Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng HCM (6)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.06 KB, 15 trang )

Lời mở đầu
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình trí thức yêu
nước, nguồn gốc nông dân ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi có
truyền thống đấu tranh kiên cường chống ách thống trị nặng nề của thực dân phong
kiến. Hoàn cảnh xã hội và giáo dục gia đình đã ảnh hưởn sâu sắc đến Hồ Chủ tịch
ngay từ thời niên thiếu.
Với tinh thần yêu nước nồng nàn, với sự sáng suốt về chính trị, Người đã bắt
đầu suy nghĩ về những nguyên nhân thành bại của các phong trào yêu nước hồi bấy
giờ và quyết tâm đi tìm con đường đúng đắn để cứu dân, cứu nước.
Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc đời trong sáng cao đẹp của
mộtngười cộng sản vĩ đại, một anh hùng dân tộc kiệt xuất, một chiến sĩ quốc tế lỗi
lạc, đã đấu tranh không mệt mỏi và hiến dâng cả đời mình vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì
lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, vì độc lập, tự do của các dân tộc, vì hòa bình và công lý
trên thế giới.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình Bác đã cống hiến rất nhiều cho dân
tộc Việt Nam, Bác đã để lại cho chúng ta bài học vô cùng có giá trị để đưa đất nước
giành được độc lập, tự do. Với việc nghiên cứu học thuyết Mac-Lenin nhưng không
dập khuôn máy móc mà vận dụng một cách tạo Người đã đưa đất nước đi theo con
đường đúng đắn nhất để giải phóng dân tộc. Một trong những vấn đề hay nhất, được
nhiều nhà nghiên cứu phân tích cũng như được các nhà chính trị đánh giá cao chính là
về: “Mối quan hệ biện chứng giữa giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong
tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là “kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”
Luận điểm sáng tạo đầu lớn đầu tiên của Bác là luận điểm về chủ nghĩa thực
dân và vấn đề giải phóng dân tộc. Đề cương Về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.
Le-nin, viết năm 1920, đã thức tỉnh Nguyễn Ái Quốc, đưa Người đến với chủ nghĩa
Mac- Lenin, vì đây là chủ nghĩa duy nhất quan tâm đến vấn đề thuộc địa.
Nhưng tư tưởng của Người có những điều gì độc đáo? Mối quan hệ biện chứng
giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp của là gi? Tại sao Người lại không làm theo tư


1


tưởng của Lenin về vấn đề dân tộc và thuộc địa trong khi Người luôn coi học thuyết
Mac- Lenin là học thuyết dẫn đường, soi sáng và làm nên tảng cho con đường giải
phóng dân tộc.
Chính vì những lý do trên em chọn đề tài: “Biện chứng về vấn đề dân tộc và
vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh” làm đề tài cho bài tập lớn bộ môn tư
tưởng Hồ Chí Minh. Nội dung chính của bài tập lớn gồm 4 phần chính như sau:
I. Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giai cấp-dân
tộc.
II. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giai cấp
III. Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hố Chí Minh về mối quan
hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
IV. Mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong
tư tưởng Hồ Chí Minh
Trong quá trình nghiên cứu, mặc dù đã cố gắng rất nhiều nhưng do kiến thức
còn hạn chế nên bài làm của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận
được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo. Em xin chân thành cảm ơn.

2


Phn I
QU TRèNH thành t tởng Hồ Chí Minh về quan hệ giai cấp - dân
tộc
1.1. Quan hệ giai cấp - dân tộc cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX:
Từ nửa sau của thế kỷ XIX, CNTB đã chuyển thành chủ nghĩa đế quốc.
Chúng đặt ách đô hộ lên giai cấp công nhân và nhân dân lao động các n ớc nhợc
tiểu. Nhiều mâu thuẫn trên thế giới xuất hiện. Cách mạng Nga năm 1917 thắng lợi là

thể hiện sự bùng phát của các mâu thuẫn này tại Nga. Cách mạng Nga mở ra thời
đại mới trong lịch sử loài ngời, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH, giai cấp công
nhân trỏ thành giai cấp trung tâm của thời đại. Bản chất của QHGC - DT trên thế
giới do đó cũng đợc xác định bởi bản chất của giai cấp công nhân.
Chịu ảnh hởng của QHGC - DT trên thế giới, QHGC - DT ở Việt Nam từ cuối
thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX đã thay đổi. Trong 5 giai cấp của xã hội thì ch a có giai
cấp nào đi tiên phong trong phong trào dân tộc, dân chủ xã hội Việt Nam, dân tộc
Việt Nam lúc bấy giờ là một xã hội có kết cấu giai cấp lỏng lẻo, xộc xệch, rệu rã và
mất hết sinh lực. Đó chính là sự khủng hoảng về vai trò lãnh đạo của một giai cấp
đối với xã hội. Tiếp xúc với thực tiễn của QHGC - DT thời kỳ này, TTHCM về QHGC DT đợc hình thành.
1.2. Chủ nghĩa yêu nớc Việt Nam truyền thống và chủ nghĩa Mác - Lênin
về quan hệ giai cấp - dân tộc.
Lịch sử Việt Nam cho đến cuối thế kỷ XIX về cơ bản là lịch sử chống ngoại
xâm. Để chống lại sự xâm lợc từ bên ngoài, dân tộc Việt Nam đã đoàn kết đi vào
tâm thức của ngời Việt trở thành chủ nghĩa yêu nớc. Chủ nghĩa này là động lực tinh
thần thôi thúc cả dân tộc đứng lên bảo vệ giang sơn tổ quốc, tạo nên sức sống tr ờng
tồn cho dân tộc Việt Nam và ảnh hởng sâu sắc đến Hồ Chí Minh. Sau khi gặp chủ
nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa yêu nớc của Hồ Chí Minh lại mang nội dung mới.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng vấn đề dân tộc bao giờ cũng gắn liện với vấn
đề giai cấp, do một giai cấp tiên phong giải quyết. Sự hình thành và phát triển của
dân tộc đều nhằm đáp ứng lợi ích của một gia cấp nhất định. CNMLN kết luận rằng:
trong thời đại ngày nay, dân tộc gắn liền với giai cấp công nhân và để làm tròn sứ
mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải nắm lấy ngọn cờ dân tộc.

Phn II
Nội dung cơ bản của t tởng Hồ Chí Minh về quan hệ giai
cấp - dân tộc
2.1. Cách mạng là sự nghiệp của toàn dân do giai cấp công
nhân lãnh đạo


3


Chủ nghĩa yêu nớc Việt Nam truyền thống và CNMLN về QHGC - DT có thể
nói đã đợc kết hợp nhuần nhuyễn trong TTHCM, thể hiện thành quan điểm của Ngời
về QHGC - DT.
Vận dụng sáng toạ CNMLN vào việc phân tích kết cấu xã hội - giai cấp ở Việt
Nam, Hồ Chí Minh đã nhận ra rằng trong các giai cấp của xã hội Việt Nam thì công
nhân nông dân, tiểu t sản, t sản dân tộc đều có kẻ thù chung là đế quốc và phong
kiến. Do đó theo Hồ Chí Minh cách mạng phải là sự nghiệp của toàn dân. Tức là của
4 giai cấp này. Đồng thời khi phủ nhận vai trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp nông
dân, tiểu t sản, t sản dân tộc thì Hồ Chí Minh cũng khẳng định vai trò lãnh đạo của
giai cấp công nhân đối với cách mạng Việt Nam. Ngời cho rằng lãnh đạo đợc hay
không là do đặc tính giai cấp chứ không phải do số lợng nhiều hay ít của giai cấp đó.
Giai cấp công nhân là giai cấp có nhiều đặc tính tiến bộ và có hệ t tởng CNMLN nên
giai cấp công nhân ắt phải là ngời lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Nhng Hồ Chí Minh cũng cho rằng, giai cấp công nhân Việt Nam muốn hoàn
thành sứ mệnh lịch sử của mình thì phải lập nên Đảng cộng sản. Đảng là điều kiện
quan trọng hàng đầu để cách mạng giành thắng lợi. Xuất phát từ nhận thức nh thế,
Hồ Chí Minh đã nỗ lực chuẩn bị mọi mặt để thành lập Đảng cộng sản Việt Nam năm
1930.
Đồng thời với việc xác định lực lợng cách mạng là toàn dân, giai cấp lãnh đạo
cách mạng là công nhân, Hồ Chí Minh cũng xác định vai trò, vị trí của các giai cấp
trong cấu trúc của lực lợng cách mạng qua các giai đoạn lịch sử. Trớc khi Đảng ra
đời, Ngời xác định: động lực của cách mạng là công nhân, nông dân; bầu bạn của
cách mạng là tiểu t sản, t sản dân tộc. Nhng qua thử thách của thời gian, động lực
của cách mạng đợc Hồ Chí Minh xác định là công nhân, nông dân, tiểu t sản. T sản
dân tộc là lực lợng cách mạng. Ngời lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân.
Trên cơ sở xác định vai trò vị trí các giai cấp nh thế, Hồ Chí Minh đã kêu gọi
toàn dân đoàn kết, thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Có thể nói, những lời kên gọi

vang dậy núi sông của Ngời đối với toàn thể quốc dân đồng bào là quá trình thể hiện
cụ thể t tởng của Ngời về lực lợng cách mạng. Nhờ đó cách mạng Việt Nam đã giành
thắng lợi to lớn trong giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH.
Nh vậy dựa vào CNMLN, kết hợp với chủ nghĩa yêu nớc Việt Nam truyền
thống, Hồ Chí Minh đã phân tích cơ cấu xã hội - giai cấp ở Việt Nam, thấy đợc vai trò
vị trí của các giai cấp này. Trên cơ sở đó Ngời khẳng định: cách mạng là sự nghiệp
của toàn dân do giai cấp công nhân lãnh đạo. Đó là luận điểm cơ bản TTHCM về
QHGC - DT.

2.2. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
- con đờng giải quyết triệt để giai cấp và dân tộc. Theo Hồ Chí Minh, ở Đông
dơng giải phóng dân tộc, giành độc lập cho dân tộc là điều kiện hàng đầu để giải
quyết giai cấp. Bởi vì Hồ Chí Minh cho rằng, trong các mâu thuẫn cơ bản của xã hội
Việt Nam thì mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với chủ nghĩa đế quốc là mâu thuẫn

4


chủ yếu. Mặt khác nếu vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là hai yếu tố song sinh thì
trong mọi giai đoạn của lịch sử Việt Nam, vấn đề dân tộc luôn luôn chiếm vị trí nổi
bật. Chính vì vậy Hồ Chí Minh cho rằng độc lập dân tộc là điều kiện hàng đầu để
giải phóng giai cấp. Đó là một bộ phận trong t tởng của Ngời về QHGC - DT.
Nhng sau khi giành đợc độc lập thì dân tộc sẽ thực hiện quyền tự quyết theo
con đờng nào? TBCN hay XHCN? theo Hồ Chí Minh ĐLDT gắn liền với CNXH thì
mới giải quyết triệt để giai cấp và dân tộc. Ngời viết: "Làm t sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Chiến lợc này vừa đáp ứng đợc nguyện vọng trớc mắt, vừa đáp ứng đợc nguyện vọng mục tiêu lâu dài của nhân
dân nên đã lôi cuốn đợc đông đảo nhân dân đi theo, tạo ra lực lợng vô cùng to lớn
cho cách mạng. KHi đó quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân đợc khẳng định và
củng cố vững chắc. Tức là toàn dân đợc giải phóng đến đâu thì giai cấp công nhân
đợc giải phóng đến đó. QHGC - DT sẽ luôn luôn hài hoà, xoắn xít bên nhau. Có thể

nói rằng tính chất và giá trị của nền độc lập của Việt Nam sau cách mạng Tháng
tám năm 1945 đã đợc thay đổi nhiều. Dân tộc đợc giải phóng đến đâu thì giai cấp sẽ
đợc giải phóng theo nấc thang tơng ứng đến đó. QHGC - DT theo đó cũng đợc giải
quyết tốt hơn của giai đoạn sau so với giai đoạn trớc. Nh thế theo Hồ Chí Mính,
ĐLDT gắn liền với CNXH là con đờng giải quyết triệt để QHGC - DT.
Nếu ĐLDT gắn liền với CNXH là con đờng giải quyết triệt để QHGC - DT thì
ngợc lại, Hồ Chí Minh cũng cho rằng: CNXH là điều kiện bảo đảm độc lập thực sự,
hoàn toàn. Đó là một nền độc lập về mọi mặt và nhân dân có quyền tự quyết. Ngời
viết: "chỉ có CNXH, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng đợc các dân tộc bị áp bức và
những ngời lao động trên toàn thế giới khỏi ách nô lệ". Bởi vì Hồ Chí Minh cho rằng
học thuyết CNXH rất phù hợp với văn hoá và các giá trị truyền thống của Việt Nam,
rất dễ cắm sâu vào xã hội Việt Nam, giúp Việt Nam giành đợc độc lập hoàn toàn,
độc lập thực sự. Trên thực tế, sự du nhập của học thuyết CNXH vào Việt Nam, thông
qua Hồ Chí Minh đã giúp Việt Nam giành đợc độc lập năm 1945 và giải phóng Miền
Bắc năm 1954.
Sau 1954, Nam Việt Nam vẫn cha đợc giải phóng. Hồ Chí Minh cho rằng Miền
Bắc phải đi lên CNXH thì mới tạo điều kiện giải phóng Miền Nam, hoàn thành ĐLDT
trên cả nớc. Chế độ XHCN ở Miền Bắc là nền tảng cho sự nghiệp thống nhất này.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ đã kiểm chứng quan điểm này của Hồ
Chí Minh.
Nh vậy vận dụng sáng tạo CNMLN vào điều kiện lịch sử cụ thể Việt Nam,
TTHCM về QHGC - DT đã đợc xác lập. Nội dung của nó là khẳng định lực lợng cách
mạng là toàn dân; ngời lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân; phơng hớng tiến
lên của cách mạng là CNXH.

5


Phn III
Vận dụng t tởng Hồ Chí Minh về quan hệ giai cấp - dân tộc

vào sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay
3.1. Thực trạng giải quyết quan hệ giai cấp - dân tộc trong thời
kỳ đổi mới vừa qua và những vấn đề đặt ra
Vấn đề dân tộc và giai cấp trong thời kỳ đổi vừa qua đã đợc giải quyết đạt
những thành tựu và những hạn chế còn tồn đọng nh sau:
Về thành tựu: Đảng đã từng bớc hoàn thiện đờng lối đổi mới, xác định những
nét chính của mô hình CNXH ở Việt Nam với mục tiêu dân giàu, nớc mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ văn minh. Bản chất và linh hồn của những chủ trơng đổi mới
trên đây của Đảng ta là nắm vững ngọn cờ ĐLDT và CNXH, thực hiện lợi ích dân tộc
trên quan điểm, lập trờng giai cấp công nhân. Trong thời kỳ 1991 - 2000, đất nớc đã
ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. Nền kinh tế đất nớc chuyển từ cơ chế tập trung
bao cấp sang cơ chế thị trờng, định hớng XHCN; Hệ thống chính trị hoàn thiện từng
bớc; bản sắc văn hoá dân tộc và nhiều giá trị văn hoá đợc phát huy.
Về khuyết điểm tồn tại: Nền kinh tế nớc ta còn đứng trớc nguy cơ tụt hậu xa
hơn nữa so với các nớc trong khu vực và trên thế giới. Nều kinh tế phát triển cha cân
đối; tăng trởng kinh tế cha thực sự gắn liền với tiến bộ, công bằng xã hội; Trên lĩnh
vực chính trị t tởng đang diễn ra xu hớng tuyệt đối hoá lợi ích và các giá trị vật chất,
xem nhẹ và coi thờng các giá trị tinh thần; chủ nghĩa cá nhân thực dụng đang lây lan
với quy mô khá rộng. Nhìn chung đát nớc đứng trớc nhiều nguy cơ lớn, đe doạ lợi ích
giai cấp và lợi ích dân tộc.
Những thành tựu và khuyết điểm yếu kém tồn tại trong sự nghiệp đổi mới
đang đặt ra nhu cầu là: phát huy những thành tựu đã đạt đợc, đẩy lùi những nguy cơ
to lớn, đe doạ lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc.

3.2 Vn dõn tc v vn giai cp Vit Nam
Nhn nh c tỡnh hỡnh trong nc, c bit l nhng mõu thun gay gt
trong xó hi Vit Nam Ch tch H Chớ Minh ó a ra nhng quan im vn dng
sỏng to hc thuyt Mac- Lenin. Do kt hp ỳng n vn dõn tc vi vn giai
cp phự hp vi c im v iu kin c th Vit Nam.
Ch ngha Mac- Lenin cao nhim v gii phúng giai cp sau ú mi n

giai quyt vn gii phúng dõn tc
T tng H Chớ Minh li cao vic gii phúng dõn tc trc, coi ú l nn
tng, l vn trc mt, cn gii quyt trc.

6


S khỏc bit ny ny sinh chớnh l do vic nhn nh chớnh xỏc tỡnh hỡnh mõu
thun trong xó hi nc ta. Nhn nh ca ch tch H Chớ Minh:
Mt l, trong hon cnh t nc ta cú rt nhiu cỏc tng lp, li ớch cng
khỏc nhau nhng u cú mt k thự chung l ch ngha quc l bn tay sai. Trong
lch s dõn tc ta, mi khi t quc b xõm lng mi ngi dõn u ng lũng ng lờn
git gic. Tinh thn yờu nc ó ngm vo mỏu ca tng ngi con t Vit. Chng
th m ụng cha ta ó lm nờn mt Bch ng giang ly lng , mt vua tụi nh Trn
ba ln i phỏ quõn Mụng Nguyờn, ri c nhng Ngc Hi, ng a vang danh non
song t nc. Trong tt c nhng chin thng ú, ti thi im no trong xó hi cng
u tn ti giai cp, u tn ti nhng mõu thun ca ngi b tr v k cai tr. Nhng
trờn ht vn l tinh thn ng lũng ỏnh ui gic xõm lng. Mt dõn tc anh hựng
nh vy, sao cú th chu cnh ỏp bc búc lt ca quc, bố l tay sai v s bc
nhc ca triu ỡnh nh Nguyn. Chớnh vỡ lý do ú m vn gii phúng dõn tc
cn phi c t lờn hng u.
Hai l, nc ta l nc phong kin na thuc a, nn kinh t cũn nghốo nn
lc hu phỏt trin cha cao. Nụng nghip vn chim hn 90% nn kinh t. Do vy, s
phõn húa giai cp cha rừ rt, mõu thun giai cp cha tht s gay gt nh cỏc nc
phng Tõy.
Ba l, vic gii phúng dõn tc l nhim v tt yu phi thc hin nhng cn
phi khai thỏc thit yu t dõn tc trong u tranh, cỏch mng khụng th dng li
gii phúng dõn tc m cũn phi gii phúng con ngi, giai cp. Xúa b ỏp bc dõn tc
m khụng xúa b c tỡnh trng ỏp bc búc lt giai cp thỡ nhõn dõn lao ng vn
cha c gii phúng. Ch cú xúa b tn gc tỡnh trng ỏp bc, boc lt, ch cú thit

lp mt nh nc thc s ca dõn, do dõn, vỡ dõn mi m bo ngi lao ng cú
quyn lm ch, mi thc hin c s phỏt trin hi hũa gia cỏ nhõn v xó hi, gia
c lp dõn tc vi t do v hnh phỳc ca con ngi.

3.3. Một số phơng hớng, giải pháp nhằm tăng cờng quan hệ
giai cấp - dân tộc ở nớc ta hiện nay
Thứ nhất: Kiên định con đờng XHCN với mục tiêu: dân giàu, nớc mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Vấn đề QHGC - DT hiện nay thể hiện tập trung ở đờng lối và quan điểm phát
triển. Con đờng mang tính quy luật của Việt Nam là con đờng ĐLDT gắn liền với

7


CNXH. Nó cho phép kết hợp hài hoà lợi ích dân tộc với lợi ích giai cấp công nhân và
nhân dân lao động. Lịch sử dân tộc ta hơn 70 năm qua đã chứng minh tính đúng đắn
của con đờng này.
Tuy nhiên thực tiễn của phong trào XHCN thế giới hiện nay làm cho một số
ngời ở nớc ta mất niềm tin vào con đờng ĐLDT gắn liền với CNXH. Họ muốn quay
sang phía CNTB. Nhng tỉ lệ giữa các nớc t bản phát triển trên tổng số các nớc thế
giới không chứng minh đợc tính u việt của CNTB.
Hiện nay CNXH thế giới đang khủng hoảng, nhng nó sẽ rút ra đợc những bài
học kinh nghiệm cho giai đoạn sau. Và ở nớc ta ĐLDT gắn liền với CNXH là con đờng phát triển tất yếu của lịch sử.
Thứ hai: Củng cố và tăng cờng khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên
minh công nhân - nông dân - trí thức, dới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Trớc yêu cầu của thời kỳ mới, hơn lúc nào hết, chúng ta phải ra sức củng cố
và tăng cờng khối đại đoàn kết toàn dân, tạo thành sức mạnh và động lự to lớn để
xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN. Tinh thần cơ bản, nhiệm vụ bao trùm
của đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn này phải đợc tiến hành theo quan điểm của
đại hội IX của Đảng đã chỉ ra.

Muốn vậy cần phải quán triệt mục tiêu giữ vững độc lập thống nhất, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ, hớng tới dân giàu nớc mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh; quán triệt đại đoàn kết trong các chủ trơng chính sách của Đảng,
trong xây dựng bộ máy nhà nớc, trong xây dựng và mở rộng mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, đáp ứng lợi ích, nguyện vọng chính đáng của các giai cấp, tầng lớp, dân tộc,
tôn giáo trong xã hội; gắn quyền lợi với trách nhiệm, lợi ích riêng của mỗi ngời với
nghĩa vụ công dân, trong đó lợi ích dân tộc là trung tâm.
Thứ ba: Phát triển nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa.
Đây là bớc cụ thể hoá tiếp theo trong chủ trởng củng cố và tăng cờng khối đại
đoàn kết dân tộc, đợc tiến hành trên lĩnh vực kinh tế. Phát triển nền kinh tế thị tr ờng,
định hớng XHCN là dựa vào công cụ kinh tế thị trờng để thực hiện mục tiêu CNXH.
Trên thực tế mức tăng trởng của kinh tế nớc ta thời kỳ 1991 - 2002 theo mô hình này
đạt đợc khá cao, bình quân mỗi năm tăng hơn 7%, nhng còn rất nhiều hạn chế.
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay nếu không bảo đảm tăng trởng kinh tế cao, ôn định
theo mô hình kinh tế này thì sẽ đe doạ lợi ích giai cấp và dân tộc. Vì vậy chúng ta
phải tiếp tục phát triển nền kinh tế thị trờng, định hớng XHCN để thực hiện mục tiêu
chiến lợc của sự nghiệp đổi mới. Muốn vậy đòi hỏi chúng ta phải tập trung đổi mới
và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nớc; mở rộng và đa dạng hoá các hình thức
kinh tế nhà nớc; đa dạng hoà và áp dụng một cách phổ biến các hình thức kinh tế t
bản nhà nớc; hớng dẫn khuyến khích kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển; khuyến
khích kinh tế t bản t nhân đầu t vào sản xuất, yên tâm làm ăn lâu dài.

8


Phần IV
Mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh
4.1 Tư tưởng biện chứng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn
đề dân tộc với vấn đề giai cấp là một trong những nhân tố đảm bảo thành

công của cách mạng Việt Nam, một trong những đóng góp xuất sắc của
Người vào kho tàng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Quá trình hình thành tư tưởng về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí
Minh đã gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Người ngay từ những năm
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Như mọi người đều thấy rõ, trước khi học thuyết
Mác – Lênin được truyền bá vào Việt Nam thì các phong trào yêu nước của người
Việt Nam chống thực dân Pháp liên tục nổ ra, nhưng kết cục đều thất bại. Nguyên
nhân quan trọng nhất khiến cho các phong trào đó thất bại chính là do bế tắc về
đường lối, mặc dù các bậc lãnh tụ của những phong trào yêu nước ấy đã dành nhiều
tâm huyết cho sự nghiệp của mình, nhưng do họ không nhận thức được xu thế của
thời đại, nên không thấy được giai cấp trung tâm của thời đại lúc này là giai cấp công
nhân - giai cấp đại biểu cho một phương thức sản xuất mới, một lực lượng tiến bộ xã
hội. Do đó, mục tiêu đi tới của những phong trào ấy không phản ánh đúng xu thế vận
động của lịch sử và thời đại, nên không thể đem lại kết quả và triển vọng tốt đẹp cho
sự phát triển của xã hội Việt Nam.
Trước yêu cầu bức xúc của vấn đề giải phóng dân tộc, từ chủ nghĩa yêu nước,
người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã quyết định ra đi tìm đường cứu
nước. ''Công lao to lớn đầu tiên của Bác đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam là đã
tìm ra con đường cứu nước, khai phá con đường giải phóng dân tộc và các dân tộc bị
áp bức trên thế giới''.
Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, qua khảo sát thực tế ở các nước trên
các châu lục Âu, Phi, Mỹ và ngay cả trên đất Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra nhận
xét: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân là nguồn gốc mọi sự đau khổ của công
nhân, nông dân lao động ở cả “chính quốc” cũng như ở thuộc địa. Nghiên cứu các

9


cuộc cách mạng dân chủ tư sản Mỹ (1776); Pháp (1789), Nguyễn Ái Quốc nhận thấy
các cuộc cách mạng này tuy nêu khẩu hiệu ''tự do'', ''bình đẳng'', nhưng không đưa lại

tự do, bình đẳng thực sự cho quần chúng lao động. Người viết: Tiếng là cộng hoà,
dân chủ kì thực trong thì nó bóc lột công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Tuy
khâm phục các cuộc cách mạng ấy, nhưng Nguyên Ái Quốc cho rằng đó là cách mạng
chưa đến nơi. Vì thế, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia hoạt động đấu tranh trong
phong trào giải phóng của các dân tộc bị áp bức, phong trào giải phóng giai cấp công
nhân ở các nước tư bản. Chính vì vậy mà Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến với cách mạng
Tháng Mười Nga, đến với V.I. Lênin; như một tất yếu lịch sử. Cách mạng Tháng
Mười Nga thắng lợi là một sự kiện chính trị đặc biệt quan trọng trong quá trình hoạt
động tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Đặc biệt, sau khi đọc ''Sơ thảo lần
thứ nhất Luận cương về dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã
thấy rõ hơn con đường đúng đắn mà cách mạng Việt Nam sẽ trải qua. Người khẳng
định: ''Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc
bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ''; rằng: ''Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản''. Kết luận trên đây của Nguyễn Ái Quốc là sự khẳng định một hướng đi mới,
nguyên tắc chiến lược mới, mục tiêu và giải pháp hoàn toàn mới, khác về căn bản so
với các lãnh tụ của các phong trào yêu nước trước đó ở Việt Nam; đưa cách mạng giải
phóng dân tộc vào quỹ đạo của cách mạng vô sản, tức là sự nghiệp cách mạng ấy phải
do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin
làm nền tảng. Vì vậy, con đường phát triển tất yếu của cách mạng giải phóng dân tộc
phải phát triển thành cách mạng XHCN. Người chỉ rõ: ''Cách mạng giải phóng dân
tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi
hoàn toàn''.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã đấu tranh
và chỉ đạo giải quyết mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, bền
bỉ chống các quan điểm không đúng về vấn đề dân tộc và thuộc địa, đã phát triển lý
luận về cách mạng giải phóng dân tộc. Ngay từ khi hoạt động trong phong trào công
nhân ở Pháp, Người đã nhận thấy một hố sâu ngăn cách giữa giai cấp công nhân và
nhân dân lao động ''chính quốc'' với giai cấp công nhân và nhân dân lao động thuộc


10


địa. Đó là chủ nghĩa sô-vanh nước lớn của các dân tộc đi thống trị và chủ nghĩa dân
tộc hẹp hòi đối với các dân tộc bị thống trị.
Trong Đại hội Tua, thành lập Đảng Cộng sản Pháp (1920), Nguyễn Ái Quốc
đã kêu gọi những người xã hội ủng hộ phong trào giải phóng ở các thuộc địa và lên án
phái nghị viện đi theo đường lối cơ hội của Đệ nhị quốc tế, theo đuổi bọn thực dân
phản động, từ chối yêu cầu giải phóng của các dân tộc thuộc địa. Trong nhiều tham
luận tại các Đại hội quốc tế và các bài viết, Nguyễn Ái Quốc đã bảo vệ chủ nghĩa
Mác - Lênin, phê bình một cách kiên quyết và chân thành những sai lầm, khuyết điểm
của các Đảng Cộng sản chính quốc. Các Đảng Cộng sản này, tuy thừa nhận 21 điều
kiện của Quốc tế cộng sản, trong đó Điều 8 quy định các Đảng Cộng sản ở chính
quốc phải ủng hộ và hoạt động một cách thiết thực giúp đỡ phong trào giải phóng dân
tộc; nhưng trên thực tế hoạt động rất ít, do không nhận thức đúng tầm quan trọng của
vấn đề thuộc địa.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, trong ''Chính
cương vắn tắt'' do Nguyên Ái Quốc khởi thảo đã khẳng định: ''Chủ trương làm tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản''. Như vậy là, lần
đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, với Hồ Chí Minh, sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng XHCN. Cuộc cách mạng này kết hợp
trong bản thân nó tiến trình của hai sự nghiệp giải phóng: giải phóng dân tộc khỏi ách
nô lệ thực dân và giải phóng giai cấp khỏi ách áp bức bóc lột. Vấn đề dân tộc được
giải quyết trên lập trường của giai cấp công nhân - điều đó phù hợp với xu thế thời
đại và lợi ích của các giai cấp và lực lượng tiến bộ trong dân tộc. Sức mạnh đi tới
thắng lợi của cách mạng Việt Nam không phải là cái gì khác mà là mục tiêu dân tộc
luôn thống nhất với mục tiêu dân chủ trên cơ sở định hướng XHCN. Đặc điểm nổi bật
của cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân triệt để, tạo tiền đề
cho bước chuyển sang thời kỳ quá độ lên CNXH; tức là, cách mạng XHCN là bước
kế tiếp ngay khi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thắng lợi và giữa hai cuộc cách

mạng này không có một bức tường nào ngăn cách. Đây là quan điểm hết sức căn bản
của tư tưởng Hồ Chí Minh: chỉ có hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc mới có
điều kiện để tiến lên CNXH và chỉ có cách mạng XHCN mới giữ vững được thành

11


quả cách mạng giải phóng dân tộc, mới mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc
cho mọi tầng lớp nhân dân, mới có độc lập dân tộc thực sự.
Như chúng ta đều biết, Hồ Chí Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ
nghĩa Mác - Lênin. Từ đó, Người đã phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước truyền
thống Việt Nam, trong sự thống nhất với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Bởi vậy, trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, đúng như Ph. Ăng-Ghen đã nói: Những tư tưởng dân tộc chân
chính... đồng thời cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính. Sự phát triển tự tưởng
Hồ Chí Minh đã chỉ đạo sự phát triển của thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong sự
thúc đẩy lẫn nhau giữa dân tộc và giai cấp, ý thức giác ngộ về cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc là tiền đề quyết định nhất, cũng là động lực chủ yếu để Nguyễn Ái
Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tiếp thu quan điểm mác-xít về giai cấp. Đó
chính là nhân tố đảm bảo tính khoa học và cách mạng cho sự phát triển tinh thần dân
tộc đúng đắn ở người chiến sĩ cộng sản Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình đấu
tranh cách mạng: giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản không phải chỉ là chứng
minh cho sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn là sự phát triển sáng tạo và
có giá trị định hướng rất cơ bản. Qua thực tiễn đấu tranh và lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, luôn bám sát đặc điểm thực tiễn Việt Nam và tham khảo kinh nghiệm các nước
khác, Hồ Chí Minh đã có những giải pháp đúng đắn, sáng tạo, đáp ứng đòi hỏi của
lịch sử, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin;
đó cũng chính là nguồn gốc sức mạnh của cách mạng nước ta trong suốt bảy thập kỷ
qua. Bởi lẽ:
Một là, cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay muốn thành

công triệt để nhất định phải đi theo quỹ đạo và là một bộ phận khăng khít của cách
mạng vô sản. Cuộc cách mạng đó phải đưa vào lực lượng của nhân dân, nòng cốt là
liên minh công nông, do chính Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Hồ Chí Minh
nhận thức rất rõ, nếu chỉ đưa vào lực lượng của riêng giai cấp công nhân, thậm chí cả
giai cấp nông dân là hoàn toàn không đủ, mà theo Người, chỉ có phát động cả dân tộc
tham gia mới biến sức mạnh dân tộc thành lực lượng vô địch.
Hai là, cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ dân tộc (mâu
thuẫn địa chủ - nông dân, mâu thuẫn tư sản - vô sản) không tách rời cuộc đấu tranh

12


giải quyết mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với các thế lực đế quốc xâm lược. Ở giai
đoạn đầu của cách mạng, cần đặt vấn đề dân tộc, độc lập dân tộc lên trên hết. ''Nếu
không giải quyết được vấn đề dân tộc, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân
tộc, thì chẳng những toàn thể dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của
bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được''. ''Chính lập trường và lợi ích
giai cấp công nhân đòi hỏi trước hết phải giải phóng dân tộc''. Ở đây rõ ràng cái giai
cấp được biểu hiện ở cái dân tộc, cái dân tộc được giải quyết theo lập trường giai cấp
công nhân, chứ đâu phải là “hy sinh cái nọ cho cái kia” như có người từng cố chứng
minh.
Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản ở chính quốc như
''hai cánh của một con chim'', phải thực hiện sự liên minh giữa vô sản ở chính quốc
với vô sản và nhân dân các nước thuộc địa thì cách mạng mới thắng lợi. Cách mạng
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa không phụ thuộc một chiều vào cách mạng
vô sản ở chính quốc, mà có thể và phải chủ động tiến lên giành thắng lợi, thậm chí có
thể giành thắng lợi trước, từ đó góp phần tích cực hỗ trợ cho cách mạng ở các nước tư
bản. Đó là nhận định hết sức đúng đắn, táo bạo và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Đáng
tiếc là có lúc quan điểm này của Hồ Chí Minh không được một số người, trong đó có
một vài người của Quốc tế cộng sản cũng không thừa nhận.

Bốn là, sau khi giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị ngoại bang, khỏi chế độ
thuộc địa, dân tộc vừa được giải phóng phải quá độ lên CNXH và trong bước quá độ
ấy phải tự mình tìm tòi con đường, phương thức riêng phù hợp với tình hình và đặc
điểm đất nước, tránh giáo điều, dập khuôn những hình thức, bước đi, biện pháp của
nước khác.

4.2. Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hố Chí Minh về mối
quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
Trong thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện
nay, việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hố Chí Minh về mối quan hệ biện
chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp càng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng hết
sức cấp thiết. Bởi vì, thực tế cho ta bài học là, có thời kỳ, khi triển khai các nhiệm vụ
xây dựng CNXH, đã có lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng vội, chủ quan, duy ý chí, quá
13


nhấn mạnh vấn đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân tộc trong việc hoạch định và
thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến lợi ích các giai cấp, tầng lớp
không được tính đến đầy đủ và kết hợp hài hoà, sức mạnh dân tộc không được phát
huy như một trong những động lực chủ yếu nhất. Nhưng ngay sau đó, Đảng ta đã kịp
thời khắc phục có hiệu quả cả về phương điện nhận thức lý luận cũng như trong hoạt
động thực tiễn về vấn đề này.
Tuy thế, trong những năm gần đây, ở nước ta đã nảy sinh ý kiến cho rằng: mối
quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp luận chứng trong chủ nghĩa Mác - Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ đúng với một số nước khác nào đó, còn ở Việt Nam
vốn là nước thuộc địa, nửa phong kiến, vấn đề dân tộc bao giờ cũng chi phối, khi nào
Đảng nhấn mạnh vấn đề giai cấp thì đều dẫn đến sai lầm. Từ đó, họ đề xuất ý kiến
theo hướng nhấn mạnh một chiều vấn đề dân tộc, tách vấn đề dân tộc khỏi vấn đề giai
cấp, hạ thấp ý nghĩa quan trọng, bức thiết của vấn đề giai cấp, không lấy quan điểm
giai cấp làm quan điểm cơ sở lập trường để xem xét, giải quyết vấn đề dân tộc. Theo

họ, nước ta hiện nay chỉ nên đề ra và giải quyết những vấn đề dân tộc, còn vấn đề giai
cấp không nên đặt ra. Mục tiêu ''dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh'' được họ đồng tình, thưng giải thích theo hướng phi giai cấp, nghĩa là không
nhất thiết phải theo định hướng XHCN. Thực chất là họ bác bỏ đường lối giải quyết
vấn đề dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân. Quan điểm nêu trên đi ngược
với con đường mà Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn, và rõ ràng là
không phù hợp với thực tiễn của lịch sử cách mạng Việt Nam. Thực tiễn đó đã chỉ ra
rằng, trong bất cứ giai đoạn nào, sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đều phải kết
hợp nhuần nhuyễn lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc; trong chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam luôn luốn gắn bó hữu cơ với lý tưởng của giai cấp công nhân Việt Nam. Nền
độc lập thật sự của dân tộc; tự do, sự giàu mạnh, văn minh và hạnh phúc của nhân dân
chỉ có thể đạt được một cách bền vững trong sự nghiệp cách mạng theo mục tiêu, lý
tưởng của giai cấp công nhân. Bởi vậy, ngay từ khi khởi xướng và lãnh đạo công
cuộc đổi mới, Đảng ta đã xác định rõ: đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN
mà là quan niệm đúng đắn hơn về CNXH và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình
thức; bước đi và biện pháp phù hợp. Nói cách khác, giữ vững định hướng XHCN là
nguyên tắc cơ bản của quá trình đổi mới.

14


Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay,
Đảng ta đã ngày càng cụ thể hoá và hoàn thiện đường lối đổi mới toàn diện, mà thực
chất là nhận thức đúng đắn và sâu sắc hơn về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp trong công cuộc xây
đựng CNXH ở nước ta.
Văn kiện của Đảng ta tại Đại hội lần thứ IX đã xác định rõ: “mối quan hệ giữa
các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân
dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây đựng và bảo vệ Tổ quốc được sự
lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc

trong mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.
Nhìn lại lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ XX, một thế kỷ vận động và phát triển
mau lẹ và phức tạp của tình hình quốc tế, chúng ta càng thấy sự đúng đắn, sáng tạo
của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp.
Vấn đề đó đã được kiểm nghiệm bằng thực tế, cả trong chiến tranh ác liệt lẫn
trong những khó khăn của hoà bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, tư tưởng
Hồ Chí Minh đang thể hiện giá trị trường tồn nhất là trong bối cảnh các dân tộc đang
đứng trước những thách thức cực kì nguy hiểm khi các thế lực hiếu chiến dựa vào
tiềm lực quân sự hiện đại tiến hành chiến tranh xâm lược những nước có chủ quyền,
bất chấp luật pháp.
Điều đó càng cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, học tập, quán triệt
tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp trong tình hình mới, làm cơ sở
vững chắc cho việc vận dụng, hoạch định, tổ chức và thực hiện đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước, để đưa dân tộc ta vượt qua mọi thử thách, vững bước trong
quá trình xây dựng một đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.

15



×