Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng HCM (5)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.27 KB, 14 trang )

Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai
cũng được học hành…

Hồ Chí Minh

1


Hồ Chí Minh là một chiến sĩ cách mạng quốc tế, anh hùng giải phóng dân
tộc, danh nhân văn hóa thế giới; cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của chủ tịch
Hồ Chí Minh là một huyền thoại, đầy sức hấp dẫn, được nhân dân ta và bạn bè
quốc tế ngưỡng mộ, kính yêu. Có thể tiếp cận cuộc đời và tưởng Hồ Chí Minh
ở nhiều góc độ, người đã để lại cho chúng ta một di sản tinh thần vô cùng quý
giá, và ở phương diện nào bác cũng để lại những bài học giản dị mà sâu sắc.
Trong tâm khảm của mọi người dân Việt Nam và những người tiến bộ trên
toàn thế giới, chủ tịch Hồ Chí Minh là một lãnh tụ vĩ đại, một nhà tư tưởng lớn
một anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất. cuộc đời hoạt
động cách mạng của người đã để lại dấu án không thể phai mờ trong quá trình
phát triển của nhân loại, góp phần vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân
tộc dân chủ và tiến bộ xã hội.
Nghị quyết đại hội IX đã khẳng định: “ tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống
quan điểm toàn diện sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam,
là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo của chủ nghĩa Mác-Lênin vào
điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.”
Trải qua bao thăng trầm lịch sử, từ thời kỳ kháng chiến chống giặc ngoại
xâm, cho đến khi nước nhà giành hoàn toàn độc lập thống nhất, xây dựng chủ
nghĩa xã hội, đất nước Việt Nam đã chuyển mình để “sánh vai với các cường
quốc năm châu” tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn là ngọn đuốc sáng dẫn đường cho
bao thế hệ Việt Nam vững bước đi lên.


Trong xu thế hội nhập toàn cầu, tình hình chính trị quốc tế và trong nước có
nhiều diễn biến phức tạp và nhạy cảm, Đảng và nhà nước ta vẫn kiên định lập
trường và khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tương Hồ Chí Minh là kim
chỉ nam cho hoạt động của Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã dẫn dắt dân tộc ta
đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác và tiếp tục có ý nghĩa quyết định tới sự
thắng lợi của cách mạng nước nhà.
Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc về dòng tư tưởng chính trị Mác xít ở Việt Nam
thế kỷ XX
Người không chỉ vận dụng mà còn phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin
vào thực tiễn cách mạng Việt Nam phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của Việt
Nam, góp phần làm phong phú thêm kho tàng tư tưởng, lý luận về kinh nghiệm
của cách mạng thế giới trong thế kỷ XX.
Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là sự vận dụng mà còn là sự phát triển một
cách sáng tạo học thuyết Mác-Lênin. Luận điểm về mối quan hệ giữa vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp là một trong những sáng tạo đó.
Tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống tư tưởng lý luận của người thấm nhuần
sâu sắc bản chất giai cấp của chủ nghĩa cách mạng, thế giới quan và hệ tư tưởng
chính trị của chủ nghĩa Mác Lênin kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa yêu
nước với chủ nghĩa quốc tế chân chính của giai cấp công nhân, phản ánh tinh
thần của thời đại mới phù hợp với sự phát triển của lịch sử.
Bản chất chính trị trong tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung là sự thống nhất
2


hữu cơ giữa khoa học cách mạng và nhân văn.
Một trong những cống hiến quan trọng của người vào kho tàng chủ nghĩa
Mác-Lênin là lý luận thực tiễn cách mạng vô sản ở các nước thuộc địa nửa
phong kiến mà cốt lõi là tư tưởng về sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội.

Về mặt lí luận cách mạng, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh có đặc điểm chung là
giải phóng loài người khởi chế độ phong kiến tư bản và xây dựng xã hội mớixã hội cộng sản chủ nghĩa, không có áp bức bóc lột. Tuy vậy, giữa Mác, Lênin
và Hồ Chí Minh lại có những nét đặc trưng riêng về tư tưởng chiến lược do
điều kiện chi phối của mỗi nước.
Các Mác – Ph.Anghen sinh ra ở Đức, sống và hoạt động ở những nước tư
bản phát triển châu Âu và trong thời kỳ tự do cạnh tranh, mâu thuẫn về xã hội
và cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản nổi lên gay
gắt. Mác-Anghen đã kế thừa những trào lưu tư tưởng lúc bấy giờ, chủ yếu là
triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng
Pháp. Trải qua quá trình nghiên cứu, đấu tranh về tư tưởng lý luận, tham gia
đấu tranh chính trị xã hội, hai ông đã thực hiện một bước chuyển biến nhảy vọt
về lý luận, hình thành thế giới quan duy vật biện chứng và duy vật lịch sử trên
cơ sở lý luận chọn lọct tư tưởng biện chứng của Hêghen, và quan điểm duy vật
của Phơbach, chuyển từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường cộng
sản, sáng lập ra học thuyết cach mạng vô sản của giai cấp vô sản gồm 3 bộ
phận cấu thành: triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học.
Học thuyết Mác đã trở thành vũ khí tinh thần trong việc đấu tranh của giai
cấp vô sản và nhân dân lao động và đã không ngừng phát triển, hoàn thiện
trong cuộc đấu tranh giai cấp.
Con đường cách mạng mà Mác-Angghen đã vạch ra là: giải phóng giai cấp
đi đôi với giải phóng nhân loại.
Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Mác–Enghen đề cập đến vấn đề dân
tộc và vấn đề giai cấp như sau:
Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở giai đoạn đầu mang tính chất dân tộc,
vì phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho
khối đại đa số. Vì vậy, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư
sản, không phải là cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu mang hình thức dân
tộc. Như vậy, Mác-Enghen đã thấy được mối quan hệ gắn bó giữa vấn đề dân
tộc và vấn đề giai cấp. Hai ông không xem nhẹ vấn đề dân tộc. Tuy nhiên, hai
ông không đi sâu giải quyết vấn đề dân tộc vì:

- Tại các nước này, mâu thuẫn cơ bản của xã hội là mâu thuẫn giữa hai giai
cấp đối kháng: tư sản và vô sản.
- Về cơ bản, ở châu Âu, vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách mạng
tư sản.
- Vào thời của Mác, hệ thống thuộc địa đã có, nhưng các cuộc đấu tranh
giành độc lập chưa phát triển mạnh.
3


Do vậy, trong sự nghiệp giải phóng hai ông nhấn mạnh đến giải phóng giai
cấp công nhân.
Mác-Enghen viết: "Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng
dân tộc này bóc lột dân tộc khác sẽ được xóa bỏ" và "Khi mà sự đối kháng
giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các
dân tộc cũng đồng thời mất theo". Như vậy theo Mác-Anghen, để giải quyết sự
đối kháng dân tộc, trước hết phải giải quyết sự đối kháng giai cấp, giải phóng
giai cấp là nhiệm vụ trung tâm, là điều kiện để giải phóng dân tộc. Lênin từng
nhận xét, đối với Mác so với vấn đề giai cấp vô sản thì vấn đề dân tộc chỉ là
vấn đề thứ yếu thôi.
V.I.Lênin sinh ra và hoạt động chủ yếu ở nước Nga rộng lớn, chủ nghĩa tư
bản phát triển ở mức trung bình, trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản phát triển trong
giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa giai cấp vô sản và
giai cấp tư sản, ở các nước tư bản chủ nghĩa trên thế giới đã xuất hiện và phát
triển hoàn toàn gay gắt mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với
chủ nghĩa đế quốc thực dân.
Đến thời điểm này, chủ nghĩa đế quốc trở thành hệ thống thế giới, cách
mạng giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản, Lênin
mới có cơ sở thực tiễn để phát triển vấn đề dân tộc thuộc địa thành một hệ
thống lý luận. Lênin cho rằng cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chính quốc sẽ
không giành được thắng lợi, nếu nó không liên minh với cuộc đấu tranh của các

dân tộc bị áp bức.
Lênin đã vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác tiến hành cách mạng Nga
thành công, đi từ giải phóng giai cấp đến giải phóng dân tộc, giải phóng nhân
loại với khẩu hiệu: “vô sản toàn thế giới và dân tộc bị áp bức liên hiệp lại”.
Từ đó Người cùng với Quốc tế cộng sản bổ sung khẩu hiệu nêu trong Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản: "Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức
đoàn kết lại."
Sau khi Lênin mất, Ban lãnh đạo Quốc tế cộng sản một thời gian dài đã nhấn
mạnh vấn đề giai cấp, coi nhẹ vấn đề dân tộc, vì vậy không mấy quan tâm đến
chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc của các nước thuộc địa, thậm chí còn coi
đó là biểu hiện của chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi, trái với chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Tóm lại, Mác - Anghen, Lênin đã nêu ra những quan điểm cơ bản về mối
quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Tuy nhiên, xuất phát từ yêu
cầu, mục tiêu của cách mạng vô sản châu Âu, các ông vẫn tập trung nhiều hơn
vào vấn đề giai cấp, vẫn "đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ
thuộc vào dân tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản".
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, một nước phong kiến, nông
nghiệp lạc hậu ở Phương Đông, bị chủ nghĩa thực dân xâm lược và nô dịch từ
cuối thế kỷ XIX, Việt Nam vốn là một dân tộc có truyền thống yêu nước, đoàn
kết nhân ái, có nền văn hiến lâu đời.
Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và của thế giới, Hồ Chí Minh đã vận dụng
và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và nghị quyết quốc tế cộng sản, vạch ra con
4


đường đầy sáng tạo của Việt Nam: “Giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội giai
cấp, giải phóng con người”.
Mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và giai cấp đã được Hồ Chí
Minh chú trọng và đề cập đến rất rõ ràng.
Tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin trên nền tảng truyền thống yêu nước và nhân

ái của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh có quan điểm riêng, độc đáo về vấn đề
giai cấp và vấn đề dân tộc. Người cho rằng: “Phải kết hợp và giải quyết hài hòa
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, song phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết và
trước hết”.
Theo Người, đối với Việt Nam không phải giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới
giải quyết được vấn đề dân tộc như ở các nước tư bản phát triển phương tây.
Mà ngược lại, chỉ có giải phóng dân tộc mới giải phóng được giai cấp. Giải
phóng dân tộc đã bao hàm một phần giải phóng giai cấp và tạo tiền đề cho giải
phóng giai cấp.
Luận điểm này của Người xuất phát từ cơ sở thực tiễn của phương Đông và
Việt Nam:
Năm 1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ Người cho rằng:
"Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử,
nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn
thể nhân loại. Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung "cơ sở lịch sử" của chủ
nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình
không thể có được". Và người đề nghị: "Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở
lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông". Ở phương Đông,
"Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra không giống như ở phương Tây, bởi vì xã hội
Đông Dương, Ấn Độ hay Trung Quốc, xét về mặt cấu trúc kinh tế không giống
như xã hội phương Tây thời trung cổ, cũng như thời cận đại, và đấu tranh giai
cấp ở đó không quyết liệt như ở đây…".
Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng Việt Nam là một nước thuộc địa
nửa phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc và tay
sai nổi trội hơn mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với địa chủ phong kiến, giữa
tư sản với vô sản. Do đó, không phải giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải
quyết vấn đề dân tộc như ở phương Tây. Ngược lại chỉ có thể giải quyết vấn đề
dân tộc mới giải phóng được giai cấp. Quyền lợi dân tộc và giai cấp là thống
nhất, quyền lợi dân tộc không còn, thì quyền lợi mỗi giai cấp, mỗi bộ phận
trong dân tộc cũng không thể thực hiện được. Quan điểm này sau này thể hiện

rõ ở Nghị quyết Hội nghị Trung ương VIII, năm 1941 do Người chủ trì: “Trong
lúc này quyền lợi của bộ phận giai cấp phải đặt dưới sự tồn vong sinh tử của
quốc gia dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải
phóng, không đòi được tự do độc lập cho toàn dân tộc, thì chẳng những toàn thể
quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến
vạn năm cũng không đòi lại được”.

5


Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn, sáng tạo mối quan hệ giữa dân tộc và
giai cấp, độc lập dân tộc dân chủ và chủ nghĩa xã hội trong quá trình phát triển
của cách mạnh Việt Nam.
Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên đã gắn cách mạng Việt Nam với
cách mạng thế giới với thời đại, không phải với mục đích cầu viện. Cũng là
người dân thuộc địa đầu tiên đã vạch rõ cách mạng đế quốc thực dân là kẻ thù
chính của các dân tộc thuộc địa, đồng thời cũng là kẻ thù chính của giai cấp vô
sản và nhân dân lao động chính quốc.
Ở Việt Nam, cùng với sự tồn tại của mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai
cấp trong nội bộ dân tộc, nổi lên mâu thuẫn dân tộc và đấu tranh dân tộc giữa
toàn dân tộc với chủ nghĩa thực dân đế quốc và bè lũ tay sai. Do đó theo Người,
chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước, đại đoàn kết dân tộc trên
nền tảng của giai cấp công nhân nông dân với tri thức là một chiến lược cách
mạng,là động lực to lớn của cách mạng Việt Nam.
“Chủ nghĩa dân tộc” theo Hồ Chí Minh, hoàn toàn không phải là thứ chủ
nghĩa dân tộc phong kiến, tư sản hay quốc tế II mà là chủ nghĩa dân tộc chân
chính theo lập trường của chủ nghĩa Mác-Lênin gắn dân tộc với quốc tế, dân
tộc với giai cấp, hướng tới triệt để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải
phóng con người.
Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau.

Vấn đề dân tộc bao giờ cũng được nhận thức và giải quyết theo lập trường
của một giai cấp nhất định. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, chỉ trên
lập trường của giai cấp vô sản, cách mạng vô sản mới giải quyết đúng đắn vấn
đề dân tộc.Trong tuyên ngôn đảng cộng sản,Mác-Ăngghen đã đề cập mối quan
hệ dân tộc và giai cấp:cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nhằm lật đổ ách thông
trị của giai cấp tư sản,ở giai đoạn đầu của nó mang tính chất dân tộc.Mác kêu
gọi “giai cấp vô sản ở mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền,phải tự
vươn lên thành giai cấp dân tộc,phải tự mình trở thành giai cấp dân tộc…
không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu”. Cũng theo Mác-Ăngghen,
chỉ với giai cấp vô sản mới thông nhất được lợi ích dân tộc- lợi ích của mình
với các lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Chỉ có xóa bỏ áp bức
bóc lột giai cấp thì mới xóa bỏ áp bức dân tộc,đem lại độc lập thực sự cho dân
tộc mình và cho dân tộc khác.
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa
yêu nước, nhưng người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải
quyết vấn đề dân tộc. Sự kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề giai cấp và vấn đề dân
tộc của Hồ Chí Minh thể hiện:
Khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo duy
nhất của Đảng Cộng sản trong quá trình cách mạng Việt Nam.
Chủ trương đại đoàn kết các dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công
nhân, nông dân và tầng lớp tri thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng nhân dân để chống lại bạo lực
phản cách mạng của kẻ thù.
6


Thiết lập chính quyền nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Gắn kết mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết; độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội.

Khác với các con đường cứu nước của ông cha, gắn độc lập dân tộc với chủ
nghĩa phong kiến(cuối thế kỷ XIX), hoặc chủ nghĩa tư bản(đầu thế kỷ XX), con
đường cứu nước của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội.
Ngay từ khi tiếp cận Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin,
Hồ Chí Minh đã hình thành đường lối cứu nước: Giải phóng dân tộc theo con
đường cách mạng vô sản, gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và
quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Năm 1920, ngay khi quyết định phương hướng giải phóng và phát triển dân
tộc theo con đường của cách mạng vô sản, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó
thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội.
Người nói: “ Cả hai cuộc giải phóng này (giải phóng dân tộc và giải phóng
giai cấp) chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế
giới.” Tiếp đó, ngay trong Chính cương, Sách lược vắn tắt được thông qua tại
Hội nghị thành lập Đảng cộng sảnViệt Nam tháng 2/1930, Hồ Chí Minh đã xác
định Cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: Làm tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng (tức cách mạng dân tộc-dân chủ) để đi tới xã hội
cộng sản. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội vừa phản ảnh quy luật khách quan của sự nghiệp giải
phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ
khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và
giải phóng con người. Xoá bỏ ách áp bức dân tộc mà không xoá bỏ tình trạng
bóc lột và áp bức giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa được giải phóng.
Người nói: “Nếu nước độc lập mà dân không được hạnh phúc, tự do, thì độc lập
cũng chẳng có ý nghĩa gì.” Do đó giành được độc lập rồi, thì phải tiến lên chủ
nghĩa xã hội, vì mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Như vậy, ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước
truyền thống đã phát triển thành chủ nghĩa yêu nước hiện đại, độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Năm 1960, Người nói: “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới
giải phóng được dân tộc bị áp bức và những người trên thế giới khỏi ách nô
lệ”.
Hồ Chí Minh nêu: “Các nước thuộc địa phương đông không phải làm ngay
cách mạng vô sản, mà trước hết giành độc lập dân tộc. Có độc lập dân tộc rồi
mới bàn đến cách mạng xã hội chủ nghĩa”. Từ thực tiễn của đấu tranh cách
mạng, Nguyễn Ái Quốc đã phê phán quan điểm các đảng cộng sản Tây Âu
không đánh giá đúng vai trò, vị tri, tương lai của cách mạng thuộc địa và
Nguyễn Ái Quốc đi đến luận điểm: ‘‘Các dân tộc thuộc địa phải dựa vào sức
7


mình là chính, đồng thời biết tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của giai cấp vô sản
và nhân dân lao động thế giới để phải đấu tranh dành độc lập cho dân tộc, từ
cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa”
Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp
giải phóng dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, vừa phản ánh mối quan hệ
khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp,
giải phóng con người. Chỉ có xóa bỏ tận gốc tình trạng áp bức, bóc lột; thiết lập
một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân mới bảo đảm cho người lao động
có quyền làm chủ mới thực hiện được sự phát triển hài hòa giữa cá nhân và xã
hội, giữa độc lập dân tộc với tự do hạnh phúc của con người. Hồ Chí Minh nói:
“Nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập
chẳng có nghĩa lý gì”. Do đó, sau khi dành độc lập, phải tiến lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội làm cho dân giàu, nước mạnh, mọi người được hưởng sung sướng
tự do.
Người khẳng định: “ Yêu tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ
nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một
ấm no thêm, tổ quốc mỗi ngày được giàu mạnh thêm”.
Giải phóng dân tộc tạo tiền đề giải phóng giai cấp.

Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm của giai cấp, nhưng
đồng thời đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc khỏi
ách thống trị của chủ nghĩa thực dân là điều kiện để giải phóng giai cấp. Vì thế,
lợi ích của giai cấp phải phục tùng lợi ích của dân tộc.
Trước kia, Việt Nam vốn là một nước phong kiến và nông nghiệp. Từ khi bị
đế quốc Pháp xâm chiếm, Việt Nam trở thành một nước thuộc địa nửa phong
kiến. Với đặc trưng của một nước tư bản chủ nghĩa, Pháp trong cả hai lần khai
thác thuộc địa đã áp dụng chính sách độc quyền - chia để trị. Chúng chia nước
ta làm ba xứ để cai trị: Bắc kì - Trung kì và Nam kì. Giữa thực dân Pháp và
phong kiến Việt Nam có sự cấu kết chặt chẽ với nhau. Pháp dựa vào phong
kiến để lấy cơ sở đàn áp nhân dân, còn phong kiến Việt Nam lại nhờ vào Pháp
để duy trì địa vị của mình. Những hình thức áp bức, bóc lột tàn nhẫn, dã man
của phong kiến chẳng những không được xoá bỏ mà còn bị thực dân Pháp lợi
dụng để bóc lột, áp bức nhân dân Việt Nam nặng nề thêm. Nguyên nhân đó là
dẫn đến sự mâu thuẫn gay gắt giữa nông dân và phong kiến, vấn đề dân chủ
được đặt ra.
Mặt khác, thực dân Pháp khi tiến hành đầu tư vào Việt Nam để kinh doanh
lấy lợi, chủ nghĩa tư bản đã phát sinh. Chúng ra sức bóc lột nhân dân Việt Nam,
coi đó là nguồn nhân công rẻ mạt để phục vụ cho quá trình khai thác thuộc địa
của chúng. Trong vô vàn hình thức bóc lột, phải kể đến thủ đoạn bóc lột nhân
dân ta bằng cách đánh thuế nặng (thuế ruộng đất, thuế thân, thuế rượu, thuế
muối, thuế thuốc phiện và hàng trăm thứ thuế khác…).
Chính điều đó làm cho nhân dân ta càng khốn đốn, mâu thuẫn giữa nhân dân
ta và thực dân Pháp ngày càng quyết liệt. Sự bóc lột của thực dân Pháp đã làm
cho tình hình xã hội Việt Nam có sự phân hoá sâu sắc; trong đó giai cấp nông
8


dân chiếm trên 90% vừa bị phong kiến, lại vừa bị thực dân bóc lột nặng nề
bằng cả thủ đoạn sưu cao, thuế nặng, tô tức, phu phen, tạp dịch… giai cấp công

nhân ra đời sớm nhưng cũng bị Pháp đàn áp. Giai cấp tư sản bị Pháp chèn ép
đến cùng, không thể nào ngóc đầu lên được. Thực trạng Việt Nam lúc này vô
cùng khốn đốn. Trong xã hội Việt Nam có hai mâu thuẫn cơ bản cần phải được
giải quyết: Vấn đề về dân tộc và giai cấp.
Giải quyết được các mâu thuẫn trên, chính là hoàn thành cuộc cách mạng
dân tộc - dân chủ ở Việt Nam. Nhiệm vụ dân tộc - dân chủ do đó vừa là tất yếu
vừa là bắt buộc của cách mạng Việt Nam. Nó xuất phát từ thực tiễn của bối
cảnh Việt Nam. Hai nhiệm vụ này không phải đến khi Đảng cộng sản Việt Nam
ra đời mới được đặt ra, mà nó đã nhen nhóm từ trước đó rất lâu. Ngay từ giữa
thế kỉ XIX, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta thì các phong trào yêu
nước đã nổ ra và dâng lên mạnh mẽ. Các cuộc nổi dậy chống thực dân Pháp đã
diễn ra liên tục ở khắp ba miền Bắc, Trung, Nam và đã trở thành mục tiêu của
mọi cuộc đấu tranh, mọi cuộc bạo động hay khởi nghĩa. Dù có là phòng trào do
các sĩ phu yêu nước cầm đầu như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh…, hay đó là
phong trào của nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc… thì tất cả đều nhằm mục
đích đánh đuổi cho bằng được thực dân Pháp. Nhưng rốt cục, các phong trào
này đều bị thất bại. Nguyên nhân là do họ chưa xác định được kẻ thù (ví dụ:
Phan Bội Châu chủ trương dựa vào Pháp để đánh Nhật, Phan Chu Trinh lại chủ
trương đổi mới theo mô hình của nước Pháp). Từ chỗ nhận thức sai kẻ thù nên
các ông đã không thể nào xác định được rõ mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội
Việt Nam lúc đó là gì. Vì vậy, không thể nhìn ra được nhiệm vụ cần thiết. Đến
tận đầu thế kỉ XX, nước ta vẫn trong tình trạng khủng hoảng về đường lối.
Mãi đến sau này, thông qua các hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ khi
người bắt đầu ra đi tìm đường cứu nước, qua quá trình bôn ba, học hỏi, khảo
nghiệm ở các nước Phương Tây… cho đến khi thành lập Đảng cộng sản Việt
Nam mới tìm được đường đi cho cách mạng Việt Nam. Thông qua quá trình
tìm tòi, học hỏi và khảo cứu thực trạng nước ngoài kết hợp với việc phân tích
tình hình trong nước, đến ngày 3/2/1930 tại Hương cảng, Người đã lập ra Đảng
cộng sản Việt Nam và đề ra “Cương lĩnh vắn tắt - sách lược vắn tắt”, trong đó
Người nêu ra cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: Cách mạng tư

sản dân quyền và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai giai đoạn cách mạng đó kế
tiếp nhau, không có bức tường nào ngăn cách.
Cương lĩnh viết: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Như vậy, ngay từ đầu, Người đã thấu
suốt con đường phát triển tất yếu của cách mạng nước ta là con đường kết hợp
và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Như vậy, mục tiêu
đó cho thấy rõ tính chất của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Đó là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân - một cuộc cách mạng của giai
cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản, giai cấp tư sản dân tộc,
do giai cấp công nhân lãnh đạo, dựa trên cơ sở liên minh công nông, nhằm mục
đích đánh đổ đế quốc và phong kiến, giải phóng dân tộc, thực hiện khẩu hiệu
9


người cày có ruộng, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, tức là nhà nước
dân chủ nhân dân, và tạo điều kiện cho nước Việt Nam không qua thời kỳ phát
triển tư bản chủ nghãi mà tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Và một cuộc cách
mạng như thế, chúng ta gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đó cũng
chính là một cuộc cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới ở một nước thuộc địa và
phong kiến, nó khác với những cuộc cách mạng dân chủ tư sản kiểu cũ do giai
cấp tư sản lãnh đạo như cách mạng Pháp năm 1789 và cách mạng Thổ Nhĩ Kì
năm 1925. Tiến hành cuộc cách mạng dân tộc chính là tiến tới đánh đuổi đế
quốc, thực dân làm cho nước nhà hoàn toàn độc lập. Còn giải quyết nhiệm vụ
dân chủ chính là đánh đổ phong kiến, đem lại ruộng đất cho dân cày. Đó là hai
nhiệm vụ cơ bản và xuyên suốt của cách mạng Việt Nam nhưng không phải lúc
nào nó cũng diễn ra cùng một lúc. Tuỳ từng thời kì, từng giai đoạn mà vận
dụng cho hợp lí.
Tháng 5 năm 1941, Người cùng với trung ương Đảng khẳng định: “Trong
lúc này quyền lợi của bộ phận giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của
quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề giải

phóng dân tộc, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng
những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của
bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Giữ vững độc lập của dân tộc mình đồng thời tôn trọng độc lập của dân
tộc khác.
Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho
độc lập dân tộc Việt Nam, mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc
bị áp bức.
Ở Người, chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn gắn liền với chủ nghĩa quốc
tế cao cả, trong sáng. Người nói: “ Chúng ta phải tranh đấu cho tự do độc lập
của các dân tộc khác như là tranh đấu cho dân tộc ta vậy”. Chủ trương “ Giúp
bạn là tự giúp mình”, Hồ Chí Minh luôn nêu cao tinh thần dân tộc tự quyết
song không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình. Với Người, phải thông qua
thắng lợi của Cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của Cách
mạng thế giới. Về quan hệ quốc tế, Người tuyên bố với thế giới: “ Căn cứ trên
quyền lợi chung, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa sẵn sàng đặt quan hệ
ngoại giao với chính phủ nước nào trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ
và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hoà bình và
xây đắp dân chủ thế giới.”
Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, thực hiện nguyên tắc về quyền dân tộc tự
quyết, nhưng Hồ Chí Minh không quên nghĩa vụ quốc tế trong việc ủng hộ các
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới. người nhiệt liệt ủng hộ cuộc
kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, các cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Lào và
Campuchia, đề ra khẩu hiệu: “ Giúp bạn giúp mình”, và chủ trương phải bằng
thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của cách
mạng thế giới.
10



Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc mang tính khoa học và cánh mạng
sâu sắc, thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa
yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đúng như Ph.Anghen
từng nói: những tư tưởng dân tộc chân chính trong phong trào công nhân bao
giờ cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính.
Tư tưởng biện chứng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề dân
tộc với vấn đề giai cấp là một trong những nhân tố đảm bảo thành công của
cách mạng Việt Nam, một trong những đóng góp xuất sắc của Người vào kho
tàng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình
đấu tranh cách mạng: giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản không phải chỉ
là chứng minh cho sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn là sự phát
triển sáng tạo và có giá trị định hướng rất cơ bản. Qua thực tiễn đấu tranh và
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, luôn bám sát đặc điểm thực tiễn Việt Nam và
tham khảo kinh nghiệm các nước khác, Hồ Chí Minh đã có những giải pháp
đúng đắn, sáng tạo, đáp ứng đòi hỏi của lịch sử, góp phần làm phong phú thêm
kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; đó cũng chính là nguồn gốc sức
mạnh của cách mạng nước ta trong suốt bảy thập kỷ qua. Bởi lẽ:
Một là, cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay muốn thành
công triệt để nhất định phải đi theo quỹ đạo và là một bộ phận khăng khít của
cách mạng vô sản. Cuộc cách mạng đó phải đưa vào lực lượng của nhân dân,
nòng cốt là liên minh công nông, do chính Đảng của giai cấp công nhân lãnh
đạo. Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ, nếu chỉ đưa vào lực lượng của riêng giai
cấp công nhân, thậm chí cả giai cấp nông dân là hoàn toàn không đủ, mà theo
Người, chỉ có phát động cả dân tộc tham gia mới biến sức mạnh dân tộc thành
lực lượng vô địch.
Hai là, cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ dân tộc
(mâu thuẫn địa chủ - nông dân, mâu thuẫn tư sản - vô sản) không tách rời cuộc
đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với các thế lực đế quốc
xâm lược. Ở giai đoạn đầu của cách mạng, cần đặt vấn đề dân tộc, độc lập dân

tộc lên trên hết. ''Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc, không đòi được
độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể dân tộc còn chịu
mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không
đòi lại được''. ''Chính lập trường và lợi ích giai cấp công nhân đòi hỏi trước hết
phải giải phóng dân tộc''. Ở đây rõ ràng cái giai cấp được biểu hiện ở cái dân
tộc, cái dân tộc được giải quyết theo lập trường giai cấp công nhân, chứ đâu
phải là “hy sinh cái nọ cho cái kia” như có người từng cố chứng minh.
Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản ở chính quốc
như ''hai cánh của một con chim'', phải thực hiện sự liên minh giữa vô sản ở
chính quốc với vô sản và nhân dân các nước thuộc địa thì cách mạng mới
thắng lợi. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa không phụ thuộc
một chiều vào cách mạng vô sản ở chính quốc, mà có thể và phải chủ động tiến
lên giành thắng lợi, thậm chí có thể giành thắng lợi trước, từ đó góp phần tích
11


cực hỗ trợ cho cách mạng ở các nước tư bản. Đó là nhận định hết sức đúng đắn,
táo bạo và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Đáng tiếc là có lúc quan điểm này của
Hồ Chí Minh không được một số người, trong đó có một vài người của Quốc tế
cộng sản cũng không thừa nhận.
Bốn là, sau khi giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị ngoại bang, khỏi chế
độ thuộc địa, dân tộc vừa được giải phóng phải quá độ lên CNXH và trong
bước quá độ ấy phải tự mình tìm tòi con đường, phương thức riêng phù hợp với
tình hình và đặc điểm đất nước, tránh giáo điều, dập khuôn những hình thức,
bước đi, biện pháp của nước khác.
Trong thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN
hiện nay, việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hố Chí Minh về mối
quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp càng có ý nghĩa cực
kỳ quan trọng hết sức cấp thiết.
Bởi vì, thực tế cho ta bài học là, có thời kỳ, khi triển khai các nhiệm vụ xây

dựng CNXH, đã có lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng vội, chủ quan, duy ý chí,
quá nhấn mạnh vấn đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân tộc trong việc hoạch
định và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến lợi ích các giai
cấp, tầng lớp không được tính đến đầy đủ và kết hợp hài hoà, sức mạnh dân tộc
không được phát huy như một trong những động lực chủ yếu nhất. Nhưng ngay
sau đó, Đảng ta đã kịp thời khắc phục có hiệu quả cả về phương điện nhận thức
lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn về vấn đề này.
Tuy thế, trong những năm gần đây, ở nước ta đã nảy sinh ý kiến cho rằng:
Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp luận chứng trong chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ đúng với một số nước khác nào
đó, còn ở Việt Nam vốn là nước thuộc địa, nửa phong kiến, vấn đề dân tộc bao
giờ cũng chi phối, khi nào Đảng nhấn mạnh vấn đề giai cấp thì đều dẫn đến sai
lầm. Từ đó, họ đề xuất ý kiến theo hướng nhấn mạnh một chiều vấn đề dân tộc,
tách vấn đề dân tộc khỏi vấn đề giai cấp, hạ thấp ý nghĩa quan trọng, bức thiết
của vấn đề giai cấp, không lấy quan điểm giai cấp làm quan điểm cơ sở lập
trường để xem xét, giải quyết vấn đề dân tộc. Theo họ, nước ta hiện nay chỉ nên
đề ra và giải quyết những vấn đề dân tộc, còn vấn đề giai cấp không nên đặt ra.
Mục tiêu ''dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh'' được họ
đồng tình, thưng giải thích theo hướng phi giai cấp, nghĩa là không nhất thiết
phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực chất là họ bác bỏ đường lối giải
quyết vấn đề dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân.
Quan điểm nêu trên đi ngược với con đường mà Hồ Chí Minh, Đảng ta và
nhân dân ta đã lựa chọn, và rõ ràng là không phù hợp với thực tiễn của lịch sử
cách mạng Việt Nam. Thực tiễn đó đã chỉ ra rằng, trong bất cứ giai đoạn nào,
sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đều phải kết hợp nhuần nhuyễn lợi ích
giai cấp với lợi ích dân tộc; trong chủ nghĩa yêu nước Việt Nam luôn luốn gắn
bó hữu cơ với lý tưởng của giai cấp công nhân Việt Nam. Nền độc lập thật sự
của dân tộc; tự do, sự giàu mạnh, văn minh và hạnh phúc của nhân dân chỉ có

12



thể đạt được một cách bền vững trong sự nghiệp cách mạng theo mục tiêu, lý
tưởng của giai cấp công nhân.
Bởi vậy, ngay từ khi khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta đã
xác định rõ: Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là quan niệm
đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã hội và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình
thức; bước đi và biện pháp phù hợp. Nói cách khác, giữ vững định hướng
XHCN là nguyên tắc cơ bản của quá trình đổi mới.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến
nay, Đảng ta đã ngày càng cụ thể hoá và hoàn thiện đường lối đổi mới toàn
diện, mà thực chất là nhận thức đúng đắn và sâu sắc hơn về chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc với vấn đề
giai cấp trong công cuộc xây đựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Văn kiện của Đảng ta tại Đại hội lần thứ IX đã xác định rõ: “Mối quan hệ
giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội
bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây đựng và bảo vệ
Tổ quốc được sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với
lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội”.
Nhìn lại lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ XX, một thế kỷ vận động và phát
triển mau lẹ và phức tạp của tình hình quốc tế, chúng ta càng thấy sự đúng đắn,
sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp.
Vấn đề đó đã được kiểm nghiệm bằng thực tế, cả trong chiến tranh ác liệt
lẫn trong những khó khăn của hoà bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay,
tư tưởng Hồ Chí Minh đang thể hiện giá trị trường tồn nhất là trong bối cảnh
các dân tộc đang đứng trước những thách thức cực kì nguy hiểm khi các thế lực
hiếu chiến dựa vào tiềm lực quân sự hiện đại tiến hành chiến tranh xâm lược
những nước có chủ quyền, bất chấp luật pháp.
Điều đó càng cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, học tập, quán
triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp trong tình hình mới,

làm cơ sở vững chắc cho việc vận dụng, hoạch định, tổ chức và thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, để đưa dân tộc ta vượt qua mọi
thử thách, vững bước trong quá trình xây dựng một đất nước vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

13


Tài liệu tham khảo:
Hồ Chí Minh toàn tập.
NXB chính trị Quốc gia, Hà Nội 2000.
V.I.Lênin: Toàn tập.
NXB Tiến Bộ, Matxcơva 1978.

Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam.
NXB chính trị Quốc gia, Hà Nội 2000.
Chủ biên: Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Văn kiện Đảng toàn tập.
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2000.

Các chuyên đề về tư tưởng Hồ Chí Minh.
NXB chính trị Quốc gia, Hà Nội 2004.

Cẩm nang tư tưởng Hồ Chí Minh.
NXB Lao động 2007.
Tuyển chọn và giới thiệu: Nguyễn Hà Thanh.

Hồ Chí Minh với tiến trình lịch sử dân tộc.
NXB chính trị Quốc gia, Hà Nội 2008.

GS.TS. Phan Ngọc Liên.

Một số vấn đề của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Lưu hành nội bộ, Hà Nội 2003.

14



×