Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng HCM (11)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.04 KB, 13 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Chủ tịch Hồ Chí Minh
(1890 - 1969).
Tư tưởng Hồ Chí Minh
là một hệ thống quan điểm
toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam, từ
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết
quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mac-Lenin vào điều kiện cụ
thể của Việt Nam; đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại
nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người và trong
thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của
Đảng Cộng Sản Việt Nam và của dân tộc Việt Nam
Đảng ta xác định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Có thể nói
rằng tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng nhất tạo nền tảng, kim
chỉ nam cho hoạt động của Đảng và là cơ sở khoa học cùng với chủ nghĩa MácLenin để hoạch định và thực hiện mục tiêu,nhiệm vụ và chiến lược cách mạng
Việt Nam.Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể ở Việt
Nam; kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại; là lý luận chiến lược, sách lược về cách mạng giải
phóng dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội; là khoa học về những vấn đề có tính
quy luật của sự phát triển một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến nền kinh tế

1


chưa phát triển; là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và nhân dân các dân tộc


Việt Nam ở thời đại mới. Đặc điểm nổi bật trong tư tưởng của Người đó là tính
toàn diện, tính hiện thực sâu sắc không giáo điều, sáng tạo và ý chí kiên định và
vấn đề dân tộc trong tư tưởng của Người là một điển hình.
Giá trị lớn nhất, xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh là sự gắn bó hữu cơ giữa
giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con
người. Vì thế tôi chọn đề tài nghiên cứu quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân
tộc vá giai cấp trong tư tưởng của Hồ Chí Minh thấy được quan điểm, sự trung
thành với chủ nghĩa Mac-Lenin, sự sáng tạo và tính hiện thực trong tư tưởng
của Hồ Chí Minh, một trong những cơ sở tạo nên thắng lợi của cuộc cách
mạng Việt Nam, trong những trường hợp khác tư tưởng Hồ Chí Minh giúp ta
cách nhìn nhận và hành động khoa học,tránh giáo điều, rập khuôn, máy móc
hoặc xét lại, bảo thủ trì trệ. Vì vậy khi nghiên cứu vấn đề này không chỉ giúp
ta hiểu sâu hơn về tư tưởng của Bác mà còn giúp ta vận dụng vào thực tiễn khi
mà nước nhà đang ngày càng phát triển hơn và cũng còn nhiều đe dọa và thách
thức hơn.

2


I Khái quát quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lenin và của Quốc tế cộng sản về vấn
đề giai cấp và vấn đề dân tộc:
Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Mac–Engels đề cập đến vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp như sau:
Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở giai đoạn đầu mang tính chất dân tộc, vì phong trào vô
sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho khối đại đa số. Vì vậy, cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, không phải là cuộc đấu tranh dân tộc,
nhưng lúc đầu mang hình thức dân tộc. Như vậy, Mac- Engels đã thấy được mối quan hệ gắn
bó giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Hai ông không xem nhẹ vấn đề dân tộc. Tuy
nhiên, hai ông không đi sâu giải quyết vấn đề dân tộc vì:
Tại các nước này, mâu thuẫn cơ bản của xã hội là mâu thuẫn giữa hai giai cấp đối kháng:

tư sản và vô sản.

Nữa là về cơ bản, ở châu Âu, vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách
mạng tư sản.
Và vào thời của Mac, hệ thống thuộc địa đã có, nhưng các cuộc đấu tranh
giành độc lập chưa phát triển mạnh.
Do vậy, trong sự nghiệp giải phóng hai ông nhấn mạnh đến giải phóng giai cấp công nhân.
Mac-Engels viết: "Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc
lột dân tộc khác sẽ được xóa bỏ" và: "Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân
tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo". Như vậy theo
Mac-Engels, để giải quyết sự đối kháng dân tộc, trước hết phải giải quyết sự đối kháng giai
cấp, giải phóng giai cấp là nhiệm vụ trung tâm, là điều kiện để giải phóng dân tộc.

Lenin từng nhận xét, đối với Mac so với vấn đề giai cấp vô sản thì vấn đề dân tộc chỉ là vấn
đề thứ yếu thôi.
Đến thời Lenin, khi chủ nghĩa đế quốc trở thành hệ thống thế giới, cách mạng giải phóng dân
tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản, Lenin mới có cơ sở thực tiễn để phát triển
vấn đề dân tộc thuộc địa thành một hệ thống lý luận. Lenin cho rằng cuộc đấu tranh của giai
cấp vô sản chính quốc sẽ không giành được thắng lợi, nếu nó không liên minh với cuộc đấu
tranh của các dân tộc bị áp bức. Từ đó Người cùng với Quốc tế cộng sản bổ sung khẩu hiệu
3


nêu trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: "Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức
đoàn kết lại."

Sau khi Lenin mất, Ban lãnh đạo Quốc tế cộng sản một thời gian dài đã nhấn
mạnh vấn đề giai cấp, coi nhẹ vấn đề dân tộc, vì vậy không mấy quan tâm đến
chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc của các nước thuộc địa, thậm chí còn coi
đó là biểu hiện của chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi, trái với chủ nghĩa quốc tế vô

sản.
Tóm lại, Mac- Engels, Lenin đã nêu ra những quan điểm cơ bản về mối quan hệ giữa vấn
đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Tuy nhiên, xuất phát từ yêu cầu, mục tiêu của cách mạng vô
sản châu Âu, các ông vẫn tập trung nhiều hơn vào vấn đề giai cấp, vẫn "đặt lên hàng đầu và
bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản"
II Mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong tư tưởng của Hồ Chí Minh.
Tiếp thu chủ nghĩa Mac-Lenin trên nền tảng truyền thống yêu nước và nhân ái của dân tộc
Việt Nam, Hồ Chí Minh có quan điểm riêng, độc đáo về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc.
Người cho rằng: Phải kết hợp và giải quyết hài hòa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, song
phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết và trước hết.
Luận điểm này của Người xuất phát từ cơ sở thực tiễn của phương Đông và Việt Nam:
Năm 1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ Người cho rằng: "Marx đã xây
dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử
châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại. Dù sao thì cũng không thể
cấm bổ sung "cơ sở lịch sử" của chủ nghĩa Marx bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu
mà Marx ở thời mình không thể có được". Và người đề nghị: "Xem xét lại chủ nghĩa Marx
về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông". Ở phương Đông, "Cuộc
đấu tranh giai cấp diễn ra không giống như ở phương Tây, bởi vì xã hội Đông Dương, Ấn Độ
hay Trung Quốc, xét về mặt cấu trúc kinh tế không giống như xã hội phương Tây thời trung
cổ, cũng như thời cận đại, và đấu tranh giai cấp ở đó không quyết liệt như ở đây…".
Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến,
mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc và tay sai nổi trội hơn mâu thuẫn
giữa giai cấp nông dân với địa chủ phong kiến, giữa tư sản với vô sản. Do đó, không phải
giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc như ở phương Tây. Ngược lại chỉ
có thể giải quyết vấn đề dân tộc mới giải phóng được giai cấp. Quyền lợi dân tộc và giai cấp
4


là thống nhất, quyền lợi dân tộc không còn, thì quyền lợi mỗi giai cấp, mỗi bộ phận trong
dân tộc cũng không thể thực hiện được. Quan điểm này sau này thể hiện rõ ở Nghị quyết Hội

nghị Trung ương VIII, năm 1941 do Người chủ trì: "Trong lúc này quyền lợi của bộ phận
giai cấp phải đặt dưới sự tồn vong sinh tử của quốc gia dân tộc. Trong lúc này nếu không giải
quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được tự do độc lập cho toàn dân tộc, thì
chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận
giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được."
Luận điểm về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là một trong những sáng
tạo lớn của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng và phát triển chủ nghĩa Marx-Lenin. Nó có tác
dụng lớn lao đối với việc tập hợp lực lượng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt Nam
cũng như ở các nước thuộc địa nói chung.

Quá trình hình thành tư tưởng về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ
Chí Minh đã gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Người ngay từ
những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Như mọi người đều thấy rõ, trước
khi học thuyết Mác – Lênin được truyền bá vào Việt Nam thì các phong trào
yêu nước của người Việt Nam chống thực dân Pháp liên tục nổ ra, nhưng kết
cục đều thất bại. Nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho các phong trào đó thất
bại chính là do bế tắc về đường lối, mặc dù các bậc lãnh tụ của những phong
trào yêu nước ấy đã dành nhiều tâm huyết cho sự nghiệp của mình, nhưng do
họ không nhận thức được xu thế của thời đại, nên không thấy được giai cấp
trung tâm của thời đại lúc này là giai cấp công nhân - giai cấp đại biểu cho một
phương thức sản xuất mới, một lực lượng tiến bộ xã hội. Do đó, mục tiêu đi tới
của những phong trào ấy không phản ánh đúng xu thế vận động của lịch sử và
thời đại, nên không thể đem lại kết quả và triển vọng tốt đẹp cho sự phát triển
của xã hội Việt Nam.
Trước yêu cầu bức xúc của vấn đề giải phóng dân tộc, từ chủ nghĩa yêu
nước, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã quyết định ra đi tìm
đường cứu nước. ''Công lao to lớn đầu tiên của Bác đối với sự nghiệp cách
mạng Việt Nam là đã tìm ra con đường cứu nước, khai phá con đường giải
phóng dân tộc và các dân tộc bị áp bức trên thế giới''.
5



Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, qua khảo sát thực tế ở các nước trên
các châu lục Âu, Phi, Mỹ và ngay cả trên đất Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra
nhận xét: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân là nguồn gốc mọi sự đau khổ
của công nhân, nông dân lao động ở cả “chính quốc” cũng như ở thuộc địa.
Nghiên cứu các cuộc cách mạng dân chủ tư sản Mỹ (1776); Pháp (1789),
Nguyễn Ái Quốc nhận thấy các cuộc cách mạng này tuy nêu khẩu hiệu ''tự do'',
''bình đẳng'', nhưng không đưa lại tự do, bình đẳng thực sự cho quần chúng lao
động. Người viết: Tiếng là cộng hoà, dân chủ kì thực trong thì nó bóc lột công
nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Tuy khâm phục các cuộc cách mạng ấy,
nhưng Nguyên Ái Quốc cho rằng đó là cách mạng chưa đến nơi. Vì thế,
Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia hoạt động đấu tranh trong phong trào
giải phóng của các dân tộc bị áp bức, phong trào giải phóng giai cấp công nhân
ở các nước tư bản. Chính vì vậy mà Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến với cách mạng
Tháng Mười Nga, đến với V.I. Lênin; như một tất yếu lịch sử. Cách mạng
Tháng Mười Nga thắng lợi là một sự kiện chính trị đặc biệt quan trọng trong
quá trình hoạt động tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Đặc biệt, sau
khi đọc ''Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về dân tộc và thuộc địa” của V.I.
Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã thấy rõ hơn con đường đúng đắn mà cách mạng
Việt Nam sẽ trải qua. Người khẳng định: ''Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động
trên thế giới khỏi ách nô lệ''; rằng: ''Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản''. Kết luận trên đây
của Nguyễn Ái Quốc là sự khẳng định một hướng đi mới, nguyên tắc chiến
lược mới, mục tiêu và giải pháp hoàn toàn mới, khác về căn bản so với các lãnh
tụ của các phong trào yêu nước trước đó ở Việt Nam; đưa cách mạng giải
phóng dân tộc vào quỹ đạo của cách mạng vô sản, tức là sự nghiệp cách mạng
ấy phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy hệ tư tưởng của chủ nghĩa
Mác - Lênin làm nền tảng. Vì vậy, con đường phát triển tất yếu của cách mạng

giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng XHCN. Người chỉ rõ:
6


''Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ
nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn''.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã đấu tranh
và chỉ đạo giải quyết mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai
cấp, bền bỉ chống các quan điểm không đúng về vấn đề dân tộc và thuộc địa, đã
phát triển lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc. Ngay từ khi hoạt động
trong phong trào công nhân ở Pháp, Người đã nhận thấy một hố sâu ngăn cách
giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động ''chính quốc'' với giai cấp công
nhân và nhân dân lao động thuộc địa. Đó là chủ nghĩa sô-vanh nước lớn của các
dân tộc đi thống trị và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi đối với các dân tộc bị thống
trị.
Trong Đại hội Tua, thành lập Đảng Cộng sản Pháp (1920), Nguyễn Ái Quốc đã
kêu gọi những người xã hội ủng hộ phong trào giải phóng ở các thuộc địa và
lên án phái nghị viện đi theo đường lối cơ hội của Đệ nhị quốc tế, theo đuổi bọn
thực dân phản động, từ chối yêu cầu giải phóng của các dân tộc thuộc địa.
Trong nhiều tham luận tại các Đại hội quốc tế và các bài viết, Nguyễn Ái Quốc
đã bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, phê bình một cách kiên quyết và chân thành
những sai lầm, khuyết điểm của các Đảng Cộng sản chính quốc. Các Đảng
Cộng sản này, tuy thừa nhận 21 điều kiện của Quốc tế cộng sản, trong đó Điều
8 quy định các Đảng Cộng sản ở chính quốc phải ủng hộ và hoạt động một cách
thiết thực giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc; nhưng trên thực tế hoạt động
rất ít, do không nhận thức đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, trong ''Chính
cương vắn tắt'' do Nguyên Ái Quốc khởi thảo đã khẳng định: ''Chủ trương làm
tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản''.
Như vậy là, lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, với Hồ Chí Minh,

7


sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng XHCN. Cuộc
cách mạng này kết hợp trong bản thân nó tiến trình của hai sự nghiệp giải
phóng: giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân và giải phóng giai cấp khỏi
ách áp bức bóc lột. Vấn đề dân tộc được giải quyết trên lập trường của giai cấp
công nhân - điều đó phù hợp với xu thế thời đại và lợi ích của các giai cấp và
lực lượng tiến bộ trong dân tộc. Sức mạnh đi tới thắng lợi của cách mạng Việt
Nam không phải là cái gì khác mà là mục tiêu dân tộc luôn thống nhất với mục
tiêu dân chủ trên cơ sở định hướng XHCN. Đặc điểm nổi bật của cách mạng
Việt Nam là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân triệt để, tạo tiền đề cho bước
chuyển sang thời kỳ quá độ lên CNXH; tức là, cách mạng XHCN là bước kế
tiếp ngay khi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thắng lợi và giữa hai cuộc
cách mạng này không có một bức tường nào ngăn cách. Đây là quan điểm hết
sức căn bản của tư tưởng Hồ Chí Minh: chỉ có hoàn thành cách mạng giải
phóng dân tộc mới có điều kiện để tiến lên CNXH và chỉ có cách mạng XHCN
mới giữ vững được thành quả cách mạng giải phóng dân tộc, mới mang lại cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi tầng lớp nhân dân, mới có độc lập dân
tộc thực sự.
Như chúng ta đều biết, Hồ Chí Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ
nghĩa Mác - Lênin. Từ đó, Người đã phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước
truyền thống Việt Nam, trong sự thống nhất với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Bởi
vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đúng như Ph. Ăng-Ghen đã nói: Những tư
tưởng dân tộc chân chính... đồng thời cũng là những tư tưởng quốc tế chân
chính. Sự phát triển tự tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ đạo sự phát triển của thực
tiễn cách mạng Việt Nam, trong sự thúc đẩy lẫn nhau giữa dân tộc và giai cấp,
ý thức giác ngộ về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc là tiền đề quyết định nhất,
cũng là động lực chủ yếu để Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin
và tiếp thu quan điểm mác-xít về giai cấp. Đó chính là nhân tố đảm bảo tính

khoa học và cách mạng cho sự phát triển tinh thần dân tộc đúng đắn ở người
8


chiến sĩ cộng sản Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình đấu
tranh cách mạng: giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản không phải chỉ là
chứng minh cho sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn là sự phát
triển sáng tạo và có giá trị định hướng rất cơ bản. Qua thực tiễn đấu tranh và
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, luôn bám sát đặc điểm thực tiễn Việt Nam và
tham khảo kinh nghiệm các nước khác, Hồ Chí Minh đã có những giải pháp
đúng đắn, sáng tạo, đáp ứng đòi hỏi của lịch sử, góp phần làm phong phú thêm
kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; đó cũng chính là nguồn gốc sức
mạnh của cách mạng nước ta trong suốt bảy thập kỷ qua. Bởi lẽ:
Một là, cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay muốn thành
công triệt để nhất định phải đi theo quỹ đạo và là một bộ phận khăng khít của
cách mạng vô sản. Cuộc cách mạng đó phải đưa vào lực lượng của nhân dân,
nòng cốt là liên minh công nông, do chính Đảng của giai cấp công nhân lãnh
đạo. Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ, nếu chỉ đưa vào lực lượng của riêng giai
cấp công nhân, thậm chí cả giai cấp nông dân là hoàn toàn không đủ, mà theo
Người, chỉ có phát động cả dân tộc tham gia mới biến sức mạnh dân tộc thành
lực lượng vô địch.
Hai là, cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ dân tộc
(mâu thuẫn địa chủ - nông dân, mâu thuẫn tư sản - vô sản) không tách rời cuộc
đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với các thế lực đế quốc
xâm lược. Ở giai đoạn đầu của cách mạng, cần đặt vấn đề dân tộc, độc lập dân
tộc lên trên hết. ''Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc, không đòi được
độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể dân tộc còn chịu
mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không
đòi lại được''. ''Chính lập trường và lợi ích giai cấp công nhân đòi hỏi trước hết

phải giải phóng dân tộc''. Ở đây rõ ràng cái giai cấp được biểu hiện ở cái dân

9


tộc, cái dân tộc được giải quyết theo lập trường giai cấp công nhân, chứ đâu
phải là “hy sinh cái nọ cho cái kia” như có người từng cố chứng minh.
Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản ở chính quốc phải
thực hiện sự liên minh giữa vô sản ở chính quốc với vô sản và nhân dân các
nước thuộc địa thì cách mạng mới thắng lợi. Cách mạng giải phóng dân tộc ở
các nước thuộc địa không phụ thuộc một chiều vào cách mạng vô sản ở chính
quốc, mà có thể và phải chủ động tiến lên giành thắng lợi, thậm chí có thể giành
thắng lợi trước, từ đó góp phần tích cực hỗ trợ cho cách mạng ở các nước tư
bản. Đó là nhận định hết sức đúng đắn, táo bạo và sáng tạo của Hồ Chí Minh.
Đáng tiếc là có lúc quan điểm này của Hồ Chí Minh không được một số người,
trong đó có một vài người của Quốc tế cộng sản cũng không thừa nhận.
Bốn là, sau khi giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị ngoại bang, khỏi chế
độ thuộc địa, dân tộc vừa được giải phóng phải quá độ lên CNXH và trong
bước quá độ ấy phải tự mình tìm tòi con đường, phương thức riêng phù hợp với
tình hình và đặc điểm đất nước, tránh giáo điều, dập khuôn những hình thức,
bước đi, biện pháp của nước khác.
Trong thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện
nay, việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hố Chí Minh về mối quan hệ
biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp càng có ý nghĩa cực kỳ quan
trọng hết sức cấp thiết. Bởi vì, thực tế cho ta bài học là, có thời kỳ, khi triển
khai các nhiệm vụ xây dựng CNXH, đã có lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng vội,
chủ quan, duy ý chí, quá nhấn mạnh vấn đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân
tộc trong việc hoạch định và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, dẫn
đến lợi ích các giai cấp, tầng lớp không được tính đến đầy đủ và kết hợp hài
hoà, sức mạnh dân tộc không được phát huy như một trong những động lực chủ

yếu nhất. Nhưng ngay sau đó, Đảng ta đã kịp thời khắc phục có hiệu quả cả về
phương điện nhận thức lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn về vấn đề

10


này.
Tuy thế, trong những năm gần đây, ở nước ta đã nảy sinh ý kiến cho rằng: mối
quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp luận chứng trong chủ nghĩa
Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ đúng với một số nước khác nào đó,
còn ở Việt Nam vốn là nước thuộc địa, nửa phong kiến, vấn đề dân tộc bao giờ
cũng chi phối, khi nào Đảng nhấn mạnh vấn đề giai cấp thì đều dẫn đến sai lầm.
Từ đó, họ đề xuất ý kiến theo hướng nhấn mạnh một chiều vấn đề dân tộc, tách
vấn đề dân tộc khỏi vấn đề giai cấp, hạ thấp ý nghĩa quan trọng, bức thiết của
vấn đề giai cấp, không lấy quan điểm giai cấp làm quan điểm cơ sở lập trường
để xem xét, giải quyết vấn đề dân tộc. Theo họ, nước ta hiện nay chỉ nên đề ra
và giải quyết những vấn đề dân tộc, còn vấn đề giai cấp không nên đặt ra. Mục
tiêu ''dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh'' được họ đồng
tình, nhưng giải thích theo hướng phi giai cấp, nghĩa là không nhất thiết phải
theo định hướng XHCN. Thực chất là họ bác bỏ đường lối giải quyết vấn đề
dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân. Quan điểm nêu trên đi ngược
với con đường mà Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn, và rõ ràng
là không phù hợp với thực tiễn của lịch sử cách mạng Việt Nam. Thực tiễn đó
đã chỉ ra rằng, trong bất cứ giai đoạn nào, sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta
đều phải kết hợp nhuần nhuyễn lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc; trong chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam luôn luốn gắn bó hữu cơ với lý tưởng của giai cấp
công nhân Việt Nam. Nền độc lập thật sự của dân tộc; tự do, sự giàu mạnh, văn
minh và hạnh phúc của nhân dân chỉ có thể đạt được một cách bền vững trong
sự nghiệp cách mạng theo mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân. Bởi vậy,
ngay từ khi khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta đã xác định rõ:

đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là quan niệm đúng đắn hơn
về CNXH và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình thức; bước đi và biện
pháp phù hợp. Nói cách khác, giữ vững định hướng XHCN là nguyên tắc cơ
bản của quá trình đổi mới.
11


Thưc tiễn cách mạng Việt Nam từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến
nay, Đảng ta đã ngày càng cụ thể hoá và hoàn thiện đường lối đổi mới toàn
diện, mà thực chất là nhận thức đúng đắn và sâu sắc hơn về chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc với vấn đề
giai cấp trong công cuộc xây đựng CNXH ở nước ta.
Văn kiện của Đảng ta tại Đại hội lần thứ IX đã xác định rõ: “mối quan hệ giữa
các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ
nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây đựng và bảo vệ Tổ
quốc được sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi
ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội”.
Kết luân: Nhìn lại lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ XX, một thế kỷ vận động
và phát triển mau lẹ và phức tạp của tình hình quốc tế, chúng ta càng thấy sự
đúng đắn, sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp.
Vấn đề đó đã được kiểm nghiệm bằng thực tế, cả trong chiến tranh ác liệt lẫn
trong những khó khăn của hoà bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, tư
tưởng Hồ Chí Minh đang thể hiện giá trị trường tồn nhất là trong bối cảnh các
dân tộc đang đứng trước những thách thức cực kì nguy hiểm khi các thế lực
hiếu chiến dựa vào tiềm lực quân sự hiện đại tiến hành chiến tranh xâm lược
những nước có chủ quyền, bất chấp luật pháp.
Điều đó càng cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, học tập, quán triệt
tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp trong tình hình mới, làm
cơ sở vững chắc cho việc vận dụng, hoạch định, tổ chức và thực hiện đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước, để đưa dân tộc ta vượt qua mọi thử thách,

vững bước trong quá trình xây dựng một đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

12


Danh mục các tài liệu tham khảo:
(1) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 161.
(2) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr. 560.
(3) Hồ Chí Minh. Sđd., t.1, tr.466.
(4) Xem: Hồ Chí Minh. Sđd., t.1, tr.466.
(5) Hồ Chí Minh. Sđd., t.1, tr.466-467.
(6) Hồ Chí Minh. Sđd., t.1, tr.468-469.
(7) Võ Nguyên Giáp (chủ biên). Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng
Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.91.
(8) Võ Nguyên Giáp. Sđd., tr. 91.
(9) Võ Nguyên Giáp. Sđd., tr. 91.
(10) Võ Nguyên Giáp. Sđd., tr. 80.
(11) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.467.
(12) Võ Nguyên Giáp (chủ biên). Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng
Việt Nam. Sđd., tr. 91.
(13) Hồ Chí Minh. Sđd., t.1, tr.464.
(14) Hồ Chí Minh. Sđd., t.1, tr.464.
(15) Hồ Chí Minh. Sđd., t.1, tr.464.
(16) Xem: Song Thành. Hồ Chí Minh - nhà tư tưởng lỗi lạc. Nxb Lý luận chính trị,
Hà Nội, 2005, tr.116.
(17) Hồ Chí Minh. Sđd., t.1, tr. 467.
(18) Hồ Chí Minh. Sđd., t.1, tr. 467.
(19) Hồ Chí Minh. Sđd., t.1, tr. 467.
(20) Hồ Chí Minh. Sđd., t.1, tr. 469.

(21) Xem: Song Thành. Hồ Chí Minh – nhà tư tưởng lỗi lạc. Sđd., tr.118.
(22) báo,tạp chí cộng sản…

13



×