu người dạy và người học phải tuân thủ theo những
nguyên tắc, cách thức (phương pháp) nhất định, trong quá trình giảng dạy và học tập
lý luận chính trị.
*Về con người
Quan điểm về con người,coi con người là một thực thể thống nhất của’’cái cá
nhân’’và’’cái xã hội’’,con người tồn tại trong mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân
với cộng đồng,dân tộc,giai cấp,nhân loại,yêu thương con người,tin tưởng tuyệt đối
vào con người,coi con người vừa là mục tiêu,vừa là động lực của sự nghiệp giải
phóng xã hội và giải phóng chính bản thân con người,đó chính là những luận điểm cơ
bản trong tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh.Xuất phát từ những luận đúng đắn
đó,trong khi lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành cuộc tấn công giải phóng dân tộc và
xây dựng đất nước,Hồ Chí Minh luôn tin ở dân,hết lòng thương yêu,quí trọng nhân
dân,biết tổ chức và phát huy sức mạnh của nhân dân.Tư tưởng về con người của
Người thông qua thực tiễn cách mạng đã trở thành một sức mạnh vật chất to lớn và là
nhân tố quyết định thắng lợi của chính sự nghiệp cách mạng ấy

10



×