Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng HCM (8)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.32 KB, 11 trang )

Mở đầu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, và chủ nghĩa yêu nước
với chủ nghĩa quốc tế.
Luận điểm về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là một trong
những sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng và phát triển chủ nghĩa
Mác-Lênin. Nó có tác dụng lớn lao đối với việc tập hợp lực lượng vào sự nghiệp
giải phóng dân tộc ở Việt Nam cũng như ở các nước thuộc địa nói chung.

I. Nội dung
1.Các tư tưởng trước Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa dân tộc và
giai cấp
Mác - Ăngghen, Lênin đã nêu ra những quan điểm cơ bản về mối quan hệ giữa
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Tuy nhiên, xuất phát từ yêu cầu, mục tiêu của
cách mạng vô sản châu Âu, các ông vẫn tập trung nhiều hơn vào vấn đề giai cấp,
vẫn "đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc và
chung cho toàn thể giai cấp vô sản".
Tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin trên nền tảng truyền thống yêu nước và nhân ái
của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh có những phát triển, những quan điểm riêng,
độc đáo về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc.
Trước Hồ Chí Minh, ở Việt Nam, các chí sĩ như Phan Bội Châu, Phan Châu
Trinh, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học đều là những người yêu nước, có khát
vọng độc lập dân tộc, có lòng căm thù sâu sắc đế quốc xâm lược, nhưng đều thất
bại.
Trước đây các chí sĩ chỉ bàn vấn đề độc lập dân tộc, sau này Bác kết hợp độc lập

1


dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Trước đây các cụ chỉ bàn vấn đề đấu tranh giải phóng
dân tộc, nhưng sau này Bác kết hợp đấu tranh giải phóng dân tộc với đấu tranh giải


phóng giai cấp, giải phóng con người.
Phong trào giải phóng dân tộc có từ trước khi xuất hiện Nguyễn Ái Quốc,
nhưng trước đây, thường có 2 khuynh hướng. Một là giải phóng dân tộc theo
khuynh hướng phong kiến, mà tiêu biểu là phong trào Cần Vương từ năm 18851896. Thứ hai là giải phóng dân tộc theo khuynh hướng tư sản đầu thế kỷ XX, tiêu
biểu là ngọn cờ của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh. Sự sàng lọc nghiêm khắc của
lịch sử cho thấy các khuynh hướng đó đều thất bại. Chủ nghĩa dân tộc trong quan
điểm Hồ Chí Minh, sớm hay muộn sẽ đi tới chủ nghĩa quốc tế vô sản. Và Hồ Chí
Minh đã thực hiện sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc theo con đường cách
mạng vô sản.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ biện chứng giữa vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp
Ngay từ năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra kết luận quan trọng mang tính định
hướng cho tư tưởng chỉ đạo của Người khi trực tiếp về nước lãnh đạo cách mạng
Việt Nam: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả
hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản”.
Với tư tưởng định hướng quan trọng đó, trong suốt quá trình cách mạng Hồ Chí
Minh đã nhận thức sâu sắc và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc
và vấn đề giai cấp.
Chúng ta xem xét tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giưũa vấn đề
dân tộc và giai cấp thông qua các luận điểm sau:

2


2.1 Quan điểm về dân tộc và giai cấp
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, khái niệm "Dân" trong Tư tưởng
Hồ Chí Minh thể hiện và được sử dụng là toàn dân tộc, bao gồm mọi người thuộc
các dân tộc (đa số và thiểu số) sống trên dải đất Việt Nam, không phân biệt nòi
giống, trai gái, giàu nghèo, tôn giáo, chỉ trừ những kẻ phản bội, tay sai cho đế quốc,

đi ngược lại quyền lợi của nhân dân, của dân tộc, đi ngược lại độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội.
Tất nhiên, Hồ Chí Minh không coi “dân”, “nhân dân” là một khối đồng nhất, mà
là một cộng đồng, bao gồm nhiều dân tộc, giai cấp, tầng lớp. Các nhóm xã hội ấy có
lợi ích chung và lợi ích riêng, có vai trò và thái độ khác nhau đối với sự phát triển xã
hội và cách mạng. Công nhân, nông dân và trí thức luôn luôn được Hồ Chí Minh coi
là lực lượng cách mạng to lớn nhất, là nền tảng của khối đoàn kết dân tộc, đoàn kết
toàn dân. Điều này được thể hiện rõ trong các bài nói và viết của Người, trong
Chính cương, Điều lệ, trong các văn kiện của Đảng do Người chỉ đạo xây dựng nên,
như trong Chính cương của Đảng lao động Việt Nam (tháng 2-1951) đã ghi rõ:
“Chính quyền của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là chính quyền dân chủ nhân
dân nghĩa là công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức, tư sản
dân tộc và các thân sĩ (địa chủ) yêu nước tiến bộ; những tầng lớp nhân dân ấy
chuyên chính với đế quốc xâm lược và bọn phản quốc, cho nên nội dung chính
quyền đó là nhân dân dân chủ chuyên chính. Chính quyền đó dựa vào mặt trận dân
tộc thống nhất, lấy liên minh công nhân, nông dân lao động, trí thức làm nền tảng,
do giai cấp công nhân lãnh đạo”.

3


2.2 Đường lối cứu nước của Hồ Chí Minh
Khi tiếp cận Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, Hồ Chí Minh
đã hình thành đường lối cứu nước: giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô
sản, gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc
và CNXH. Người nói: “ Cả hai cuộc giải phóng này (dân tộc và giai cấp) chỉ có thể
là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới.” Tiếp đó, ngay
trong Chánh cương, Sách lược vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng
cộng sảnViệt Nam tháng 2/1930, Hồ Chí Minh đã xác định Cách mạng Việt Nam
trải qua hai giai đoạn: Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng (tức

cách mạng dân tộc-dân chủ) để đi tới xã hội cộng sản. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự
gắn bó thống nhất giữa độc lập dân tộc và CNXH vừa phản ảnh quy luật khách quan
của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh
mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng
giai cấp và giải phóng con người. Xoá bỏ ách áp bức dân tộc mà không xoá bỏ tình
trạng bóc lột và áp bức giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa được giải phóng.
Người nói: “Nếu nước độc lập mà dân không được hạnh phúc, tự do, thì độc lập
cũng chẳng có ý nghĩa gì.” Do đó giành được độc lập rồi, thì phải tiến lên CNXH, vì
mục tiêu của CNXH là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

2.3 Quan điểm: ”Phải kết hợp và giải quyết hài hòa vấn đề dân tộc
và vấn đề giai cấp, song phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết và
trước hết.”
Luận điểm này của Người xuất phát từ cơ sở thực tiễn của phương Đông và
Việt Nam:
Năm 1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ Người đề nghị: "Xem
xét lại chủ nghĩa Marx về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương
Đông". Ở phương Đông, "Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra không giống như ở
phương Tây, bởi vì xã hội Đông Dương, Ấn Độ hay Trung Quốc, xét về mặt cấu

4


trúc kinh tế không giống như xã hội phương Tây thời trung cổ, cũng như thời cận
đại, và đấu tranh giai cấp ở đó không quyết liệt như ở đây…".
Theo Người, ở các nước thuộc địa “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất
nước”. Người phân tích, do kinh tế còn lạc hậu, chưa phát triển nên sự phân hoá giai
cấp ở nước ta và nhiều nước thuộc địa khác chưa triệt để, mâu thuẫn chưa đến mức
đối kháng quyết liệt. Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng Việt Nam là một
nước thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế

quốc và tay sai nổi trội hơn mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với địa chủ phong
kiến, giữa tư sản với vô sản. Do đó, không phải giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới
giải quyết vấn đề dân tộc như ở phương Tây. Ngược lại chỉ có thể giải quyết vấn đề
dân tộc mới giải phóng được giai cấp. Quyền lợi dân tộc và giai cấp là thống nhất,
quyền lợi dân tộc, đất nước phải đặt lên trên quyền lợi giai cấp.Quyền lợi dân tộc
không còn, thì quyền lợi mỗi giai cấp, mỗi bộ phận trong dân tộc cũng không thể
thực hiện được.
Xuất phát từ luận điểm trên, Hồ Chí Minh từng kiến nghị Cương lĩnh hành
động của Quốc tế Cộng sản theo hướng phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân
danh Quốc tế Cộng sản, khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng, nhất định nó sẽ biến
thành chủ nghĩa quốc tế. Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa
dân tộc với chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính, coi đó là một động
lực lớn mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, không để ngọn cờ dân
tộc rơi vào tay giai cấp nào khác, phải nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên
lập trường của giai cấp vô sản, kết hợp chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa quốc
tế.Quan điểm này sau này thể hiện rõ ở Nghị quyết Hội nghị Trung ương VIII, năm
1941 do Người chủ trì: "Trong lúc này quyền lợi của bộ phận giai cấp phải đặt dưới
sự tồn vong sinh tử của quốc gia dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được
vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được tự do độc lập cho toàn dân tộc, thì chẳng
những toàn thể quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận
giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được."

5


Chúng ta thấy được sự sáng suốt, tư duy lý luận và thực tiễn của Hồ Chí Minh
trong xử lý vấn đề lý luận về dân tộc và giai cấp trong hoàn cảnh và điều kiện của
cách mạng nước ta lúc bấy giờ. Người đã khắc phục được sự bế tắc mà các nhà yêu
nước theo tư tưởng phong kiến hay tư sản trước đó đã gặp phải về con đường giải
phóng dân tộc. Sự sáng tạo về tư tưởng của Người là: giải phóng dân tộc và giải

phóng giai cấp là hai tiến trình gắn bó chặt chẽ với nhau.

2.4 Lựa chọn giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo, Đảng Cộng
sản Việt Nam là Đảng Cách mạng dẫn đường.
Trong xã hội Việt Nam có nhiều giai cấp khác nhau trong đó có giai cấp công
nhân là giai cấp tiên tiến nhất đóng vai trò lãnh đạo. Khẳng định vai trò lãnh đạo của
giai cấp công nhân, Bác đã phân tích: “Đặc tính cách mạng của giai cấp công nhân
là: kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật. Lại vì là giai cấp tiên tiến nhất
trong sức sản xuất gánh trách nhiệm đánh đổ đế quốc để xây dựng một xã hội mới,
giai cấp công nhân có thể thấm nhuần một tư tưởng cách mạng nhất tức là chủ nghĩa
Mác - Lênin. Đồng thời tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng
lớp khác. Vì vậy, về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động, giai cấp công
nhân giữ vai trò lãnh đạo”.
Mác, Ănghen đã nêu trong bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: “Giai cấp vô
sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự xây dựng thành một giai
cấp dân tộc. Bác Hồ cho rằng, không đợi phải giành được chính quyền, giai cấp
công nhân mới tự xây dựng thành một giai cấp dân tộc mà ngay trong lúc vận động
quần chúng giành chính quyền, giai cấp công nhân đã là đại biểu quyền lợi của dân
tộc, đã là giai cấp dân tộc, giành độc lập dân tộc để tiến lên chủ nghĩa xã hội, mưu
cầu tự do hạnh phúc cho nhân dân. . Đó là sự vận dụng chủ nghĩa Mác rất sáng tạo
của Bác. Bác đã kết hợp rất nhuần nhuyễn lợi ích của giai cấp công nhân với lợi ích
của nhân dân, của dân tộc .

6


Giai cấp công nhân muốn hoàn thành sứ mệnh giải phóng dân tộc thì phải có một
chính đảng lãnh đạo.
Nước ta là một nước thuộc địa nửa phong kiến, một nước có phong trào công
nhân phát triển đầu thế kỷ XX, và có phong trào yêu nước được kế thừa từ truyền

thống hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước.Con đường giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội đòi hỏi phải có một hệ tư tưởng khoa học tiên tiến thay thế cho hệ tư
tưởng phong kiến lỗi thời. Hệ tư tưởng ấy phải có một tổ chức tiên phong cách
mạng tập hợp quần chúng nhân dân đông đảo, biến hệ tư tưởng khoa học đó thành
hiện thực. ” Hồ Chí Minh coi “công nông là gốc cách mạng”, song công nông và
dân chúng nói chung phải giác ngộ, và muốn được giác ngộ, đi từ tự phát đến tự
giác, thì phải có Đảng cách mạng dẫn đường.

2.5 Kết hợp vấn đề giai cấp và dân tộc trong xây dựng đại đoàn kết
dân tộc
Hồ Chí Minh nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc, nhưng luôn đứng vững
trên lập trường của giai cấp công nhân, nhuần nhuyễn vấn đề dân tộc và giai cấp. Có
lẽ có một động lực cực kỳ quan trọng để đưa cuộc kháng chiến của chúng ta đến
thắng lợi, đó là vấn đề đoàn kết. Nếu như ở phương Tây, sự đoàn kết chủ yếu chỉ có
công nhân và nông dân, thì tư tưởng Hồ Chí Minh là đại đoàn kết toàn dân tộc, lấy
công nông làm gốc. Cái này là xuất phát từ thực tiễn Việt Nam là nước thuộc địa,
chỉ trừ một số ít địa chủ, tư sản mại bản còn lại nhiều trung, tiểu địa chủ khác, thậm
chí có cả đại địa chủ cũng bị áp bức, cũng bị thực dân bóc lột. Họ có bao nhiêu tiền
của đều góp cho cách mạng. Bởi vậy, đoàn kết nếu chỉ cứng nhắc là công- nông thì
sẽ không có mặt trận dân tộc thống nhất thật sự ở Việt Nam, sẽ không có kết quả.
Bác dạy: “ Nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp
đấu tranh, mà không xét hoàn cảnh nước mình thế nào để làm cho đúng”. Đấy chính
là một trong những điểm tài tình, đặc sắc trong chủ nghĩa dân tộc của Bác.

7


II. Mở rộng – Liên hệ
1.Ý kiến đối lập
Ở nước ta trong những năm gần đây xuất hiện một số ý kiến trái chiều về mối

quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. Những người này đề xuất ý kiến theo hướng nhấn
mạnh một chiều vấn đề dân tộc, tách vấn đề dân tộc khỏi vấn đề giai cấp, hạ thấp ý
nghĩa quan trọng, bức thiết của vấn đề giai cấp, không lấy quan điểm giai cấp làm
quan điểm cơ sở lập trường để xem xét, giải quyết vấn đề dân tộc. Theo họ, nước ta
hiện nay chỉ nên đề ra và giải quyết những vấn đề dân tộc, còn vấn đề giai cấp
không nên đặt ra. Mục tiêu ''dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh'' được họ đồng tình, nhưng họ lại giải thích theo hướng phi giai cấp, nghĩa là
không nhất thiết phải theo định hướng XHCN. Thực chất là họ bác bỏ đường lối giải
quyết vấn đề dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân. Quan điểm nêu trên đi
ngược với con đường mà Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn, và rõ
ràng là không phù hợp với thực tiễn của lịch sử cách mạng Việt Nam. Vì vậy luận
điểm của họ là sai lầm. Trong một số trường hợp là cố ý phản động, đi ngược lại lợi
ích của dân tộc.
Trong bất cứ giai đoạn nào, sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đều phải kết
hợp nhuần nhuyễn lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc; trong chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam luôn luốn gắn bó hữu cơ với lý tưởng của giai cấp công nhân Việt Nam. Nền
độc lập thật sự của dân tộc; tự do, sự giàu mạnh, văn minh và hạnh phúc của nhân
dân chỉ có thể đạt được một cách bền vững trong sự nghiệp cách mạng theo mục
tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân. Bởi vậy, ngay từ khi khởi xướng và lãnh đạo
công cuộc đổi mới, Đảng ta đã xác định rõ: đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu
XHCN mà là quan niệm đúng đắn hơn về CNXH và thực hiện mục tiêu ấy bằng
những hình thức; bước đi và biện pháp phù hợp.

8


2. Học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, Đảng ta đã ngày càng cụ thể hoá
và hoàn thiện đường lối đổi mới toàn diện, mà thực chất là nhận thức đúng đắn và
sâu sắc hơn về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp đúng đắn

vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp trong công cuộc xây đựng CNXH ở nước ta.
Văn kiện của Đảng ta tại Đại hội lần thứ IX đã xác định rõ: “mối quan hệ giữa các
giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân,
đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây đựng và bảo vệ Tổ quốc được sự
lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc
trong mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.
Nhìn lại lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ XX, một thế kỷ vận động và phát triển mau
lẹ và phức tạp của tình hình quốc tế, chúng ta càng thấy sự đúng đắn, sáng tạo của tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp.
Vấn đề đó đã được kiểm nghiệm bằng thực tế, cả trong chiến tranh ác liệt lẫn trong
những khó khăn của hoà bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, tư tưởng Hồ
Chí Minh đang thể hiện giá trị trường tồn nhất là trong bối cảnh các dân tộc đang
đứng trước những thách thức cực kì nguy hiểm khi các thế lực hiếu chiến dựa vào
tiềm lực quân sự hiện đại tiến hành chiến tranh xâm lược những nước có chủ quyền,
bất chấp luật pháp.
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ đất nước cũng đang đứng trước những cơ hội và thách thức to lớn

9


đòi hỏi chúng ta phải chủ động đón lấy và sáng suốt vượt qua. Trong thực tiễn công
cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay, việc vận dụng và phát
triển sáng tạo tư tưởng Hố Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc
và vấn đề giai cấp càng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng hết sức cấp thiết

Kết luận
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện về mối quan hệ biện chứng khăng khít,
nhuần nhuyễn giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp .Có thể khẳng định rằng, giá trị
thời đại của tư tưởng ấy vẫn luôn sáng ngời và có tầm chỉ đạo chiến lược sống còn

đối với tiến trình hiện tại của cách mạng Việt Nam. Trước những biến động mới và
phức tạp của thế giới ngày nay, khi mà nhiều luận đề cũ đã trở nên lạc hậu và cản
trở sự phát triển, thì tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh cách đây 84 năm
vẫn cần phải được tiếp tục nghiên cứu và học tập, phát triển một cách nghiêm túc và
đầy đủ hơn nữa.

10


Tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia.
2. Hồ Chí Minh, toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia,T.1
3. Hồ Chí Minh, toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia,T.9
4. />5. />6. />7. />8. Lê Văn Lợi - Khoa Giáo dục chính trị, ĐHSP Quy Nhơn: Mối quan hệ giữa
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp.
9. GS.VS Nguyễn Duy Quý (Tạp chí Quốc phòng toàn dân): Mối quan hệ biện
chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh

11



×